Người mở đất – Tiền hiền Dương Văn Thới ở Phú Hữu
- 15/10/2025
- Ban Thông tin truyền thông
- 1
Trong tiềm thức của người dân Phú Hữu tỉnh An Giang, cái tên Dương Văn Thới không chỉ là một dấu ấn lịch sử, mà còn là biểu tượng của một lớp người đi trước đã dày công khai phá vùng đất biên viễn đầy chướng khí, thú dữ và giặc giã. Ngày nay, tại đình thần Phú Hữu, ông được tôn xưng là Tiền hiền – người có công đầu trong việc mở đất, dựng làng, khai nguồn sinh kế cho cộng đồng. Điều đặc biệt, vùng đất ông từng đặt bước đầu tiên hiện vẫn tồn tại hai ngôi phủ thờ – một lớn, một nhỏ – nơi bà con Dòng tộc và dân làng hằng năm tề tựu, mọi người cùng chung vui, tưởng nhớ trong ngày giỗ ông.
Bước chân mở cõi ở vùng biên viễn
Theo lời kể truyền khẩu, vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, khi vùng Phú Hữu còn là hoang địa, lau sậy bạt ngàn, thú dữ ẩn hiện và cư dân thưa thớt, chính ông Dương Văn Thới đã mang theo gia đình, dòng họ đi ghe tam bản xuôi theo nhánh sông Hậu, cập bến vùng đất này. Ông nhận thấy nơi đây tuy khắc nghiệt, nước ngập quanh năm, nhưng lại giàu phù sa, có khả năng canh tác lúa mùa, trồng bắp, khoai và phát triển nghề chài lưới.
Với ý chí “lấy công làm thủ”, ông cùng bà con phát rẫy, đắp bờ bao, cất chòi canh, mở ra những khoảnh ruộng đầu tiên. Từ nền đất ấy, dần dần hình thành một xóm ấp, rồi thành cộng đồng đông đúc. Người dân sau này thường nhắc câu: “Có bước chân ông Thới mới có xóm làng Phú Hữu hôm nay.”
Một góc nhỏ ở Vàm Cỏ Lao ngày nay
Vì sao ông trở thành Tiền hiền?
Khái niệm Tiền hiền trong văn hóa Nam Bộ gắn liền với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Người được tôn là Tiền hiền không chỉ nhờ tuổi tác hay Dòng tộc, mà quan trọng hơn cả là công khai phá, dựng làng, gây dựng sinh kế cho dân cư đầu tiên.
Ông Dương Văn Thới hội đủ ba yếu tố:
Người đầu tiên đặt nền móng cư trú: Vùng đất hoang sơ trở thành nơi sinh sống nhờ sự định cư và khai phá ban đầu của ông.
Có uy tín cộng đồng: Sử liệu dân gian cho biết ông là người trọng nghĩa khí, biết tổ chức việc chung, hòa giải tranh chấp, kêu gọi người dân đoàn kết chống lại thú dữ và giặc ngoài.
Gieo mầm tín ngưỡng – phong tục: ông cũng là người khởi xướng việc dựng miếu nhỏ thờ Thần hoàng bổn cảnh, khấn cầu bình an, rồi từ đó mới phát triển thành đình Phú Hữu sau này.
Chính vì vậy, khi đình Phú Hữu được xây dựng và trở thành trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng – văn hóa của làng, cộng đồng nhất trí suy tôn ông Thới là Tiền hiền. Từ đó, tên tuổi ông đi vào ký ức tập thể, được nhắc đến trong các kỳ lễ Kỳ Yên, và cúng Hạ Lạp, và đặc biệt trong ngày giỗ ông hằng năm.
Đình Phú Hữu, tỉnh An Giang nơi có sắc phong và ghi danh Tiền hiền Dương Văn Thới
Hai ngôi phủ thờ – dấu vết của một Tiền nhân
Điều hiếm thấy là ở vùng đất ông từng khai khẩn, hiện tồn tại cùng lúc hai ngôi phủ thờ Dương Văn Thới. Theo lời các bậc cao niên, trước hết là một ngôi phủ lớn, kiến trúc bề thế, do con cháu và Dòng tộc góp công xây dựng, để làm nơi thờ phụng chính. Đây là nơi đặt bàn thờ trang trọng, với bài vị khắc chữ Hán, khói hương nghi ngút quanh năm.
Ngoài ra, còn có một ngôi phủ thờ nhỏ, giản dị hơn, nằm gần khu mộ ông ở miền biên giới, được xem là nơi ông từng dựng chòi ở và làm nghề nông ở nơi này. Ngôi phủ này được xem như một “chứng tích” gần gũi với đời thường, gợi nhắc về bước chân khai phá của ông trong thuở ban đầu. Người dân thường ví von: “Phủ lớn để kính, phủ nhỏ để nhớ.”
Hai ngôi phủ thờ tồn tại song song, bổ sung cho nhau, như biểu tượng kép về sự tôn kính và lòng tri ân đối với một bậc tiền nhân.
Ông Dương Hùng Dõng hậu duệ đời thứ 7 của ông Tiền hiền Dương Văn Thới chụp ảnh bên ngai thờ Tiền hiền đình Phú Hữu
Ngày giỗ ông – hội làng đầu mùa xuân
Hằng năm, đến ngày giỗ ông Dương Văn Thới, hai ngôi phủ thờ trở thành điểm hẹn của bà con trong vùng. Không chỉ con cháu dòng Họ Dương mà cả trăm hộ dân lân cận đều tề tựu. Mâm cúng được bày biện trang trọng với heo quay, xôi, rượu, cùng hoa quả theo mùa, đặc biệt là mâm cá lóc 3 con.
Quan trọng hơn, ngày giỗ không chỉ là nghi lễ cúng tế mà còn trở thành ngày hội cộng đồng. Sau phần nghi thức, bà con quây quần ăn uống, trò chuyện, cùng nhau ôn lại công lao của ông Thới. Nhiều gia đình còn đem theo con cháu để “cho nghe, cho biết ông sơ, ông cố của làng”.
Một người dân địa phương chia sẻ: “Ngày giỗ ông Thới không chỉ là ngày cúng, mà là dịp để bà con tụ lại, sống lại không khí của tình làng nghĩa xóm. Ở đây, ai cũng coi ông như ông Tổ chung của cả xóm.”
Ý nghĩa văn hóa – xã hội
Việc tôn vinh ông Dương Văn Thới là Tiền hiền đình Phú Hữu không đơn thuần là chuyện của Dòng tộc, mà phản ánh căn tính văn hóa Nam Bộ: luôn biết ơn người mở đất, luôn gắn kết cộng đồng qua tín ngưỡng thờ cúng.
Với gia đình, Dòng tộc: đó là niềm tự hào truyền đời, là sợi dây kết nối con cháu dù đi làm ăn xa xứ cũng tìm về ngày giỗ.
Với cộng đồng làng xã: ngày giỗ trở thành ngày hội, giúp gắn kết cư dân, tạo sự đồng lòng trong xây dựng nếp sống mới.
Với đời sống văn hóa tinh thần: hai ngôi phủ thờ cùng đình Phú Hữu là không gian lưu giữ ký ức tập thể, nhắc nhở đạo lý uống nước nhớ nguồn, đồng thời góp phần làm phong phú kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của vùng đất biên viễn.
Trải qua hơn một thế kỷ, dấu chân mở đất của ông Dương Văn Thới đã hóa thành hồn cốt của Phú Hữu hôm nay. Từ bãi bồi lau sậy hoang vu, nơi đây đã trở thành vùng đất trù phú, yên bình, với đình làng, với hai ngôi phủ thờ và với những ngày hội cộng đồng ấm áp nghĩa tình.
Ông được suy tôn là Tiền hiền đình Phú Hữu không chỉ bởi công khai khẩn, mà còn vì ông đã để lại cho hậu thế một di sản quý giá: bài học đoàn kết, cần cù, và đạo lý tri ân người đi trước. Mỗi năm đến ngày giỗ, hàng trăm người con Phú Hữu cùng tề tựu về phủ thờ, không chỉ để dâng nén hương, mà còn để tự nhủ rằng – mọi bước tiến hôm nay đều bắt nguồn từ dấu chân mở đất của ông tiền hiền thuở ấy.
Dương Bảo