Lược sử họ Dương – Bản tin Điện tử Họ Dương Việt Nam http://hoduongvietnam.com.vn Wed, 08 May 2024 23:16:53 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=4.9.8 CỘNG ĐỒNG HỌ DƯƠNG VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC ( Sơ khảo) http://hoduongvietnam.com.vn/cong-dong-ho-duong-viet-nam-trong-lich-su-dan-toc-so-khao-p39587 http://hoduongvietnam.com.vn/cong-dong-ho-duong-viet-nam-trong-lich-su-dan-toc-so-khao-p39587#respond Sun, 29 Oct 2023 14:13:13 +0000 http://hoduongvietnam.com.vn/?p=39587 Phần tiếp theo Cuốn Cộng đồng Họ Dương Việt Nam trong lịch sử dân tộc

( Sơ khảo)

( Còn tiếp )

]]>
http://hoduongvietnam.com.vn/cong-dong-ho-duong-viet-nam-trong-lich-su-dan-toc-so-khao-p39587/feed 0
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – Dương Văn Mạnh http://hoduongvietnam.com.vn/anh-hung-luc-luong-vu-trang-nhan-dan-duong-van-manh-p39384 http://hoduongvietnam.com.vn/anh-hung-luc-luong-vu-trang-nhan-dan-duong-van-manh-p39384#respond Sun, 15 Oct 2023 11:35:19 +0000 http://hoduongvietnam.com.vn/?p=39384 Đọc tiếp "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – Dương Văn Mạnh"

]]>
 

Dương Văn Mạnh sinh năm 1930 ở Ấp Tây, xã Long Phước, thị xã Bà Rịa (nay là xã Long Phước, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu). Sau khi thi đậu tiểu học ở tỉnh, anh lên Sài Gòn học trường trung học Lê Bá Cang. Nơi đây, anh được giáo dục lòng yêu nước và kết nạp vào tổ chức thanh niên tiền phong của trường. Dương Văn Mạnh giác ngộ và tham gia cách mạng từ sớm, khi chỉ mới 14 tuổi, anh đã nhận nhiệm vụ làm liên lạc từ cơ sở cách mạng ở Sài Gòn về Bà Rịa.

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – Dương Văn Mạnh (1930-1946)

Sau ngày 23-9-1945, thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn-Gia Định, Dương Văn Mạnh tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn vừa mua chuộc, vừa đàn áp phong trào. Nhiều thầy giáo, cô giáo và học sinh của trường trung học Lê Bá Cang đi theo kháng chiến, Dương Văn Mạnh cùng chí hướng đó và trở về quê hương tham gia phong trào Thanh niên Tiền phong ở Bà Rịa. Anh tham gia đội văn nghệ của tỉnh, tích cực đi tuyên truyền, ca hát nhằm giáo dục lòng yêu nước, giác ngộ cách mạng trong lực lượng thanh thiếu niên. Sau đó anh được tổ chức phân công về xã Long Phước vào đội Thanh niên Tiền phong, trực tiếp phụ trách công tác thiếu niên của xã. Thời gian công tác ở xã, anh cùng với cán bộ và một số nòng cốt trong lực lượng thanh thiếu niên tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ tuyên truyền cách mạng, xây dựng phong trào bình dân học vụ đều các ấp trong xã.

Tháng 2-1946, thực dân Pháp chiếm lại tỉnh Bà Rịa, chúng dùng lực lượng bộ binh phối hợp cơ giới bung ra chiếm lại Long Phước, Long Điền, Đất Đỏ. Ngày 9/3/1946, Đội du kích Quang Trung (tiền thân của lực lượng vũ trang tỉnh sau này) được thành lập tại xã Long Phước, trong đó có anh Dương Văn Mạnh là chiến sĩ trẻ nhất mới 16 tuổi. Đến tháng 4 năm 1946, đội phát triển được hai tiểu đội phân ra đóng ở hai nơi: Long Phước và Long Tân, cơ động với nhiệm vụ diệt địch, đồng thời vũ trang tuyên truyền, giáo dục quần chúng, phát triển lực lượng. Anh Dương Văn Mạnh được giao nhiệm vụ liên lạc của đội.

Một hôm, đồng chí Hoàng Tiêu, đội trưởng đội du kích Quang Trung giao nhiệm vụ cho anh Dương Văn Mạnh đem thư cho tiểu đội đang đóng ở xã Long Phước, yêu cầu tập trung về xã Long Tân để chuẩn bị chiến đấu. Trên đường về Long Phước, anh bị 2 trung đội lính Lê Dương phục kích bắt được, nhanh trí anh liền thủ tiêu bức thư, địch không hề hay biết. Bọn lính Lê Dương bắt đầu khảo tra: “Lực lượng ở đâu? Súng ống bao nhiêu? Ai tiếp tế?”. Bọn lính đánh đập rất dã man, nhưng không khai thác được gì, chúng dẫn người chiến sĩ nhỏ tuổi về đồn Long Phước. Về đồn, chúng giam anh 4 ngày đêm, biết anh là người có học nên chúng giở thủ đoạn mua chuộc dụ dỗ, anh đã dùng tiếng Pháp nói thẳng vào mặt chúng: “Tao cầm súng chiến đấu để dân tao được tự do, nước tao được độc lập. Tao thà chết chớ không báo cho bây”. Không dụ dỗ được, chúng bắt đầu tiếp tục tra tấn anh bằng roi gân bò, đánh đến lòi một mắt vẫn không lung lạc được người chiến sĩ kiên cường. Sau 5 ngày tra tấn không kết quả, lính Pháp trói Dương Văn Mạnh, bịt mắt dẫn đi dọc đường 52 qua Long Tân, anh đi chính giữa, bọn lính hai bên dùng roi gân bò tiếp tục tra tấn hỏi anh: “Nhà nào tiếp tế bộ đội?”. Dương Văn Mạnh vẫn ngẩng cao đầu, không nói một lời. Khi anh đã kiệt sức, đi không nổi thì bọn lính kéo anh lên xe.

Lính Pháp đã dùng tất cả mọi thủ đoạn dã man, chúng cột anh vào một gốc cây duối, tiếp tục tra khảo trận cuối cùng. Mặc dù thân thể đầy máu, sức khỏe đã cùng kiệt nhưng Dương Văn Mạnh vẫn ngẩng đầu lên hô lớn: “Đả đảo thực dân Pháp xâm lược cướp nước! Hồ Chí Minh muôn năm!”. Chúng điên cuồng xả súng bắn chết người chiến sĩ trẻ nhất của đội du kích Quang Trung. Năm ấy anh vừa tròn 16 tuổi. Ông Trương Văn Khâm, người đã chứng kiến những giây phút cuối cùng của cuộc đời anh đã viết bài thơ ca ngợi khí tiết trung kiên bất khuất của người chiến sĩ trẻ tuổi mà chí lớn:

TUỔI NHỎ – TRÍ LỚN
“Mắt ngấn lệ nhìn qua kẽ lá
Tốp giặc đầu vàng đã kề bên
Xiềng tay một kẻ thiếu niên
Thằng lôi, đứa đạp liền liền không ngưng
Em quỵ xuống chúng tung xốc dậy
Khắp mình tràn nát bấy làn roi
Định thần nhìn kỹ lại coi
Úy, em liên lạc đây rồi còn chi.
Trên cành rậm ngồi tê tái ruột
Dưới gốc to chúng buộc em vào
Gân bò, bá súng đua nhau
Phũ phàng giông tố héo sầu mầm non!
Em uất hận không van không khóc
Giặc tức mình, trợn mắt, vểnh râu
Hất hàm hỏi: Súng chôn đâu?
Em trừng đôi mắt nghểnh đầu làm thinh!
Tra tấn mãi trông chừng vô hiệu
Chúng lẫy cò kết liễu đời em!
Cờ hồng lại nhuộm thắm thêm
Máu hồng em chảy mà mềm ruột tôi.
Mấy viên đạn một thời niên thiếu
Vạn đau thương muôn triệu hờn căm
Đã quyết tâm, càng quyết tâm
Cùng quân xâm lược thề không chung trời!”

Tấm gương sáng ngời của người chiến sĩ trẻ tuổi Dương Văn Mạnh đã thôi thúc tuổi trẻ toàn tỉnh lên đường kháng chiến, vượt qua mọi thử thách hi sinh, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Ngày 23-7-1997, liệt sỹ Dương Văn Mạnh đã được nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngọc Trâm

(Nguồn: Đảng ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 2004, Xí nghiệp In 27/7, năm 2004.)

 

]]>
http://hoduongvietnam.com.vn/anh-hung-luc-luong-vu-trang-nhan-dan-duong-van-manh-p39384/feed 0
Tưởng nhớ người con rể Họ Dương là Ngô Quyền đại thắng trận Bạch Đằng http://hoduongvietnam.com.vn/tuong-nho-nguoi-con-re-ho-duong-la-ngo-quyen-dai-thang-tran-bach-dang-p9827 http://hoduongvietnam.com.vn/tuong-nho-nguoi-con-re-ho-duong-la-ngo-quyen-dai-thang-tran-bach-dang-p9827#respond Sun, 01 Sep 2019 01:51:55 +0000 http://hoduongvietnam.com.vn/?p=9827 Đọc tiếp "Tưởng nhớ người con rể Họ Dương là Ngô Quyền đại thắng trận Bạch Đằng"

]]>
… đền thờ Ngô Quyền có hai mẫu ruộng do ba xóm Đông, Tây, Nam của làng Cam Lâm thay nhau cấy lúa để sửa soạn tế lễ. Lễ vật gồm một con lợn nặng 50 kg, 30 đấu gạo nếp để thổi xôi, trầu cau, hương hoa… Trong hai ngày tế lớn (14 và 15 tháng 8 âm lịch), làng cử một thủ từ và tám tuần phiên để canh gác nhà thờ…

Ngô Quyền sinh năm 898 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm (thuộc Hà Nội ngày nay).

Thời bấy giờ nhà Đường ở Trung Quốc cai trị nước Việt. Từ giữa thế kỷ IX, nhà Đường phải đối phó với hai biến cố lớn là nông dân khởi nghĩa và phiên trấn cát cứ. Năm 907, nhà Đường  tiêu vong, Chu Ôn lập nên nhà Hậu Lương, bắt đầu cuộc loạn Ngũ Đại, sử gọi là Ngũ đại Thập quốc. Ở miền Nam Trung Hoa thời bấy giờ, Tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Nham đã cát cứ và dựng lên nước Nam Hán.

Bãi cọc Bạch Đằng ở Hải Phòng

Năm 905, nhân việc nhà Đường có loạn, một thổ hào người Việt là Khúc Thừa Dụ nổi lên đánh đuổi người phương Bắc, chiếm giữ phủ thành, xưng là Tiết độ sứ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ chết, con là Khúc Hạo lên thay. Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm sứ giả sang dò xét nhà Nam Hán.

Năm 917, Khúc Hạo chết, Khúc Thừa Mỹ lên thay. Năm 930, tướng Nam Hán là Lý Khắc Chính đem binh đánh nước Việt, bắt được Khúc Thừa Mỹ. Lý Khắc Chính sau đó ở lại Giao Chỉ, không trở về nước.

Hào trưởng Dương Đình Nghệ lúc bấy giờ nuôi 3.000 con nuôi với mưu đồ khôi phục lại quốc gia. Ngô Quyền là một trong số con nuôi ấy, lớn lên ông làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ, được Dương Đình Nghệ gả con gái là Dương Thị Vy cho làm vợ và giao quyền cai quản đất Ái châu.

Năm 931, Dương Đình Nghệ phát binh từ Ái Châu ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán, đánh bại Lý Tiến và quân cứu viện do Trần Bảo chỉ huy, chiếm giữ bờ cõi nước Việt, xưng là Tiết độ sứ.

Đền Ngô Quyền ở Đường Lâm, Hà Nội

Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng Công Tiễn lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của Công Tiễn bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng đánh tan quan quân Kiều Công Tiễn, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán.

Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của nước Việt. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng và sụp đổ vào năm 965.

Về trận chiến Bạch Đằng, năm 938 sau khi Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ; Ngô Quyền được tin về việc phản nghịch của Công Tiễn và thấy việc Công Tiễn quy phục Nam Hán là nguy hại cho cuộc tự chủ mà họ Khúc và Dương Đình Nghệ đã cố gắng xây nền móng nên Ngô Quyền kéo binh từ Ái châu ra đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn sai sứ sang đút lót để cầu viện với nhà Nam Hán. Sách An Nam chí lược viết rằng: Công Tiễn bị Ngô Quyền vây, sức yếu bị thua mới cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân Giao Chỉ có loạn muốn chiếm lấy. Lưu Cung phong cho con mình là Vạn vương Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương, đem quân cứu Kiều Công Tiễn. Nhưng khi quân Nam Hán chưa sang, mùa thu năm 938, Ngô Quyền đã giết được Kiều Công Tiễn.

Lưu Cung tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Lưu Cung hỏi kế ở Sùng Văn sứ là Tiêu Ích, Tiêu Ích nói: “Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến”. Vua Nam Hán không nghe, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh Ngô Quyền; nhưng quân chưa đến, Ngô Quyền đã giết Kiều Công Tiễn rồi (Đại Việt sử ký toàn thư).

Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại,đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát (Đại Việt sử ký toàn thư)

Ngô Quyền định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Khi nước triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả vờ thua chạy để dụ quân Nam Hán đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc. Nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. Quân Nam Hán không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Nam Hán đồn trú ở cửa biển để cứu trợ nhưng không làm gì được; thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về (Đại Việt sử ký toàn thư).

Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư:

“Lưu Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bờ cõi, đất đai chưa lấy được mà đã hại mất đứa con của mình và hại cả nhân dân, tức như Mạnh Tử nói: “Đem cái mình không yêu mà hại cái mình yêu” vậy chăng?”

Ngô Thì Sĩ nhận định trong sách Việt sử tiêu án: “Lưu Nghiễm ngấp ngó Giao Châu, thừa lúc Đình Nghệ mới mất, cậy có quân ứng viện của Công Tiễn, chắc rằng có thể đánh một trận phá được Ngô Quyền, nhân thế lấy được nước Nam dễ như móc túi vậy. Nếu không có một trận đánh to để hỏa nhuệ khí của Lưu Nghiễm, thì cái tình hình ngoại thuộc lại dần dần thịnh lên, cho nên trận đánh ở Bạch Đằng là cái căn bản khôi phục quốc thống đó. Sau này Đinh, Lê, Lý, Trần còn phải nhờ dư liệt ấy. Võ công hiển hách của Ngô Quyền, tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ mà thôi”.“Ngô Tiên Chúa giết được nghịch thần Công Tiễn, phá được giặc mạnh Hoằng Tháo”.

Lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm, Hà Nội

Ngô Quyền lên ngôi ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức ngày 21 tháng 1 năm 939). Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng Vương, xây dựng nhà nước tự chủ, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng: “Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục”. Sách Việt sử tiêu án chép: Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô ở Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất.”

Sau khi lên ngôi Ngô Quyền không đóng đô ở trị sở cũ là thành Đại La bên sông Tô Lịch như các triều trước mà ông chuyển kinh đô lên Cổ Loa thể hiện lòng tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước từ thời  Âu Lạc- Thục Phán An Dương Vương xưa.

Đại La trong nhiều năm là trung tâm cai trị của các triều đình Trung Quốc đô hộ Việt Nam, là trung tâm thương mại sầm uất nhiều đời chủ yếu của các thương nhân người Hoa nắm giữ. Đại La do đó là nơi tụ tập nhiều người phương Bắc, từ các quan lại cai trị nhiều đời, các nhân sĩ từ phương Bắc sang tránh loạn và các thương nhân. Đây là đô thị mang nhiều dấu vết cả về tự nhiên và xã hội của phương Bắc, và thế lực của họ ở Đại La không phải nhỏ. Do đó lực lượng này dễ thực hiện việc tiếp tay làm nội ứng khi quân phương Bắc trở lại, điển hình là việc Khúc Thừa Mỹ nhanh chóng thất bại và bị Nam Hán bắt về Phiên Ngung. Rút kinh nghiệm từ thất bại của Khúc Thừa Mỹ, nên Ngô Quyền không chọn Đại La để làm kinh đô.

Ngô Quyền mất ngày 18 tháng 1 năm Giáp Thìn (944), hưởng dương 47 tuổi; trước khi chết ông di chúc cho Dương Tam Kha phò tá con của mình.

Dương hậu là con gái của Dương Đình Nghệ , bà tên là Dương Thị Vy, kết duyên cùng với Ngô Quyền khi ông trở thành nha tướng của Dương Đình Nghệ, một cuộc hôn nhân mang nhiều ý nghĩa liên minh chính trị.

Hoàng hậu Dương Thị Vy hiện được thờ ở đình làng Nguyễn Xá (trước là Ngô Xá) xã Bồ Đề huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam.

Mùa xuân Mậu Dần (1998) Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến thăm đền và lăng thờ  tặng đền thờ Ngô Quyền ở Đường Lâm một đĩa sứ vẽ cảnh thủy chiến Bạch Đằng và dòng chữ: Tổ quốc và nhân dân ta đời đời ghi công lớn của vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền đã đánh tan quân xâm lược dựng nên nền độc lập của nước ta.

Hiện nay ở quê hương Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) có đền và lăng thờ Ngô Quyền. Ngoài ra còn có gần 50 nơi khác có liên quan thờ Ngô Quyền và các tướng lĩnh thuộc triều đại Ngô Vương, trong đó nhiều nhất thuộc vùng đất Hải Phòng (34 di tích), Thái Bình (3 di tích), Hà Nam (1 di tích), Phú Thọ (1 di tích), Hưng Yên (3 di tích).

Đền thờ và lăng Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là một địa chỉ du lịch và tâm linh nổi tiếng của làng cổ này. Đền được xây dựng bằng gạch, lợp ngói mũi hài, quay về hướng đông, có tường bao quanh. Qua tam quan, hai bên có tả mạc, hữu mạc, mỗi dãy nhà gồm năm gian nhỏ. Đại bái có hoành phi khắc bốn chữ “Tiền Vương bất vọng“. Ngày nay tòa đại bái được dùng làm phòng trưng bày về thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền và nhà triển lãm chiến thắng Bạch Đằng. Hậu cung kiến trúc theo kiểu chữ đinh (丁), có tượng Ngô Quyền, đã được tu tạo vào năm 1877. Lăng Ngô Quyền có mái che, cao 1,5 mét, bia đá được khắc thời Tự Đức, có ghi bốn chữ Hán “Tiền Ngô Vương lăng”. Tiền Ngô vương lăng đã được trùng tu năm 2013 với vốn đầu tư trùng tu lăng là 29 tỉ đồng, trong đó gia tộc họ Ngô đóng góp 30%.

Trước năm 1945, đền thờ Ngô Quyền có hai mẫu ruộng do ba xóm Đông, Tây, Nam của làng Cam Lâm thay nhau cấy lúa để sửa soạn tế lễ. Lễ vật gồm một con lợn nặng 50 kg, 30 đấu gạo nếp để thổi xôi, trầu cau, hương hoa… Trong hai ngày tế lớn (14 và 15 tháng 8 âm lịch), làng cử một thủ từ và tám tuần phiên để canh gác nhà thờ.     Phố Nguyễn Công Trứ ở thành phố Hải Phòng có đình Hàng Kênh cũng thờ Tiền Ngô Vương Ngô Quyền. Tương truyền trước khi đánh quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đóng quân, chiêu binh tập mã ở An Dương (nay thuộc Hải Phòng). Dân nhiều làng ở đây đã làm quân cận vệ và chuẩn bị những cọc gỗ đóng xuống lòng sông Bạch Đằng để chống quân Nam Hán. Hằng năm vào trung tuần tháng hai âm lịch, đình mở hội, cúng tế, có hát ả đào, hát chèo, múa hạc gỗ và nhiều trò dân gian khác. Quanh khu vực hạ lưu sông Bạch Đằng có đến hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và các tướng của ông.

Nhắc lại chiến công oanh liệt của người con rể họ Dương là Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm xưa cũng như là thắp một nén nhang thơm để tưởng nhớ và ngợi ca khí phách của ông đã cùng dân tộc đứng lên giáng đòn chí tử xuống đầu giặc ngoại xâm phương Bắc, bảo vệ vững chắc chủ quyền của đất nước.

Thuấn Dương

]]>
http://hoduongvietnam.com.vn/tuong-nho-nguoi-con-re-ho-duong-la-ngo-quyen-dai-thang-tran-bach-dang-p9827/feed 0
Lược sử Họ Dương Việt Nam http://hoduongvietnam.com.vn/luoc-su-ho-duong-viet-nam-p768 http://hoduongvietnam.com.vn/luoc-su-ho-duong-viet-nam-p768#respond Fri, 08 Apr 2016 10:00:00 +0000 Đọc tiếp "Lược sử Họ Dương Việt Nam"

]]>
HỘI ĐỒNG HỌ DƯƠNG VIỆT NAM

LƯỢC SỬ HỌ DƯƠNG VIỆT NAM

Tài liệu này được biên soạn trên cơ sở tham khảo các tài liệu: Lịch sử Việt Nam, lịch sử Họ Dương Việt Nam – Dương tộc kỷ sử, thần phả, sắc phong và tộc phả, gia phả của nhiều chi Họ Dương.

Xin trân trọng giới thiệu!

Họ Dương là một trong số những dòng họ lớn ở Việt Nam, có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, có mặt trong suốt tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của Dân tộc.

Thi Kinh Dương Vương

Năm 2879 TCN, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, đặt tên nước là Xích Quỷ, Dương Lạc tướng (Lạc tướng Họ Dương) phù Vua Thủy Tổ dựng nước sơ khai, Kinh đô đóng tại Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh).

Thi Hùng Vương th Nht

Lạc Long Quân kế nghiệp, sinh Hùng Vương thứ Nhất, kinh đô về Phong Châu (Phú Thọ). Thái sư Quốc Công Dương Minh Tiết giúp Vua cải tên nước là Văn Lang, lập Hiến pháp nước Văn Lang, chia đất nước thành 15 bộ: Phong Châu (Phú Thọ), Vũ Ninh (Bắc Ninh – Kinh Bắc),… để dễ bề cai quản.

Thi Hùng Vương th Sáu

Vua Hùng cử Lạc tướng Dương Minh Thắng về đất Vũ Ninh dẹp giặc Ân; giặc tan, Vua lệnh ở lại Vũ Ninh, chuyển con cháu về định cư, lập tân ấp, củng cố lực lượng, canh chừng giặc giã, bảo vệ đất nước.

Cụ tổ Dương Minh Thắng là hậu duệ lâu đời của cụ Thượng Tổ Dương Minh Tiết, sinh quán ở Bạch Hạc – Phong Châu – Phú Thọ, làm quan Lạc tướng Vua Hùng Vương thứ Sáu.

Cụ về Vũ Ninh định cư, định canh, lập tân ấp Long Vỹ (làng Long Vỹ), xây dựng gia đình; qua nhiều đời kế tiếp thành vùng đông đúc người Họ Dương cư trú, đời đời phồn thịnh. Nay vùng đất ấy là Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Người đông lên, chia nhau đi các ngả khai phá, định cư thành nhiều vùng cư trú của người Họ Dương. Vì thế, Vũ Ninh (Bắc Ninh) được coi là đất phát tích của người Họ Dương.

Lưu truyền đến ngày nay rằng: Người Họ Dương Việt Nam, dù ở góc biển chân trời nào cũng đều chung thủy tổ là cụ Dương Minh Tiết.

Thi nghìn năm Bc thuc

Nước Nam ta ba lần chịu sự đô hộ của phương Bắc (Bắc thuộc), cộng tới 1083 năm (207 TCN – 938), từ triều Tây Hán đến triều Hậu Tấn.

Người Họ Dương cùng trăm họ luôn sục sôi căm thù, quyết tâm đánh giặc giành quyền độc lập tự chủ cho Dân tộc.

Mở đầu là cha con Lạc tướng Dương Thái Bình – Dương Thi Sách hồi đầu Công Nguyên, chuẩn bị lực lượng đánh nhà Đông Hán. Nhưng Thi Sách bị giặc giết sớm!. Việc chưa thành. Trưng Trắc – vợ Thi Sách dấy binh khởi nghĩa (năm 40 – 43), quyết tâm đánh giặc đền nợ nước, trả thù nhà. Bà là một nàng dâu Họ Dương thật trí – dũng song toàn!

Trong thời kỳ Bắc thuộc, ở nước ta diễn ra 10 cuộc khởi nghĩa, thì riêng người Họ Dương đảm đương 4 cuộc. Sau cuộc khởi nghĩa Thi Sách – Trưng Trắc, phải kể đến cuộc khởi nghĩa của Dương Thanh.

Dưới thời thuộc Đường, Dương Thanh – một thủ lĩnh người Việt, thứ sử Châu Hoan (Nghệ Tĩnh ngày nay) nổi dậy khởi nghĩa (819 – 820) giết Lý Tượng Cổ, tôn thất nhà Đường nổi tiếng hung tàn và hơn nghìn bộ hạ của hắn sang xâm lược nước ta. Ông cùng con trai Dương Chí Liệt và một người thân tín là Đỗ Sĩ Giao kêu gọi nghĩa quân tập kích thành Tống Bình giành quyền tự chủ, giải thoát ách thống khổ cho nhân dân ta, mở đầu trang sử vẻ vang của Dòng tộc Họ Dương từ đầu thế kỷ thứ 9.

Đầu thế kỷ thứ 10, nhà Đường suy yếu, Khúc Thừa Dụ người Việt chiếm giữ Giao Châu, tự xưng Tiết Độ Sứ. Khi họ Khúc bị quân Nam Hán đánh bại, Dương Đình Nghệ vốn là tướng tài của họ Khúc không khuất phục, đã nhận 3000 con nuôi đều mang họ Dương, lấy làng Giàng (Châu Ái – Thanh Hóa) làm trung tâm kháng chiến, tập hợp anh tài cả nước, dấy binh đánh đuổi quân Nam Hán.

Năm 931, Dương Đình Nghệ tiến đánh thành Tống Bình, đuổi Lý Khắc Chính, Lý Tiến, giết Trần Bảo, chiếm lại Giao Châu, khôi phục nền tự chủ nước nhà, tự xưng là Tiết Độ Sứ – làm Vua cai quản đất nước 6 năm (931 – 937). Ông là người khởi đầu cơ nghiệp lớn của Họ Dương.

Năm 937, Dương Đình Nghệ bị một nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết hại, mưu cướp ngôi Tiết Độ Sứ. Con trai Dương Đình Nghệ là Dương Tam Kha, cùng con rể của ông là Ngô Quyền nhanh chóng diệt trừ Công Tiễn, chém chết Hoằng Thao cầm đầu viện binh nhà Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938), kết thúc hơn ngàn năm nước ta bị thống trị của phương Bắc. Ngô Quyền tự xưng Vương, lập Dương Thị Như Ngọc, ái nữ của Dương Đình Nghệ làm Hoàng Hậu. Một thời kỳ độc lập lâu dài của đất nước bắt đầu. Dương Tam Kha hết lòng phụ giúp Ngô Vương. Còn Như Ngọc, vợ Ngô Quyền cũng là người có công lớn, đứng ra lập đội nữ nương tử quân, động viên lực lượng phụ nữ dốc tâm tham gia cứu nước.

Năm 944, Ngô Quyền mất, ở ngôi được 6 năm.

Gánh nặng đè lên vai Dương Tam Kha, một người từng là bộ tướng của cha, cùng Ngô Quyền, rồi là tướng của Ngô Quyền anh rể. Đất nước vẫn trong vong tao loạn, các con của Ngô Quyền chưa đủ quyền uy cai trị đất nước. Trước tình hình đó, Dương Tam Kha tự xưng là Bình Vương, tự nguyện gánh vác việc non sông đất nước.

Năm Tân Hợi (951), Dương Tam Kha bị cháu là Ngô Xương Văn lật đổ, ông ung dung trở về Chương Dương, rồi Cổ Lễ khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, giúp dân làm ăn, sinh cơ lập nghiệp thành 2 miền quê rộng lớn, thanh bình và trù phú. Hiện nay ở Chương Dương (Thường Tín – Hà Nội) và Cổ Lễ (Trực Ninh – Nam Định) có Đền thờ Ông; nhiều làng thờ Ông làm Phúc Thần.

Thi Đinh (968 – 980) và Tin Lê (980 – 1009)

Vào thời Hậu Ngô Vương (951 – 965), Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập làm vua, đất đước rối ren, 12 xứ quân nổi loạn.

Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 xứ quân, lên ngôi Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, lập Dương Vân Nga – con gái Dương Tam Kha làm Hoàng Hậu.

Năm Kỷ Mão (979), Vua Đinh bị Đỗ Thích giết hại. Con là Đinh Toàn, 6 tuổi nối ngôi vua. Bà Dương Vân Nga là Hoàng Thái Hậu, giúp con nhiếp chính, đối nội, đối ngoại sắc xảo, có nhiều công với nước.

Thời Bà, giặc Tống lăm le ở phía Bắc, quân Chiêm nhòm ngó ở đằng Nam. Trước mối đe dọa giặc ngoại xâm, vận mệnh đất nước “ngàn năm treo sợi tóc”, Thái Hậu Dương Vân Nga trao áo Hoàng Bào cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, tôn ông làm Vua lãnh đạo toàn dân kháng chiến thắng lợi, đánh Tống bình Chiêm. Hành động vì nước vì dân của Thái Hậu là tấm gương liệt nữ soi sáng muôn đời sau. Trước kia, do chưa hiểu ý nghĩa cao cả của sự việc, người ta còn dị nghị về tư cách, đạo đức của Bà. Nhưng càng ngày Bà càng tỏ rõ là bậc “Anh thư nữ kiệt”!

Thi nhà Lý (1010 – 1225)

Chín đời vua Lý trải 215 năm, trong đó có năm đời do người Họ Dương đảm nhiệm, mở đầu là vua Lý Thần Tông – Dương Hoán, đến cuối cùng là Lý Chiêu Hoàng, trị vì tất cả 97 năm.

Vua Lý Thần Tông – Dương Hoán

Sử sách nước ta chỉ rõ: Vua Lý Nhân Tông (1072 – 1128) không có con trai, nuôi cháu là Dương Hoán con Sùng Hiền Hầu Dương Công Khanh từ nhỏ làm con nuôi, lập Thái tử, truyền ngôi làm vua Lý Thần Tông Dương Hoán, ở ngôi 11 năm (1128 – 1138). Vua coi trọng việc khoan thư sức dân, đưa ra chính sách “Ngụ binh ư nông”, cho quân lính thay nhau về làm ruộng, lo cho “thực túc binh cường”. Con là Thiên Tộ lên ngôi làm vua Lý Anh Tông, là người lập bản đồ đầu tiên cho nước Nam ta…

Vào cuối triều nhà Lý, đầu triều nhà Trần, họ Lý và họ Dương lâm vào họa “tru di” ; táo tác chạy loạn, mai danh ẩn tích, đi các vùng khác hay đi cả nước ngoài, như cha con Lý Long Sưởng – Lý Long Tường,… vượt biên sang xứ Cao Ly (Hàn Quốc).

Cuối nhà Trần, đầu nhà Hồ (đầu thế kỷ 15), người Họ Dương lại một lần nữa gặp họa “tru di” do Hồ Qúy Ly âm mưu gây ra. Một họ Đào gốc Dương ở Cổ Lễ (Nam Định) phải đổi sang nhiều họ: Phạm, Nguyễn, v.v. Tình trạng thay tên đổi họ đã khiến cho anh em, con cháu người Họ Dương ly tán nhau, lạc mất cội nguồn, khó bề nối lại vì qua nhiều đời mất liên lạc, gia phả, tộc phả không còn. Đây là một nguyên nhân khiến cho dân số Họ Dương thấp, tuy rằng Họ Dương có từ thời Hùng Vương.

Khoa bng H Dương

Đến các triều đại về sau, với bản chất yêu nước, hiếu học, nhân từ – đạo đức, vẫn xuất hiện nhiều danh thần, võ tướng có tri thức cao, giúp ích cho việc trung hưng các triều đại. Đó là truyền thống Khoa bảng của Họ Dương, với 50 tiến sĩ Văn, 7 tiến sĩ Võ thời phong kiến, được ghi danh trên các Bia Văn Miếu Hà Nội, Bắc Ninh, v.v. Tiêu biểu là Lưỡng quốc Trạng nguyên Đào Sư Tích gốc Dương (1374), quê Song Khê – Yên Dũng – Bắc Giang; Trạng nguyên Dương Phúc Tư (1547), quê Thuận An – Kinh Bắc, nay là Lạc Đạo – Văn Lâm – Hưng Yên.

Một số chi họ có truyền thống học tập đỗ đạt cao như chi Họ Dương Lạc Đạo – Hưng Yên; Lạc Thổ – Thuận Thành – Bắc Ninh; Cổ Lễ – Nam Định; Vân Đình – Hà Nội; Yên Lộc – Can Lộc – Hà Tĩnh; Quỳnh Đôi – Quỳnh Lưu – Nghệ An; Vĩnh Mỗ – Yên Lạc – Vĩnh Phúc, v.v.

Nhiều Tiến sĩ Họ Dương có tài, đi sứ hay làm quan đến chức Thượng Thư (Bộ Trưởng) như Dương Duy Nhất, khoa Mậu Tuất (1538), trú quán Dị Sử – Lương Tài – Bắc Ninh; Dương Trí Dũng, khoa Ất Sửu (1565), người Bát Trạc – Can Lộc – Hà Tĩnh; Dương Thuần, khoa Mậu Thìn (1628), quê Lạc Đạo – Văn Lâm – Hưng Yên; Dương Văn An, khoa Đinh Mùi (1547), xã Phúc Tuy – Lệ Thủy – Quảng Bình; Dương Khuê, khoa Mậu Thìn (1868), thời Tự Đức – 21, người Vân Đình – Hà Đông, v.v.

Thời cận đại và hiện đại, nhiều trí thức tiêu biểu Họ Dương còn lưu danh như: Dương Lâm, Dương Duy Thanh, Dương Quảng Hàm, Dương Tử Quán…

Những năm đầu thế kỷ 20, nhiều người Họ Dương nhiệt tình yêu nước như Dương Công San, Dương Đình Thạc, Dương Văn Quynh xuất dương sang Vân Nam (Trung Quốc) ra nhập Việt Nam Quang Phục Hội. Tiếp đó, cha con Dương Trọng Phổ – Dương Bá Trạc hoạt động phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục…

Tại Nam Kỳ có Dương Tấn Tài, Dương Quang Đông, Dương Khuy; tại Nghệ An có anh em chú cháu Dương Văn Lan, Dương Vụ Bản, Dương Đình Thúy và Dương Ngọc Liễn; tại Bắc Ninh có Dương Văn Diên, Dương Hạc Đính…

Cho đến khi thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương (tháng 2 – 1930), theo thống kê bước đầu ở các tỉnh: Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cao Bằng, Hà Nam, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, có trên 20 người Họ Dương đã gia nhập Đảng. Tiêu biểu có ông Dương Quang Đông làm Bí thư đầu tiên tỉnh Trà Vinh (1930), ông Dương Vụ Bản làm Bí thư huyện ủy Quỳnh Lưu – Nghệ An (tháng 3 – 1931)…

Trong hai cuộc kháng chiến (1945 – 1975), người Họ Dương luôn kề vai sát cánh cùng dân tộc, số lượng không sao thống kê hết được. Có thể kế một vài trường hợp: Dương Đại Long, Dương Mạc Thạch tham gia đội tuyên truyền Giải Phóng Quân Việt Nam (1944); Dương Đức Hiền (Hà Nội); Dương Linh, Dương Tự Cơ (Hưng Yên); Dương Văn Phát (Hà Nam); Dương Minh Đức, Dương Quang Gián (Bắc Ninh)…

Ở miền Nam: Dương Bạch Mai, Dương Quang Đông trực tiếp lãnh đạo cướp chính quyền ở Sài Gòn; Dương Minh Châu (Tây Ninh); Dương Khuy (Mỹ Tho); Dương Văn Dương (Bến Tre)…

Ngày nay, nhiều người Họ Dương là các nghệ sỹ có tiếng: Dương Cẩm Chương, Dương Bích Liên, Dương Thụ, Dương Thiệu Tước,…; các nhà khoa học tài năng: Dương Đức Tiến, Dương Xuân Đạm, Dương Trọng Hiếu,… và nhiều doanh nhân thành đạt.

V nơi cư trú ca ngưi H Dương

Người Họ Dương có mặt ở khắp 63 tỉnh thành của Việt Nam. Vùng Kinh Bắc xưa nay, nay là hai tỉnh Bắc Ninh – Bắc Giang, là nơi phát tích Họ Dương, nên người Họ Dương rất đông đúc, có những làng xã chỉ toàn người Họ Dương, như ở Tân Yên, Yên Dũng (Bắc Giang); Châu Cổ Pháp (nay là 2 huyện Từ Sơn và Tiên Du thuộc Bắc Ninh)…

Theo thời gian, người ta di cư đi nơi khác, do kiếm kế sinh nhai hay lý do thời thế, sinh ra thêm những vùng quê mới của người Họ Dương.

Hiện tượng như thế thời nào cũng có.

Ví dụ như: Đầu thế kỷ thứ 9, Dương Thanh từ Long Vỹ – Cổ Pháp vào làm Thứ sử Châu Hoan. Năm 894, Dương Đình Nghệ chuyển cả gia đình, cùng 3000 con nuôi Họ Dương vào Chấu Ái lập làng Giàng – Dương Xá (nay là làng Giàng – Thiệu Hóa – Thanh Hóa)…

Vào thế kỷ 12, Dương Tự Minh vâng mệnh vua Lý Anh Tông đi trấn giữ vùng biên ải phía Bắc. Nay đông đúc người Họ Dương ở các tỉnh miền núi phía Bắc coi Ông là Khởi Tổ; có hàng trăm đền miếu thờ Ông như ở Phú Bình (Thái Nguyên), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Cao Bằng, Bắc Cạn…

Đầu thế kỷ 14, Tiến sĩ Đào Toàn Bân, cha đẻ Lưỡng quốc Trạng nguyên Đào Sư Tích, từ Song Khê – Bắc Giang di cư về Trực Ninh – Nam Định. Đến đầu thế kỷ 15, đề phòng họa “tru di” do Hồ Qúy Ly mưu tính, trước khi đi sứ Nhà Minh, Đào Sư Tích cho con cháu thay tên, đổi sang nhiều họ khác: Phạm, Nguyễn,… Sau này, có chi trở về Họ Dương, Họ Đào; có chi vẫn mang họ Phạm, Nguyễn,… Đến nay, việc tìm hiểu cội nguồn họ mạc của họ này còn nhiều khó khăn.

Cuối thế kỷ 14, cụ Dương Công Đình từ Cổ Pháp về định cư ở vùng cửa biển Đại An – Nam Định, trở thành khởi tổ của nhiều chi họ Dương ở Ý Yên – Nam Định. Nhà thờ Họ Dương nay ở làng Dương Phạm – Ý Yên – Nam Định…

Sự xuất hiện người Họ Dương ở các tỉnh miền Trung và miền Nam diễn ra muộn hơn. Để tìm hiểu việc này cần phải dựa vào các cuộc di dân lớn từ ngoài vào.

Sự kiện đáng chú ý đầu tiên là năm 1307, khi vua Trần Anh Tông tiếp thu hai châu Ô và Lý từ Vua nước Chiêm Thành, thì từ Châu Hoan (Nghệ Tĩnh), Châu Ái (Thanh Hóa) người ta rầm rộ đổ vào đất mới, sinh cơ lập nghiệp. Châu Ô, Châu Lý sau đổi thành Phủ Thuận Hóa, nay là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.

Sự kiện tiếp theo là chúa Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) tiên phong mở cõi xuống phía Nam, mở đầu việc hùng cứ phương Nam của 9 chúa Nguyễn. Cuộc di dân từ Bắc vào Nam kéo dài hơn 200 năm. Theo dòng người đông đảo ấy, trong đó có nhiều người Họ Dương.

Khi Pháp xâm lược nước ta, chúng tuyển phu phen tạp dịch từ miền Bắc, miền Trung vào phục vụ khai thác thuộc địa, đó là lớp lớp phu đồn điền cao su, lục lộ,… Hơn 100 năm Pháp đô hộ, người từ ngoài vào không phải là ít!

Thời hiện đại, phải tính đến các lần di chuyển người: Đó là cuộc di cư vào Nam năm 1954; đó là việc chi viện của quân dân miền Bắc cho cách mạng miền Nam trong 20 năm (1955 – 1975); khi đất nước thống nhất (30 – 4- 1975), lớp lớp người đủ mọi thành phần từ Bắc vào Nam tham gia khôi phục và xây dựng đất nước, rồi định cư, kéo theo nhiều người Họ Dương đến các thành phố, các vùng kinh tế mới ở các miền quê.

Việc định nơi cư trú của người Họ Dương diễn ra qua nhiều thế kỷ, ở nhiều địa phương, trong nhiều tình huống,… Bởi thế, việc tìm hiểu kết nối để tìm về cội nguồn là rất khó khăn, đòi hỏi sự nghiên cứu công phu của các nhà khoa học và sự quan tâm cộng tác của tất cả bà con Dòng tộc.

Những điều chúng tôi vừa trình bày ở trên, chỉ là phác họa đơn sơ về bức tranh muôn màu muôn vẻ của Lịch sử Họ Dương Việt Nam, nhằm giúp mọi người bước đầu tìm hiểu về Tổ Tông và Đồng Tộc của mình.

Hội đồng Họ Dương Việt Nam (HĐHDVN) đã có kế hoạch xây dựng Bộ sách Lịch sử Họ Dương Việt Nam gồm 5 tập:

1. Lịch sử Họ Dương Việt Nam

2. Phả hệ Họ Dương Việt Nam

3. Danh nhân Họ Dương Việt Nam

4. Cổ tích Họ Dương Việt Nam

5. Văn học Họ Dương Việt Nam

Hy vọng Bộ sách sẽ sớm ra đời, đáp ứng lòng mong đợi tha thiết của bà con Dòng tộc.

Ban Nghiên cứu Lịch sử

HỘI ĐỒNG HỌ DƯƠNG VIỆT NAM

]]>
http://hoduongvietnam.com.vn/luoc-su-ho-duong-viet-nam-p768/feed 0