Thông báo về việc góp ý dự thảo cuốn “Họ Dương Việt Nam – Biên niên sự kiện và sử liệu”
- 02/03/2020
- Ban Thông tin truyền thông
- 8611
Ngày 3/3/2020, ông Dương Công Minh – Chủ tịch Hội đồng Họ Dương Việt Nam đã ký thông báo về việc góp ý dự thảo cuốn “Họ Dương Việt Nam – Biên niên sự kiện và sử liệu”. Ban Thông tin truyền thông xin đăng tải thông báo và toàn văn dự thảo này để bà con nghiên cứu và có ý kiến đóng góp.
TOÀN VĂN DỰ THẢO CUỐN “HỌ DƯƠNG VIỆT NAM Biên niên sự kiện và sử liệu”
TẬP I (40 – 1945)
Khổng Đức Thiêm (Biên soạn)
Bản thảo lần thứ nhất
THỂ THỨC BIÊN SOẠN
(thay Lời mở đầu)
Kể từ sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, họ Dương Việt Nam chính thức bước vào những trang sử chống ách đô hộ của ngoại tộc, tuy ngắn nủi nhưng vẫn để lại tiếng vang một thời, tạo tiền đề để nhiều thế kỷ sau đó, họ Dương trở lại với tư cách là chủ thể của cuộc nổi dậy Dương Thanh, của công cuộc xây dựng nền tự chủ Dương Đình Nghệ – Dương Tam Kha, của việc gánh vác cơ đồ Đại Việt kéo dài gần một thế kỷ từ Dương Hoán Lý Thần Tông đến Chiêu Thánh Nữ Hoàng và được nhắc lại một thời vang bóng vào thời Trần với sự xuất hiện của Dương Nhật Lễ, trong thời nhà Minh thống trị với tiểu triều đình của Dương Cung.
Chặng đường lịch sử trải từ thế kỷ XI đến sau này, với sự xuất hiện của những đại thụ – những trụ chống trời Dương Cảnh Thông, Dương Tự Minh, Đào Dương Bật, Đào Sư Tích ở hai thời kỳ Lý – Trần; Dương Chấp Trung, Dương Đức Nhan, Dương Tông Hải, Dương Bang Bản, Dương Trực Nguyên, Dương Phúc Tư, Dương Trí Trạch trong thời Lê – Mạc… chứng tỏ rằng, vào bất cứ thời điểm nào, họ Dương cũng cống hiến cho dân tộc bằng chính những đỉnh cao của một trí tuệ với những bộ óc trác việt.
Lướt qua một vài sự kiện, một số nhân vật tiêu biểu của họ Dương Việt Nam trong một quá khứ không gần để thấy rằng việc tìm tòi sử liệu, biên soạn một bộ lịch sử về dòng họ Dương Việt Nam là hết sức cần thiết. Muốn làm được điều này, trước hết phải phục dựng lại từng chặng đường cống hiến của bao lớp người còn được ghi nhận trong sử sách, bi ký, gia phả, tộc phả và thậm chí còn cả ở các thần phả thông qua phương pháp biên soạn biên niên sự kiện lịch sử.
Biên niên sự kiện và sử liệu – trước hết được xây dựng thông qua các nguồn tư liệu và sử liệu chính thống trong các thư tịch cổ, tài liệu được ghi chép bằng hệ thống bia ký, các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học. Điều này có nghĩa là, ngoài các bộ sử chính thống của nhà nước qua các triều đại còn có các tài liệu lưu trữ rải rác khắp thôn xóm và dòng họ hoặc các cơ quan nhà nước dưới dạng văn bia, gia phả, tộc phả, thi ca, truyện ký. Kể từ khi Hội đồng họ Dương Việt Nam được thành lập, sự xuất hiện các văn kiện, nghị quyết, trang thông tin, kỷ yếu hoạt động, báo cáo của các chi hội hoạt động và sinh hoạt… đã tạo ra một nguồn tư liệu quan trọng để biên soạn biên niên sự kiện và sử liệu của dòng họ.
Để biên soạn công trình này, về cổ sử, tác giả căn cứ chủ yếu vào 4 bộ: Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên và Đại Nam thực lục – trong đó, Việt sử lược cung cấp khá trọn vẹn những sự kiện xảy ra từ thời Thần Tông Dương Hoán đến Chiêu Thánh Nữ Hoàng thông qua những ghi chép khá trung thực, khách quan, đủ sức bác bỏ nhiều nhận định mà những bộ sử được ghi chép sau đó về sự nhu nhược, sa đọa của những vị Hoàng đế nhà Lý cuối cùng, xác nhận hiện trạng một cây hai gốc ngay sau sự kiện Thần Tông Dương Hoán phong phụ thân Sùng Hiền hầu là Thái Thượng Hoàng, mẫu thân Đỗ Thị là Hoàng Thái hậu qua hình tượng cây đèn để ở bàn thờ vua Nhân Tông sinh ra 2 ngọn trong khi Đại Việt sử ký toàn thư cũng mượn lời của Sử thần Lê Văn Hưu ví việc làm này chẳng hóa ra hai gốc ư?
Nếu Việt sử lược cho nhiều cứ liệu quan trọng kể từ khi Dương Hoán lên ngôi cho đến thời điểm chuyển giao ngôi báu cho nhà Trần thì Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên ghi nhận nhiều sự kiện liên quan đến dòng họ vào thời Trần, Lê Sơ, Nam – Bắc triều, Trịnh – Nguyễn phân tranh và Lê Trung Hưng. Đại Nam thực lực cung cấp tư liệu, sử liệu tiếp theo cho đến những năm đầu của thế kỷ XX.
Trong 4 bộ sử kể trên, điều đáng lưu ý nhất, những ghi chép về nhà Lý – nhất là nửa cuối Vương triều, sử liệu do Việt sử lược đưa ra đáng tin cậy và khách quan hơn. Ngoài ra, có thể khai thác thêm trong Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử cương mục tiết yếu, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử tiêu án, Đại Việt thông sử, Lịch triều tạp kỷ và nhiều cổ thư khác.
Về tài liệu Hán – Nôm, quan trọng nhất là bộ Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm gồm 22 tập, mỗi tập khoảng 1000 thác bản được chụp theo khuôn khổ 24cm ´ 31,5cm, cung cấp hầu như các bản dập văn khắc do Viện Viễn đông Bác cổ Pháp (EFEO) tiến hành tại hơn 40 tỉnh hồi đầu thế kỷ XX, thu thập được 11.651 đơn vị văn khắc với 20.980 mặt thác bản. Đây là nguồn cứ liệu cơ bản để tác giả xây dựng hệ thống sự kiện và sử liệu về họ Dương Việt Nam ngoài các bộ cổ sử. Tuy được coi là nguồn tư liệu và sử liệu phong phú và đáng tin cậy nhưng trong quá trình khai thác, tác giả nhận thấy một vài thác bản bị ngụy tạo về thời điểm xuất hiện của bia văn (thác bản N02699-2700, thác bản N03569 chẳng hạn, liên quan tới Dương Bá Cung thời Nguyễn nhưng ghi tạo dựng vào năm Lê Hoằng Định 16 – 1615; năm Cảnh Hưng 1 – 1740); nhiều văn bia ghi chép về công lao người họ Dương nhưng không có thời điểm tạo dựng (các thác bản N01064, 1065, 1145, 5185, 7921, 15227, 15315 chẳng hạn). Lại có nhân vật như nhà sư Dương Tâm Viên trụ trì tại chùa Hồng Phúc – nay ở số 19 Hàng Than, Hà Nội có tới 4 thác bản liên quan nhưng thời điểm tạo dựng cách nhau có khi hàng thế kỷ (thác bản N048477-90 do Hà Tông Mục soạn, Dương Tâm Viên tạo khắc vào năm Quý Mùi – 1703; thác bản N013541 do Dương Tâm Viên tạo khắc ghi năm Gia Long 10 – 1811; thác bản N015343 do Dương Tâm Viên soạn ghi năm Giáp Tuất – có khả năng là năm 1874 hoặc 1934 vì trong lời văn đã gọi Hà Nội là Hà Thành, cách gọi phổ biến về Hà Nội hồi đầu thế kỷ XX. Chính vì thế, tác giả tạm gác lại chờ xác tín sau.
Về các bản gia phả, tộc phả hiện lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam, tác giả đặt niềm hy vọng lớn vào Dương tộc kỷ sử (còn có tên gọi khác là Lý tộc, Dương tộc gia phả) được cho là do Dương Hữu Tự Do soạn vào năm Đinh Dậu (1597) nhưng khi bắt tay vào khai thác, tác giả có cảm giác tài liệu được làm mới vào những năm gần đây khi hàng loạt đơn vị hành chính được gọi là tỉnh như Bắc Ninh, Nam Định, Phú Thọ, Ninh Bình – những sản phẩm được tạo ra trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX nhưng đã xuất hiện trong văn bản. Đó là chưa kể lối hành văn có vẻ của người mới học Trung văn sau này. Trên Nghiên cứu Lịch sử (số 4/2011), tác giả Thái Minh, công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã căn cứ vào văn bản trên công bố bài viết Dương Hoán Lý Thần Tông họ Lý hay họ Dương? Có chụp tờ 2b, 5b trong tài liệu để giới thiệu với bạn đọc, nhưng đã 8 năm trôi qua không có phản hồi. Chúng tôi cho rằng bài viết không có sức thuyết phục và tài liệu để làm cơ sở khoa học, nhìn vào là thấy ngay bị người sau thêm bớt.
Như vậy, lẽ ra Dương tộc kỷ sử (Lý tộc, Dương tộc gia phả) mới là văn bản có giá trị và mang tính thuyết phục cao nhất để chứng minh rằng Thần Tông Dương Hoán là ngoại thích của họ Lý, là ông vua đầu tiên của họ Dương vừa có trách nhiệm nối mạch vương triều, vừa có nghĩa vụ bảo toàn một cuộc chuyển giao êm đẹp, kể cả đối nội lẫn đối ngoại. Tiếc thay, không rõ vì lý do nào đó, văn bản tự làm cho mình mất chỗ đứng trong kho tàng văn bản sử liệu của dòng họ. Những tên gọi các nhân vật kể từ thời Hùng Vương tới Lý, những cống hiến của những nhân vật ấy có lẽ cũng bị sửa sang theo, vì vậy cũng chịu số phận cáo chung. May thay, một dòng trong Việt sử lược, một lời bàn của Sử thần Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử ký dù quá cô đọng nhưng trở thành cứu cánh và lời khẳng định rằng, Vương triều Lý kể từ Thần Tông Dương Hoán thực chất là cơ nghiệp họ Dương. Hàng chục sự kiện và sử liệu mà chúng tôi trình bày tiếp theo về một cuộc vật lộn thực sự, một cuộc đấu tranh thực sự để bảo vệ sự sống còn của họ Dương – trong đó có cuộc đòi trả vương triều cho tôn thất nhà Lý mà Thân Lợi – Triệu Trí Chi là đại diện nhưng bất thành đã minh chứng.
Những văn bản còn lại như Chương Xá Dương tộc gia phả, Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Binh Vương sắc phong phúc thần sự tích, Dương Đình tộc phả ký, Dương thị khoa phả, Dương tộc gia phả, Đại tộc khoa hoạn công thần huân nghiệp gia phả chí, Họ Dương trong cộng đồng dân tộc, Họ Dương Quỳnh Đôi, Lạc Đạo Dương tộc phả, Lý lịch đền thờ Bình Vương Dương Tam Kha tại thôn Thành Đạt, Lý lịch họ Đào Đông Trang, Nhị Khê Dương gia thế phả, Tư liệu Hán Nôm về Bình Vương Dương Tam Kha ở đền Cổ Lễ, Tư liệu Hán Nôm về Trạng nguyên Dương Phúc Tư, Tư Thế Dương tộc gia phả, Vài nét về họ Dương khu Nguyễn Xá, Vĩnh Mỗ Dương tộc gia phả… thực sự có giá trị và bổ ích với tác giả.
*
* *
Thông thường, Biên niên sự kiện và sử liệu được coi là công việc hoặc việc làm đầu tiên, nhất thiết phải có trước khi biên soạn bộ lịch sử chính thức. Chỉ có trên cơ sở bộ sách này hoàn thiện thì những bước đi tiếp theo để biên soạn bộ lịch sử chính thống mới hình thành được các chương mục và các dấu mốc quan trọng mà bộ sử bắt buộc phải có. Hơn thế nữa, nhiều khi Biên niên sự kiện và sử liệu còn tồn tại như một công trình khoa học độc lập bởi không phải bất kỳ sự kiện hoặc sử liệu nào xuất hiện trong bộ sách này cũng có mặt hoặc được thể hiện dưới dạng thông sử. Nói cách khác, mỗi công trình có một phương thức để đến với người đọc và một sự hứng thú riêng khi đọc, khi sử dụng hoặc thưởng thức chúng.
Ở công trình này, mỗi sự kiện và sử liệu được trình bày theo một thể thức thống nhất gồm:
1.
NIÊN ĐẠI: Tuân thủ theo tiến trình thời gian là ngày / tháng / năm dương lịch. Niên đại sẽ được đặt ở mỗi đầu sự kiện. Tập 1 của bộ sách này kéo dài từ năm 40 đến năm 1945 do đó, trong ngoặc kèm theo là ngày / tháng / năm âm lịch ghi theo thứ tự sau đây:
– Dòng thứ nhất: năm dương lịch (năm âm lịch)
– Dòng thứ hai: ngày, tháng dương lịch (ngày, tháng, năm âm lịch)
hoặc: các mùa, trong năm khi không tìm được ngày, tháng
hoặc tài liệu không ghi theo năm, tháng hoặc theo mùa vụ. Tháng 11 âm lịch được ghi là tháng Một; tháng 12 âm lịch là tháng Chạp; tháng 1 âm lịch là tháng Giêng. Các tháng âm lịch còn lại được ghi bằng chữ (Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bẩy, Tám, Chín, Mười).
2. TÊN SỰ KIỆN: Dựa vào nội dung chính của sự kiện.
3. NỘI DUNG SỰ KIỆN VÀ SỬ LIỆU: Dùng nguyên văn, dùng có sắp xếp câu chữ hoặc cách hành văn để bảo đảm sự mạch lạc, dễ hiểu nhưng vẫn cố gắng giữ lại lối hành văn.
Xin được nói thêm, với quan niệm triều Lý, kể từ khi Dương Hoán lên ngôi cho đến khi Chiêu Thánh Nữ Hoàng nhường ngôi, về thực chất chính quyền của Vương triều Lý do những người họ Dương nắm giữ và quyết định mọi vận mệnh của đất nước, do đó tác giả đã lựa chọn những sự kiện quan trọng đối với đất nước trong suốt gần một thế kỷ đó để đưa vào nội dung sự kiện và coi đó là thành tựu hoặc hệ quả của nền cai trị mà các Hoàng đế triều Lý vốn gốc họ Dương điều hành đất nước.
Hơn thế nữa có một số sự kiện, sự ghi chép giữa Việt sử lược và Đại Việt sử ký có độ vênh về thời gian, tác giả lấy nguyên tắc dựa vào Việt sử lược làm chính để từ đó có những điều chỉnh hợp lý.
Ngoài ra, những văn bản thời Lý có giá trị, các bài minh trên chuông cũng được tác giả triệt để khai thác và có những đóng góp mới về mặt sử liệu cho thời kỳ này.
4. NGUỒN: Dưới mỗi sự kiện đều ghi đầy đủ nguồn để người sử dụng tra cứu, đối chiếu – theo đó chủ yếu là những tài liệu gốc, tài liệu tham khảo đáng tin cậy được xếp lên trước.
Trong sách này, nguồn được ký hiệu theo chữ cái đầu tiên của tài liệu, chủ yếu được sắp xếp theo thứ tự abc, tiếp đó là thứ tự số Ai Cập. Nếu là sách, sau ký hiệu tên sách (gồm chữ cái đầu tiên, số thứ tự sắp xếp theo số Ai Cập), sẽ là thứ tự tập, quyển (Q), trang (tr). Đối với Tạp chí, lần lượt là ký hiệu tạp chí, số tạp chí, năm xuất bản, số trang (tr). Những tài liệu khác về gia phả, tộc phả, thần phả thì chỉ ghi ký hiệu của loại tài liệu đó.
Dưới đây là Ký hiệu tên tài liệu dùng làm nguồn cho mỗi sự kiện hoặc mỗi sử liệu.
A
A1. An Nam chí lược (2009). Lê Tắc (Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế dịch), Nxb Lao Động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
A2. An Nam chí nguyên (2017). Cao Hùng Trưng (Hoa Bằng dịch), Nxb ĐHSP.
A3. An Nam truyện (2018). Châu Hải Đường dịch, Nxb Hội Nhà văn.
B
B1. Bách thần lục (2018). Nguyễn Văn Tuân dịch chú, Nxb ĐHSP.
B2. Bản tin họ Dương Việt Nam (http://hoduongvietnam.com).
B3. Bản triều bạn nghịch liệt truyện (1963). Kiều Oánh Mậu (Trần Khải Văn dịch), Bộ Quốc gia Giáo dục.
B4. Bảng tra thần tích theo làng xã Việt Nam (2012). Nguyễn Thị Phương (chủ biên), Nxb VHTT.
B5. Bắc Giang địa chí (1937). Trịnh Như Tấu. Nhật Nham thư quán.
B6. Biên niên sự kiện lịch sử MTDTTNVN (2004). Trần Hậu (Chủ biên, Nxb CTQG, tập 1 (1930-1954).
B7. Biên niên lịch sử Văn phòng Chính phủ (2010). Khổng Đức Thiêm (Chủ biên), Nxb. Tư pháp, 3 tập.
C
C1. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919 (1993). Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Nxb Văn Học.
C2. Các thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy (2009). Vũ Thanh Sơn, Nxb VHTT.
C3. Châu bản triều Tự Đức 1848 – 1883 (2003). Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát dịch, Nxb Văn Học.
C4. Chương Xá Dương tộc gia phả (2014), Dương Văn Đảm dịch, lưu trữ Văn phòng họ Dương Việt Nam.
C5. Các tác giả văn chương Việt Nam (2015). Trần Mạnh Thường, Nxb Hồng Đức, tập 1.
C6. Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích (1776). Vũ Huy Trác soạn. Bản dịch lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
C7. Công dư tiệp ký (2001). Vũ Phương Đề (Đoàn Thăng dịch), Nxb Văn Hóa.
D
D1. Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu (1993), 3 tập, Trần Nghĩa – Francois Gros (Chủ biên), Nxb KHXH.
D2. Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu, Bổ di I (2002), Q. thượng, Q. hạ, Trần Nghĩa (Chủ biên), Nxb KHXH.
D3. Di tích lịch sử – văn hóa tỉnh Bắc Ninh (2013), Lê Viết Nga (Chủ biên), Bảo tàng Bắc Ninh xuất bản.
D4. Dương Bá Trạc – con người và thơ văn (2012). Chương Thâu, Nxb VHTT.
D5. Dương Danh Lập – cuộc đời và sự nghiệp (2013). Dương Xuân Thự, Nxb Văn Học.
D6. Dương Đình tộc phả ký (2005). Dương Đình Khải ghi chép.
D7. Dương thị khoa phả.
D8. Dương tộc gia phả (1916).
D9. Dương tộc kỷ sử (1597). Dương Hữu Tự Do soạn, Nguyễn Đức Thụ dịch (2019).
Đ
Đ1. Đại Nam Kinh Bắc trấn Lạc Đạo xã Dương thị thế phả. Dương Chi biên soạn, Dương Doanh chép lại.
Đ2. Đại Nam liệt truyện (2014). Quốc sử quán triều Nguyễn.
Đỗ Mộng Khương và các bậc túc nho dịch, Nxb Thuận Hóa, 2 tập.
Đ3. Đại Nam nhất thống chí (2012). Quốc sử quán triều Nguyễn, Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb Lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2 tập.
Đ4. Đại Việt sử ký toàn thư (2013). Cao Huy Giu dịch, Nxb Thời Đại.
Đ5. Đại Việt sử ký tiền biên (2018). Dương Thị The, Lê Văn Bảy, Nguyễn Thị Thảo, Phan Thị Thoa dịch, Nxb Hồng Đức.
Đ6. Đại Việt sử ký tục biên (2012). Ngô Thế Long,Nguyễn Kim Hưng dịch, Nxb Hồng Bàng.
Đ7. Đại Việt thông sử (1978). Lê Quý Đôn (Ngô Thế Long dịch), Nxb KHXH
Đ8. Đại Nam thực lục (2007). Quốc sử quán triều Nguyễn. Nguyễn Ngọc Tỉnh và các bậc túc nho dịch, Nxb Giáo Dục, 10 tập.
Đ9. Đại Nam thực lục – Đệ lục kỷ (2011). Quốc sử quán triều Nguyễn. Cao Tự Thanh dịch, Nxb VHVN.
Đ10. Đại Nam thực lục – Đệ thất kỷ (2012). Quốc sử quán triều Nguyễn. Cao Tự Thanh dịch, Nxb VHVN.
Đ11. Đại tộc khoa hoạn công thần huân nghiệp gia phả chí. Dương Văn Tất, Dương Văn Đảm dịch, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
Đ12. Địa chí Bắc Giang – Di sản Hán Nôm (2013), Lâm Giang – Nguyễn Đình Bưu (Chủ biên), Sở VHTT Bắc Giang.
Đ13. Địa chí Hải Dương (2009). Tập thể tác giả, Nxb CTQG, 3 tập.
Đ14. Địa chí Quảng Ninh (2003). Tập thể tác giả, Nxb Thế Giới, 3 tập.
Đ15. Địa chí Thái Bình (2010). Tập thể tác giả, Nxb VHTT.
Đ16. Địa chí Thái Nguyên (2009). Tập thể tác giả, Nxb CTQG.
Đ17. Địa chí Thăng Long – Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm (2007). Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Văn Nguyên (Chủ biên), Nxb Thế Giới.
Đ18. Địa chí Vĩnh Phúc (2012). Tập thể tác giả, Nxb KHXH.
Đ19. Địa chí Yên Phong (2002). Tập thể tác giả, Nxb Thanh Niên.
Đ20. Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán Nôm (2008). Đinh Khắc Thuân (Chủ biên), Nxb KHXH.
Đ21. Địa phương chí tỉnh Hải Dương qua tư liệu Hán Nôm (2008). Đinh Khắc Thuân (Chủ biên), Nxb KHXH.
Đ22. Đồng Khánh, Khải Định chính yếu (2010). Quốc sử quán triều Nguyễn, Nguyễn Văn Nguyên dịch, Nxb Thời Đại.
Đ23. Đời nay cung tiến, đời sau phụng thờ (2015). Vũ Thị Mai Anh, Nxb Thế Giới.
G
G1. Giải mã kho báu văn chương (2018). Vũ Bình Lục, Nxb Hội Nhà Văn, 5Q.
G2. Gián nghị Đại phu Lại Linh bậc trung thần triều Lý (2017). Mai Hồng (Chủ biên), Nxb TT&TT.
H
H1. Hà Nội qua tài liệu và tư liệu lưu trữ 1873 – 1954 (2010). Đào Thị Diến (Chủ biên), Nxb Hà Nội, 2 tập.
H2. Hải Dương phong vật chí (2009). Trần Công Hiến – Trần Huy Phác, (Nguyễn Thị Lâm dịch), Nxb Lao Động.
H3. Họ Dương Quỳnh Đôi.
H4. Họ Dương trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (2008). Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
H5. Hoàng Hoa Thám 1836 – 1913 (2016). Khổng Đức Thiêm, Nxb Tri Thức.
H6. Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu (1963). Nguyễn Bá Trác, (Bửu Cầm và nhiều bậc túc nho dịch), Bộ QGGD.
K
K1. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (2004). Quốc sử quán triều Nguyễn. Cao Huy Giu dịch, Nxb Giáo Dục.
K2. Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ nghịch phỉ phương lược chính biên, Tập 1, Q. Thượng, Q. Hạ – Bắc Kỳ; Tập 2 – Nam Kỳ (2009). Cơ mật viện – Nội các triều Nguyễn, Đỗ Mộng Khương – Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Nxb Giáo Dục.
K3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (2007). Quốc sử quán triều Nguyễn. Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp dịch, Nxb Giáo Dục, 2 tập.
K4. Khoa bảng Nghệ An 1075 – 1919 (2000). Đào Tam Tỉnh, Nxb Nghệ An.
K5. Khoa cử Việt Nam. Cử nhân triều Nguyễn (2019). Nguyễn Thúy Nga (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.
K6. Khoa cử Việt Nam. Hương cống triều Lê (2019). Nguyễn Thúy Nga (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.
K7. Khoa cử Việt Nam. Sinh đồ triều Lê, thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn (2019). Nguyễn Thúy Nga (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.
K8. Khoa cử Việt Nam. Tú tài triều Nguyễn (2019). Nguyễn Thúy Nga (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.
K9. Khởi nghĩa Bãi Sậy (2009). Vũ Thanh Sơn, Nxb VHTT.
K10. Khởi nghĩa Duy Tân, Thái Phiên – Trần Cao Vân qua các tài liệu mới (2018). Nguyễn Trương Đàn, Nxb Thanh Niên.
K11. Khởi nghĩa Lam Sơn 1418 – 1427 (2005). Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Nxb QĐND.
L
L1. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn trước tác (1998), Tập II, Phần II. Lịch sử, Nxb Giáo Dục.
L2. Lạc Đạo Dương tộc gia phả (1992). Dương Văn Phiến soạn, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
L3. Lạc Đạo xã lịch triều đăng khoa khảo. Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
L4. Lịch sử Việt Nam (2013), Tập thể tác giả (Viện Sử lược), 15 tập, Nxb KHXH.
L5. Lịch triều tạp kỷ (1975). Ngô Cao Lãng (Hoa Bằng dịch), 2 tập, Nxb KHXH.
L6. Lịch sử Biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I, 1911-1929 (2007); tập II, 1930-1945 (2008); tập III, 1945-1954 (2009), Trịnh Nhu (Chủ biên), Nxb CTQG.
L7. Lịch sử Việt Nam, tập 1 và tập 2 (2016). Phan Huy Lê (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.
L8. Lịch sử Hà Bắc, tập I (1986). Tập thể tác giả, Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc xuất bản.
L9. Lý lịch đền thờ Bình Vương Dương Tam Kha tại thôn Thành Đạt. Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
L10. Lý lịch họ Đào Đông Trang (1994). Đào Xuân Quang soạn. Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
L11. Lịch sử Đảng bộ huyện Từ Liêm (2011). Tập thể tác giả, Nxb CT-HC.
L12. Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ (2005). Tập thể tác giả, Nxb CTQG.
M
M1. Minh Mệnh chính yếu (2009). Quốc sử quán triều Nguyễn. Ủy ban dịch thuật Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Nxb Thuận Hóa.
M2. Minh Mệnh ngự chế văn (2000). Quốc sử quán triều Nguyễn. Trần Văn Quyền dịch, Trung tâm KHXH & NVQG.
M3. Minh thực lục – Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII (2010). Hồ Bạch Thảo dịch và chú thích, Nxb Hà Nội, 3 tập.
M4. Một cơn gió bụi (2007). Trần Trọng Kim, Nxb Hội Nhà Văn.
M5. Một số vấn đề về văn bia Việt Nam (2008). Trịnh Khắc Mạnh, Nxb KHXH.
M6. 1000 nhân vật lịch sử, văn hóa Thăng Long – Hà Nội (2010). Hà Duy Biển, Nxb TT&TT.
M7. Mục lục phân tích Tạp chí Nam Phong (2002). Nguyễn Khắc Xuyên, Nxb Thuận Hóa – TTVHNN Đông Tây.
N
N1. Nam Ông mộng lục (2007). Hồ Nguyên Trừng, Nxb Văn Học, in chung với Việt Điện u linh tập (Lý Tế Xuyên), Truyền Kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ).
N2. Nại Tử xã thần miếu sự tích. Sao lục ngày 6 tháng Sáu năm Bảo Đại 13 (1938), in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Vai trò các anh hùng dân tộc họ Khúc – Dương – Ngô ở thế kỷ X.
N3. Nghệ An ký (2018). Bùi Dương Lịch (Nguyễn Thị Thảo dịch), Nxb KHXH.
N4. Nghiencuulichsu.com
N5. Nghiên cứu văn bia Vĩnh Phúc (2013), Nguyễn Hữu Mùi, Sở VHTT và Du lịch.
N6. Ngọc phả lưu truyền (1916). Dương Văn Tất dịch, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
N7. Nguyễn Trãi toàn tập, Tân biên (2001). Tập thể dịch giả Nxb Văn học. 3 tập.
N8. Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (2015). Pierre Gourou (Nguyễn Khắc Đạm và những người khác dịch), Nxb Trẻ.
N9. Người Việt ở Pháp 1940 – 1954 (1997). Đăng Văn Long, Tủ sách nghiên cứu.
N10. Nhị Khê Dương gia thế phả. Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
N11. Những nhà khoa bảng xứ Thanh (2011). Hà Đình Đức (Chủ biên), Nxb Thanh Hóa.
N12. Nội các Trần Trọng Kim (2010). Phạm Hồng Tung. Nxb CTQG.
O
O1. Ô Châu cận lục (2009). Dương Văn An (Nguyễn Khắc Thuần dịch), Nxb Giáo Dục.
P
P1. Phong trào kháng thuế ở miền Trung qua các châu bản triều Duy Tân (2008). Nguyễn Thế Anh, Nxb Văn học.
P2. Phong trào Duy Tân – các khuôn mặt tiêu biểu (2006). Nguyễn Q. Thắng, Nxb VHTT.
P3. Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX (1986). Nguyễn Phan Quang, Nxb KHXH.
P4. Phương ngôn xứ Bắc (1994). Khổng Đức Thiêm, Nguyễn Đình Bưu, Sở VHTT Hà Bắc.
P5. Phong thổ làng Bất Phí (2016). Khổng Đức Thiêm, Tư liệu cá nhân.
Q
Q1. Quốc học Huế – xưa và nay (2013). Trần Phương Trà (Chủ biên), Nxb VHTT.
Q2. Quốc sử di biên (2014). Phan Thúc Trực (Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Tô Lan dịch), Nxb KHXH.
Q3. Quốc triều chính biên toát yếu (2013). Quốc sử quán triều Nguyễn (Quốc sử quán dịch), Nxb Thuận Hóa, tập 1.
Q4. Quốc triều hương khoa lục (1993). Cao Xuân Dục (Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch), Nxb TPHCM.
R
R1. Rạng danh người Quỳnh Đôi (2013). Phan Hữu Thịnh, Hồ Sĩ Bằng (Biên soạn), Nxb Đại học Vinh.
T
T1. Tạp chí Hán Nôm (1984 – 2019). Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
T2. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1954 – 2019). Viện Sử học.
T.3. Tài liệu địa chí Thái Bình (2006 – 2012), Tập I – IV, Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Thanh (Chủ biên) ; Tập V – VIII, Nguyễn Quang Ân, Bùi Công Phượng (Chủ biên).
T.4. Tên làng xã và địa chí các tỉnh Bắc Kỳ (1999). Ngô Vi Liễn, Nxb VHTT.
T5. Thăng Long – Hà Nội, Thư mục chọn lọc (2010). Phan Thị Kim Dung, Chu Tuyết Lan (Chủ biên), Thư viện Quốc gia Việt Nam.
T6. Thăng Long – Hà Nội, Tuyển tập công trình nghiên cứu lịch sử (2010), Nguyễn Quang Ngọc (Chủ trì), Nxb Hà Nội, 2 tập.
T7. Thi cử, học vị, học hàm dưới các triều đại phong kiến Việt Nam (2014). Đinh Văn Niêm, Nxb Lao Động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
T8. Thiền uyển tập anh (1993). Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch, Nxb Văn Học.
T9. Thông báo Hán Nôm học (1995 – 2018). Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
T10. Thủy kinh chú sớ (1999). Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thư Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Nguyễn Bá Mão (dịch), Nxb Thuận Hóa.
T11. Thư tịch báo chí Việt Nam (1998). Tô Huy Rứa (Chủ biên), Nxb CTQG.
T12. Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm (2005 – 2009). Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (Chỉ đạo công trình), Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 22 tập.
T13. Tuyển tập Đông Lĩnh Dương Phượng Dực (2008). Nxb Văn Học.
T14. Tuyển tập thơ phú thời Mạc (2016). Đinh Khắc Thuân (Chủ biên), Nxb KHXH.
T15. Tuyển tập thơ văn Lý – Trần (2010), Nguyễn Huệ Chi, Nxb Hà Nội.
T16. Tuyển tập văn bia phật giáo Thanh Hóa (2017), Nguyễn Kim Măng, Phùng Đức Sơn, Lê Văn Dân (Đồng chủ biên), tập 1, Thời Hậu Lê Nguyễn, Nxb Thanh Hóa.
T17. Tuyển tập văn bia Thanh Hóa, tập 1, (Văn bia thời Lý – Trần, 2012), Phan Bảo (Chủ biên); tập 2 (Văn bia thời Lê sơ, 2013), Lê Văn Toan – Nguyễn Văn Hải (tổ chức bản thảo); tập 3 (Văn bia thời Lê Trung hưng, Q.1, 2016), Đinh Khắc Thuân, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Kim Măng (Đồng chủ biên), Nxb Thanh Hóa.
T18. Tư liệu Hán Nôm về Bình Vương Dương Tam Kha ở đền Cổ Lễ (2018), lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
T19. Tư liệu Hán Nôm về Trạng nguyên Dương Phúc Tư (2005), Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tài liệu in vi tính, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
T20. Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội, Tuyển tập Địa chí (2010). Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Kim Sơn (Đồng chủ trì), Nxb Hà Nội, 3 tập.
T21. Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội, Tuyển tập văn khắc Hán Nôm (2010). Phạm Thúy Vinh (Chủ biên), Nxb Hà Nội.
T22. Tư Thế Dương tộc gia phả (2015), Dương Văn Đảm dịch, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
T23. Tư Thế phong thổ ký (2013). Dương Văn Đảm, Nxb Văn Học.
T24. Tư trị thông giám, Tập 1 (2017), Tập 2 và Tập 3 (2018). Tư Mã Quang (Bùi Thông dịch), Nxb Văn học, 294Q.
T25. Từ điển Địa chí Bạc Liêu (2010). Tập thể tác giả, Nxb CTQG.
T26. Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (2001). Vũ Tuấn Anh – Bích Thu (Chủ biên), Nxb Văn học.
T27. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (2006). Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế, Nxb VHTT.
T28. Từ Liêm huyện đăng khoa lục (2010). Bùi Xuân Nghi (Nguyễn Hữu Mùi, Nguyễn Thúy Nga dịch), Nxb Dân Trí.
T29. Truyền thống hiếu học và hệ thống văn miếu, văn từ, văn chỉ ở Vĩnh Phúc (2010). Nguyễn Hữu Mùi, Sở VHTTDL Vĩnh Phúc.
V
V1. Vài nét về họ Dương khu Nguyễn Xá (2016). Dương Minh Hải, viết tay, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
V2. Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam (2008). Trịnh Khắc Mạnh, Nxb Giáo dục.
V3. Văn bia Hà Tây (1993). Vũ Tá Nhí (Chủ biên), Sở VHTT Hà Nội.
V4. Văn bia làng Nành (2003). Đinh Khắc Thuân, Nxb KHXH.
V5. Văn bia Lê sơ tuyển tập (2014). Phạm Thị Thùy Vinh và nhóm phiên dịch, Nxb KHXH.
V6. Văn bia Tiên Lãng Hải Phòng (2009). Đỗ Thị Hảo (Chủ biên), Nxb KHXH.
V7. Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt hàng ngày (2003). Phạm Thị Thùy Vinh, Nxb VHTT.
V8. Văn bia thời Mạc (1996). Đinh Khắc Thuân, Nxb KHXH.
V9. Văn bia xứ Lạng (1993). Hoàng Giáp (Chủ biên), UBND thị xã Lạng Sơn.
V10. Văn khắc Hán Nôm Thăng Long – Hà Nội (2009). Đỗ Thị Hảo (Chủ biên), Nxb Văn Học.
V11. Văn khắc Hán Nôm thời Mạc (2017). Đinh Khắc Thuân, Nxb KHXH.
V12. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (1993). Nguyễn Quang Hồng (Chủ biên), Nxb KHXH.
V13. Văn nghệ dân gian Bắc Giang.
V14. Việt Nam cận đại, những sử liệu mới (1995). Nguyễn Phan Quang, Nxb TPHCM, tập I.
V15. Việt Nam văn học sử yếu (2019). Dương Quảng Hàm, Nxb Văn học.
V16. Việt Nam Dân quốc Công báo (1945-1950).
V17. Việt sử lược (2005). Trần Quốc Vượng dịch, Nxb Thuận Hóa.
V18. Việt sử thông giám cương mục khảo lược (2009). Nguyễn Thông (Đỗ Mộng Khương dịch), Nxb VHTT.
V19. Việt sử tiêu án (1960). Ngô Thời Sĩ (Hội NCVH Á Châu dịch), VH Á Châu xb.
V20. Vĩnh Mỗ Dương tộc gia phả (2000). Dương Vĩnh Thuận ghi, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.
V21. Vua Gia Long và người Pháp (2017). Thụy Khuê biên khảo, Nxb Hồng Đức.
V22. v.m.wikipedia.org.
Y
Y1. Ỷ La xã Dương thị gia phả.
Các tài liệu được đưa vào nguồn trên đây được coi là 150 tài liệu tham khảo mà tác giả đã dùng để biên soạn công trình này.
Trong quá trình biên soạn, mặc dù đã hết sức cố gắng bao quát nhưng chắc chắn còn bỏ sót không ít sự kiện quan trọng. Hy vọng được bạn đọc góp ý và bổ sung.
Hà Nội, tháng Tám mùa thu – 2019
KHỔNG ĐỨC THIÊM
NĂM 40 (KỶ HỢI – CANH TÝ)
Ngày 15 tháng 1 (11 tháng Chạp – Kỷ Hợi)
001. Dương Thi Sách bị Thái thú Giao Chỉ là Tô Định sát hại
Ông là con trai Lạc tướng Chu Diên Dương Thái Bình và bà Hồ Thị Nhữ. Vào tuổi trưởng thành, nghe nói con gái Lạc tướng Mê Linh là Ả Lã Nàng Đê nhan sắc kiều diễm mà chưa lấy chồng, bèn nói với cha. Dương Lạc tướng bèn cho người đến Phong Châu hỏi và đón về. Hôm đó là ngày mồng 10 tháng Một năm Kỷ Hợi (15-12-39), cả hai họ đều vui mừng, coi là mối duyên tiền định.
Bấy giờ người phương Bắc là Tô Định giữ chức Thái thú Giao Chỉ là kẻ tham bạo, hà khắc và rất háo sắc, nghe nói Ả Lã Nàng Đê sắc đẹp hơn người bèn đem binh lính đến nhà Trưng Công. Khi hay tin Ả Lã Nang Đê đã về nhà chồng bên đất Chu Diên, Tô Định thu binh mã tới nhà Dương Công. Trong trận chiến không cân sức, Dương Thi Sách bị sát hại trên đất Từ Khê vào ngày 11 tháng Chạp năm Kỷ Hợi (15-1-40).
Nguồn: N2; L7, tập I, tr.357.
Tháng 3 (tháng Hai – Canh Tý)
002. Ả Lã Nàng Đê Trưng Trắc cùng em gái Ả Lã Rồng Nhị Trưng Nhị khởi nghĩa, nhiều thủ lĩnh người họ Dương đứng dậy hưởng ứng
Sử cũ ều chép rằng, vào năm Kiến Vũ thứ 16 nhà Đông Hán, người huyện Mê Linh là Trưng Trắc, con gái Lạc tướng, lấy chồng người huyện Chu Diên là Thi Sách, tính rất hùng dũng, hành động không theo pháp luật. Thái thú Tô Định lấy pháp luật trói buộc, Trắc giận bèn cùng em gái là Nhị đem binh Phong Châu đánh hãm các quận huyện. Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. [Trắc] lược định được 65 thành ở ngoài phía Nam nhà Hán, tự xưng Vương đóng đô ở Mê Linh.
Tư Mã Quang (1019 – 1086), người tổ chức biên soạn bộ biên niên lịch sử đồ sộ mang tên Tư trị thông giám, bao gồm một khoảng thời gian rất dài từ Chu Uy Liệt thời nhà Chu (402 tr. CN) và kết thúc vào đời Chu Hiến Đức nhà Hậu Chu (959), cộng 1362 năm qua 16 triều đại chính thống với 16 kỷ, 294 quyển không kể 30 quyển mục lục, 30 quyển khảo dị. Tại Q.35 của bộ sách này, ông ghi nhận:
“Con gái Lạc tướng huyện Mê Linh quận Giao Chỉ là Trưng Trắc rất hùng dũng, Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng pháp luật trói buộc, Trưng Trắc oán hận.
Năm Kiến Vũ thứ 16, mùa xuân, tháng Hai, Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị làm phản, người Man quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng họ, đánh chiếm được cả thảy 65 thành, tự lập làm Vương, đóng đô ở Mê Linh. Thứ sử Giao Chỉ và các quan Thái thú chỉ có thể tự giữ”.
Ngay khi cuộc khởi nghĩa được phát động, nhiều Cừ súy, Thủ lĩnh họ Dương như Dương Bốc vùng Cẩm Khê – Phong Châu, Dương Công vùng Thiện Tài – Vũ Ninh, Dương Giã Tiên vùng Yên Thế – Vũ Ninh, Dương Nước và Dương Đình vùng Uy Viễn – Kim Động, Dương Ngọc vùng Kim Thành – Dương Tuyền… đã tham gia hưởng ứng.
Nguồn: T23, tập 3, tr.353; D2; Q. thượng, 440, 638, 803.
NĂM 43 (QUÝ MÃO)
Tháng 11 (tháng Mười – Quý Mão)
003. Đô Dương hy sinh tại mặt trận Cửu Chân
Đô Dương, có thể hiểu là đô vật họ Dương, sinh trưởng ở vùng Cửu Chân, cùng Chu Bá nổi lên từ ngày đầu cuộc khởi nghĩa Mê Linh được phát động. Khi Mã Viện đem quân trở lại xâm lược, Đô Lương và Chu Bá đã đem lực lượng quay về vùng Cửu Chân.
Đầu tháng 11-43, Mã Viện chia lực lượng làm hai đạo thủy bộ tiến xuống phía nam, dọc theo sông Đáy ra cửa biển Thần Phù. Để tạo yếu tố bất ngờ, Mã Viện sai đào sông chạy thông qua dải núi đá để hai đạo thủy bộ dễ dàng hợp đồng trong tác chiến. Theo Tư Mã Quang, lực lượng của Đô Dương là dư đảng lớn mạnh nhất của Trưng Vương, do đó toàn bộ lực lượng của đội quân xâm lược đều được điều động vào huyện Cư Phong. Tại mặt trận này, Đô Dương đã ngã xuống. Có tới hàng ngàn nghĩa quân bị sát hại, hơn 300 cừ súy bị bắt và đem đày ở Linh Lăng (Hồ Nam – Trung Quốc).
Nguồn: T23, tập 3, tr.357, L7, tập I, tr.374.
NĂM 819 (KỶ HỢI)
Ngày 7 tháng 10 (19 tháng Tám – Kỷ Hợi)
004. Dương Thanh nổi dậy, thu phục La Thành, tiêu diệt Lý Tượng Cổ
Liên tục phải đối phó với các cuộc nổi dậy của người Việt, năm 767 Kinh lược Chiêu thảo sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi cho đắp La Thành dùng làm thủ phủ cho An Nam Đô hộ phủ. Vào năm 808, viên Đô hộ Trương Chu mở rộng và củng cố thêm để tòa thành này cùng lúc có thể chứa được 40 nhà kho cất giữ khí giới, tập kết được 400 chiến thuyền.
Đây là thời điểm họ Dương thuộc quận Giao Chỉ từ địa vị Châu mục, Tù trưởng nối đời thay nhau giữ chức Thứ sử Hoan Châu, tạo thành một thế lực lớn đối với ách thống trị của ngoại bang. Đầu năm 818, một tôn thất của nhà Đường là Lý Tượng Cổ đang từ Thứ sử Hàng Châu được đưa sang làm Đô hộ An Nam. Cảm nhận được sự nguy hại của Dương Thanh – khi đó đang là Thứ sử Hoan Châu, Lý Tượng Cổ lập tức triệu hồi giao làm Nha tướng, quản 3000 lính cho đi đánh dẹp người Choang ở Hoàng Gia Động.
Trước tình thế đó, Dương Thanh đã cùng các con trai là Dương Chí Liệt, Dương Chí Trinh và chiến hữu Đỗ Sĩ Giao quay lại La Thành. Sau mấy ngày bao vây, đêm mồng 10 tháng Tám năm Kỷ Hợi (7-10-819), Dương Thanh chiếm được Đô hộ phủ. An Nam Đô hộ Lý Tượng Cổ, vợ là Vi Thị Kip cùng các con, gia thuộc, bộ khúc đều bị tiêu diệt.
Về sự kiện này, sử cũ chép: “Kỷ Hợi – Đường Nguyên Hòa năm thứ 14 (819), mùa đông, tháng 10, Đô hộ là Lý Tượng Cổ vì tham bạo mà mất lòng dân chúng. Tướng của Tượng Cổ là Dương Thanh đời đời làm Tủ trưởng Man. Khoảng năm Khai Nguyên, nhà Đường, làm Thứ sử Hoan Châu. Tượng Cổ vẫn e dè, gọi cho làm Nha tướng, đến đây sai đi đánh người Man ở Hoàng Động. Thanh nhân thấy lòng người oán hận Tượng Cổ, ban đêm quay về đánh úp lấy châu, giết Tượng Cổ (Thanh là người Giao Châu, Tượng Cổ là người tôn thất nhà Đường)”.
Trong tác phẩm biên niên sử của mình, Tư Mã Quang cũng viết: “Tượng Cổ là anh của Đạo Cổ, do tham lam hà khắc nên để mất lòng người. Thanh nhiều đời làm Tù trưởng người Man, Tượng Cổ gọi về cho làm Nha tướng. Thanh u uất, bất đắc chí. Tượng Cổ sai Thanh dẫn 3000 quân đánh Hoàng Động Man. Thanh nhân lòng phẫn uất, dẫn quân ban đêm tập kích phủ thành, hạ thành”.
Nguồn: T2, số 12.2012, tr.21-36; Đ4, tr.107-108 ; T23, Q.241.
Ngày 7 tháng 12 (21 tháng Mười – Kỷ Hợi)
005. Quế Trọng Võ nhậm chức An Nam Đô hộ, tìm cách chiêu dụ Dương Thanh
Mãi tới giữa tháng Mười – Kỷ Hợi nhà Đường mới nhận được bản tấu của Kinh lược sứ Quảng Tây tâu bày về việc Dương Thanh nổi dậy nên ngày 21 tháng Mười năm ấy mới lệnh cho Thứ sử Đường Châu là Quế Trọng Võ đeo ấn An Nam Đô hộ sang chiêu dụ Dương Thanh. Trên đường, viên Đô hộ này bị ngăn lại ở biên giới vì Dương Thanh cự tuyệt chiếu dụ của vua Đường xá tội và phong làm Thứ sử Quỳnh Châu.
Sau khi hiểu được nội tình của Dương Thanh, Quế Trọng Võ tìm mọi cách phá vỡ hàng ngũ đối phương, mang tiền của và chức vụ mua chuộc lôi kéo các Cừ súy, Tù hào. Ngày 22 tháng Hai – Canh Tý (4-4-820) Quế quản Quan sát sứ Bùi Hành Lập được cử thay Quế Trọng Võ. Viên Đô hộ họ Bùi này từng đảm nhiệm chức vụ trên từ tháng 9-813 đến cuối năm 817, có nhiều mối quan hệ với các Cừ súy, Tù hào họ Đỗ – như Đỗ Anh Sách, họ Phạm – như Phạm Đình Chi, những thế lực lớn ở Giao Châu. Tuy Bùi Hành Lập đã chết trên đường nhưng những chính sách mà Quế Trọng Võ đã thi hành trước đây đến thời đđiểm này bắt đầu phát huy hiệu quả khi hàng loạt Cừ súy, Tù hào và 7000 thổ quân rời bỏ hàng ngũ Dương Thanh.
Nguồn: T2, số 12.2012, tr.21-36; Đ4, tr.107-108.
NĂM 920 (CANH TÝ)
Ngày 10 tháng 5 (29 tháng Ba – Canh Tý)
006. Dương Thanh lui về Tạc Khê – Trường Châu (nay thuộc Ninh Bình)
Do lực lượng ngày càng bị hao hụt, sự bất mãn do chính sách hà khắc mà Dương Thanh đem ra thi hành nên ngày 29 tháng Ba năm Canh Tý (10-5-820) một số Cừ súy, Tù hào ngầm mở cửa La Thành đón quân của Quế Trọng Võ. Trước tình thế ấy, Dương Thanh mang lực lượng còn lại chạy về Tạc Khê ở Trường Châu, vùng quê của Tù hào Đỗ Sĩ Giao.
Từ Tạc Khê, Dương Thanh vẫn phối hợp với Hoàng Động đánh phá La Thành vào tháng Một năm Quý Mão (12-823), cùng người Hoàng Động và binh lực của Hoàn Vương ở Chiêm Thành đánh phá Lục Châu, giết chết Thứ sử Cát Duy vào năm Bính Ngọ (826).
Nguồn: Đ5, tr.162.
NĂM 828 (MẬU THÂN)
Trong năm
007. Dương Thanh đánh đuổi Hàn Ước chạy về Quảng Châu
Do cái chết đột ngột của Bùi Hành Lập nên Quế Trọng Võ được giữ lại, không phải đi An Châu nhậm chức Thứ sử, mặc dù vua Đường “chiếu cho Quế Trọng [Vũ] đánh Dương Thanh mà không thắng. Thanh vào trong người Man Lạo làm loạn, cướp phá thành phủ. Đô hộ Lý Nguyên Gia đánh không được, dụ không đến, do đó Hoàng Động Man dẫn Hoàng Vương vào cướp […] Mậu Thân, Đường Văn Tông năm Thái [Đại] Hòa thứ 2, Đô hộ Hàn Ước đánh người Phong Châu là Vương Thăng Triều, thắng được. Sau bị Dương Thanh đuổi về Quảng Châu”.
Kể từ đây về nhà Đường mất kiểm soát ở An Nam. Mãi tới năm 936, đời Đường Văn Tông mới đưa được Mã Thực sang làm Đô hộ theo đúng phương thức dùng văn nhã để tô điểm, chính sự trong sạch, lặng lẽ, không phiền nhiễu.
Sử liệu trên được trích từ sử cũ được viết vào đời Lê, khá phù hợp với An Nam chí lược của Lê Tắc – người thời Trần và An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng – người thời Minh khi viết về Quế Trọng Vũ, Bùi Hành Lập, duy khi viết về Lý Nguyên Gia (Lê Tắc ghi là Lý Nguyên Thiện, Việt sử lược và Cựu đường thư ghi là Lý Nguyên Hỷ), Hàn Ước các sách trên chỉ ghi là bị loạn quân đuổi.
Để có cái nhìn đầy đủ về khởi nghĩa Dương Thanh, xin dẫn đầy đủ cứ liệu do Đại Việt sử ký tiền biên được hoàn thành việc khắc in vào năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800).
“Kỷ Hợi [819] (Đường Nguyên Hòa năm thứ 14), mùa đông, tháng Mười. Thứ sử Hoan Châu là Dương Thanh đánh úp phủ thành. Đô hộ là Lý Tượng Cổ bị giết. Tượng Cổ từ Thứ sử Hành Châu được nhắc lên làm An Nam đô hộ. Tượng Cổ người tham lam, bừa bãi không tuân theo pháp luật. Dương Thanh đời đời làm Tù trưởng xứ Man, Tượng ghen ghét với sự giàu có của Thanh bèn gọi Thanh đến cho làm Nha môn tướng. Thanh ấm ức muốn làm loạn. Gặp lúc sai đi đánh bọn Man Hoàng Động, Tượng Cổ trao cho 3000 quân giúp Thanh đi đánh. Thanh và con là Chí Liệt quay về đánh úp và chiếm được phủ thành, giết Tượng Cổ và cả gia đình. Vua Đường lấy Thứ sử Đường Châu là Quế Trọng Vũ thay làm Đô hộ đi đánh Thanh. Trọng Vũ chần chừ không dám tiến. Thanh vào trong xứ Man làm loạn, rồi dẫn người Man Hoàng Động kết hợp với người của Hoàn Vương vào cướp phá (Tượng Cổ là cháu Tào Phục Minh, con Lý Cao thời Đường). Xét thấy người Man Hoàng Động ở phía Nam Quang Châu, Dung Châu, phía Tây Ung Châu, Quế Châu, họ là Hoàng, ở động Hoàng Đăng bị lệ thuộc vào họ Nịnh. Đất đai phía Tây giáp Nam Chiếu, đầu năm Thiên Bảo [742 – 756], họ Hoàng mạnh lên liên kết với các tộc Man nổi loạn, đánh 18 châu của Quế Quản, đến đâu cũng đốt phá cướp bóc. Trải qua các năm Trinh Nguyên [795 – 805], Nguyên Hòa [806 – 821], lúc nổi loạn lúc hàng phục rất thất thường. Biên giới phía Nam khổ về chuyện đó. Đến khi quân An Nam nổi loạn giết đô hộ là Lý Tượng Cổ, nhà Đường sai Trọng Vũ đánh Dương Thanh, không thắng nổi, lại lấy quan sát sứ của Quế Quảng là Bùi Hành Lập sang thay. Ít lâu sau bị gọi về rồi chết. Đầu năm Trường Khánh [821 – 825], lấy Nghiêm Công Tố làm kinh lược sứ, Thôi Kết làm phó sứ. Giặc Hoàng lại nổi lên. Năm Trường Khánh Bảo Lịch [825 – 827], nhiều lần vào cướp phá lại thành mối lo cho An Nam.
Sử thần Ngô Thì Sĩ bàn: Xét Tông tử liệt truyện trong Đường thư: Dương Thanh chiếm An Nam, giết chết Lý Tượng Cổ, vua Đường tha tội cho Thanh, đổi đi làm Thứ sử Quỳnh Châu, lấy Trọng Vũ làm Đô hộ. Thanh chống lại mệnh lệnh, Quế Trọng Vũ chia nhau dụ dỗ bọn Tù trưởng đầu sỏ, quân lính đều theo, phá thành chém Thanh, tru diệt cả họ. Lại theo bản của Triệu Kinh Bang: Tháng 6 năm ấy, tướng sĩ An Nam mở cửa thành, cho Quế Trọng Vũ vào, bắt Thanh chém chết. [Vua Đường] vẫn dùng Trọng Vũ làm đô hộ. Như vậy thì rất khác với sử [của ta chép].
Mậu Thân [828] (Đường Văn Tông, Thái Hòa năm thứ 2), mùa hạ, tháng Sáu, Thứ sử Phong Châu là Vương Thăng Chiêu làm phản, bị Đô hộ Hàn Ước giết. Tháng Chín, quân ở phủ nổi loạn, Ước bị Dương Thanh đánh đuổi, chạy về Quảng Châu. (Xét thấy đoạn này vẫn dựa theo sử cũ và có tham khảo sử nhà Đường. Duy chỉ có một việc Dương Thanh, theo Tôn thất truyện trong Đường thư thì đã bị Trọng Vũ giết, theo Đường thế ký thì năm ấy Thanh còn đuổi Hàn Ước. Vậy thì Dương Thanh sống hay chết, mất hay còn, không khảo cứu vào đâu được. Hãy để tồn nghi).
Sử cũ chép rằng: Dương – Thanh, khoảng năm Khai Nguyên [713 – 742] nhà Đường, làm Thứ sử Châu Hoan. Thế thì từ năm Khai Nguyên [713 – 742] đến năm Nguyên Hòa [806 – 821] qua 5 triều vua gần 100 năm mà Dương Thanh vẫn làm Thứ sử, cho đến đầu niên hiệu Thái Hòa [827 – 836] đời Văn Tông vẫn hãy còn? Trong đó có nhiều chỗ lầm lẫn, có lẽ tổ tiên của Thanh, năm Khai Nguyên làm Thứ sử Hoan Châu thì phải hơn. Điều nữa là người thay Trọng Vũ là Hành Lập, người thay Hành Lập là Nguyên Tố [thế mà trong sử cũ] tự dưng nảy ra một ông đô hộ Nguyên Gia cùng thời với Trọng Vũ. Đây có lẽ là khảo cứu không được kỹ. Cho nên nhất thiết phải cải chính.
Nguồn: Đ4, tr.107-108; A1, tr.187; A2. Tr.265; Đ5, tr.161-163.
NĂM 863 (QUÝ MÙI)
Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Mùi)
008. Thủ lĩnh vùng cao Dương Tự Tấn phối hợp hoạt động với quân Nam Chiếu
Năm 843, binh lính người Việt ở La Thành đã tiến hành một cuộc quân loạn mở đầu bằng việc đốt phá thành lầu, cướp đoạt vũ khí, đánh đuổi viên Đô hộ Vũ Hồn phải bỏ chạy khỏi An Nam về nương nhờ ở Quảng Châu. Trước tình hình nhà Đường ngày càng lâm vào tình thế suy vi, ngoài việc đem quân chiếm châu ki mi Kim Long vào năm 832, Nam Chiếu còn liên tục đưa lực lượng tràn xuống cướp phá La Thành trong suốt 2 năm 862-863. Nhận thấy cơ hội thuận tiện, tháng Giêng năm Quý Mùi (2-863), Dương Tư Tấn đã đem binh dõng cùng đánh phá.
Dương Tự Tấn (hoặc Tiến) được Việt sử lược mô tả là một tướng của người Man đem lực lượng của mình cùng Nam Chiếu tiến đánh phủ thành, lập công lớn trong việc tiêu diệt Ngu hầu Nam Kinh Nguyên Duy Đức cùng 15 vạn quan quân ở phủ đô hộ. Theo An Nam chỉ lược của Lê Tắc, trong trận này chỉ có Mạc phủ là Phàn Xước mang ấn của viên Đô hộ Sái (Thái) Tập qua sông thoát. Như vậy là đã rõ, đây là lần thứ nhất người họ Dương kết hợp với Nam Chiếu chấm dứt chế độ Tiết độ sứ gián tiếp, tự mình cai quản được 3 năm. Mãi tới tháng Tám năm Hàm Thông 6 (8-865), Kiêu vệ Tướng quân Cao Biền mới đánh thắng quân Nam Chiếu ở Gia Bình (Bắc Ninh), sau đó vào tháng 4-866 chiếm lại được La Thành. Tháng 11-866, An Nam Đô hộ phủ đổi thành Tĩnh hải quân Tiết trấn. Bắt đầu từ đây Cao Biền trở thành viên Tiết độ sứ trực tiếp và thực quyền đầu tiên ở xứ Đô hộ An Nam. Ngay lập tức, Cao Biền cho đổi gọi La Thành bằng tên Tống Bình, gia cố về quy mô và tính năng phòng thủ, lập sổ hộ tịch và hộ khẩu, đưa lưu dân và binh sĩ nhà Đường vào khai khẩn, củng cố đường xá, tiến đánh và bắt tới 17 ngàn người ở vùng đất do Dương Tự Tấn trước đây cai quản, định cương giới với Nam Chiếu, đồn trú biên ải, tung tin trấn yểm long mạch ở khắp nơi, nhất là vùng đất vây quanh Tống Bình.
Đề phòng đủ mặt như vậy nhưng Tống Bình vẫn phải chống đỡ với các cuộc quân loạn vào tháng 3-880 và quân Nam Chiếu đánh phá, đến mức phải dàn hòa, hứa gả công chúa để Nam Chiếu rút quân về.
Nguồn: V17, tr.35; A1, tr.189.
NĂM 925 (ẤT SỬU)
Tháng 4 (tháng Ba – Ất Sửu)
009. Dương Đình Nghệ tham gia chiếm thành Đại La, xây dựng chính quyền tự chủ do họ Khúc đứng đầu
Vào những năm đầu của thế kỷ X, chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Giao Châu lâm vào bê bối, khủng hoảng, mất khả năng quản lý do ảnh hưởng nghiêm trọng của thời kỳ Năm đời Mười nước (Ngũ đại thập quốc) đang diễn ra tại Trung Quốc. Viên Tiết độ sứ cuối cùng là Độc Cô Tổn được cử sang Giao Châu vào năm 905, thời gian trị nhậm của hắn không được bao lâu thì đã phải biếm chức, đi đầy ở Hải Nam. Trước bối cảnh nhà Đường đang đi vào con đường diệt vong, chính quyền đô hộ tại Giao Châu bất lực, Khúc Thừa Dụ đã nhân cơ hội phát động nhân dân trong vùng nổi dậy chiếm thủ phủ Đại La, lật đổ chính quyền đô hộ của ngoại bang, nắm giữ chức Tiết độ sứ, mở đầu cho giai đoạn người Việt giành lại quyền tự chủ cho dân tộc.
Khi ấy, Dương Đình Nghệ xuất thân trong một dòng họ thuộc làng Giàng, Châu Ái, là một Nha tướng tài ba và tin cậy của Khúc Thừa Dụ cũng có mặt trong cuộc công chiếm Đại La. Sau chiến thắng ông được họ Khúc cắt cử quản lý vùng đất cũ – nơi phên dậu ở phương Nam.
Tương truyền ông tổ dòng họ Dương Đình Nghệ là Đô Dương (ông đô vật họ Dương) – vị lão tướng anh hùng của quân đội Trưng Vương trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mã Viện. Trải nhiều đời sinh cơ lập nghiệp trên miền đất trù phú, trung tâm kinh tế, chính trị và quân sự của cả vùng châu Ái, đầu mối của nhiều đường giao thông thủy bộ thuận tiện, họ Dương ngày càng phát triển và có thế lực.
Nguồn: L7, tập I, tr.460-461.
NĂM 923 (QUÝ MÙI)
Tháng 7 (tháng Sáu – Quý Mùi)
010. Nhà Nam Hán cướp quyền của Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ bí mật xây dựng lực lượng
Lấy cớ Khúc Thừa Mỹ thần phục nhà Hậu Lương và có ý chống mình, vua Nam Hán đã sai Lương Khắc Trinh và Lý Thủ Dung đem quân sang đánh Giao Châu. Khúc Thừa Mỹ bị Lương Khắc Trinh bắt được đem về Quảng Châu. Đất nước lại bị rơi vào tay nhà Nam Hán.
Lê Tung trong Việt giám Thông khảo Tổng luận đã nhận xét rất đúng về sự nghiệp đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc đầu thế kỷ X: “Khúc Tiên chúa [Thừa Dụ] mấy đời là hào tộc, mạnh sáng trí lược, nhân nhà Đường mất, lòng người yêu mến, suy tôn làm chúa, dựng đô La Thành, dân yên nước trị, công đức truyền mãi, nhưng hưởng tuổi không dài. Khúc Trung chúa [Hạo] nối cơ nghiệp nước, khoan hòa có phong thái của ông nội, trù hoạch quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, là bậc chúa hiền của nước Việt, định ra hộ tịch và chức quản giáp, chế độ mới lập ít nhiều, nửa chừng thì mất. Đến đời Hậu chúa [Thừa Mỹ] nhàm can qua, nặng phú dịch, trăm họ oán trách rồi bị Nam Hán đánh diệt”.
Sau khi đánh bại Khúc Thừa Mỹ, Lương Khắc Trinh trở về Trung Quốc và giao quyền cho Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu. Sách Tư trị thông giám ghi rằng, mặc dù biết Dương Đình Nghệ đang chuẩn bị lực lượng lấy lại Giao Châu mà Lý Tiến cũng không dám tâu đầy đủ sự thật lên vua Nam Hán. Chính quyền đô hộ của Nam Hán do Thứ sử Lý Tiến đứng đầu đóng ở thành Đại La, trong thực tế chỉ kiểm soát được một phạm vi rất hạn chế ở Giao Châu.
Các bộ sử cũ chép rằng Dương Đình Nghệ – người đứng đầu dòng họ Dương nuôi 3000 con nuôi (hay 3000 tráng sĩ) để mưu khôi phục. Tất cả những người “con nuôi” này đều mang họ Dương. Đây thực chất là những gia nô, những thuộc hạ thân tín và khi có chiến tranh họ trở thành quân đội riêng của dòng họ Dương. Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ chép rõ ràng hơn: Dương Đình Nghệ “…trước làm tướng cho họ Khúc, đến khi Lý Khắc Chính bắt được Thừa Mỹ, lập cách báo thù cho Khúc bèn đặt ra trường đánh vật chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ, đồng mưu với nhau đánh đuổi tướng Hán là Lý Khắc Chính”. Ở Dương Xá nay vẫn còn cồn đất mang tên Đồng Khổ tương truyền là nơi Dương Đình Nghệ chỉ huy các võ sĩ luyện tập võ nghệ; ngôi đền thờ Dương Đình Nghệ làm trên nền nhà cũ của ông, ngay cạnh đó là các kho lúa, kho tiền, kho bạc mà Dương Đình Nghệ đã dùng vào việc nuôi sĩ tử.
Nguồn: Đ4, tr.34, 117; Đ5, tr.37, 178; T23, Q277; V19, tr.78-79; L, tập 1, tr.460-461.
NĂM 932 (TÂN MÃO – NHÂM THÌN)
Tháng 1 (tháng Chạp – Tân Mão)
011. Dương Đình Nghệ thu phục đất nước, thiết lập chính quyền tự chủ
Lúc này, Dương Đình Nghệ đem quân từ vùng Ái Châu (Thanh Hóa) tiến ra Giao Châu đánh vào trung tâm của chính quyền đô hộ ở thành Đại La. Thứ sử Lý Tiến chống cự không nổi phải co lại cố thủ trong thành và cầu cứu quân tiếp viện từ Quảng Châu sang. Vua Nam Hán sai Thừa chỉ Trần Bảo đem quân sang cứu nguy cho Lý Tiến nhưng quân chưa đến nơi thì thành Đại La đã bị hạ. Lý Tiến trốn chạy về Trung Quốc. Trần Bảo tập trung lực lượng vây đánh nhưng Dương Đình Nghệ đã kịp củng cố thành trì, huy động lực lượng và nhanh chóng đánh tan đoàn quân tiếp viện, giết chết Thừa chỉ Trần Bảo. Đất nước lại được hướng nền độc lập hoàn toàn.
Sử Trung Quốc mặc dù cố tìm cách che giấu sự thật vẫn không thể không thừa nhận thực tế cay đắng này: “Năm Đại Hữu thứ tư (931) Dương Đình Nghệ ở Ái Châu làm phản đem quân đánh Giao Châu. Thứ sử là Lý Tiến trốn về nước. Nghiễm sai Thừa chỉ Trình (Trần) Bảo đánh Đình Nghệ, Trình (Trần) Bảo tử trận”.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc đã vượt qua một thử thách hiểm nghèo. Tham vọng bành trướng của nhà Nam Hán đã bị đánh một đòn phủ đầu quyết liệt, nhưng dã tâm xâm lược của chúng không phải vì thế mà con cháu thất lạc. Chúng vẫn tỏ ra tức tối điên cuồng và tìm cơ hội trả thù.
Dẹp xong quân giặc, Dương Đình Nghệ lại tự xưng là Tiết độ sứ để giữ quan hệ hòa hiếu với phong kiến phương Bắc. Ông đóng đô ở thành Đại La, cắt đặt các tướng lĩnh thân tín nắm giữ các vùng trọng yếu (Ngô Quyền làm Thứ sử Ái Châu, Đinh Công Trứ giữ chức Thứ sử Hoan Châu, Kiều Công Tiễn cũng được về Phong Châu cũng với chức Thứ sử), chăm lo củng cố chính quyền vừa mới giành được, phát triển lực lượng dân tộc, tiếp tục công cuộc tự chủ của họ Khúc. Đất nước được hoàn toàn giải phóng đang có điều kiện vươn lên mạnh mẽ.
Nguồn: L7, tập I, tr.462.
NĂM 937 (ĐINH DẬU)
Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Dậu)
012. Dương Đình Nghệ (Dương Chính Công) bị Thứ sử Phong Châu Kiều Công Tiễn sát hại
Tiễn vốn là một trong số 3000 con nuôi, theo Dương Đình Nghệ từ hồi còn trong đất Ái Châu, lập được công khi tiến ra Giao Châu, đánh đuổi Nam Hán. Sau khi được cử làm Thứ sử Phong Châu, viên Thứ sử này muốn dựa vào triều đình phương Bắc để chiếm lấy địa vị cao nhất, mặc cho con trai là Kiều Công Chuẩn và cháu nội là Kiều Công Hãn không đồng tình.
Hay tin Dương Chính Công bị sát hại, con rể của ông là Ngô Quyền đã cùng em vợ là Dương Tam Kha và các tù hào như Đỗ Cảnh Thạc, Phạm Bạch Hổ, Lã Minh đã tụ về Ái Châu đồng tâm, hiệp lực chuẩn bị trừng trị kẻ phản bội. Bình luận về sự kiện này, nhà sử học Lê Tung viết:
“Dương Chính Công nghĩ về đất đai nước Việt từ lâu bị quân Nam Hán thôn tính, bèn thu dùng bậc hào kiệt, mộ quân khởi nghĩa lớn, hai lần đánh bại tướng giặc thu lại cả cơ đồ. Nhưng không phòng tai họa rồi bị con nuôi giết chết”.
Nguồn: V17, tr.38; đ4, tr.34, 118; Đ5, tr.34, 180.
NĂM 939 (MẬU TUẤT – KỶ HỢI)
Tháng 1 (tháng Chạp – Mậu Tuất)
013. Nha tướng – con rể của Dương Đình Nghệ trả thù cho nhạc phụ, diệt quân Nam Hán
Ngô Quyền sinh trưởng trong một gia đình nối đời cự tộc ở Đường Lâm – Phong Châu, phụ thân là Ngô Mân (Tiên Phủ) một Tù hào có tiếng trong vùng. Năm 923, Ngô Quyền trở thành Nha tướng của Dương Đình Nghệ. Sau một thời gian, ông được chủ tướng gả con gái và giao việc huấn luyện cho 3000 con nuôi. Năm 931, sau khi cùng nhạc phụ chiếm thành Đại La, đuổi quân Nam Hán, ông trở lại Ái Châu.
Cho tới tháng 11-938 (tháng Mười – Mậu Tuất), Kiều Công Tiễn chỉ còn kiểm soát được quanh vùng Đại La. Nhận thức được tình cảnh thế cô, lực yếu của mình sẽ không chống đỡ nổi thế mạnh Ái Châu, Kiều Công Tiễn đã cho người mang của cải sang cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán nhận lời.
Được tin quân Nam Hán chuẩn bị kéo quân sang xâm lược, Ngô Quyền thấy công việc trước hết cần phải làm là nhanh chóng diệt trừ bọn phản bội ở trong nước, chặt đứt mọi thế lực nội ứng của kẻ thù. Ông nắm vững và phán đoán đúng tình hình quân xâm lược và đặt ra kế hoạch kháng chiến. Ông nói: “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu, bịt sắt đóng ngầm trước ở cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát”.
Kế hoạch của Ngô Quyền là tập trung lực lượng tiêu diệt thật nhanh gọn, triệt để đội quân xâm lược Nam Hán ở ngay địa đầu Tổ quốc bằng một trận quyết chiến chiến lược giành toàn thắng. Ông chọn vùng hạ lưu và cửa biển Bạch Đằng làm vùng trận địa quyết chiến. Tất cả các nguồn thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc đều chép thống nhất với sách Đại Việt sử ký toàn thư là Ngô Quyền “định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển”.
Sau khi tiêu diệt bọn phản động Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền cùng Dương Tam Kha và Bộ tham mưu kéo quân về cửa biển Bạch Đằng chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. Cuối tháng Chạp năm Mậu Tuất (1-1939), binh thuyền Hoằng Tháo rời Quảng Đông, Lưu Cung đem quân tiếp viện áp sát biên giới nước ta và đóng tại trấn Hải Môn. Khi những chiếc thuyền đi đầu của quân Nam Hán vừa tiến đến vùng cửa biển Bạch Đằng thì đội quân khiêu chiến với những chiếc thuyền nhẹ bỗng xuất hiện, chiến đấu quyết liệt vừa cố kìm chân chúng chờ cho nước triều lên thật cao, vừa giữ bí mật trận địa mai phục. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Khi nước triều lên, Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. [Quân Hoằng Tháo] không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi”.
Quân Nam Hán ở trước mặt, sau lưng, dưới nước, trên bờ đều bị đánh quyết liệt. Số lớn thuyền chiến bị cọc sắt đâm thủng, bị va vào nhau mà chìm đắm rất nhiều. Chủ tướng Hoằng Tháo bị bắt sống và giết tại trận.
Nguồn: Đ4, tr.118-119; Đ5, 180-181.
Tháng 1 (tháng Chạp – Mậu Tuất)
014. Dương Tam Kha lập công lớn trên sông Bạch Đằng
Thần tích đền Cổ Lễ (Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích) do Tiến sĩ Vũ Huy Trác soạn ngày 10 tháng Giêng năm Bính Thân, niên biểu Cảnh Hưng thứ 37 (28-2-1776) ghi:
“Ông Tùng Khê quê ở Dương Xá, Ái Châu, tên húy là Tam Kha con thứ ba của ông Dương Đình Nghệ. Từ thuở nhỏ tư trời thông tuệ, văn võ đều thông, từng theo cha đánh dẹp có công được nhiều người tin phục. Ông có ba vợ, sinh được mười con trai, chín con gái nhưng các con đều chăm chỉ việc nông cốt lấy ấm no làm đích, mà không nghĩ đến việc tang bồng vùng vẫy. Năm Đinh Dậu (937) người Phong Châu là Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ. Năm sau (938) người ở Đường Lâm con rể của Dương Công là Ngô Quyền từ Ái Châu dẫn quân ra cùng Tam Kha giết Công Tiễn để báo thù. Vua Nam Hán liền phong cho con mình là Hoằng Thao làm Giao Vương dẫn quân tiến vào theo cửa Bạch Đằng. Ông Tam Kha sai Dương Thục Phi, Dương Cát Lợi chặt 3000 cây gỗ đóng xuống lòng sông trên một quãng dài ba dặm. Đợi lúc nước lên đem quân khiêu chiến giặc vượt qua bãi cọc, khi nước xuống Ngô Quyền đem chư tướng từ cửa sông hết sức đánh tập hậu. Ông Tam Kha cho quân bản bộ dùng tên dài ở hai bờ bắn xả vào quân giặc, chém được Hoằng Thao làm cho quân Hán đại bại”.
Ngoài thần tích, đôi câu đối ở đền Cổ Lễ cũng ghi nhận:
“Khuông phù Ngô chủ, lập Nam bang thiên thu hách trạc
Trảm diệt Hoằng Tháo, bình Bắc khấu lịch đại bao phong”
(Dốc phù Ngô chúa, dựng nước Nam nghìn thu hiển hách
Chém chết Hoằng Tháo, trừ giặc Bắc nối đời bao phong).
Nhà sử học Lê Tung trong bài thơ Quá Bình Vương cựu trạch từ (Qua ngôi đền trên nền cũ nhà Bình Vương) có hai câu mở đầu chỉ rất rõ công lao to lớn của Dương Tam Kha ở Bạch Đằng như sau:
“Thực thung giang khẩu thiết kỳ mưu
Trảm Hán Hoằng Tháo tuyết phụ cừu”
(Cửa sông đóng cọc bày mưu lạ
Chém Hán Hoằng Tháo rửa hận cha)
Hình bộ Hữu thị lang Bùi Tân, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) trong bài thơ Vãn Dương công Bạch Đằng giang trận (Thăm lại chiến trận Bạch Đằng của Dương Công) mô tả kỹ càng hơn:
“Bạch Đằng cổn cổn thủy lưu Đông
Như kiến giang trung mãn huyết hồng
Bất hứa năng hồi thị Ngô chủ
Chiết yêu phóng tiễn hữu Dương công
Hán quân thử nhật giai ngư nhĩ
Việt cảnh tòng tư thủy trực cung
Tảo thức phù danh nan cửu thủ
Đắc thời nhân thí tự thăng long”
(Bạch Đằng cuồn cuộn đổ về Đông
Như thấy lòng sông sắc máu hồng
Chặn cánh quay về, quân Ngô chủ
Bắn tên khúc giữa lính Dương công
Hán binh thuở ấy mồi nuôi cá
Việt cảnh từ đây đứng thẳng lưng
Sớm biết phù danh thì khó giữ
Gặp thời mọi sự ví rồng thăng).
Nguồn: T18, tr.52, 56-57; C5
NĂM 944 (GIÁP THÂN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Thân)
015. Dương Tam Kha giành lại ngôi vị, được dân chúng đồng thuận
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền quyết định rời Đại La, đưa đại quân về cố đô Cổ Loa, “bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm Hoàng hậu, định trăm quan, đặt ra triều nghi phẩm phục”. Thời điểm đó rơi vào khoảng mùa xuân năm Kỷ Hợi (từ tháng 2 đến tháng 4-939).
Trải 6 năm cầm giữ vương triều, Ngô Quyền đã khiến cho chính thống của nước Việt ta ngõ hầu đã nối lại được như lời bình của nhà sử học Lê Văn Hưu. Tuy nhiên, khoảng thời gian quá ngắn ngủi đó không đủ để xác lập uy tín và sự thừa nhận của xã hội, vì vậy trước khi mất ông đã di chúc cho Dương Tam Kha – một võ tướng cao cấp và cũng là người trong hoàng tộc giúp rập bầy con và triều đình. Ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thân (9-2-944), Ngô Quyền băng hà, Dương Tam Kha giành lại ngôi vị, xưng là Bình Vương.
Sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Tống sử nhìn nhận sự kiện này khác nhau hoàn toàn.
Tống sử ghi Dương Tam Kha là Dương Thiệu Hồng và coi ông là người tiếp nối Dương Đình Nghệ, không có thời kỳ trung gian Kiều Công Tiễn – Ngô Quyền như sau: “Niên hiệu Trinh Minh nhà Lương, Thổ hào Khúc Thừa Mỹ chuyên giữ đất ấy, nạp khoản quy thuận Mạt đế, nhân đó bèn trao Tiết việt cho Thừa Mỹ. Bấy giờ Lưu Ẩn chuyên quyền ở vùng Lĩnh Biểu, sai tướng Lý Trị Thuận đánh Thừa Mỹ, bắt được, bèn kiêm tính đất ấy. Sau Dương Đình Nghệ, Thiệu Hồng cùng được nhậm chức Quảng Nam thứ, rồi kế làm Giao Chỉ Tiết độ sứ. Thiệu Hồng chết, Châu tướng là Ngô Xương Ngập bèn giữ chức ấy. Xương Ngập chết, em là Xương Văn lại kế tập”.
Việt sử lược chép: “Dương Bình Vương húy là Chủ tướng, họ Dương, là gia thần của Tiền Ngô Vương. Khi Ngô Vương mất, Chủ tướng tự lập làm vương. Con Ngô Vương là Xương Ngập chạy về nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương. Chủ tướng lấy em Xương Ngập là Xương Văn làm con mình. Em Xương Văn là Nam Hưng, Càn Hưng còn nhỏ. Lâu về sau, Chủ tướng sai người đem quân đến nhà Lệnh Công tìm bắt Xương Ngập. Lệnh Công sợ, giấu Xương Ngập vào trong động”.
Đại Việt sử ký toàn thư chép lại các sự kiện trên nhưng nâng từ tự lập làm vương lên tiếm xưng là Bình Vương, cướp ngôi 6 năm mặc dù vẫn phải thừa nhận rằng lúc ấy người trong nước ai cũng xem Tam Kha là vua.
Trong suốt thời gian nhiếp chính, mặc dù luôn trong tình thế bất định nhưng Dương Tam Kha cũng làm được một số việc lớn như cử Dương Tế Mỹ, Dương Thiên Hòa, Nguyễn Vị Bình làm xong việc phân chia địa giới, cắt cử quan lại cai trị ở các địa phương (Ất Tỵ – 945), hoàn thành việc đắp đê ngăn lũ lụt Tường Xà qua địa phận 355 ấp (Bính Ngọ – 946).
Nguồn: C5; A3, tr.21-22; V.17, tr.48; Đ4, tr.121; Đ5, tr.184-185.
NĂM 950 (CANH TUẤT)
Trong năm
016. Bình vương Dương Tam Kha bị phế, lui về khai phá Chương Dương
Việt sử lược cho biết vào năm ấy, Dương Chủ Tướng sai Xương Văn, Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đem binh về hai thôn Đường, Nguyễn ở ấp Thái Bình (Phong Châu). Khi hành quân tới đất Từ Liêm, Xương Văn lệnh cho hai Nha tướng quay trở lại Cổ Loa đánh úp, bắt được Dương Chủ Tướng. Nhận thấy Bình Vương vốn có ơn sâu nên giáng làm Chương Dương sứ, ăn lộc ấp ở đó.
Vùng đất mà Dương Tam Kha được ăn lộc nằm kế bên sông Hồng, gọi là Chân Giang, từ đó đổi là Trương Dương hoặc Chương Dương. Theo Chương Dương thần từ ký, đền Chương Dương thờ vị Thượng đẳng tối linh thần Bột Hải Hoàng đế, tương truyền ngài là người Dương Xá, huyện Đông Sơn – Ái Châu, từ xa xưa được hưởng trực tiếp ở đây, đúng như Hà Tôn Quyền đã mô tả qua bài Quá Dương công thực phong ấp trong Sơn Nam phong vật chí (1829) như sau:
“Thoái cứ Chương Dương hữu miếu từ
Bi đề thực ấp phóng gian khư
Nhân vô trọng vị xưng điền lão
Trí bảo hoàng đồ hoạch địa lô
Nhược đạo sĩ phu công bất quý
Hoặc ngôn yếm thế tổ hà ngu
Phù danh thử nhật hà năng bảo
Di tử an nhàn van thế u”
(Lui ở Chương Dương có miếu thờ
Bia nêu thực ấp để bên bờ
Nhân không cố vị xưng điền lão
Trí giữ hoàng đồ vạch địa lô
Hoặc nói yếu hèn, Ông chẳng thẹn
Hay rằng yếu thế, Cụ không ngu
Phù danh thuở ấy ai mà giữ
Con Cháu an cư nhớ nhớ cho)
Nguồn: V17, tr.48; T18, tr.56-57.
017. Thứ sử Hoan Châu Đinh Bộ Lĩnh mất chức
Đinh Bộ Lĩnh, con trai Đinh Công Trứ, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư – Ninh Bình), sinh năm 924, lớn lên theo cha vào Hoan Châu được làm Ngự Man Đô đốc. Khi Đinh Công Trứ qua đời, ông thay cha làm Thứ sử Hoan Châu, sau đó trở thành con rể của Dương Tam Kha.
Khi nhạc phụ bị lật đổ, Đinh Bộ Lĩnh cũng bị mất chức theo.
Nguồn: T17, tập 1, tr.245.
NĂM 963 (QUÝ HỢI)
Ngày 21 tháng 3 (29 tháng Chạp – Quý Hợi)
018. Dương Tam Kha lui về khai khẩn vùng Tùng Khê
Theo Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích do Tiến sĩ Vũ Huy Trác soạn thì:
“Tại nước ta vào thời Phùng Vương (791 – 802) có hai vị tướng tên là Nguyễn Duy Lương và Dương Kế Thành, ban đầu tới chiếm một vùng hữu ngạn sông Nhị thuộc huyện Giao Thủy, chiêu dân tụ hội nhưng ở không được bao lâu lại phải dời về phía đông trang Mậu Lực huyện Đại An cư trú (nay hai ông vẫn còn đền thờ tại thôn Mậu Lực, Yên Cường – Ý Yên). Hai ông đi rồi nhưng ở đó vẫn có vài nhà thuyền chài qua lại. Ban đầu đất này chưa có tên gọi, đến khi Bình Vương phân định lại hương ấp xong, mới cho tùy tướng Dương Thục Phi, Dương Tế Mỹ, Nguyễn Vị Bình, Vũ Đại Hòa chia việc đắp đê ngăn nước biển dàu hơn hai ngàn dặm. Xong việc Vương dùng xe đem các con trai hai nhà nội ngoại được 15 hộ, khơi ngòi, khẩn đất để ở, đặt hiệu là trang Tùng Khê. Nhân thế Vương mới xưng hiệu là Tùng Khê Công. Số ruộng khẩn ra có thể cày cấy được quãng hơn 500 mẫu. Ngòi khơi thành năm dải, dải to gọi là Tùng Khê, hai dải phía bắc gọi là Trúc Khê, Lệ Khê; hai dải phía nam gọi là Lộ Khê, Nga Khê. Nay là năm trang của Tùng Khê vậy”.
Mô tả về Dương công Tùng Khê ấp, Phủ doãn phủ Phụng Thiên là Dương Đức Kỳ viết:
“Văn đạo Tùng Khê hữu ngũ trang
Khẩn khai sơ khởi tự Bình Vương
Khê phân cư thổ kim do biện
Tùng ký trung gian cổ vị tường
Nội Ngoại tương thân Tam tính thị
Thuận hòa liên bảo cửu phân phường
Mục tiền ngõa ốc từ tam trĩ
Hạ vãn ô đề hoán tịch dương”
(Tùng Khê nghe có năm trang
Bình Vương mới đến mở mang ban đầu
Khe theo nhà ở dài lâu
Nằm giữa tùng mộc thấy đâu nữa mà
Nội, ngoại ba họ thuận hòa
Tích điền liên bảo quê ta một lòng
Ba tòa đền ngói mắt trông
Quạ kêu hè muộn lượn trong trời tà).
Tam Đăng Phạm Văn Nghị đánh giá rất cao sự nghiệp vì dân vì nước qua Đáo Bình Vương cựu ấp:
“Bán vi điền tổ, bán vi vương
Chí tại gia hưng dữ quốc cường
Phú, quý phù vân nan cửu thủ
Tử tôn giáo hiếu tảo thành phương
Địa khai tỉnh hoạch cần vô ngã
Khê tuấn tứ toàn thủy bất cang
Thập thất tu trì trung tín niệm
Hảo bình xuất xứ mạc quai trương”
(Nửa đời điền tổ, nửa đời vương
Chỉ nghĩ gia hưng với quốc cường
Phú quý phù vân sao giữ mãi
Cháu con hiếu đễ phải lo lường
Tỉnh điền cày cấy không cơ nhỡ
Dẫn thủy vòng quanh tưới ruộng nương
Xóm nhỏ tín trung đừng biếng nhác
Khéo điều xuất xử chớ coi thường)
Nguồn: C5; T18, tr.58-61.
NĂM 966 (BÍNH DẦN)
Trong năm
091. Thứ sử châu Vũ Ninh Dương Huy trở thành thế lực lớn
Tống sử, Q.488 (Ngoại quốc 4) ghi nhận, Xương Văn chết, các thế lực của Tham mưu Ngô Xử Bình, Thứ sử Phong Châu Ngô Trì Hộ, Thứ sử Vũ Ninh Dương Huy, Nha tướng Đỗ Cảnh Thạc tranh nhau tự lập, kéo về Cổ Loa gây loạn.
An Nam chí lược của Lê Tắc cũng ghi như vậy. Nhiều tài liệu khác cho rằng Dương Huy là con của Dương Cát Lợi, còn gọi là Lý Huy hoặc Dương Lý Huy. Sau, Dương Huy bị Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp đánh dẹp.
Nguồn: A3, tr.22, A1, tr.212.
NĂM 970 (CANH NGỌ)
Trong năm
020. Con gái Dương Tam Kha trở thành Hoàng thái hậu của nhà Đinh
An Nam chí lược cho biết, người tạo lập ra nhà Đinh là Đinh Bộ Lĩnh, phụ thân của ông là Đinh Công Trứ, Nha tướng của Dương Đình Nghệ. Khi chủ tướng trở thành Tiết độ sứ Giao Châu, lấy Công Trứ quyền Thứ sử Hoan Châu. Đến lúc Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn, Công Trứ vẫn giữ chức vụ cũ. Phụ thân qua đời, Bộ Lĩnh kế tập chức cha. Kịp đến khi Ngô Xương Văn mất, bộ hạ nổi loạn, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đánh dẹp yên hết.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đầu năm 970, Đinh Tiên Hoàng quyết định đặt niên hiệu và lấy năm đó là năm Thái Bình thứ nhất; các bà vợ là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc, Ca Ông được lập làm Hoàng hậu. Trong số 5 bà Hoàng hậu này – có một người là con gái Dương Tam Kha, lâu nay được truyền tụng trong tên gọi là Dương Vân Nga hoặc Dương hậu.
Nguồn: A1, tr.212; Đ4, tr.126-128; Đ5, tr.197-198.
NĂM 980 (CANH THÌN)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Canh Thìn)
021. Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn được Dương hậu tôn làm Thiên tử
An Nam chí lược ghi nhận Lê Hoàn người Ái Châu, có chí lược, được lòng quân sĩ. Ông được Đinh Bộ Lĩnh thăng làm Thập đạo Tướng quân vào năm Tân Mùi (971).
Dương hậu sinh hạ với Đinh Tiên Hoàng một công tử là Đinh Toàn vào năm 974. Chỉ mấy năm sau, vào tháng Một năm Kỷ Mão (12-979), cha con Đinh Tiên Hoàng – Đinh Liễn bị sát hại. Trong tình hình ấy, Đinh Quốc công Nguyễn Bặc, Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn tôn phò Đinh Toàn lên ngôi Hoàng đế.
Đinh Toàn chỉ là người ngồi ngai vàng làm vì, còn mọi việc trong triều đều do Lê Hoàn nhiếp chính quyết định, các bậc huân thần khai quốc của triều đình Hoa Lư là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp cho rằng không sớm thì muộn Lê Hoàn cũng sẽ cướp ngôi báu của nhà Đinh nên bí mật họp nhau chia thành hai đường thủy bộ tiến vào kinh thành Hoa Lư định giết chết Lê Hoàn. Âm mưu bị bại lộ, cuộc tiến công bị thất bại, cả Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp đều đã bị Lê Hoàn bắt và giết chết.
Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn sau khi dẹp yên âm mưu chống đối của Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đã nắm trọn quyền bính trong tay, xưng là Phó vương, quyền giữ việc nước.
Khi ấy nhà Tống đã hoàn thành công cuộc thống nhất Trung Quốc, nội bộ bắt đầu ổn định, tình hình miền nam cũng trở lại yên tĩnh, Tống Thái Tông có điều kiện đẩy mạnh mưu đồ bành trướng và xâm lược các nước phương Nam, nhất là với Đại Cồ Việt. Vua Tống tin theo lời bàn của Lư Đa Tốn, tháng 7-980 cho lập Giao Châu hành doanh và lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu lục lộ thủy lộ chuyển vận sứ, cùng Tôn Toàn Hưng, Hác Thủ Tuấn, Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn họp quân cả bốn hướng, hẹn ngày cùng tiến đánh Đại Cồ Việt.
Được tin quân Tống sắp kéo sang xâm lược, Dương Thái hậu “sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân”. Trong khi triều đình đang họp bàn kế hoạch xuất quân thì Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ yêu cầu tôn lập Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn làm Hoàng đế trước khi xuất quân đánh giặc.
Lê Hoàn lúc này là người duy nhất trong triều đình Hoa Lư hội đủ được uy tín và tài năng, tinh thần và lực lượng bảo vệ và gìn giữ nền độc lập dân tộc, nền thống nhất quốc gia trước cuộc tiến công xâm lược của nhà Tống. Hơn ai hết Dương hậu nhận rõ thực tế này và đã phó thác toàn bộ vận mệnh của đất nước và triều đình Hoa Lư vào tay Thập đạo Tướng quân. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế”. Nhà Lê (mà sau này sử sách gọi là Tiền Lê) chính thức được thành lập.
Ngoài Đinh Toàn, Dương hậu còn sinh với Lê Hoàn một con gái là Công chúa Lê Thị Phất Ngân. Sau Công chúa được gả cho Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Công Uẩn. Ngày 26 tháng Sáu năm Canh Tý (23-7-1000), Công chúa hạ sinh Lý Phật Mã, tức Lý Thánh Tông của nhà Lý.
Nguồn: Đ4, tr.134; A1, tr.213-214.
Ngày 16 tháng 9 (10 tháng Tám – Canh Thìn)
022. Dương Tam Kha rời Tùng Khê về Ái Châu xây dựng hậu cứ chống Tống
Hay tin nhà Tống chính thức phát động cuộc chiến tranh nhằm thôn tính Đại Cồ Việt và Lê Hoàn vừa được con gái của mình là Dương hậu mời lên ngôi Hoàng đế, Dương Tam Kha đã nhanh chóng rời Tùng Khê trở lại Ái Châu – nơi đã gắn bó nhiều đời của dòng họ. Ông đã chọn Lỗ Mau Khu thuộc hương Cửu Chân để lập một phòng tuyến dự bị nếu giặc chiếm được Giao Châu tràn xuống. Lỗ Mau Khu trong tầm nhìn của ông có thể án ngữ mọi ngả đường từ phía Bắc vào Ái Châu, được bao bọc bởi đoạn sông Cầu Chày nối sang sông Mã, sông Chu. Vùng đất được hào lũy tự nhiên vây quanh ấy là nơi xây dựng hệ thống đồn trú cho một lực lượng quân sự lớn, có nơi dựng đặt kho tàng, sản xuất quân lương.
Ngày nay, tuyến phòng thủ này thuộc thôn Thành Đạt (xã Thiệu Long, Thiệu Hóa – Thanh Hóa) vẫn còn lưu lại nhiều địa danh của tuyến phòng thủ Lỗ Mau xưa: Đồng Kho (nơi đặt kho tàng cất giữ quân lương), Đồng Bến (nơi tập kết của thủy binh), Đồng Cầu (nơi bắc cầu để binh lính qua sông Mạo Khê), Đồng Yên (nơi chăn nuôi để cung cấp thực phẩm), Đồng Trại (nơi đại quân đóng giữ).
Tương truyền, công trình này được Dương Tam Kha giao cho con trai là Dương Quý Khách trông nom việc xây dựng. Sau khi Lê Hoàn dẹp xong quân Tống, Lỗ Mau trở thành thực ấp của họ Dương.
Theo Lý lịch đền thờ Bình Vương Dương Tam Kha thuộc thôn Thanh Đạt tại Cồn Nghè cũ bao quanh lũy có một cồn đất lớn không bị xói mòn chính là nơi có mộ chí của Bình Vương, ghi rõ Dương Tam Kha qua đời ngày 15 tháng Giêng năm Tân Tỵ (16-2-981). Ngoài ra còn có mộ chí của Dương Quý Khách tại cồn Cây Đa Si, địa phương gọi là mộ Cố Tể và nhà thờ Dương Mỹ Tố, Vệ úy của Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn.
Căn cứ theo Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích thì vào năm Canh Thìn niên hiệu Thiên Phúc thứ nhất (980), Dương Tam Kha về quê cũ Ái Châu, ở đến ngày mồng 10 tháng Tám thì mất tại nơi giường ngủ. Các con cháu hành lễ an táng trên gò đất hình con voi rộng ước 5 sào, phía trước có giếng nước, sau có hình cái ngai vươn hai tay dài ôm lấy khu mộ, tọa khảm hương ly. Bấy giờ đất Tùng Khê có 5 con trai của ông, ở quê [Ái Châu] có 5 con trai. Đứng đầu ở quê là con trai trưởng Đại Thiệu còn ở Tùng Khê là con trai thứ hai Tiền Du, ngoài ra chưa khảo cứu nước.
Phải chăng, ngày 10 tháng Tám năm Canh Thìn (16-9-980) là ngày Dương Tam Kha rời Ái Châu (hoặc Tùng Khê) về Lỗ Mau bởi ngôi mộ được mô tả ở trên phù hợp với vị trí và địa điểm Lỗ Mau – Thành Đạt, trong khi ở Dương Xá – Giàng không hề có mộ chí và đền thờ của ông. Do vậy, ngày ông qua đời 15 tháng Giêng năm Tân Tỵ (16-2-981) và nơi mất, nơi an nghỉ tại Lỗ Mau – Thành đạt đáng tin cậy hơn.
Nguồn: L9; C5
NĂM 989 (KỶ SỬU)
Trong năm
022. Lực lượng ly khai Dương Tiến Lộc bị Lê Đại Hành tiêu diệt
Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, năm 983 Lê Đại Hành rút quân về Hoa Lư, cử Quản giáp Lưu Kế Tông ở lại Đồng Dương quản lý một vùng đất rộng lớn ngày nay thuộc Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam và Bình Định. Vua Chiêm chỉ còn lại vùng Khánh – Thuận. Năm 986, vua Chiêm Thành chết, Lưu Kế Tông tự lập làm vua, cử sứ giả mang phẩm vật triều cống nhà Tống. Lúc này, nhà Tống và Đại Cồ Việt có nhiều sứ đoàn qua lại trao đổi về vụ việc này. Năm 988, người Chiêm Thành nổi dậy, chiếm được vùng Phật Thệ (Chà Bàn – Bình Định), lên ngôi và dựng quốc đô ở đó. Đầu năm 899, Lưu Kế Tông đau ốm rồi qua đời, nhân đó, vua Chiêm tiến ra khôi phục đất đai đến tận châu Đại Lý.
Nhân cơ hội này, một cự tộc người địa phương là Dương Đà Bài cũng nổi lên, âm mưu làm chủ vùng đất cũ Lưu Kế Tông để lại. Hay tin, Dương Tiến Lộc khi đó đang là Quản giáp của Đại Cồ Việt xin triều đình vào Ái, Hoan thu thuế nhưng ngầm mưu đem hai châu ấy quy phụ Dương Đà Bài để chia xẻ quyền lực.
Kết cục của sự kiện này được ghi lại như sau: “Năm Kỷ Sửu, niên hiệu Thiên Phúc thứ 9, Quản giáp Dương Tiến Lộc đem hai châu Hoan Ái xin phụ Chiêm Thành. Vua thân chinh bắt được Tiến Lộc, lấy lại được hai châu” (Việt sử lược). Còn đây là một sự kiện trong chuỗi sự kiện kể từ Lưu Kế Tông trở xuống cũng do sử cũ tổng kết: “Năm Thiên Phúc thứ 6 [985] vua Chiêm Thành là Ngô Nhật Hoan [Indravarman] sang tố cáo với nhà Tống là bị vua ta xâm lược. Nhật Hoan chết. Lưu Kế Tông lên ngôi. Kế Tông chết, Dương Đà Bài lên ngôi. Vua ta lại đến đánh. Đà Bài lại tố cáo với Tống. Vua Tống ban chiếu bảo nước nào giữ lấy bờ cõi nước đó” (Đại Việt sử ký tiền biên) “Năm Thuần Hóa nguyên niên (990), vua mới là Dương Đà Bài tự xưng là mới chiếm giữ nước Phật Thệ. Dương Đà Bài sai sứ là Lý Trăn sang cống tê giác đã thuần và phương vật, cùng dâng biểu tố rằng bị Giao Châu đánh, nhân dân và của cải trong nước đều bị cướp đi. (Hoàng thượng) ban chiếu cho Lê Hoàn, lệnh ai nấy cùng giữ yên bờ cõi” (Tống sử, Q.489).
Nguồn: V17, tr.62 ; Đ4, tr.144 ; Đ5, tr.223 ; A3, tr.290.
NĂM 1009 (KỶ DẬU)
Ngày 27 tháng 11 (15 tháng Mười – Kỷ Dậu)
023. Lý Công Uẩn, con rể Lê Hoàn và Dương hậu lên ngôi Hoàng đế, lập nên nhà Lý
Tháng 3-1005, Lê Hoàn qua đời. Thái tử Long Việt cùng Đông Thành Vương Long Tích, Trung Quốc Vương Long Kính, Khai Minh Vương Long Đĩnh “tranh nhau lên ngôi, giằng co 8 tháng, trong nước không có chủ”. Cuối cùng Long Việt (con thứ ba của Lê Hoàn) vẫn thực hiện được di chiếu thay cha trị nước. Thế nhưng Long Việt mới chỉ ở ngôi được 3 ngày thì liền bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết chết cướp đoạt ngôi báu. Long Đĩnh là kẻ “làm việc càn dỡ giết vua cướp ngôi, thích dâm đãng tàn bạo” đến nỗi mắc bệnh trĩ phải nằm mà coi chầu (nên gọi là Ngọa Triều) và mất vào tháng 10-1009, khi mới 24 tuổi).
Ngay từ khi Long Đĩnh còn đương triều, quan lại, sư tăng, quân sĩ và nhân dân cả nước đã quá chán ghét nhà Lê và hướng cả về họ Lý. Khắp nơi xuất hiện bùa sấm dự báo việc nhà Lê mất (hòa, đao, mộc lạc) và họ Lý nổi lên (thập, bát, tử thành) là chuyện đương nhiên và bày tỏ sự tin tưởng, trông mong Thân vệ Lý Công Uẩn sớm lên ngôi. Được sự hậu thuận của giới trí thức, sư tăng, sự ủng hộ nhiệt thành của quân sĩ và nhân dân, dưới sự tổ chức khôn khéo của Chỉ hậu Đào Cam Mộc, ngày 27-11-1009, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế lập ra nhà Lý. Lập sáu Hoàng hậu, duy có đích phu nhân Lê Thị Phất Ngân gọi là Hoàng hậu Lập Giáo, quy chế xe kiệu và y phục khác hẳn với các cung khác. Sách lập con trưởng là Phật Mã làm Hoàng Thái tử, các con khác đều phong tước hầu. Con gái 13 người đều phong Công chúa. Lấy con gái trưởng là Công chúa An Quốc gả cho Đào Cam Mộc, phong Cam Mộc là Nghĩa Tín hầu. Phong Hoàng huynh (anh vua) làm Vũ Uy Vương, Hoàng thúc (chú vua) làm Vũ Đạo Vương, con Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái Úy, con Dực Thánh Vương là Phó làm Tổng quản, Trần Cảo làm Tướng công, Ngô Đinh làm Khu mật sứ, Đào Thạc Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm Thái phó, Phí Xa Lỗi làm Tả kim ngô, Vệ Trúc làm Hữu Kim ngô, Đàm Thản làm Tả vũ vệ, Đỗ Giản làm Hữu vũ vệ: các người khác đều như cũ.
Nguồn: Đ4, tr.149-157.
NĂM (1014)
Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Dần)
024. Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí đem Thổ tù và dân binh đánh vào bến Kim Hoa (Cao Bằng)
Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí cho toàn bộ lực lượng Thổ binh dàn bày quân dinh, gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vĩnh đem việc ấy tâu lên. Vua sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém được hơn 1 vạn đầu, bắt sống được quân lính và ngựa không xiết kể. Xuống chiếu cho viên ngoại lang là Phùng Chân và Lý Thạc đem một trăm con ngựa Man bắt được sang biếu nhà Tống. Vua Tống xuống chiếu cho quan sở tại sai sứ thần đón tiếp, cùng đi đến cửa khuyết, đệ trạm và cung đốn phải cho đầy đủ.
Nguồn: Đ4, tr.163-164; V17, tr.76; A2, tr.306.
NĂM 1024 (MẬU THÌN)
Ngày 25 tháng 3 (3 tháng Ba – Mậu Thìn )
025. Lý Thái Tổ băng hà, Dương Bình cùng Lê Phụng Hiểu và các cận thần dẹp loạn Tam Vương
Ngay sau khi nhận được tin dữ, vua cha bệnh rất nguy, bề tôi đều đến cung Long Đức xin Thái tử tuân chiếu lên ngôi, Tam Vương là Đông Chinh, Dực Thánh, Vũ Đức bèn bí mật đem quân vào cấm thành, chia ra phục ở Long Thành và cửa Quảng Phúc, đợi Thái tử đến thì đánh úp. Rất may là khi Thái tử từ cửa Tường Phù đi vào, đến điện Càn Nguyên, biết có sự biến, sai quan hoạn đóng các cửa điện và cho các vệ sĩ trong cung phòng giữ, lại gọi Nội thị Lý Nhân Nghĩa cùng bầy tôi Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu đến bày tỏ thiện tâm. Nghe các quan đồng lòng đánh dẹp, Thái tử im lặng hồi lâu rồi bảo Nhân Nghĩa và các quan trong cung là Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu rằng: “Ta chẳng lẽ lại không biết Đường Thái, Chu Công làm như thế sao? Vì ta muốn che giấu tội ác của họ cho tự ý rút quân, để được trọn tình nghĩa máu mủ của ta là hơn thôi”.
Khi ấy phủ binh của Tam Vương đánh càng gấp, Thái tử liệu không thể ngăn được, nói rằng: “Thế đã đến như vậy, thì ta còn mặt mũi nào trông thấy Tam Vương nữa, ta chỉ biết làm lễ thành phục đến hầu Tiên đế, ngoài ra đều ủy thác cho các khanh cả”. Bọn Nhân Nghĩa lạy hai lạy nói: “Chết về hoạn nạn của nhà vua là chức phận của bọn tôi, nay đã được chỗ đáng chết, còn từ chối gì nữa”. Bèn sai vệ sĩ trong cung mở cửa ra đánh, ai cũng vui lòng xông vào nơi hoạn nạn, đều cố sức một người địch trăm người. Khi đã tiếp chiến, hai bên còn cầm cự, Phụng Hiểu tức giận rút kiếm chạy thẳng đến cửa Quảng Phúc thét to lên rằng: “Bọn Vũ Đức Vương nhòm ngó ngôi báu, khinh miệt vua nối ngôi, trên thì quên ơn Tiên đế, dưới thì trái nghĩa tôi con, về việc này Phụng Hiểu tôi chỉ dùng gươm thôi”. Nói đoạn xông thẳng vào ngựa Vũ Đức Vương. Vương quay ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị Phụng Hiểu bắt giết. Quân của Tam Vương thua chạy, quan quân đuổi chém không sót người nào, chỉ còn hai vương Đông Chinh và Dực Thánh thoát được.
Nguồn: V17, tr.78; Đ4, tr.168-169; Đ5, tr.266-267.
NĂM 1054 (GIÁP NGỌ)
Trong năm
026. Dương Công Đán được cử làm Đô quản phủ Lỵ Nhân
Ông sinh ngày 12 tháng Ba – Kỷ Tỵ (21-4-1029) tại ấp An Bài – Bình Lục thuộc phủ Lỵ Nhân (nay thuộc xã Đồng Du, Bình Lục – Hà Nam) trong một gia đình làm nghề thuyền chài nhưng được sư thày ở địa phương dạy chữ và võ nghệ từ nhỏ. Do có công tích dẹp loạn tại phủ Lỵ Nhân nên ông được phong làm Đô quản, sau đó là Quản phủ Lỵ Nhân.
Nguồn: H4, tr.36.
NĂM 1072 (NHÂM TÝ)
Ngày 7 tháng 2 (22 tháng Giêng – Nhâm Tý)
027. Càn Đức lên ngôi, tôn Thượng Dương làm Hoàng thái hậu
Bà họ Dương, không rõ gia thế và quê quán, ngày vào cung. Do được ở cung Thượng Dương nên có tên gọi như vậy. Bà là chính thất của Lý Thánh Tông và đích mẫu của Lý Nhân Tông.
Liên quan đến sự kiện này, sử cũ cho biết, Càn Đức lên ngôi trước linh cữu, tôn mẹ là Nguyên phi Ỷ Lan làm Thái phi, lấy Thượng DươngThái hậu cùng nghe bàn chính sự, hoặc Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu; đổi niên hiệu làm Thái Ninh năm thứ nhất. Khi ấy vua mới 7 tuổi. Tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan Nguyên phi làm Hoàng thái phi; mẹ đích là Hoàng hậu Thượng Dương Dương thị làm Hoàng Thái hậu, buông rèm cung nghe chính sự, Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công việc.
Nguồn: V17, tr.99; Đ4, tr.198.
Tháng 5 (tháng Tư – Nhâm Tý)
028. Châu mục Lạng Châu Dương Cảnh Thông được cử làm Thái bảo
Trước khi được cử giữ chức vụ mới, Dương Cảnh Thông đã dâng lên Lý Nhân Tông con hươu trắng. Việc làm này được quần thần cho là điềm báo lành nên đã đến chúc mừng nhà vua.
Nguồn: V17, tr.99.
Tháng 10 (tháng Chín – Nhâm Tý)
029. Lý Thường Kiệt cử Dương Thọ Văn đánh vào châu Quy Hóa trên đất Tống
Châu Quy Hóa vốn là đất Vật Dương của Đại Việt bị Nùng Tri Hội nộp cho nhà Tống. Khi ấy, Dương Thọ Văn đang giữ chức Châu mục châu Quảng Nguyên (vào khoảng Bắc Cạn ngày nay) được lệnh đem quân tiến công khiến Nùng Tri Hội thua chạy vào Hữu Giang.
Nguồn: L1, tr.458.
NĂM 1073 (QUÝ SỬU)
Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Sửu)
030. Giam giữ rồi bức tử Thượng Dương Hoàng Thái hậu
Được tôn làm Linh Nhân Hoàng Thái hậu, vốn có tính đố kỵ nên Ỷ Lan mới kể lể với nhà vua: “Mẹ già khó nhọc để có ngày nay, đến khi phú quý thì người khác lại đến giành mất, thế thì sẽ để mẹ già ở chỗ nào đây”. Vua tuy bé nhưng biết mình không phải là con Thượng Dương Hoàng Thái hậu, bèn sai giam cùng 72 thị nữ ở cung Thượng Dương, bức khiến chết theo vua Thánh Tông.
Nguồn: V17, tr.100; Đ4, tr.199.
NĂM 1077 (ĐINH TỴ)
Ngày 25 tháng 9 (12 tháng Tám – Đinh Tỵ)
031. Dương Công Đán hy sinh tại ải Kê Minh
Mặc dù đã từng thảm bại ở Đại Việt dưới thời Tiền Lê nhưng nhà Tống vẫn nuôi chí thôn tính vùng đất phương Nam một lần nữa. Tại vùng giáp ranh biên giới, thành Ung Châu được xây dựng rất kiên cố, có thể chứa được hàng vạn quân chuyên lo việc biên thùy. Với chủ trương ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc, tháng 3-1076, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, thành Ung Châu bị san phẳng. Khi ấy, Dương Công Đán đang giữ chức Đông chấn Tướng quân Thủ ngự Kinh thành sự cũng có mặt trong đạo quân Đại Việt kéo vào đất Tống, lập được nhiều chiến công.
Đầu năm 1077, Dương Công Đán tiếp tục chặn đánh quân xâm lược Tống tại chiến tuyến sông Cầu, góp phần đẩy lùi quân địch tới tận biên giới. Vào một ngày tháng Tám năm đó, trong lúc cùng binh lính đi tuần phòng ở ải Kê Minh, ông bất ngờ rơi vào trận địa mật phục của giặc và đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Hay tin, Phó tướng Dương Kỳ Mưu – em trai ông đến giải nguy nhưng không kịp.
Nguồn: H4, tr.36.
NĂM 1086 (BÍNH DẦN)
Ngày 10 tháng 2 (1 tháng Giêng – Bính Dần)
032. Dương Cảnh Thông tạo áp lực với nhà Tống để làm điểm tựa cho nhà ngoại giao Lê Văn Thịnh
Đầu tháng Hai năm Mậu Ngọ (3-1078) Lý Nhân Tông sai Đào Tông Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, cùng những người các châu ấy bị bắt đem đi. Năm 1079, nhà Tống đem Thuận Châu trả lại cho Đại Việt, nhưng chưa trả hết phần đất đai mà các thổ dân từng dâng cho nhà Tống.
Đến tháng Sáu năm Giáp Tý (7-1084), Lê Văn Thịnh lúc đó giữ chức Thị lang bộ Binh được cử đến trại Vĩnh Bình cùng người Tống bàn bạc về đường biên giới và những phần đất còn lại bị nhà Tống chiếm đóng. Nhà Tống viện lý do là vùng đất thuộc hai động Vật Dương và Vật Ác do các thổ dân xin nộp và thần phục, tự ý đem sáp nhập vào nhà Tống nên không chịu trả lại cho Đại Việt. Họ lập luận rằng: “Những đất mà quân ta chiếm thì đáng trả cho Giao Chỉ. Còn những đất mà các người coi giữ đem nộp để theo ta thì khó mà trả lại”. Trước thái độ ngang ngược và lý lẽ bao biện của sứ giả nhà Tống, Lê Văn Thịnh đã cương quyết đòi bằng được vùng đất bị chiếm đóng ấy. Ông trả lời sứ giả nhà Tống là Thành Trạc rằng: “Đất thì có chủ, các viên quan giữ đất ấy đem nộp cho người khác và trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Việc chủ giao cho mà lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép, huống chi nay lại mang đất lấy trộm dâng để làm dơ bẩn sổ sách nhà vua”. Với cách lập luận thuyết phục, lấy luật pháp quy định và lý lẽ chân chính của nho gia mà phản biện, sau hàng tháng trời, cuối cùng phái viên Tống phải trình lên vua Tống giao trả cho nước ta sáu huyện và hai động – trong đó có vùng Quảng Nguyên nổi tiếng là có nhiều mỏ vàng trữ lượng cao, nhưng vẫn giữ lại Vật Dương, Vật Ác.
Vì sự kiện này, người Tống còn có thơ rằng:
“Nhân tham Giao Chí tượng,
Khước thất Quảng Nguyên kim”.
(Vì tham voi Giao Chỉ
Để mất vàng Quảng Nguyên).
Tháng Tám năm Ất Sửu (9-1085), Lê Văn Thịnh được cử làm Thái sư. Công cuộc đấu tranh đòi lại hai động Vật Dương, Vật Ác vẫn tiếp diễn. Với chủ trương dùng binh lực quấy nhiễu vùng biên giới, nhân vùng đất thuộc Động Nhân của Nùng Thuận Thanh bị thổ quan nhà Tống là Lương Hiền Trí quấy rối, Thái bảo Dương Cảnh Thông, người vừa được nhà Lý cử lên trông coi châu Quảng Nguyên mới thu hồi được, đã cử Đàm An đánh sang đất Tống cướp dân. Ngay ngày hôm sau, mồng 2 tháng Giêng năm Bính Dần (11-2-1086), vua Tống đã hạ chiếu cho Ty Kinh lược Quảng Tây yêu cầu phải phán xét ngay việc ấy rồi gửi thư trách cứ vua Lý.
Nguồn: L1, tr.465-466.
NĂM 1110 (CANH DẦN)
Trong năm
033. Dương Cảnh Thông xây dựng chùa Sùng Khánh thuộc châu Tư Lang
Quy mô, cảnh trí và địa điểm chùa Sùng Khánh được Tư Lang châu Sùng Khánh tự chung minh tinh tự ghi lại như sau: “Bèn ở khoảng núi Tư Lẫm, bốn bề chót vót, vây bọc khói lam, khí tốt vật tươi, nguồn thiêng cảnh đẹp, gom chất cỏ hoang, phạt quang gai góc, tính đo dài rộng, thuê mướn thợ lành, đẵn gỗ hạ cây, đặt nơi chính giữa, chọn tinh phương hướng, tựa vách băng khe, kèo cột liền trời, gác hương điện bụt, bắc núi kề non. Hương nhị thắm lẫn sắc gấm phơi, nét đan thanh rối màu mây sớm. Đòn ngà ngậm biếc, ngói ngọc phô tươi, củng vẽ đội mây, đấu son nâng ác, rừng nở bông hoa thất giác, ao tuôn dòng nước bát công. Đẹp đẽ đủ bề, trang nghiêm mọi vẻ, mặt vàng tướng diệu, tựa Như Lai ở Tây Thiên, Nùng Tiên tựa Đông Sóc. Trông ra phủ thư Tư Lang, thuận tiên hộ tri trăm họ, lại được sớm chiều kính lễ, ắt gióng Phạn âm, cảnh tỉnh mê muội”.
Chùa Sùng Khánh đời sau đổi là Sùng Phúc, theo Đại Nam nhất thống chí chùa được xây dựng trên đỉnh Pò Càn thuộc xã Lệnh Cấm, tổng Lệnh Cấm, huyện Hạ Lang – Cao Bằng. Tương truyền, ngôi chùa này vốn có chuông đồng cao bốn thước năm tấc, rộng ba thước, tự nhiên ban đêm rơi xuống đầm ở bên chùa. Nhà sư ở đấy nhìn thấy con thuồng luồng quấn chung quanh quả chuông, lúc chìm lúc nổi, làm cho nước đầm cũng sôi sục lên, một chốc thì chuông lại về nguyên chỗ cũ, cứ đêm nào cũng thế. Sau tám, chín ngày, thì chuông tự nhiên biến mất, cũng từ đó đầm ấy không phải lo nạn thuồng luồng nữa. Nhân đó, gọi là Đầm Chuông. Việc này xảy ra vào năm Vĩnh Tộ (1619-1628) đời Lê Thần Tông. Đến năm Chính Hòa (1681-1704) đời Lê Hi Tông, có người ở châu Thái Bình đến buôn bán ở Cao Bằng, đều nói, trước có quả chuông đồng từ sông Long Châu trôi ngược đến bãi sông Lí Hà thuộc châu Thái Bình, quan châu ở đấy định cho thợ phá chuông, thì thấy chuông ấy chảy mồ hôi ra như tắm, tiếng gầm lên như sấm. Quan châu sợ không dám phá chuông nữa, cho đem treo ra một đền khác, dùng lễ Thái lao (trâu, dê, heo) để tế. Người ở chùa Sùng Khánh nghe nói, đến tận nơi xem, thì chuông ấy đích là chuông ở chùa Sùng Khánh. Đến năm Cảnh Hưng, mới rời chùa về nơi hiện nay, và đổi tên là chùa Sùng Phúc, có Từ thần soạn bài văn bia thuật qua về truyện này. Bia ấy đến nay vẫn còn.
Nguồn: T9, 2012, tr.357-366; Đ3, tập 2, tr.1625-1626.
NĂM 1113 (QUÝ TỴ)
Ngày 25 tháng 2 (15 tháng Giêng – Quý Tỵ)
034. Dương Cảnh Thông tổ chức đúc chuông chùa Sùng Khánh
Bài minh và lời tựa trên chuông chùa Sùng Khánh bị lưu lạc ghi lại như sau:
“Phủ trung báo tiết, Tá lý công thần, Thứ sử châu Phú Lương kiêm Tiết độ Quan sát sứ châu Quảng Nguyên – Tư Lang, Kim tử Vĩnh lộc Đại phu – Kiểm hiệu Thái phó kiêm Ngự sử Đại phu, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự Hoằng Nông quận Khai Quốc công, thực ấp vạn hộ, thực phong năm ngàn hộ Dương Cảnh Thông đặc biệt bỏ ra đồng tinh hơn bảy ngàn cân, tạo chuông lớn một quả, lưu lại cúng dường.
Vốn lẽ: thấu suốt âm dương, quản thông động tĩnh. Thấu thịt da đặng nương cốt tủy, len huyết mạch để dấy tinh thần. Trăm quan hài hòa, muôn loài hướng hóa, chẳng lìa gốc diệu, động thường lặng yên. Lớn thay thanh âm, càn khôn lấy Chấn đứng đầu lục tử; thức tỉnh mê man; thánh nhân dùng nhọc điều hòa tứ thời. Si ngốc mừng vui, tiếng chuông phấn chấn, răn đe muôn việc, khai ngộ ác tà. Gồm thâu mười hai khúc hòa, trải khắp ba ngàn thế giới. Sáng soi u tối, chứa đựng phép mầu. Thật tốt đẹp vậy.
Người chủ trương đúc chuông là Phò (mã) lang, người sáng lập nước Quắc vậy. Nhà ông thuộc (châu) Thái Bình, vốn dòng quý hiển, trên tổ có công, rủ lành tích thiện. Hiển (tổ) là Thượng thư Binh bộ đạo vượt quần anh, oai kinh tứ chiếng. Cao tổ chức Thái phó, son sắt cẩn mực, tiết tháo sạch trong, sinh ra Định (tổ), húy là Nhật Đăng thẳng thắn chính trực, mưu tính sâu xa, làm đến Thái bảo. Thái vương phụ húy Khuông, tu tập nhân lành, chức rốt Thái phó. Vương phụ húy Huệ Doanh, văn từ hoa lệ, điển tịch nắm quyền, trước thuật uyên thâm, quét tan a đảng, sinh được ba con. Ông là con út, dáng vẻ kỳ vĩ, dung nghi rạng ngời. Hạnh ngộ tiên vương, tuy có hoàng nữ được ưa chuộng, lễ nên ban gả cho phiên thần, liền triệu ông vào chầu, ngầm được lòng trên, gia ơn quyền cố, đáng làm rể quý, chọn lựa ngày lành, làm lễ gả Công chúa Thọ Dương, tỏ lòng biệt đãi. (Thế là) xóm làng ca ngợi, họ tộc vẻ vang, lại đội ơn đức Kim thượng lễ đãi khác thường, gia phong phẩm trật. Giữ vùng biên ải, mưu lạ chước mầu, muôn việc vẹn toàn, oai rền biên ải. Ngọc quan giữ vững, binh hỏa lặng yên, dân chúng thảnh thơi, công thành trị định, chuông tu quả phúc, trong thấu lẽ mầu, ngoài tô điện phật, nhớ đến bốn ơn, ngầm phát nguyện ớn […].
Ngày 15 tháng Giêng năm thứ 4 niên hiệu Hội trường Đại Khánh chép Hồng Tán đại sư Thích Diên Thọ chùa Quảng Giáo Viên Minh khắc. Thừa vụ lang hiêu thư sinh, thần Dương Văn Đĩnh viết. Viên ngoại lang Hộ bộ sung Học sĩ viên Tập hiền, Tứ tử Kim Ngư đại, thần Tào Lương Phụ soạn”.
Nguồn: T1, số 4 (119) – 2013, tr.23-39; T9, 2012, tr.357-366.
NĂM 1116 (BÍNH THÂN)
Tháng 3 (tháng Hai – Bính Thân)
035. Sùng Hiền hầu [Dương Công Khanh] cứu Thiền sư Từ Đạo Hạnh
Thiền sư vốn tên là Từ Lộ, sinh tại Yên Lãng (Đống Đa – Hà Nội ngày nay) có phụ thân là quan Đô sát Từ Vinh bị giết bởi một Pháp sư Đại Điên. Sau Đại Điên tương truyền hóa thân thành đứa trẻ tên Giác Hoàng. Theo Thiền uyển tập anh, bấy giờ Lý Nhân Tông tuổi đã cao mà không có con nối dõi, tháng Hai năm Hội Trường Đại Khánh thứ 3 [sửa lại: năm Hội Trường Đại Khánh thứ 7 – 1116 vì ngay trong Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ đã chỉ ra rằng, việc xảy ra từ năm Nhâm Thìn, Hội trường Đại Khánh thứ 3 đến tạn Hội trường thứ 7 mới đẻ Dương Hoán, Đạo Hạnh mới trút xác là một tồn nghi cần phải sửa lại] ở phủ Thanh Hóa có người tâu: “Vùng bờ biển Sa Đinh có một đứa trẻ con linh dị, mới lên ba tuổi mà nói năng biện giải như người lớn, xưng là con đích của vua, tự đặt hiệu là Giác Hoàng. Phàm mọi việc làm của hoàng thượng, không điều gì đứa bé ấy không biết”. Vua sai trung sứ vào tận nơi xem xét, thấy đúng như lời tâu, bèn cho đón về chùa Báo Thiên ở Kinh đô. Thấy đứa trẻ thông minh dị thường vua có lòng yêu mến, định lập làm Hoàng thái tử. Các quan hết sức can ngăn vua không nên làm như vậy. Các quan lại nói nếu đứa bé ấy quả thực linh dị, tất nên thác sinh vào nội cung rồi sau mới lập làm Thái tử được. Vua nghe theo, bèn cho mở hội lớn bẩy ngày đêm để làm phép thác thai. Sư nghe chuyện, tự nghĩ: “Đứa bé này dùng phép yêu dị để mê hoặc mọi người, ta nỡ nào ngồi nhìn để nó lừa dối, làm loạn chính pháp?”. Sư bèn nhờ người chị gái giả làm người đi xem hội, lén đem chuỗi hạt do sư đã kết ấn, treo lên rèm cửa. Hội đến ngày thứ ba, thì Giác Hoàng bỗng kêu đau, bảo mọi người: “Ta dã đi khắp quanh Hoàng thành, nhưng ở đâu cũng có lưới sắt vây kín. Muốn thác sinh cũng không biết lọt vào bằng cách nào”. Vua ngờ sư làm bùa chú để phá, bèn sai quan xét hỏi thì sư thú nhận. Quan quân bèn bắt sư trói, đem đến lầu Hưng Thánh để triều thần định tội. Lúc ấy gặp Sùng Hiền hầu đi qua, sư thống thiết giãi bày với hầu về chuyện đó. Sư nói:
– Quý hầu gắng giúp cho bần tăng thoát tội. Ngày sau xin đầu thai để đáp ơn tạ đức.
Sùng Hiền hầu nhận lời. Khi vào triều nghị, các quan đều nói:
– Bệ hạ không có nối dõi nên phải cầu Giác Hoàng thác sinh làm con, vậy mà Từ Lộ dùng bùa phép cản trở, xin bệ hạ cho xử chém để thiên hạ hả lòng.
Sùng Hiền hầu từ tốn tâu rằng:
– Giác Hoàng nếu quả có thần lực thì dẫu cả trăm Từ Lộ làm bùa chứ cũng không làm hại được. Đằng này Giác Hoàng lại bị lưới sắt chắn không vào được, thế thì Từ Lộ cao tay pháp hơn Giác Hoàng. Theo ngu ý của thần, bệ hạ nên tha tội cho Từ Lộ và cho Từ Lộ được thác sinh.
Vua thuận theo lời tâu của Sùng Hiền hầu. Sư bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền hầu, vào thẳng nơi phu nhân đang tắm mà nhìn. Phu nhân tức giận nói lại với chồng. Nhưng Sùng Hiền hầu đã biết trước nên không căn vặn gì. Từ đó phu nhân cảm thấy mình có thai.
Nguồn: T8, tr.202-203; Đ5, tr.331.
Ngày 3 tháng 12 (5 tháng Một – Bính Thân)
036. Dương Hoán sinh
Vẫn theo Thiền uyển tập anh, ngay sau khi vừa rời phòng tắm, Đạo Hạnh đã dặn Sùng Hiền hầu: “Khi nào phu nhân sắp sinh thì báo cho bần tăng biết trước”. Đến lúc phu nhân sắp sinh, Sùng Hiền hầu cho người đến báo. Sư bèn tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi bảo đệ tử:
Nghiệp duyên của ta chưa hết, còn phải thác sinh để tạm giữ ngôi vua. Ngày sau thọ chung sẽ được làm Thiên tử ở cõi trời thư ba mươi ba. Nếu thấy chân thân của ta hư nát thì lúc ấy ta mới thật nhập Niết Bản, không còn phải trụ trong vòng sinh diệt nữa. Các đệ tử nghe nói không cầm được nước mắt. Sư bèn đọc bài kệ rằng:
Thu lai bất báo nhạn lai quy
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi
Vị báo môn nhân hưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.
(Thu về chẳng báo nhạn theo bay
Cười nhạt người đời uổng xót vay
Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến
Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay)
Nói xong sư trang nghiêm mà hóa, đến nay hình xác vẫn còn.
Về sự kiện, thời điểm Dương Hoán sinh, Đạo Hạnh hóa các sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên đều ghi giống nhau (tháng Sáu năm Bính Thân, sư Đạo Hạnh hóa, Thần Tông sinh) – trong đó Đại Việt sử ký tiền biên ghi: em vua (không ghi rõ là em trai, em họ hay em vợ) là Sùng Hiền hầu sinh con là Dương Hoán.
Sự ghi chép trên của các bộ sử cũ cũng tự mâu thuẫn khi nói rằng phu nhân của Sùng Hiền hầu vào tháng Sáu năm Bính Thân (7-1116) trở dạ mãi không đẻ, liền sai người phi báo cho nhà sư, Đạo Hạnh hay tin, tức thì thay áo tắm rửa vào trong hang núi trút xác mà đi nhưng lại nói ngày 7 tháng Ba – người đời sau ngoa truyền là ngày kỵ của nhà sư nên trai gái lấy ngày ấy là ngày hội của chùa Thầy.
Như vậy, thời điểm tháng Sáu năm Bính Thân đều không phù hợp với cả hai trường hợp sinh và hóa. Rất có thể, vào đầu tháng Ba năm Bính Thân, Đạo Hạnh đã biết vợ Sùng Hiền hầu có thai và ông đã thanh thản ra đi. Còn nếu không phải là tháng Một của năm ấy.
Nguồn: T8, tr.203-204; Đ4, tr.209; Đ5, tr.330; D9
NĂM 1117 (ĐINH DẬU)
Tháng 6 (tháng Năm – Đinh Dậu )
037. Phò mã lang Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng
Ngay trong bài minh và lời tựa trên chuông chùa Sùng Khánh, viên Phò mã lang này đã:
“Nay kính chúc Đương kim Hoàng đế: cơ đồ bền vững, ngôi báu an bình, ơn huệ rải đều, oai quyền nắm mãi. Thứ đến chúc Thánh Thiện Hoàng Thái hậu đạo vượt Ốc Đăng, thọ hơn Phu Bảo. Những mong Công chúa Thọ Dương trên đài hoa máu, mãi chứng quả bồ đề, trong điện pháp lành, cùng lên hàng vương giác Kiêm chúc song thân khảo tỷ cùng các quyến thuộc: gội duyên lành này siêu sinh tịnh độ. Kính cầu cho ngài Thái phó họ Dương chủ xướng việc đúc chuông cho tới lệnh lang nối dõi trở xuống oan khiên rũ sạch, phúc lộc dồi dào.
Chuông đã đúc xong nên làm bài văn nêu cho mai hậu. Tôi tự xét mình kém cỏi, không rõ thể tài, dám xin làm lời minh rằng:
Chùa chiền xây cất đã xong xuôi, Pháp tướng kim dung đẹp tuyệt vời.
Cảnh tỉnh chuông rền vọng khắp nơi, Thấm nhuần sâu rộng lẫn xa xôi.
Thân tâm mỏi mệt thảy vui cười, Trút gánh lo toan đặng nghỉ ngơi
Chủ chuông phúc hưởng mãi không vơi, Sống thọ ngàn năm giữ góc trời”
Nguồn: Đ4, tr.210; T1, số 4 (119) – 2013, tr.23-39.
Tháng 12 (tháng Một – Đinh Dậu)
038. Lập Dương Hoán làm Thái tử
Về thời điểm, sử cũ ghi lệch nhau 1 tháng (Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên ghi tháng Mười, Việt sử lược ghi tháng Một) nhân việc vua ngự đến hành cung Khải Thụy xem gặt. Đêm ấy mặt trăng có một quầng. Tìm con trai họ tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: “Trẫm trị muôn dân mà đến già vẫn không có con nối, ngôi báu của thiên hạ truyền cho ai được! Nên nuôi con trai của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thiều Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử”. Lúc bấy giờ con Sùng Hiền mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Hoàng Thái tử.
Khác với sử cũ của ta, An Nam chí lược của Lê Tắc, An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng đều ghi Dương Hoán là con Nhân Vương Càn Đức.
Nguồn: V17, tr.115; Đ4, tr.210; Đ5, tr.332; A1, tr.226; A2, tr.315.
NĂM 1122 (NHÂM DẦN)
Tháng 3 (tháng 2 – Nhâm Dần)
039. Nhà sư Dương Tu dang một đôi ngọc bích trắng
Đến tháng 5-1124 (tháng Tư – Giáp Thìn), Thủ lĩnh châu Quảng Nguyên là Dương Tự Hưng lại dâng lên nhà vua con hươu trắng; tháng 4-1127 (tháng Ba – Đinh Mùi), Thủ lĩnh châu Tư Nông là Dương Tuệ dâng hai khối vàng sống trường thọ.
Nguồn: Đ4, tr.213-217.
NĂM 1128 (ĐINH MÙI – MẬU THÂN)
Tháng 1 (tháng Chạp – Đinh Mùi)
040. Triều đình gả Công chúa Diên Thành cho Thủ lĩnh phủ Phú Lương Dương Tự Minh
Dương Tự Minh được coi là bậc anh hào trong số các Thổ tù thuộc phủ Phú Lương. Theo Quang Vinh phúc thần sư lục bi ký tạo năm Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (1784), đặt tại xã Quang Vinh, tổng Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, nay thuộc thành phố Thái Nguyên thì ông người xã Quan Triều (xã này thời Lê thuộc tổng Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên, nay thuộc thành phố Thái Nguyên), sinh trưởng trong một gia đình danh gia lệnh tộc, nhiều đời làm Thủ lĩnh, Tù hào. Tuổi ấu thơ, ông thường lên chơi trên núi Cẩm, có người tặng cho chiếc áo tàng hình, nhiều lần có mặt trong các đội quân của địa phương lập được công tích, năm ngoài 20 tuổi thay cha [Dương Tự Hưng] làm Thủ lĩnh phủ Phú Lương.
Nguồn: Đ16, tr.1055-1057; Đ4, tr.217.
Ngày 22 tháng 1 (26 tháng Chạp – Đinh Mùi)
041. Lý Nhân Tông băng hà, Dương Hoán lên ngôi – bắt đầu thời kỳ họ Dương thay họ Lý điều hành Đại Việt
Mùa đông, tháng Chạp năm Đinh Mùi, Lý Nhân Tông nhận thấy sức khỏe ngày xấu đi, cho Thái úy Lưu Khánh Đàm vào nhận chiếu rằng: “Trẫm nghe phàm giống sinh vật không giống nào là không chết. Chết là số lớn của trời đất, lẽ của vật đều thế. Thế mà người đời không ai không thích sống mà ghét chết. Chôn cất cho hậu để mất sinh nghiệp, trọng để tang đến tổn hại tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi, lại để cho nhân dân mình mặc sô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, tuyệt cúng tế, làm cho lỗi ta nặng thêm, thì thiên hạ bảo ta là người thế nào! Trẫm xót phận tuổi còn nhỏ đã nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi, đến nay đã 56 năm rồi. Nhờ anh linh của tổ tông, được hoàng thiên tin giúp, bốn biển yên lành, biên thùy ít biến, đến chết được dự đứng sau các tiên quân là may lắm rồi, sao còn nên thương khóc? Trẫm từ khi đi xem gặt lúa đến giờ, bỗng nhiên bị ốm, bệnh đã kéo dài, sợ không kịp nói đến việc nối ngôi, mà thái tử Dương Hoán nay đã đủ 12 tuổi, có nhiều đại độ, thông minh thành thực, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo điển cũ của trẫm mà lên ngôi hoàng đế, để cho kẻ thơ ấu chịu mệnh trời mà nối mình truyền nghiệp của ta, làm rộng lớn thêm công nghiệp trước. Nhưng cũng nhờ ở quan dân các ngươi một lòng giúp đỡ mới được. Như Bá Ngọc, ngươi thực là tư cách người tôn trưởng, nên sửa sang giáo mác để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh ta, dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì sau 3 ngày bỏ áo trở đi, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước; không xây lăng mộ riêng, nên chôn ngay bên cạnh Tiên đế. Than ôi! Mặt trời đã xế, tấc bóng khó dừng, một đời từ giã, vĩnh quyết nghìn năm. Các ngươi nên thực lòng kính nghe lời trẫm, bảo rõ cho các vương công, tuyên bố ra ngoài”. Ngày Đinh Mão, vua băng ở điện Vĩnh Quang.
Hoàng Thái tử Dương Hoán lên ngôi ở trước linh cữu. Hạ lệnh cho Vũ vệ Lê Bá Ngọc tuyên bảo các vương hầu và các quan văn võ lui ra ngoài cửa Đại Hưng, sai các thành lại đóng cửa thành canh giữ cẩn mật, không cho ai đi lại ra vào; lại sai cấm quân cầm binh khí đứng ở dưới điện Thiên An, rồi sai mở cửa nách bên hữu, gọi các quan vào Long Trì, sai Bá Ngọc truyền bảo các vương hầu và các quan văn võ rằng: “Không may tiên đế lìa bỏ bầy tôi, ngôi trời không thể bỏ không lâu được, ta còn ít tuổi, cố gượng nối ngôi, các khanh nên bền vững một lòng, giúp đỡ nhà vua, không những là không phụ lòng tiên đế chú ý trông mong, và cũng để con cháu các khanh đời hưởng lộc vị”. Các quan đều lạy mừng và thương khóc. Sai nội nhân Đỗ Thiện, xá nhân Bồ Sùng đem việc ấy báo với Sùng Hiền hầu. Xuống chiếu cho các làng mạc trong nước đều yên nghiệp như cũ, không được chứa giấu giặc cướp trốn tránh và đánh nhau giết người.
Nguồn: Đ4, tr.217-218; Đ5, tr.337-338; V17, tr.118.
Ngày 24 tháng 2 (30 tháng Giêng – Mậu Thân)
042. Thần Tông Dương Hoán bắt đầu ra nhà giảng học
Ngay sau khi lên ngôi được khoảng 2 tuần, nhà vua đã phải tiến hành dầy đặc các công việc, trong khoảng thời gian từ ngày Nhâm Ngọ (12 tháng Giêng – Mậu Thân, tức 6-2-1128) đến ngày Canh Tý (30 tháng Giêng – Mậu Thân, tức 24-2-1128) như sau:
Ngày Nhâm Ngọ, các quan dâng biểu xin quàn ở điện Hồ Thiên. Ngày Quý Mùi, các quan mặc áo trở ở ngoài gác Vĩnh Bình. Ngày Giáp Thân, các quan dâng biểu xin vua ngự chính điện. Ngày Ất Dậu, vua bắt đầu ngự điện Thiên An coi chầu, xuống chiếu cho các quan bỏ áo trở, ngay trong ngày vua ngự ra Na Ngạn (nay chia làm 2 huyện Lục Nam, Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang) xem các cung nữ lên dàn thiêu để chết theo Đại Hành hoàng đế. Ngày Bính Tuất, đổi niên hiệu là Thiên Thuận năm thứ nhất, tôn mẹ nuôi là Thần Anh phu nhân làm Hoàng Thái hậu, đại xá, xuống chiếu cho dân ruộng đất bị quan tịch thu và những người bị ghi tên vào sổ (điền nhi) để sung vào việc cày ruộng cho nhà nước đều được trả về; các tăng đạo và dân chúng bị tội đồ phải đi đày đều tha cả, lại cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng theo chế độ xưa. Ngày Mậu Tý, tôn thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng đế là Hiếu từ thánh thần văn vũ Hoàng đế, niên hiệu là Nhân Tông. Ngày Kỷ Sửu, biếm Đại liêu ban Lý Sùng Phúc vì khi đi qua cửa thành Tây Dương, người tuần lại hỏi mà không trả lời. Ngày Tân Mão xuống chiếu rằng đang có Quốc tang, nhân dân trong nước không được cưỡi ngựa và đi võng màu lam cùng xe che màn.
Ngày Canh Tý (30 tháng Giêng, tức 24-2-1118), nhà vua bắt đầu ngự Kinh Diên nghe giảng sách.
Nguồn: V17, tr.139; Đ4, tr.218-219; Đ5, tr.338-341.
Ngày 25 tháng 2 (1 tháng 2 – Mậu Thân)
043. Nội nhân hỏa đầu Dương Anh Nhĩ được làm Thái phó, tước Đại liêu ban
Ngoài ra nhà vua còn cho Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc làm Thái úy, thăng tước hầu, Nội nhân hỏa đầu Lưu Ba làm Thái phó, tước Đại liêu ba, Trung thừa Mâu Du Đô làm Gián nghị Đại phu, thăng trật Chư vệ, Nội nhân hỏa đầu Lý Khánh, Nguyên Phúc, Cao Y làm Thái bảo, tước Nội thượng chế; Nội chi hậu Quản giáp Lý Sơn làm Điện tiền Chỉ huy sứ, tước Đại liêu ban, kép hát Ngô Toái làm Thượng chế, Ngự khố thư gia Từ Đình làm Viên ngoại lang. Lại ban tiền lụa cho Bá Ngọc, Lưu Ba và Du Đô cùng các quan chức theo thứ bậc khác nhau để đền công phò tá khi vua lên ngôi,
Nguồn: V17, tr.139; Đ4, tr.219-220; Đ5, tr.341.
Ngày 26 tháng 2 (2 tháng Hai – Mậu Thân
044. Thần Tông Dương Hoán sai người mang lễ vật của Nhân Tông trước đây ban cho Sùng Hiền hầu
Đó là Thái phó Lưu Ba và Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô. Tiếp theo nhà vua còn cho người ở Hòa Trại cáo phó với nhà Tống, báo việc mình lên ngôi (lúc này Tống Cao Tông đang lánh người Kim ở phủ Lâm Tây, vùng Hàng Châu – Chiết Giang), xuống chiếu cho Phi kỵ Đỗ Lại sang Chiêm Thành cũng về việc này cho phát vàng và lụa trong kho cho các quan theo thứ bậc khác nhau.
Nguồn: Đ4, tr.220.
Ngày 4 tháng 3 (9 tháng Hai – Mậu Thân)
045.
Thần Tông Dương Hoán cho nhiều người họ Đào, họ Lý giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình
Về họ Đào có Đào Thuấn làm Thượng thư sảnh Viên ngoại lang Hành tây thượng Cáp môn sứ; Đào Lão làm Thượng thư sảnh Viên ngoại lang; Đào Sâm, Đào Tương làm Trung thư hỏa; Đào Lục làm Chi hậu thư gia. Về họ Lý có Lý Bảo Thần làm Thượng thư sảnh Viên ngoại lang Hành đông thượng Cáp môn sứ; Lý Khái làm Thượng thư sảnh Viên ngoại lang; Lý Ngũ, Lý Cá làm Chi hậu thư gia.
Nguồn: Đ4, tr.220; Đ5, tr.341-342.
Ngày 18 tháng 3 (23 tháng Hai – Mậu Thân
046. Thần Tông Dương Hoán cử Nhập nội Thái phó Lý Công Bình chặn đánh Chân Lạp ở Nghệ An thắng lợi
Trước đó nhà vua đã cho Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô chọn quân Lang Dực cũ làm các quân tả hữu Ngọc Giai, Hưng Thánh, Quảng Thành, Vũ Đô. Ngày Giáp Dần (14 tháng Hai – Mậu Thân) hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu thuộc châu Nghệ An, nhà vua xuống chiếu cho Nhập nội Thái phó Lý Công Bình đem quan chức và người Nghệ An đi đánh. Ngày Quý Hợi (23 tháng Hai – Mậu Thân), Lý Công Bình đánh thắng, bắt được chủ tướng và nhiều binh lính.
Ngày Đinh Mão (27 tháng Hai – Mậu Thân) thư báo thắng trận về đến Kinh sư. Ngày hôm sau, vua ngự đến hai cung Thái Thanh và Cảnh Linh và các chùa quán trong thành để tạ ơn. Tháng 3 – mậu Thân (4-1128), Lý Công Bình về đến Thăng Long, dâng 169 tù binh.
Nguồn: Đ4, tr.220; Đ5, tr.342; V17, tr.140.
Ngày 20 tháng 3 (25 tháng Hai – Mậu Thân)
047. Các quan dâng tôn hiệu lên Thần Tông Dương Hoán
Tôn hiệu được dâng lên nhà vua là: Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng đế. Vua bảo các quan rằng: “Trẫm tuổi còn trẻ, nối nghiệp lớn của Tiên thánh, mà thiên hạ yên tĩnh, trong nước đều sợ uy, đó đều là nhờ sức của các khanh, các khanh nên cẩn thận giữ chức vụ của mình, chớ sinh lòng lười biếng để giúp đỡ trẫm những điều còn thiếu sót”.
Lập Lý Thị làm Hoàng hậu. Trước đây sai Viên ngoại lang là Lý Khánh Thần và vợ của ông đi đón con gái của Điện tiền chỉ huy sử là Lý Sơn. Viên ngoại lang là Trần Ngọc Khánh và vợ của ông đi đón con gái của Lê Xương là cháu chú bác của Thái phó là Lê Bá Ngọc, rồi sách lập con gái của Sơn làm Nghiễm Thiên Hoàng hậu, con gái của Lê Xương làm Minh Bảo phu nhân. Thăng Sơn lên trật ký hậu, Trị Lạng Châu quân sự, cho Xương tước Đại liêu ban.
Nguồn: Đ4, tr.220-221; Đ5, tr.342.
Ngày 25 tháng 3 (30 tháng Hai – Mậu Thân)
048. Thần Tông Dương Hoán dự hội thề ở Long Trì
Nhà vua ngự đến điện Thiên An để xem các quốc nhân – tức đội ngũ quyền cao chức trọng nhất của triều đình thề nguyền, nhân xuống chiếu phát y phục, tiền lụa ở Nội phủ cho các quốc nhân.
Ít ngày sau, vua sai Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô về phủ Thiên Đức chọn đất tốt xây Sơn lăng cho Lý Nhân Tông; cho Hoàng hậu Lệ Thiên và phu nhân Minh Bảo về thăm nhà, xuống chiếu cấm các gia nô và lính lệ của các quan không được lấy con gái lương dân. Ngoài ra nhà vua còn đi xem hội lớn tổ chức ở Linh Quang rồi trai giới cầu đảo vì hạn nặng. Lại cho tha thuế cho trăm người họ của Thái hậu biên vào sổ bộ.
Nguồn: Đ4, tr.221-222; Đ5, tr.343.
Tháng 7 (tháng 6 – Mậu Thân)
049. Địa táng Lý Nhân Tông tại lăng Thiên Đức
Vì gần đến ngày đưa xương tro Lý Nhân Tông về lăng Thiên Đức nên nhà vua ban chiếu cho quần thần ở ngoài cửa Đại Hưng. Sau lễ tống táng, vua cho lấy ngày sinh làm tiết Thiên Thụy (điềm lành của trời).
Nguồn: Đ4, tr.222; Đ5, tr.344.
Tháng 8 (tháng Bẩy – Mậu Thân)
050. Thần Tông Dương Hoán ngự điện Thiên An nhân tiết Trung nguyên
Các quan dâng biểu mừng nhưng đúng vào dịp lễ Vu Lan bồn của Lý Nhân Tông nên không đặt lễ yến.
Nguồn: Đ4, tr.222.
Tháng 9 (tháng Tám – Mậu Thân)
056. Dương Ổ, Nguyễn Hà Viêm đánh bại Chân Lạp ở Nghệ An
Người Chân Lạp mang 700 chiến thuyền vào tận hương Đỗ Gia (sau hương này đổi thành huyện Đỗ Gia, nay là Hương Sơn – Hà Tĩnh) cướp bóc. Lúc đó Dương Ổ (có tài liệu ghi là Dương Đảo, Dương Công Đảo) – viên quan coi châu Nghệ An và Nguyễn Hà Viêm – viên quan coi phủ Thanh Hóa được cử mang quân chặn đánh, thắng lợi. Chân Lạp nhờ Dương Ổ chuyển Quốc thư cho Thần Tông Dương Hoán xin giao hảo nhưng nhà vua không trả lời.
Nhà vua xuống chiếu cho Lưu Khánh Đàm, Mâu Du Đô chọn lựa quan chức, chuyển di chiếu của Lý Nhân Tông tới các quan.
Nguồn: Đ4, tr.222; Đ5, tr.344.
Tháng 12 (tháng Một – Mậu Thân)
057. Thần Tông Dương Hoán cho Nhạc phụ là Thái úy Lê Bá Ngọc làm Thái sư, đổi sang họ Trương
Nhờ Nghĩa mẫu – người nuôi nấng trong cung là Thần Anh phu nhân, Thái sư Lưu Khánh Đàm – Trung thư thừa Mâu Du Đô và đặc biệt là chỉ huy cấm quân Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc nên việc lên ngôi của Dương Hoán được thuận lợi – vì vậy Lê Bá Ngọc được thăng Thái úy, tước hầu. Ngày Quý Hợi tháng Hai – Mậu Thân (23 tháng Hai – Mậu Thân, 20-3-1128), Lê Bá Ngọc dã sắp xếp con gái của Lê Xương và là cháu của mình làm vợ Thần Tông Dương Hoán, hiệu là Minh Bảo phu nhân, thăng Lê Xương là Sơn Kỳ hầu, tri Lạng Châu quân sư, tước Đại liêu ban. Minh Bảo phu nhân sau trở thành Cảm Thánh Hoàng hậu, mẹ đẻ của Thiên Tộ.
Theo Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi tịnh tự lập năm 1159, Lê Bá Ngọc là cha nuôi của Đỗ Anh Vũ mà Đỗ Anh Vũ lại là em trai của Đỗ Thái hậu, vợ Sùng Hiền hầu, mẹ Dương Hoán.
Như vậy, dưới thời Thần Tông Dương Hoán, thế lực họ Lê và họ Đỗ trong triều là khá lớn.
Nguồn: Đ4, tr.222; Đ5. Tr.344.
NĂM 1129 (KỶ DẬU)
Cuối tháng 1 (đầu tháng Giêng – Kỷ Dậu)
058. Thái úy Dương Anh Nhĩ dâng hươu trắng
Trước đó, Nhập nội Điện trung Lý An Dậu cũng dâng hươu trắng, được tước Đại liêu ban và đến tháng sau, Thân vương ban Lý Lộc tâu nói trên núi Tản Viên có hươu trắng, vua sai Thái úy Dương Anh Nhĩ đi bắt và cho Lộc tước Đại liêu ban. Về việc này, sứ thần Ngô Thì Sĩ bàn: “Xét một tập sử đời vua Thần Tông, sử cũ chép 29 điểm tốt (1 lần cờ phướn trong chùa không gió tự bay; 8 lần dâng hươu; 3 lần dâng cục vàng sống; 2 lần dâng ngựa sinh cựa; 4 lần dâng rùa, 1 lần dâng cá diếc vàng, 3 lần có chim sẻ trắng; 1 lần tâu là có thần giáng; 2 lần dâng cá xương công; 2 lần có rồng vàng hiện; 1 lần dâng ngọc thiền; 1 lần chuông lớn cổ hiện lên. Bọn đại thần như Thái úy là Dương Anh Nhĩ dâng hươu trắng; Thiếu sư là Lý Công Tín dâng khối vàng; Cận thần như Nhập nội điện trung là Lý An Dậu dâng hươu trắng; Nhập nội long đồ là Mâu Du Đô dâng ngựa mà hai chân sinh cựa; Ngự tiền chỉ huy sứ là Vương Cát tâu là thần giáng. Ngoài ra như bọn Quản Giáp, Hỏa đầu, Châu mục, Thủ lĩnh, Đào nhân, Tượng công, Hương thị, Tăng nhân, mỗi người đều có dâng, không lần nào vua không nhận […]. Nhưng nhiều như thế dùng để làm gì mà không chán? Có lẽ còn chưa hết tính trẻ con, mà các bề tôi lúc đó xu mị như điên như dại. Nhờ vào đó mà được quan cũng không lấy làm xấu hổ”.
Nguồn: Đ4, tr.222-223; Đ5, tr.346-347.
Ngày 12 tháng 2 (29 tháng Giêng – Kỷ Dậu)
059. Thần Tông Dương Hoán tôn cha sinh Sùng Hiền hầu làm Thái Thượng hoàng và mẹ là Đỗ Thị làm Hoàng Thái hậu, cho ở cung Đông Nhân
Sử thần Lê Văn Hưu bàn về việc làm này như sau: “Thần Tông là con người tôn thất, Nhân Tông nuôi làm con để nối nghiệp lớn. Đáng lẽ phải coi Nhân Tông là cha, mà gọi cha sinh là Sùng Hiền hầu là Hoàng thúc (chú vua), mẹ thân sinh là Đỗ Thị làm Vương phu nhân như Tống Hiếu Tông đối với Tú An Hy vương và phu nhân Trương Thị, để thống nhất về một gốc là phải. Nay lại tôn Sùng Hiền hầu làm Thái Thượng hoàng, Đỗ Thị làm Hoàng Thái hậu, chẳng hóa ra hai gốc ư? Có lẽ bởi Thần Tông bấy giờ còn trẻ thơ, mà các công khanh trong triều đình như Lê Bá Ngọc, Mâu Du Đô lại không có người nào biết lễ cho nên thế đấy”. Tuy nhiên, sử thần Ngô Thì Sĩ lại cho rằng: “Thần Tông khi ấy đã 14 tuổi, tuy không có tư chất như Hán Chiêu, nhưng cũng không đến nỗi còn thơ trẻ không biết gì. Làm lễ tôn sùng cho người sinh ra mình, tự cho là việc dĩ nhiên, chưa từng có một lần triệu tập quần thần để bàn bạc, sao chẳng nghĩ tới khi được nuôi dưỡng ở trong cung, vốn cùng bọn các con như Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng cùng đều một bực thôi”.
Đây chỉ là cách nhìn của người làm sử đời sau khi vãn quan niệm rằng Sùng Hiền hầu cùng gốc Lý, ruột thịt với Lý Nhân Tông, dù cho như Việt sử lược thừa nhận rằng vào tháng Bẩy – Kỷ Dậu (8-1129) “đèn ở bàn thờ vua Nhân Tông sinh ra hai ngọn”.
Nguồn: V17, tr.140; Đ4, tr.222-223; Đ5, tr.345.
Tháng 3 (tháng Hai – Kỷ Dậu)
060. Thần Tông Dương Hoán trai giới cầu mưa
Ngoài ra nhà vua còn xuống chiếu xá cho những người có tội trong thiên hạ.
Nguồn: Đ4, tr.223; Đ5, tr.346.
Tháng 9 (tháng Tám – Kỷ Dậu)
061. Thần Tông Dương Hoán ban hành chính pháp
Trước hết nhà vua cho lập thần chủ rồi rước thần vị Lý Nhân Tông để thờ phụ ở Thái Thất. Sau đó, nhà vua xuống chiếu quy định nô tỳ của vương hầu và các quan không được cậy thế đánh đập quan quân và thường dân, kẻ vi phạm phải làm khổ sai hoặc quan nô.
Nguồn: Đ4, tr.224; Đ5, tr.348.
NĂM 1130 (CANH TUẤT)
Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Tuất)
062. Thần Tông Dương Hoán ban chiếu cấm con gái nhà quan lấy chồng sớm
Theo chiếu chỉ, con gái nhà quan đợi qua đợt chọn sung vào hậu cung, người nào không trúng tuyển mới được phép lấy chồng.
Trong tháng nhà vua cho Ngọc khố thư gia Lương Cải giữ phủ Thanh Hóa.
Nguồn: Đ4, tr.224; Đ5, tr.349.
Tháng 6 (tháng Năm – Canh Tuất )
063. Thái Thượng hoàng Sùng Hiền hầu băng, đặt tên thụy là Cung Hoàng.
Theo Dương tộc kỷ sử (Lý tộc Dương tộc gia phả), tương truyền do Dương Hữu Tự Do soạn vào năm Đinh Dậu (1597) thì Sùng Hiền hầu có tên là Dương Công Khanh – con trai của Thừa tướng Quốc công Dương Công Tiến dưới thời Lý Thánh Tông (1054-1072), anh trai của Dương Tam Đảo (Sử cũ ghi là Dương Ổ – có lẽ vì tự dạng của Đảo và Ổ gần như nhau, người vào tháng 9-1128 mang quân đánh dẹp Chân Lạp ở Nghệ An), em trai của Dương Thị Phương Hoài – vợ của Càn Đức Lý Nhân Tông.
Nếu Dương tộc kỷ sử chỉ dừng lại ở đây thì chứng lý và tư liệu đưa ra mang tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, khi đi sâu vào thế hệ con cái của Dương Công Khanh để so sánh với Việt sử lược, Đại Việt sử ký (toàn thư và tiền biên) độ vênh bắt đầu xuất hiện:
Dương tộc ký sử cho biết Sùng Hiền hầu sinh được 2 trai, 1 gái là Dương Công Hoán, Dương Tự Minh và Dương Thị Huệ – trong đó Dương Công Hoán sinh ngày 5 tháng Một năm Bính Thân (1116), Dương Tự Minh không rõ năm sinh và không rõ lý do chạy đi Đô Lương (nay là Phú Lương – Thái Nguyên) nhập vào dân tộc nhưng chắc chắn phải sinh từ năm 1117 trở đi. Vậy mà, theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng Chạp năm Đinh Mùi (1-1128), triều đình gả Công chúa Diên Thành cho Thủ lĩnh phủ Phú Lương Dương Tự Minh. Điều này khó xảy ra khi chàng trai mới chừng 10 tuổi đã trở thành Phò mã lang và Thủ lĩnh phủ Phú Lương lớn rộng. Phải chăng sử cũ nhầm Dương Tự Thông với Dương Tự Minh. Tuy nhiên, cũng Đại Việt sử ký toàn thư cho ta biết rằng Dương Hoán có hai Hoàng đệ là [Dương] Tinh và [Dương] Chu Cá chứ không phải Dương Tự Minh.
Cũng Dương tộc kỷ sử ghi rằng Dương Công Khanh mất ngày 10 tháng Ba năm Quý Mão (31-3-1123), chứ không phải tháng Năm năm Canh Tuất (6-1130) như sử sách ghi nhận.
Nguồn: V17, tr.140; Đ4, tr,225; Đ5, trang 350; D9
Tháng 12 (tháng Một – Canh Tuất)
064. Thần Tông Dương Hoán tiến hành nhiều hoạt động quân sự, ngoại giao
Ngoài những lễ cầu mưa rồi lại cầu tạnh diễn ra từ tháng 7 đến tháng 10-1130, nhà vua còn ngự ra điện Linh Quang xem đua thuyền; xuống chiếu tha tù bị giam ở phủ Đô hộ; ngự điện Thiên Linh duyệt 6 quân, định ra cấp bậc; nhận sắc phong Giao Chỉ Quận Vương của nhà Tống; nhận cống lễ của Chiêm Thành; cho sứ thần Chiêm Thành vào Long Trì xem mình đánh cầu; mở hội khánh thành chùa Quảng Nghiêm Tư Thánh; cử Viên ngoại lang Lý Phụng Ân và Lệnh thư gia Doãn Anh Khải sang nhà Tống đáp lễ.
Nguồn: V17, tr.140; Đ4, tr.225; Đ5, tr.351.
NĂM 1131 (TÂN HỢI)
Tháng 3 (tháng Hai – Tân Hợi)
065. Em trai của Thần Tông Dương Hoán qua đời
Hoàng đệ tên là Dương Tinh, thứ nam của Sùng Hiền hầu.
Nguồn: Đ4, tr.225.
Tháng 5 (tháng Tư – Tân Hợi)
066. Thần Tông Dương Hoán ban một số lệnh cấm
Trong đó có việc xuống chiếu cấm gia nô của vương hầu, công chúa và các quan không được lấy con gái con nhà bách tính cũng như dân thường; cấm con gái dân gian không được bắt chước kiểu vấn tóc như cung nhân.
Nguồn: V17, tr.141; Đ4, tr.226; Đ5, tr.351.
Tháng 6 (tháng Năm – Tân Hợi)
067. Thần Tông Dương Hoán sai dựng nhà cho Đại sư Minh Không
Đại sư tên húy là Nguyễn Chí Thành, quán làng Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là làng Điềm Xá, xã Gia Thắng, Gia Viễn – Ninh Bình), cha là Nguyễn Sùng, mẹ là Dương Thị Mỹ – quê Phả Lại, tổng Đào Thông, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn (nay là làng Phả Lại, xã Đức Long, Quế Võ – Bắc Ninh). Đại sư sinh năm Bính Ngọ, niên hiệu Long Chương Thiên Tự đời Lý Thánh Tông (1066), lớn lên đã cùng Từ Đạo Hạnh, Giác Hải sang Tây Trúc học đạo, trở về nước tu ở chùa Quốc Thanh. Khi Từ Đạo Hạnh hóa, Minh Không được Thần Tông quý trọng, nhiều lần vời về Thăng Long. Đến đây thì dựng nhà cho Đại sư ở Kinh thành.
Nguồn: Đ4, tr.226; Đ5, tr.351; T4, tr.901.
Tháng 11 (tháng Mười – Tân Hợi)
068. Lại một em trai của Thần Tông Dương Hoán qua đời
Hoàng đệ tên là Dương Chu Cá, thứ nam của Sùng Hiền hầu. Trước khi Hoàng đệ mất, Ngự tiền chỉ huy sứ Vương Cát tâu việc phát hiện dấu vết thần giáng ở Long Trì, trước lầu chuông bên trái, dấu dài 8 tấc 5 phân, rộng 5 tấc.
Nguồn: Đ4, tr.226.
NĂM 1132 (NHÂM TÝ)
Ngày 8 tháng 6 (1 tháng năm – Nhâm Tý)
069. Hoàng tử trưởng là Dương Thiên Lộc sinh
Mặc dù mới 17 tuổi nhưng việc một Cung nữ sinh được con trai cũng khiến nhà vua hết sức vui mừng, liền phong làm Hoàng tử trưởng (tuy nhiên vẫn để mẹ đẻ của Thiên Lộc ở địa vị thấp kém như cũ). Một tháng sau, một Hoàng hậu sinh được Trưởng nữ nhưng không nuôi được, càng khiến cho Thần Tông yêu quý Thiên Lộc hơn.
Nguồn: Đ4, tr.226.
Tháng 9 (tháng Tám – Nhâm Tý)
070. Thái úy Dương Anh Nhĩ đánh thắng quân Chân Lạp và Chiêm Thành tại châu Nghệ An
Trước đó, Cự Bàn là người Chiêm Thành cùng nhiều tù binh đang bị an tháp ở các châu Nghệ An, Thanh Hóa bỏ trốn, trên đường lẩn tránh bị bắt tại trại Nhật Lệ giải về Kinh sư. Ít lâu sau, Lệnh thư gia Trần Lưu ở Nghệ An bắt được 3 người Chiêm Thành. Những người Chiêm Thành này thường mai phục ở những nơi hiểm yếu bắt cóc người Việt ở châu này đem bán cho người Chân Lạp. Khi được lệnh đánh quân Chân Lạp và Chiêm Thành, Thái úy Dương Anh Nhĩ chỉ mang lực lượng của châu Nghệ An và châu Thanh Hóa đi đánh.
Nguồn: V17, tr.141; Đ4, tr.226-227; Đ5, tr.352.
NĂM 1133 (NHÂM TÝ – QUÝ SỬU)
Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Tý)
071. Thần Tông Dương Hoán dự lễ khánh thành điện Cảm Linh
Điện Cảm Linh, gác Phụng Thiên được khởi dựng từ mấy tháng trước, đến đây khánh thành nên nhà vua làm lễ nghênh xuân ở đình Quảng Văn, ban yến cho các quan nhân dịp làm xong việc.
Trong tháng này Thượng thư Lý Nguyên bị tội chết ở trong ngục vì con gái là Thứ phi Chương Anh có lỗi; nhà Tống cử người sang phong nhà vua là Giao Chỉ Quận vương.
Nguồn: Đ4, tr.227; Đ5, tr.353.
Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Sửu)
072. Cải nguyên niên hiệu thành Thiên Chương Bảo Tự năm đầu
Khi mới lên ngôi, Thần Tông Dương Hoán đổi niên hiệu là Đại Thuận năm đầu (theo Việt sử lược) hoặc Thiên Thuận năm thứ 1 (theo Đại Việt sử ký, toàn thư và tiền biên). Về sự kiện này, chỉ có Việt sử lược ghi lại và cho biết tiếp một số hiện tượng khác như đèn Diên Mệnh ở điện Đại Minh có hoa đèn, cây phướn quý múa, ngựa mọc cựa (tháng Hai – Quý Sửu), rồng hiện ở điện Vĩnh Quang (tháng Sáu – Quý Sửu), làm quán Diên Sinh ngũ nhạc (tháng Mười – Quý Sửu).
Nguồn: V17, tr.141.
NĂM 1134 (GIÁP DẦN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Dần)
073. Thần Tông Dương Hoán ban tước cho Ngụy Quốc Bảo, Mâu Du Đô
Viên ngoại lang Ngụy Quốc Bảo được ban tước Đại liêu ban vào ngày mồng 1 tháng Giêng. Ít lâu sau, Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô cũng được ban tước trên. Ngoài ra, nhà vua còn ngự đến xem việc dựng chùa Thiên Ninh, Thiên Thành; tô tượng Đế Thích và dự lễ cầu tạnh mưa dầm.
Nguồn: Đ7, tr.227; Đ5, tr.353.
Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Dần)
074. Thần Tông Dương Hoán ban lệnh cấm chi hậu, nội nhân ra ngoài nhũng nhiễu
Lệnh cấm bao gồm các viên kể trên, nếu tự tiện ra ngoài, làm trái thì khép vào tội nặng. Nếu có việc phải xin tâu trước.
Nguồn: Đ4, tr.227; Đ5, tr.353.
NĂM 1135 (ẤT MÃO)
Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Mão)
075. Thần Tông Dương Hoán cho Ngự khố Thư gia Dương Chưởng giữ phủ Thanh Hóa
Trước đó ít hôm, cây khô ở Cổ Pháp Đường bỗng nở hoa; quả chuông đồng cổ và con rùa ngực có 4 chữ Nhất thiên vĩnh thánh xuất hiện.
Nguồn: Đ4, tr.228; Đ5, tr.354; V17, tr.141.
Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Mão)
076. Thần Tông Dương Hoán cử Thái úy Đỗ Anh Vũ và Thái phó Lý Công Bình đánh quân Văn Đan tại Nhật Nam
Lực lượng quân đội Đại Việt khi đó lên tới 30 vạn người, tiến theo đường biển đến xứ Âm Dã thuộc quận Nhật Nam, đuổi đánh đối phương đến tận Vụ Ôn. Cũng năm ấy, Đỗ Anh Vũ còn được lệnh đi đánh dẹp ở Sơn Liêu, nơi lực lượng nổi dậy dựa vào núi non hiểm trở cầm cự đã nhiều năm.
Nguồn: T15.
Tháng 5 (tháng Tư – Ất Mão)
077. Thần Tông Dương Hoán ban chiếu đặc cách
Theo đó, Tả ty Lang trung Lý Công Tín được tự do ra vào nơi cung cấm để tâu việc; Viên ngoại lang Ngụy Quốc Bảo cũng được chức Tả ty Lang trung hưởng đặc quyền trên.
Trong tháng này, nhà vua còn ngự tới lầu Ngũ Nhạc dự lễ khánh thành 3 pho tượng Phật đúc bằng vàng bạc.
Nguồn: Đ4, tr.228; Đ5, tr.354-355.
NĂM 1136 (BÍNH THÌN)
Tháng 4 (tháng Ba – Bính Thìn)
078. Thần Tông Dương Hoán bị bệnh nặng, Đại sư Minh Không chữa khỏi
Trước đó, Thái sư Lê Bá Ngọc, Thành Hưng hầu và Thái úy Lưu Khánh Đàm lần lượt qua đời; tháng Hai – Bính Thìn (3-1136), động đất ở châu Nghệ An, nước sông đỏ như máu.
Về việc Thần Tông Dương Hoán ốm nặng, Đại Việt sử ký toàn thư ghi:
“Vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm Quốc sư. Tha phú dịch cho vài trăm hộ. (Tục truyền rằng khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc và thần chú giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh nặng thì đến chữa ngay. Tức là việc này).
Đại Việt sử ký tiền biên dẫn giải kỹ hơn:
“Phong sư Minh Không là Quốc sư. Khi ấy vua bị bệnh nặng, thầy thuốc chữa không hiệu nghiệm, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm Quốc sư, cho hưởng vài trăm hộ (sử cũ chép: tục truyền rằng, khi sư Đạo Hạnh sắp trút xác, đem thuốc về thần chú giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và dặn rằng: “Hai mươi năm sau, nếu thấy Quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa” có lẽ là lượm lặt chuyện chép trong sách Chích quái cho Minh Không là học trò của Đạo Hạnh đấy. Lại xét theo Ngoại truyện: cha Đạo Hạnh là Từ Vinh vì phép thuật bị sư Đại Điên giết chết, Đạo Hạnh nghĩ cách báo thù cho cha và tu đạo ở Tinh Xá chùa Hương Tích, đi đường gặp Nguyễn Minh Không kết bạn cùng đi, đến chùa Vân Mộng, sư chùa ấy dạy cho quyết thần thông, được 3 năm từ giã trở về, Đạo Hạnh muốn thử pháp luật, đùa nấp vào nơi hiểm, hóa làm con Hổ để dọa Minh Không, Minh Không biết, trách là có nết tà và lại có lời thần chú, Đạo Hạnh thẹn và hối hận xin tạ lỗi và nói: “Nghiệp chướng kiếp khác chưa trừ bỏ hết, dám phiền giải thoát cho”. Đạo Hạnh về Sài Am; Minh Không về Giao Thủy. Sau nghe Đạo Hạnh trút xác, cười bảo với học trò rằng: “Vị hòa thượng này, còn mộ giàu sang ở cõi đời chăng?”. Đến khi ấy vua Thần Tông bị đau kêu gầm lên muốn biến thành hổ, thầy thuốc chữa không hiệu nghiệm, bọn trẻ con hát rằng: “Dục y Lý cửu trùng, tu đắc Nguyễn Minh Không” [Muốn chữa bệnh cho vua nhà Lý, phải tìm ông Nguyễn Minh Không]. Thái hậu nghe thấy, sai sứ đón về, Minh Không đến trình bày “nhân quả” kiếp trước cho vua nghe, vua tỉnh ngộ bệnh liền khỏi, thưởng cho vàng lụa, Minh Không từ chối không nhận, nên có câu kệ rằng: “Kỳ lân đồ hậu mạt, nguyệt vọng đáo trung thiên”. Người đời bấy giờ không hiểu câu nói đó, sau vua ở ngôi và tuổi thọ ngầm đúng như lời kệ. Minh Không người làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, đến đời Anh Tông Đại Định năm thứ 2 thì mất, thọ 76 tuổi. Nay ở các chùa Phả Lại, Giao Thủy đều có tượng thờ)”.
Nguồn: V17, tr.142; Đ4, tr.229; Đ5, tr.355-356.
Ngày 4 tháng 5 (9 tháng Tư – Bính Thìn)
079. Hoàng tử Thiên Tộ sinh
Hoàng tử là con thứ hai của Thần Tông Dương Hoán. Mẫu thân của Hoàng tử là Cảm Thánh phu nhân, còn gọi là Lê Thái hậu, Linh Chiểu Hoàng thái hậu. Cảm Thánh phu nhân là con của Phụ Thiên Đại vương và Thụy Thánh Công chúa, có Tổ phụ là Chân Đăng bảo sở Quan sát sứ họ Lê quê ở hương Tuế Phong (nay thuộc Hương Nộn, Tam Nông – Phú Thọ), hậu duệ xa của Lê Hoàn. Lại có Tổ mẫu là Ngọc Kiều Công chúa, con gái của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung. Cảm Thánh phu nhân nhập cung năm Giáp Dần (1134).
Cảm Thánh phu nhân còn có em gái là Phụng Thánh phu nhân tức Lê Thị Lan Xuân, được Thần Tông Dương Hoán sủng ái vì tính đoan trang hiền thục, ưa nhìn, được sắc phong ngang hàng với chị vào đầu năm Bính Thìn (1136).
Nguồn: V17, tr.142; T15,
Tháng 10 (tháng Chín – Bính Thìn)
080. Thái phó Lý Công Bình đánh thắng quân Chân Lạp ở châu Nghệ An
Sách Đại Việt sử ký, (toàn thư và tiền biên) đều chép sự kiện này xảy ra vào tháng Giêng năm Đinh Tỵ (2-1137) do trước đó bỏ không chép các sự kiện xảy ra vào năm Quý Sửu (1133) vì vậy có một số sự kiện tương đồng trong khoảng thời gian 1133-1139, Đại Việt sử ký chép chậm khoảng 1 năm so với Việt sử lược. Sự kiện này cho biết, tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng cầm đầu đạo quân này, nhanh chóng bị Lý Công Bình đánh bại.
Ngoài sự kiện trên, Đại Việt sử ký (toàn thư và tiền biên) cho biết vào tháng Chín – Bính Thìn,Gián nghị Định phu Mâu Du Đô bị bãi chức, Thái úy Dương Anh Nhĩ qua đời.
Nguồn: V17, tr.142; Đ4, tr.229; Đ5, tr.356-357.
NĂM 1137 (BÍNH THÌN – ĐINH TỴ)
Tháng 1 (tháng Chạp – Bính Thìn)
081. Cho Dương Chưởng làm Viên ngoại lang
Cùng với sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi vào tháng Tư năm Đinh Tỵ (5-1137) sinh Hoàng tử thứ ba nhưng không rõ tên rồi sau đó sinh Hoàng nữ thứ hai – tức Thụy Thiên Công chúa.
Nguồn: Đ4, tr.230; Đ5, tr.357.
Ngày 3 tháng 11 (26 tháng Chín – Đinh Tỵ)
082. Thần Tông Dương Hoán băng hà tại điện Vĩnh Quang
Theo Đại Việt sử ký (toàn thư và tiền biên) vào tháng Chín năm Đinh Tỵ nhà vua thấy mình không khỏe bèn cho lập Hoàng tử là Thiên Tộ làm Hoàng Thái tử. Trước kia vua đã từng lập Thiên Lộc làm con nối dõi. Đến khi ấy vua nằm bệnh, ba phu nhân là Cảm Thánh, Nhật Phụng, Phụng Thánh muốn đổi lập Thái tử khác, bèn sai người đem nhiều của đút lót cho Tham tri Chính sự là Từ Văn Thông, nói rõ ý muốn thay đổi Thái tử và nhờ giúp việc đó. Văn Thông nhận lời. Đến khi vua bệnh nặng, triệu Văn Thông thảo di chiếu, Văn Thông không dám xin thay đổi, nhưng đã chót nhận hối lộ, nên chỉ cầm bút mà không viết. Một lát sau, ba phu nhân đến, cùng nhau nghẹn ngào trước vua mà rằng: “Bọn thiếp nghe rằng: Từ xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ; Thiên Lộc là con người nàng hầu yêu, nếu cho nối ngôi thì mẹ nó tất lấn át sinh ghen ghét, thế thì mẹ con bọn thiếp biết có khỏi tai nạn được không?”. Vua bèn ban chiếu rằng: “Hoàng tử là Thiên Tộ, tuy tuổi còn thơ ấu, nhưng là con đích, thiên hạ đều biết cả, nên cho nối nghiệp của trẫm, còn Thái tử là Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo vương”. Ngày 26, vua băng ở điện Vĩnh Quang, quản ở thềm bên tây điện ấy. Các quan dâng tôn hiệu là Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ hoàng đế miếu hiệu là Thần Tông.
Vua năm mới lên ngôi, còn trẻ người non dạ, đến khi lớn lên, tư chất thông tuệ, độ lượng rộng rãi, sửa sang chính sự, dùng người hiền tài, thủy chung đều chính, nhiệm nhặt khúc nôi, không gì sai lệch. Tuy thân mang ác tật, nhưng rồi chữa khỏi, cũng là trời để ý đến. Song, quá ưa thích điềm lành vật lạ, sùng thượng đạo Phật; chẳng đáng quý gì.
Lê Tung nói: Vua Thần Tông sử dụng hiền tài, mở khoa thi hành từ, định sắc lệnh binh, nông, về mặt chính sự thì siêng năng đấy. Nhưng quá thích điềm lành, sùng chuộng Phật giáo. Đánh giặc mà quy công cho Phật, dâng hươu mà được nhận quan tước. Sao mà ngu thế.
Thời điểm Thần Tông Dương Hoán qua đời có mấy điểm cần lưu tâm:
– Các tài liệu được biên soạn dưới thời Lý – Trần đều thống nhất vào tháng Chín năm Đinh Tỵ như Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự (1153), Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí (1173), Việt sử lược, An Nam chí lược trong đó Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự viết: “Tháng Chín năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiệu Minh thứ nhất, vua Thần Tông ốm nặng. Nhà vua rửa mặt xong, ngồi tựa vào ghế mà dặn Thái úy rằng: – Chỉ có Thái úy là người có thể gửi gắm họ Lý được thôi! Sau khi vua Thần Tông băng hà, Thái úy cùng Hiến Chi Hoàng Thái hậu rước vua Anh Tông từ nhà Thượng Thanh về cung lên ngôi”.
– Do từ năm 1133 đến 1139 ghi thiếu 1 năm như đã dẫn ở trên nên từ Đại Việt sử ký toàn thư trở đi, các sách đều ghi vào thời điểm Thần Tông Dương Hoán qua đời là vào tháng Chín năm Mậu Ngọ – trong đó có cả Tống sử (4.488 – Ngoại quốc 4. Giao Chỉ).
Sự kiện này dựa vào các tài liệu được biên soạn vào thời Lý – Trần bảo đảm được độ trung thực và chính xác.
Nguồn: V17, tr.142; T15; A1, tr.226; Đ4, tr.230; Đ5, tr.358; A3, tr.42.
Ngày 8 tháng 11 (1 tháng Mười – Đinh Tỵ)
083. Anh Tông Dương Thiên Tộ lên ngôi
Hoàng Thái tử lên ngôi trước linh cữu, lúc vừa sang tuổi lên 3. Sau khi quần thần dâng tên hiệu, lấy niên hiệu là Thiệu Minh năm đầu, tôn mẹ là phu nhân Cảm Thánh làm Hoàng Thái hậu.
Nguồn: V17, tr.142.
NĂM 1138 (MẬU NGỌ)
Tháng 5 (tháng Tư – Mậu Ngọ)
084. Nhân tiết Thọ Ninh, lập Hoàng hậu
Ngày sinh nhật của vua được lấy làm tiết Thọ Ninh.
Nguồn: V17, tr.142.
Tháng 11 (tháng Mười – Mậu Ngọ)
085. Thân Lợi, tức Lý Trí Tri hoặc Triệu Trí Tri, Thái tử của Lý Nhân Tông bị bỏ rơi, từ Đại Lý về nước đòi lại ngôi vị của họ Lý đang trong tay họ Dương
Các sách cổ sử của ta chỉ ghi Thân Lợi tự xưng là con của Lý Nhân Tông (Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên) nhưng Tống sử ghi rành rẽ hơn: “Trước đây Càn Đức có người con vợ lẽ [tên là Lý Trí Tri] chạy sang Đại Lý đổi tên họ là Triệu Trí Tri, tự xưng Bình Vương. Nghe tin Dương Hoán chết, Đại Lý sai [Trí Tri] về nước tranh ngôi với Thiên Tộ”.
Để trở về, Thân Lợi đã bí mật hành binh men theo đường biển, vào sông Thái Bình rồi ngược sông Cầu, “đem đồ đảng do đường thủy đến châu Thái Nguyên, sang châu Tây Nông, qua châu Lục Lệnh vào chiếm cứ châu Thượng Nguyên và châu Hạ Nông, thu nhặt những kẻ trốn tránh, chiêu mộ thổ binh, có đến hơn 800 người cùng mưu làm loạn”.
Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự lại ghi rằng, “Tháng Chín năm Mậu Ngọ… lúc bấy giờ vùng Khê Động nơi biên tái có một yêu đồng tên là Thượng Suy Vi, xưng là con côi của Nhân Tông, tụ tập đồ đảng và tiếm hiệu là Bình Nguyên Đại tướng”.
Nguồn: A3, tr.42; V17, tr.143; Đ4, tr.232; Đ5, tr.361; T15.
NĂM 1139 (KỶ MÙI)
Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Mùi)
086. Thân Lợi xưng vương, xây dựng lãnh địa riêng tại thượng du sông Cầu
Ngoài việc tự xưng là Bình Vương, Thân Lợi còn lập vợ cả và vợ lẽ làm Hoàng hậu và phu nhân, con làm Vương hầu, cho những người thân tín quan tước theo thứ bậc khác nhau. Lực lượng của Bình Vương lên tới hơn ngàn người, đi đến đâu cũng nói phao là thủ lĩnh giỏi binh thuật để hiếp chế người miền biên giới khiến cho các khe động lo sợ.
Nguồn: Đ4, tr.233; Đ5, tr.361-362.
Tháng 3 (tháng Hai – Kỷ Mùi)
087. Anh Tông Thiên Tộ cử binh đánh dẹp Thân Lợi bị thất bại
Nhận được thư cáo cấp của quan coi biên giới, Anh Tông xuống chiếu cho Gián nghị Đại phu Lưu Vũ Xứng đem quân do đường bộ tiến đi, Thái phó là Hứa Viêm đem quân do đường thủy tiến ngược lên để đánh. Khi ấy Vũ Xứng sai tướng tiền phong là Thị vệ Tô Tiệm và Chủ đô trại Tuyên Minh là Trần Thiềm đem quân đi trước đóng ở sông Bác Đà, gặp thủy quân của Thân Lợi cùng giao chiến. Sau khi tiêu diệt Tô Tiệm, Thân Lợi trở về giữ châu Thượng Nguyên, đắp đồn ải ở huyện Bác Nhự để chống quan quân. Vũ Xứng đánh lấy được ải Bác Nhự, tiến đến Bồ Đinh, gặp thủy quân của Thân Lợi, tướng sĩ chết đến quá nửa, rồi rút về.
Nguồn: Đ4, tr.233; Đ5, tr.362.
Tháng 5 (tháng Tư – Kỷ Mùi)
088. Anh Tông Thiên Tộ cử Đỗ Anh Vũ cầm quân đối địch với Thân Lợi
Sau khi đánh thắng quân triều đình, Thân Lợi sai người sang nhà Tống tiến cống với tư cách vua tôi nhà Lý chính tông rồi mượn quân đưa mình về nước nhưng việc không thành. Theo Ngô Thì Sĩ thì “xét niên hiệu Thiệu Hưng thứ 9 thời Tống (1139), quan Súy ty Quảng Tây nói rằng: “Vua Nhân Tông nhà Lý có người con của cung thiếp, không nhận mà lại lập vua Thần Tông. Con người cung thiếp đó chạy sang Đại Lý đổi làm họ Triệu, tên là Trí Chi, tự xưng làm Nam Bình Vương. Thần Tông mất, nước Đại Lý cho Trí Chi về nước, muốn tranh ngôi với vua Anh Tông. Anh Tông cho quân chống lại, Trí Chi nhân thế tiến xin mượn quân nhà Tống. Quan Súy ty nhà Tống an ủi bảo về, rồi đem việc đó tâu lên cho vua Tống biết, vua Tống ban chiếu khước từ. Ý chừng Trí Chi và Thân Lợi khi ấy chỉ là một người, họ tự trần tình với Quảng Tây để xin nhà Tống cho viện binh, lấy tên là Trí Chi, nói dối là con của Nhân Tông để đánh lừa nhà Tống mà thôi. Sử ghi: Tháng giêng, mùa xuân năm sau, Thân Lợi tiếm hiệu Bình Vương; bỏ thiếu chữ Nam có lẽ vì cớ không rõ Thân Lợi đầu cuối ra sao. Lại xét sách Quế Hải chí của Phạm Thành Đại nói: Anh Tông có người anh từng làm Tri châu ở Lạng Châu mưu đoạt ngôi, việc bị phát giác đày ở châu Tuyết Hà, cạo đầu làm sư. Có thể nói người Tống ưu đãi nhà Lý, không muốn gây ra hiềm khích, đã cự tuyệt Trí Chi khiến nó không thể tung hoành được. Còn kẻ cạo đầu làm sư tuy không do người nào, hoặc là Thiên Lộc bị phế, bè đảng của nó chạy sang tố cáo với nhà Tống, người Tống bắt tội nó, có lẽ có sự cảnh giác như việc Nùng Trí Cao”.
Bị nhà Tống khước từ, Thân Lợi đem toàn bộ lực lượng của mình tỏa đi các nơi rồi chiếm cứ châu Tây Nông, sai người ở các châu Thượng Nguyên, Tuyên Hóa, Cảm Hóa, Vĩnh Thông đánh lấy phủ Phú Lương. Thân Lợi chiếm giữ phủ trị, đêm ngày bàn định mưu kế để đánh cướp Kinh sư. Nghe tin, nhà vua sai Thái úy Đỗ Anh Vũ đem quân chờ đánh Thân Lợi.
Nguồn: Đ4, tr.233; Đ5, tr.362.
Tháng 6 (tháng Năm – Kỷ Mùi)
089. Thủ lĩnh Dương Mục bị bắt ở Kinh sư
Nhằm đánh chiếm Thăng Long, Thân Lợi đem toàn bộ lực lượng về đóng ở Quảng Dịch. Tại đây lực lượng của Thân Lợi gặp quân của Anh Vũ, hai bên đánh nhau to. Quân của Thân Lợi thua chết không xiết kể. Anh Vũ sai chém lấy đầu bêu lên ở cạnh đường suốt từ cửa quan Bình Lỗ đến sông Nam Hán. Các thủ lĩnh châu Vạn Nhai là Dương Mục, thủ lĩnh động Kim Kê là Chu Ái rơi vào tay quân triều đình bị đóng cũi giải về Kinh sư. Thân Lợi chỉ chạy thoát một mình về châu Lục Lệnh. Đỗ Anh Vũ bèn đưa Dương Mục, Chu Ái về trói giam ở huyện phủ. Anh Tông xuống chiếu cho Anh Vũ chiêu tập tàn tốt của Thân Lợi ở cửa quan Bình Lỗ, phát muối kho ngự cho Dương Mục, Chu Ái.
Nguồn: V17, tr.143; Đ4, tr.233 ; Đ5, tr.362.
090. Đỗ Anh Vũ đánh thắng Thân Lợi ở Lục Lệnh
Trong trận quyết định này, quân nổi dậy bị bắt, giết hơn 2000 người, chỉ có Thân Lợi trốn sang Châu Lượng nhưng cũng bị Thái phó Tô Hiến Thành bắt được rồi giao cho Đỗ Anh Vũ đóng cũi giải về Kinh sư. Anh Tông đã sai Lý Nghĩa Lâm vỗ yên lực lượng còn sót của Thân Lợi, xuống chiếu cho quan Đinh úy xét tội Thân Lợi. Án xong, vua ngự điện Thiên Khánh xử Thân Lợi và hơn 20 người đều bị tội trảm. Những người khác thì theo tội nặng nhẹ mà xử, tha cho những kẻ bị hiếp đi theo. Các quan dâng biểu mừng.
Về sự kiện này, xin bổ sung thêm những điều được Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự mô tả:
[Sau khi] Anh Tông từ nhà Thương Thanh về cung lên ngôi, Thái úy [Đỗ Anh Vũ] chấn chỉnh triều cương, trăm quan khép mình mà nghe lệnh, sửa sang chính trị, muôn dân nghển cổ để nhìn trông. Hoàng Thái hậu thấy Thái úy có nhiều công lao, bèn thăng Thái úy lên chức Kiểm hiệu Thái phó. Tháng Chín năm Mậu Ngọ lại được thăng Phụ quốc Thái úy và được ban quốc tính họ Lý. Thái úy được hoàn toàn nắm giữ binh quyền. Lúc bấy giờ vùng Khê Động nơi biên tái, có một yêu đồng tên là Thượng Suy Vi, tự xưng là con côi của Nhân Tông, tụ tập đồ đảng và tiếm hiệu là Bình Nguyên Đại tướng. Vua sai Tả gián nghị Đại phu Lưu Cao Nhĩ đem quân đi dánh nhưng đảng giặc càng quá quắt. Thế là Thái úy ăn không ngon, ngủ không yên bèn tâu vua rằng: – Thần nghe nói vua lo thì tôi chết. Man Di khinh nhờn Trung hạ là tội của hạ thần! Vua chuẩn lời thỉnh cầu của Thái úy. Thái úy lĩnh chức Nguyên soái thống lĩnh sáu quân. Sau khi nhận Tiết việt và tuyên thệ trước quân sĩ, Thái úy đem quân đến bến Nam Khoáng và chia quân ra làm 10 đạo để đề phòng sự không hay. Quân giặc tuy đông nhưng Thái úy mới đánh một trận mà chúng đã tan vỡ. Khi nghịch đảng đã bị bắt, Thái úy đem quân về triều báo tin thắng trận, nhà vua ban thưởng rất hậu, sử sách ghi chép công lao. Vua ban cho mũ áo ba tầng, vỗ về tông thân của Thái úy và làm cho họ hàng được rỡ ràng. Vua lại ban cho Thái úy lụa tốt và ba phủ Nghệ An, Thanh Hóa và Phú Lương làm phong ấp. Thái úy cấm trừ di tục, man dân khoanh tay mà chịu mặc hình; trộm cướp và dân ở biên thùy đều khiếp sợ mà nghe theo sự giáo hóa của nhà vua”.
Để làm rõ hơn sự chênh lệch về thời gian giữa Việt sử lược so với Đại Việt sử ký (toàn thư, tiền biên) xin dẫn chứng chú thích của các dịch giả Đại Việt sử ký toàn thư: “Ngô Thì Sĩ trong sách Việt sử tiêu án nhận xét rằng: “Xét năm Thiệu Hưng thứ 9, Quảng Tây súy ti nhà Tống nói: “Đời Lý Nhân Tôn người cung thiếp sinh đứa con trai, Nhân Tôn không nhận, khi Thần Tôn lập, đứa con ấy chạy sang nước Đại Lý, đổi họ là Triệu, tên là Trí Chi, tự hiệu là Nam Bình Vương. Thần tôn băng thì về nước tranh ngôi với Anh Tôn. Anh Tôn đem binh chống đánh. Trí Chi đem việc ấy tâu lên [xin Tống giúp]. Vua Tống xuống chiếu không cho”. Vậy Trí Chi và Thân Lợi có lẽ là một người. Việc Triệu Trí Chi về nước tranh ngôi, Tống sử, q.488 cũng chép như thế vào năm Thiệu Hưng thứ 9. Nhưng năm ấy là vua Tống hạ chiếu cho Quảng Tây súy ti bảo đừng nhận cho Triệu Trí Chi vào cống; trước đó thì Quảng Tây úy ti đã báo cáo việc Triệu Trí Chi về tranh ngôi nhà Lý sau khi Dương Hoán (Thần Tôn) chết; như vậy thì việc Triệu Trí Chi tranh ngôi phải là bắt đầu từ trước năm ấy. Thế mà Toàn thư lại chép việc Thân Lợi hoạt động vào năm Thiệu Hưng thứ 11”. Chúng tôi thấy Ngô Thì Sĩ cho Triệu Trí Chi là Thân Lợi là đúng. Nhưng tại sao Toàn thư lại chép muộn như thế? Chúng ta hãy xét niên hiệu của Toàn thư và đối chiếu niên hiệu của Toàn thư với niên hiệu của Tống sử xem thế nào. Một điều nên chú ý là Toàn thư bỏ hẳn không chép năm Quí Mão (1133), do đó nên trong mấy năm về sau, có nhiều việc thấy Toàn thư chép chênh lệch với Tống sử và Việt sử lược là sách tóm tắt sử cũ. Để đối chiếu niên hiệu của sử ta với niên hiệu của sử Tống, có thể lấy sự thích nghi nhật hiện, sao chổi và tháng nhuận làm căn cứ. Trong đời Khâm Tôn và Cao Tôn nhà Tống tương đương với đời Nhân Tôn và Thần Tôn nhà Lý, sử Tống và sử ta đều chép năm Tĩnh Khang thứ 1, tức năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (1126) có tháng Một nhuận, như thế là niên hiệu hai bên không sai nhau. Nhưng sao chổi xuất hiện Tống sử, q.30 và Tục tư trị thông giám, q.127 đều chép vào tháng Tư năm Thiệu Hưng thứ 15 là năm Ất Sửu thì Toàn thư lại chép vào tháng Tư năm Bính Dần Thiệu Hưng 16. Tục tư trị thông giám chép năm Thiệu Hưng thứ 15 có tháng Một nhuận, Toàn thư lại chép tháng nhuận vào năm Thiệu Hưng 16. Như thế là Toàn thư chép chậm 1 năm so với sử nhà Tống. Tại sao có việc chênh lệch như vậy? Chúng tôi thấy là do việc Toàn thư bỏ không chép năm Quý Sửu nên đã chép sai năm Lý Thần Tôn chết. Việt sử lược chép Lý Thần Tôn chết năm Đinh Tị Thiên Chương Bảo Tự thứ 5, tức năm Thiệu Hưng thứ 7 (1137). So sánh Toàn thư với Việt sử lược, chúng ta thấy từ sau năm Quý Sửu, có nhiều việc Việt sử lược chép vào năm trước mà Toàn thư lại chép vào năm sau, năm chết của Lý Thần Tôn là một lệ. Xét riêng về điểm này, tại sao Toàn thư lại chép việc ấy chậm một năm vào năm Thiệu Hưng thứ 8? Có lẽ là Toàn thư thấy tài liệu nhà Tống nói rằng “năm Thiệu Hưng thứ 9, Quảng Tây súy ty báo cáo về việc Triệu Trí Chi sau khi nghe tin Lý Thần Tôn chết thì về nước tranh ngôi với Anh Tôn, thì cho rằng Thần Tôn chết phải là ở năm trước, tức là năm Thiệu Hưng thứ 8, cho nên chép Thần Tôn chết vào tháng Chín năm Mậu Ngọ Thiệu Hưng thứ 8, chứ không chép vào tháng Chín năm Đinh Tị như Việt sử lược. Chúng tôi cho rằng về điểm này Việt sử lược căn cứ vào tài liệu của sử cũ chép đúng mà Toàn thư chép thế là sai. Do chép sai như thế nên Toàn thư đã kéo dài niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự thêm một năm thứ 6 và do đó đặt năm đầu niên hiệu Thiệu Minh vào phần sau năm ấy là năm Mậu Ngọ. Đúng thì năm đầu Thiệu Minh phải là năm Đinh Tị và năm Mậu Ngọ phải là năm thứ 2 như Việt sử lược chép. Vậy năm Kỷ Mùi phải là năm Thiệu Minh thứ 3 đồng thời là năm Đại Định thứ 1, tương đương với năm Thiệu Hưng thứ 9. Vậy thì năm Đại Định thứ 7 là năm có sao chổi (chép theo sử cũ) phải là năm Ất Sửu Thiệu Hưng thứ 15. Cứ thế thì Thân Lợi khởi sự phải là việc ở năm Thiệu Hưng thứ 7 hay thứ 8, có lẽ là đầu năm thứ 9 (1138). Năm Thiệu Hưng thứ 9 (1939) Thân Lợi còn sống. Theo Toàn thư thì đến tháng Mười năm Đại Định thứ 2 (theo niên hiệu đã điều chỉnh là năm 1140) Lợi mới bị bắt. Toàn thư chép Thân Lợi bị bắt vào năm Đại Định thứ 2 là đúng, mà sai là cho Lợi khởi sự cùng vào năm ấy. Việt sử lược chép Thân Lợi nổi dậy từ đầu năm Kỷ Mùi là đúng, và sai ở chỗ cho cả việc Lợi bị bắt ở tháng Mười cũng vào năm Kỷ Mùi. Sở dĩ có sự chép chênh lệch nhau như thế là bởi chép sai niên hiệu”.
Nguồn: Đ4, tr.234-235; Đ5, tr.362-363.
NĂM 1140 (CANH THÂN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Thân)
091. Anh Tông Thiên Tộ cải nguyên, tha tù
Nhân việc nhà vua cải nguyên niên hiệu thành Đại Định năm đầu, Thái phó Tô Hiến Thành tâu xin: – Đảng Thân Lợi nổi loạn, giết nhiều quan quân, bệ hạ chỉ hành hình 20 người, thực là có lòng nhân đức. Nhưng xưa kia vua Nghiêu, vua Thuấn truyền nối trong vòng hơn một trăm năm, thế mà số người bị tội chết, bị tội lưu chỉ có 4 tên đầu sỏ gian ác, ngày nay phát lưu đến hơn trăm người, có phải là bản tâm của bệ hạ đâu? Tôi xin tha tội cho chúng để mọi người được nhuần thấm ơn vua, thì lòng nhân đức của bệ hạ không khác ghì Nghiêu Thuấn!
Nhà vua đã y theo lời, xuống chiếu tha tội phóng trục và lưu đày cho hơn 400 người theo Thân Lợi đang bị giam giữ.
Nguồn: V17, tr.143; K7, tập 1, tr.378; Đ4, tr.236; Đ5, tr.363.
NĂM 1141 (CANH THÂN – TÂN DẬU)
Tháng 1 (tháng Chạp – Canh Thân)
092. Anh Tông Thiên Tộ ban chiếu cho chuộc lại ruộng đã cầm bán
Chiếu của nhà vua ấn định, các ruộng cày cấy được bán trong vòng 20 năm thì cho phép chuộc lại còn những ruộng đất tranh chấp đã ngoài 50 năm thì không được thưa kiện nữa. Ruộng đất bán đã có văn khế thì không được chuộc lại.
Nguồn: V17, tr.143.
NĂM 1142 (NHÂM TUẤT)
Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Tuất)
093. Lần thứ hai Dương Tự Minh trở thành Phò mã lang
Ngoài việc triều đình gả Công chúa Thiều Dung, ông còn được yêu cầu rời phủ Phú Lương về hẳn Thăng Long.
Nguồn: V17, tr.144.
Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Tuất)
094. Phò mã lang Dương Tự Minh được cử đi chiêu tập người dân vùng châu Quảng Nguyên
Sở dĩ có việc này vì tay chân của Đàm Hữu Lượng từ đất Tống thường lẻn sang lôi kéo dân chúng, chuẩn bị cơ sở cho sau này.
Nguồn: Đ4, tr.265; Đ5, tr.363.
NĂM 1143 (QUÝ HỢI)
Tháng 9 (tháng Tám – Quý Hợi)
095. Phò mã lang Dương Tự Minh tiến đánh lực lượng của Đàm Hữu Lượng
Nhận được tin người yêu thuật nước Tống là Đàm Hữu Lượng tự xưng là Lữ Tiên sinh (có sách ghi là Triệu Tiên sinh), được lệnh đi sứ sang An Nam dụ Lý Anh Tông, nhà vua đã cử Phò mã sang Dương Tự Minh đi chiêu tập dân chúng, trực tiếp cai quản việc công các khe động dọc biên giới về đường bộ từ cuối năm trước nhưng nhiều người vẫn bị bè đảng của chúng lôi kéo. Đến lúc này nhà vua lại xuống chiếu cho Phò mã lang Dương Tự Minh chuẩn bị truy quét.
Sau khi tràn qua biên giới, lực lượng của Đàm Hữu Lượng tiến vào đánh phá vùng Quảng Nguyên. Tình hình biên giới khá nguy ngập, đến mức Kinh lược Súy ty Quảng Tây nước Tống phải đưa thư nhờ đánh bắt hộ. Đứng trước tình hình ấy, Phò mã lang Dương Tự Minh cùng các văn thần là Nguyễn Nhữ Mai, Lý Nghĩa Vinh đốc quân lên đường, tiếp đó Thái sư Mâu Du Đô chỉ huy lực lượng tại chỗ của các khe động dọc biên giới về đường bộ hỗ trợ. Khi quân của Mâu Du Đô đến nơi thì Tự Mình đã lấy được ải Lũng Đổ châu Thông Nông, bắt được bè đảng của Hữu Lượng là bọn Bá Đại 21 người, duy có Hữu Lượng chạy thoát, trốn vào núi rừng, đầm trạch. Vua ban chiếu cho Quản quân xứ Lý Nghĩa Vinh, áp giải bọn Bá Đại giao trả về nước Tống. Quan Ung Châu nước Tống tạm cấp giấy cáo thân đồng thời với Hữu Lượng và hơn 20 người thủ lĩnh ở châu Quy Thuận. Khi đến trại Dương Sơn (có bản chép là Hoành Sơn), quan Ung Châu nhà Tống là Triệu Nguyện bắt Hữu Lượng giải đến Súy ty, chém chết. Trong đảng của Hữu Lượng có người tên là Dương Ư, ở ngực có thích vân rồng đen, người Tống biết là người nước ta, nhân đấy cùng với các thủ lĩnh đều trả lại cho ta, đều bỏ ngục chết.
Nguồn: V17, tr.144; Đ4, tr.233; D5, tr.364.
Tháng 9 (tháng Tám – Quý Hợi)
096. Lệnh doãn Dương Hỗ cùng Thái học sinh Hà Văn Chiếu tham gia vào đoàn của Lý Nghĩa Vinh áp giải đồ đảng của Đàm Hữu Lượng sang đất Tống
Theo thần tích lưu tại Nghè Giếng và Nghè Hàn Lâm thuộc xã Nghĩa Phương – Na Ngạn (nay thuộc Lục Nam – Bắc Giang), vào thời ấy, địa phương có Dương Hỗ, tự là An Quý, đỗ Cống cử, được bổ làm Lệnh doãn đã vâng lệnh vua Anh Tông cùng Thái học sinh Hà Văn Chiếu đang là Hàn lâm học sĩ đi cùng sứ bộ Đại Việt nhận việc trao trả đồ đảng Đàm Hữu Lượng. Chẳng may sau khi giải quyết xong công việc ở Hộ Châu và Quảng Nam, Hà Văn Chiếu trên đường trở về bị bệnh, qua đời vào ngày 8 tháng Một năm Quý Hợi. Hà Văn Chiếu được triều đình phong cho là Thắng Địch hầu và thờ ở Nghè Hàn Lâm. Tại đây hiện vẫn còn đôi câu đối.
“Học sĩ thanh danh dương Bắc địa
Bông lai cũng khuyết đối Nam sơn”
(Đạo học tiếng tăm lừng đất Bắc
Cung trên cao rộng ngút trời Nam)
Riêng với Dương Hỗ, khi về tới quê nhà được một thời gian cũng qua đời vào ngày 12 tháng Mười năm Giáp Tý (1144).
Nguồn: B5, tr.185-187.
NĂM 1144 (GIÁP TÝ)
097. Thái úy Đỗ Anh Vũ tìm mọi cách giảm thiểu ảnh hưởng của Phò mã lang Dương Tư Minh
Sau khi dẹp xong Thân Lợi, mặc dù được kiêm nhiếp cả phủ Phú Lương nhưng Đỗ Anh Vũ vẫn lo Phò mã lang lấn át, cản trở con đường thăng tiến và vạch tội tư thông với Lê Thái hậu. Do bản tính kiêu căng bừa bãi ở chốn triều đình, quen giơ tay thét lớn, sai khiến quan lại chỉ nhếch mép ra hiệu nên viên Thái úy này bất chấp tất cả. Cuối năm 1143, ngoài việc xin xây cung Quảng Từ cho Lê Thái hậu ra ở, Đỗ Anh Vũ còn tiến hành chuyến khảo sát đám quan liêu, định số mục hộ tịch và cử tay chân là Trung thư hỏa Nguyễn Quyền về cai quản phủ Phú Lương. Trong năm 1144 lấy cớ quân sĩ không luyện tập thì không lấy gì mà dẹp được loạn, dân không dạy chiến đấu thì không lấy gì uy phục tứ di, Đỗ Anh Vũ nắm trọn lực lượng quân đội vào tay mình.
Phò mã lang Dương Tự Minh – một võ tướng và thủ lĩnh nổi tiếng một thời trong việc giữ gìn, bảo vệ biên cảnh hầu như bị vô hiệu hóa.
Nguồn: V17, tr.144-145; T15.
NĂM 1148 (MẬU THÂN)
Tháng 10 (tháng Chín – Mậu Thìn)
098. Phò mã lang Dương Tự Minh cầm đầu việc lật đổ uy quyền của Thái úy Đỗ Anh Vũ
Tức nước vỡ bờ, Phò mã lang Dương Tự Minh cùng Điện tiền Chỉ huy sứ Vũ Đái huy động lực lượng tới bao vây cửa Việt Thành ở Thăng Long hô to lên rằng: – Anh Vũ ra vào nơi cung cấm, làm nhiều điều ô uế, tiếng lan ra cả bên ngoài. Bọn thần xin trừ khử đi, chớ để lo về sau! Nhà vua bèn chiếu sai cấm quân đến bắt Anh Vũ giam ở chái Tả Hưng thành (Việt sử lược ghi là Hành lang Cụ Thánh), giao cho đình úy xét việc. Thái hậu sai người mang cơm rượu cho Anh Vũ, ngầm để vàng vào trong đồ đựng món ăn, để đút lót cho Vũ Đái và các người canh giữ. Tả hưng Thánh hỏa đầu là Nguyễn Dương nói: “Bọn người tham của đút, ta với ngươi tất không khỏi tay Anh Vũ đâu, chi bằng giết trước đi cho khỏi mối lo về sau”. Bèn cầm giáo định đâm. Tả hưng Thánh đô là Đàm Dĩ Mông ôm Nguyễn Dương cướp lấy cái giáo, ngăn lại và nói rằng: “Điện tiền bảo rằng Anh Vũ tội đáng chết, nhưng phải đợi mệnh lệnh của vua, không nên tự tiện”. Nguyễn Dương giận nói: “Điện tiền Vũ Cát chẳng phải là Đái à! (chữ Cát Đái phương ngôn nói là cứt đái), sao tham của đút mà không tiếc thân mình!”. Nói xong rồi tự biết là không khỏi chết, mới nhảy xuống giếng tự tử.
Bấy giờ vua xử án của Anh Vũ, đày Anh Vũ làm cảo điền nhi (một loại tội đồ khi đó).
Nguồn: V17, tr.145; Đ4, tr.239 ; Đ5, tr.367
NĂM 1150 (CANH NGỌ)
Tháng 10 (tháng Chín – Canh Ngọ)
099. Phò mã lang Dương Tự Minh bị lưu đày
Thấy người tình thất thế, lưu đày như một kẻ tội đồ mang trọng tội, Lê Thái hậu lo buồn, cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới nhiều lần mở đại hội để xá cho tội nhân, mong rằng Anh Vũ được dự vào đấy. Anh Vũ được mấy lần xá tội, lại làm Thái úy phụ chính như cũ, càng được yêu tin hơn, do đấy chuyên làm oai làm phúc, việc sống chết ở trong tay, mà lòng báo thù lúc nào cũng tỏ rõ. Mặc dù đã được như vậy, nhưng Đỗ Anh Vũ còn sợ rằng bọn quan lại đi bắt phần nhiều không được như ý mình, mới dâng hơn một trăm người thủ hạ để làm Đô phụng quốc vệ, người nào phạm tội đều giao cho Đô phụng quốc vệ bắt cả. Anh Vũ lại mật tâu với vua rằng: “Trước kia bọn Vũ Đái tự tiện đem cấm quân xông vào cung đình, tội ấy không gì to bằng, nếu không trừng trị sớm đi, sợ một ngày kia sinh biến, không thể tính được”. Vua chẳng biết gì cả, cũng y lời tâu. Anh Vũ sai Đô phụng quốc vệ bắt Vũ Đái giam vào ngục trị tội. Xuống chiếu giáng Trí Minh Vương làm tước hầu, Bảo Minh hầu làm tước Minh tự, Bảo Thắng hầu làm phụng chức; Nội thị Đỗ Ất 5 người phải tội “cưỡi ngựa gỗ”, Hỏa đầu đô Ngọc giao là Đồng Lợi 8 người chém ở chợ Tây Nhai, Điện tiền đô chỉ huy Vũ Đái 20 người chém bêu đầu ở các bến sông, còn Phò mã lang Dương Tự Minh 30 người lưu ở những nơi xa độc; các người dự mưu đều đổ làm điền hoành, khoa giáp, quả như lời nói của Nguyễn Dương.
Ngoài ra, nhà vua còn xuống chiếu cấm hoạn quan không được tự tiện vào trong cung, ai phạm thì tội chết. Nếu không cẩn thận để người khác vào trong cung thì cũng phải tội như thế. Cấm các quan trong triều không được đi lại nhà các vương hầu ở trong cung cấm không được hội họp nhau năm ba người bàn luận chê bai; vi phạm thì có tội. Kẻ nào phạm việc qua lại ngoài địa đầu chái chứa khí giới của Đô phụng quốc vệ thì xử 80 trượng, tội đồ; của đến trong chái ấy thì xử tử. Quân Đô phụng quốc vệ ở trong chái ấy có chiếu chỉ mới được cầm khí giới, nếu không có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới đi ra ngoài địa đầu thì xử tử.
Khi Anh Tông Thiên Tộ bị ốm, Đỗ Anh Vũ bày trò tắm gội trai giới, chọn đất lập đàn, dựng nghi trượng cầm ngọc khuê, cầu xin chịu bệnh thay vua. Khi khỏi bệnh, nhà vua đã ban cho viên Thái úy này một nghìn quan tiền và ba mươi tấm lụa. Anh họ của Đỗ Anh Vũ là quan Thị trung có hai người con gái đều được vua đón về làm phu nhân – trong đó có con gái thứ là Đỗ Thụy Châu, mẫu thân của Hoàng tử Long Cán.
Nguồn: V17, tr.146; Đ4, tr.239-230; Đ5, tr.368; T15.
Tháng 11 (tháng 10 – Canh Ngọ)
100. Anh Tông Thiên Tộ giao cho Đỗ Anh Vũ tổ chức kỳ thi Điện thí
Không rõ kỳ thi được tổ chức ra sao và danh sách đỗ đạt. Theo Cự Việt quốc Thái úy Lý Công thạch bi minh tự thì ngay khi được phục chức, vua thấy Thái úy: văn đủ sửa sang nhà nước, đức đủ cảm động quỷ thần, chí như nguồn suối, đạo giống ngọc vàng, có thể đủ tư cách làm bậc thầy vậy. Thế là vua bèn sai Thái úy giữ trách nhiệm Sư doãn để luận đạo Kinh bang. Các tấu nghi, can gián của các nho thần đều giao cho Thái úy xem xét, ba trường thi phú khoa cử đều được rõ ràng.
Nguồn: V17, tr.147; T15.
Trong năm
101. Dương Côn vượt biển đến Pu San (Cao Ly)
Dương Côn là con của Thành Quảng hầu, được Nhân Tông lập làm Thái tử thứ ba, sau Dương Hoán, được phong làm Kiến Hải vương Đại đô đốc. Năm 1138, Thần Tông qua đời, triều đình muốn đưa Dương Côn lên nối ngôi nhưng Cảm thánh Hoàng hậu đã đút lót vàng bạc cho các quan, tư thông với Đỗ Anh Vũ để đưa con trai là Thái tử Thiên Tộ lên nối nghiệp rồi cùng với người tình tự tung tự tác, tàn sát khốc liệt những người không ăn cánh. Trước tình hình ấy, các công thần hợp lại bắt Anh Vũ và đưa vụ án lên tới vua, nhưng nhờ Lê Thái hậu cuối cùng Anh Vũ lại làm Thái úy phụ chính như cũ, khiến cho khắp nơi xẩy ra bắt bớ, máu đổ đầu rơi. Dương Côn khi ấy đang đóng thủy quân ở Đồ Sơn biết mình khó tránh khỏi sự trả thù nên đã vượt biển tỵ nạn tại Cao Ly. Sau một thời gian cư ngụ, con trai Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) đã được đảm trách những chức vụ quan trọng của Vương quốc này. Thời vua Nghị Tông (Ui-Jiong 1146-1170) Lý Nghĩa Mẫn được phong chức Biệt trưởng. Đến đời vua Minh Tông (Mycong 1170-1179) ông được thăng Thượng tướng quân (1174), Tây Bắc Bộ binh Mã sứ (1178) và chức Tể tướng trong suốt 14 năm (1183-1196). Tới năm 1196, tướng Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) làm chính biến đã giết cha con Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn. Sở dĩ dòng họ của Dương Côn còn tồn tại tới nay là nhờ người anh trai của Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn và gia đình nhanh chóng thoát khỏi sự tàn sát kể trên.
Nguồn: V22.
NĂM 1151 (TÂN MÙI)
Tháng 12 (tháng 11 – Tân Mùi)
102. Sinh Hoàng tử trưởng Long Xưởng
Hoàng tử trưởng Long Xưởng là con đầu của Anh Tông Thiên Tộ và Chiêu Linh Hoàng hậu Vũ Thị, được phong Hiển Trung vương rồi Đông Cung Thái tử.
Nguồn: Đ4, tr.241; Đ5, tr.371.
NĂM 1152 (NHÂM THÂN)
Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Thân)
103. Anh Tông Thiên Tộ cho Lý Mông đưa Ung Đình Tá Điệp trở về Chiêm Thành
Họ Ung là một trong 4 dòng cự tộc của Chiêm Thành khi đó (Ung, Ma, Trà, Chế). Tuy nhiên việc giành giật ngôi báu giữa họ Ung và họ Chế diễn ra rất quyết liệt, rốt cuộc Ung Đình Tá Điệp và Lý Mông đều bị lực lượng của vua Chiêm đương thời là Chế Bì La Bút đánh bại.
Nguồn: V17, tr.147; Đ4, tr.241; V19, tr.150.
Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Thân)
104. Anh Tông Thiên Tộ cầm quân trấn áp sự nổi dậy của Nông Khả Lai
Nông Khả Lai được ghi nhận là thủ lĩnh của người Sơn Lão vùng Đại Hoàng Giang (sau là phủ Trường Yên – Ninh Bình) nổi dậy từ tháng Tám năm đó. Lần xuất quân này, nhà vua đã giành thắng lợi (ngày Canh Tuất, quân đi từ Kinh sư. Ngày Giáp Dần đánh thắng trận. Ngày Bính Thìn đem quân về. Ngày Kỷ Mùi về đến Kinh).
Nguồn: V17, tr.147; Đ4, tr.241-242.
NĂM 1157 (Đinh Sửu)
Tháng 7 (tháng Sáu – Đinh Sửu)
105. Anh Tông Thiên Tộ xuống chiếu định luật lệ
Theo quy định mới, các Điện tiền sứ và Đô hỏa đầu không được làm công việc phục dịch cho các tư gia, người vi phạm phạt 80 trượng; các hạng dân thường mặc áo đơn xanh đánh 80 trượng và bị đày làm khao giáp; các nhà quyền thế không được tiện thiện thu nạp các hạng bách tính; các vương hầu ban đêm không được tự tiện đi lại trong thành; các gia nô của vương hầu không được thích hình rồng lên ngực.
Nguồn: V17, tr.148-149.
NĂM 1159 (KỶ MÃO)
Ngày 9 tháng 2 (20 tháng Giêng – Kỷ Mão)
106. Thái úy Đỗ Anh Vũ qua đời
Theo Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự tạo khoảng năm Mậu Dần – Đại Định (1159) đặt tại đền thờ An Lạc (xã Trưng Trắc, Văn Lâm – Hưng Yên) thì Đỗ Anh Vũ tên chữ là Quán Thế, có tổ bên ngoại là Thái úy Quách công triều Thái Tông, vốn là người Câu Lậu – Tế Giang (nay là Văn Giang – Hưng Yên) , sinh ra Thường Kiệt làm Thái úy triều Nhân Tông, được ban Quốc tính họ Lý. Ông thân sinh ra Thái úy là Đỗ Tướng, cháu gọi Thái úy Lý Thường Kiệt bằng cậu, sinh được hai con. Người con trai chính là Thái úy. Người con gái là Quỳnh Anh.
Từ thuở ấu thơ, Thái úy đã có phong tư thanh khiết, vẻ mặt sáng sủa. Năm Giáp Thìn (1124), Nhân Tông yêu mến đã tuyển vào cung cấm. Khi ấy Thái úy cầm giáo mác mà mùa trên nệm gấm, hát khúc Hồi phong mà lả lướt liễu mềm, người các nước đến thăm không ai là không chú ý ngắm xem.
Năm Đinh Mùi đời vua Thần Tông (1127), Thái úy được tuyển vào ở nơi nội cấm, chức vị bao trùm cả sáu bộ Thượng thư. Các việc chính sự ở trong cung cấm và việc xây dựng của thợ thuyền, vua đều ủy thác cho Thái úy cả. Đến như các phép viết chữ, tính toán, bắn cung, cưỡi ngựa, thuốc men, kinh mạch không nghề nào mà Thái úy không tinh thông; việc bói toán, binh pháp, chơi bài, đánh cờ không việc nào mà Thái úy không nghiên cứu.
Cự Việt quốc Thái úy Lý công thanh bi minh tự sau khi điểm thêm các chiến công đánh dẹp nội loạn của Đỗ Anh Vũ dưới triều Thần Tông, Anh Tông; việc đưa các cháu gái vào làm Hoàng hậu khiến cho địa vị ngày càng cao sang, tước vị đứng đầu trăm quan, cả nước không ai bằng đã ghi lại rằng, tháng Tám năm Mậu Dần (1158) ông bị ốm nằm ở nhà riêng thuộc hương Điền Lệnh, vua và hoàng hậu hàng ngày đều sai ngự y bốc thuốc trung sứ đến trông nom. Ngày Bính Tý, 20 tháng Giêng năm Kỷ Mão, Thái úy qua đời. Tính ra, Thái úy giúp các vua được 22 năm, ra đi vào lúc 46 tuổi.
Nguồn: T15.
Trong năm
107. Anh Tông Thiên Tộ xuống chiếu định chức quan
Theo đó, các chức Nội minh tự, Đại liên ban được coi là Thái phó; các chức Lang tướng, Thượng chế, Sùng ban, Cung phụng, Thị cấm, Điện trực đổi gọi là Thái bảo; người không chức quan gọi là Quản giáp còn Chi hậu, Hỏa đầu gọi là Phụng ngự; Tảo hoành gọi là Chủ đô.
Nguồn: V17, tr.150.
NĂM 1160 (CANH THÌN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Thìn)
108. Anh Tông Thiên Tộ cho dựng đền Hai Bà và Xuy Vưu ở phường Bố Cái
Tương truyền, sau khi hy sinh, anh linh Hai Bà kết thành tượng đá theo dòng nước trôi xuôi, mãi tới thời Lý mới đến thành Thăng Long. Một đêm vào đầu tháng Giêng năm Canh Thìn, pho tượng tỏa sáng trên dòng sông Nhị trước bãi Đồng Nhân, dân dùng vải đỏ kéo Lĩnh Nam liệt khái thạch hóa chân dung vào bờ. Anh Tông Thiên Tộ hay tin cho dựng đền thờ ngay tại nơi ấy.
Mãi tới năm 1819 bãi sông bị lở, đền mới chuyển vào thôn Hương Viên, tức đền Đồng Nhân ngày nay.
Xuy Vưu hoặc Xi Vưu là tên một thủ lĩnh thời Hoàng Đế, được hiểu như tên của vị thần chiến tranh.
Nguồn: V17, tr.150; Đ4, tr.244.
Tháng 3 (tháng Hai – Canh Thìn)
109. Anh Tông Thiên Tộ chú trọng tuyển lựa quân tướng
Nhà vua đã sai Tô Hiến Thành và Phí Công Tín tuyển lựa dân đinh mạnh khỏe sung vào quân ngũ; chọn các tướng hiệu người nào thông hiểu binh pháp, thạo võ nghệ chia cho cai quản.
Nguồn: Đ4, tr.244; Đ5, tr.376.
NĂM 1161 (TÂN TỴ)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Tân Tỵ)
110. Anh Tông Thiên Tộ cho dựng chùa Pháp Vân ở Cổ Châu
Chùa Pháp Vân còn có các tên tọi khác là Thiền Định, Diên Ứng, Cổ Châu vốn được xây dựng từ năm 187, hoàn thành năm 226 – là một ngôi chùa có mặt sớm nhất ở Luy Lâu – thủ phủ của Giao Châu ngay khi Phật giáo tràn vào mạnh mẽ. Với thời gian kéo dài hàng chục thế kỷ, đến thời Anh Tông Thiên Tộ, chùa này đổ nát, do đó được xây dựng lại và trở thành ngôi chùa đứng đầu hệ thống Tứ Pháp, bao gồm Pháp Vân tự (chủ về mây), Pháp Vũ tự (chủ về mưa), Pháp Lôi tự (chủ về sấm), Pháp Điện tự (chủ về chớp) được dân gian hóa thành các chùa Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn.
Nguồn: V17, tr.150; Đ4, tr.244.
Tháng 12 (tháng Một – Tân Tỵ)
111. Anh Tông Thiên Tộ tuần thú duyên hải tây nam
Trước hết, nhà vua phong cho Tô Hiến Thành làm Đô tướng, Đỗ An Di làm Phó Đô tướng đem hai vạn quân đi tuần các nơi ven biển miền tây nam để giữ yên bờ cõi. Sau đó, nhà vua đích thân đem quân đến tuần thú miền duyên hải và cửa biển Thần Đầu thuộc huyện Đại An rồi mới trở về.
Nguồn: Đ4, tr.244; Đ5, tr.377.
NĂM 1162 (NHÂM NGỌ)
Tháng hai (tháng Giêng – Nhâm Ngọ)
112. Anh Tông Thiên Tộ cho chia thứ hạng dân theo tuổi tác
Theo đó, những người từ 60 tuổi trở lên goi là Lão liệt (già yếu không làm được gì); từ 17 đến 19 tuổi là Đệ nhị đẳng; từ 16 tuổi trở xuống gọi là Hoàng nam.
Ngoài ra, nhà vua còn xuống chiếu bắt những kẻ tự hoạn bị phạt 80 trượng, thích 28 chữ vào bả vai trái, chuyển về thứ hạng cũ.
Nguồn: V17, tr.150; Đ4, tr.244.
Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Ngọ)
113. Anh Tông Thiên Tộ tiến hành khảo sát các quan văn võ
Viên quan nào đủ niên hạn mà không mắc tội lỗi gì thì được thăng trật. Kể từ đây phép khảo sát quan lại trở thành thông thường nhưng cứ 9 năm mới tiến hành một kỳ khảo.
Nguồn: Đ4, tr.244; Đ5, tr.377.
NĂM 1163 (QUÝ MÙI)
Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Mùi)
114. Anh Tông Thiên Tộ cải nguyên
Niên hiệu Đại Định thứ 24 được thay bằng niên hiệu Chính Long Bảo Ứng năm đầu.
Nguồn: V17, tr.151.
Tháng 9 (tháng Tám – Quý Mùi)
115. Anh Tông Thiên Tộ cho dẹp loạn quân
Nhà vua sai Phí Công Tín mang tới 10 vạn quân mới dẹp yên được lực lượng lính bỏ trốn tập hợp thành từng bầy cướp của giết người. Đến tháng 4-1164, Tô Hiến Thành lại phải đem quân đánh dẹp cuộc nổi dậy ở Lộng Lạc thuộc Mang Quán Giang (nay thuộc Sơn La).
Nguồn: Đ4, tr.244; V17, tr.151.
NĂM 1168 (MẬU TÝ)
Tháng 9 (tháng Tám – Mậu Tý)
116. Anh Tông Thiên Tộ tiếp sứ giả Thát Đát và nhà Tống
Thát Đát có nghĩa là người hoặc đất nước của người Tatar khi ấy đang từ liên minh với Mông Cổ, chuyển sang liên minh với Kim. Trong thực tế, Thát Đát ở ngữ cảnh này phải được hiểu là nhà Kim, triều Kim.
Nhà Kim là một triều đại do người Nữ Chân xây dựng vào năm 1115. Sau khi ra đời, nhà Kim định liên minh với Tống đánh Liêu nhưng thực lực của Tống quá yếu nên năm 1125 mình nhà Kim diệt Liêu, năm 1127 đuổi Tống chạy xuống phía Nam, tạo ra trong lịch sử thời Bắc Tống (960-1127) và Nam Tống (1127-1279).
Năm 1234, trong khi Nam Tống vẫn tồn tại, nhà Kim bị Đại Mông Cổ tiêu diệt, về sau cũng nằm trong lãnh thổ nhà Nguyên, chung số phận với Nam Tống. Về sự kiện này, Đại Việt sử ký tiền biên chép như sau:
“Mậu Tý, năm thứ 6 [1168] (Tống Càn Đạo năm thứ 4), mùa thu, tháng 8, sứ nhà Tống sang, sứ nước Kim cũng sang. Vua sai ngầm tiếp lễ hậu, đừng để họ gặp nhau (xét Càn Đạo là niên hiệu đầu tiên của vua Hiến Tông nhà Tống. Khi ấy nước Kim đang mạnh. Vua Thế Tông nước Kim mới lên ngôi. Nước Mông Cổ mới nổi lên ở mạn Bắc, đang làm thần thuộc của nước Kim. Vả lại nước Kim đang đóng đô ở đất Biện, nhà Tống đóng đô ở Lâm An. Nhà Tống với nhà Nguyên như con ngựa con trâu động hứng đuổi nhau. Có liên quan gì mà người Nguyên dám vượt qua đất Biện, qua Lâm An để gây sự với nước ta? Sử cũ ghi là sứ Thát Đát là không tra cứu rõ. Hoàn Nhan Mông Cổ, danh hiệu khác nhau, người chú cho là sứ nhà Nguyên là lầm, cho nên đính chính lại).
Nguồn: Đ4, tr.246; Đ5, tr.378.
NĂM 1170 (CANH DẦN)
Trong năm
117. Anh Tông Thiên Tộ luyện tập quân sự
Nhà vua tập cưỡi ngựa, bắn cung ở Xạ Đình thuộc phía nam thành Thăng Long. Lại sai các quan hàng ngày luyện tập phép đánh giặc phá trận.
Nguồn: Đ4, tr.245; Đ5, tr.378.
NĂM 1171 (TÂN MÃO)
Ngày 9 tháng 11 (18 tháng Mười – Tân Mão)
118. Phụng Thánh phu nhân của Thần Tông Dương Hoán qua đời
Theo Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí tạo năm Chính Long Bảo Ứng 9 (1171) tại tiền đường chùa Phúc Thánh (xã Hương Nộn, Tam Nông – Phú Thọ) thì, phu nhân của Thần Tông Nhân hiếu Hoàng đế họ Lê, húy Xuân Lan, con gái út Phụ Thiên Đại vương, mẹ là Công chúa Thụy Thánh – con gái cả của Dự Công chính hoàng. Lớn lên bà làm con gái cả của Thánh Tông Hoàng đế, vẫn gọi là Công chúa Thụy Thánh. Ông nội, Phò ký úy Quan sát sứ ở bảo sơ châu Chân Đăng, tức là cháu gần của Ngự Man Đại vương, là cháu nội của Đại hàng Hoàng đế nhà Lê. Phụ Thiên Đại vương có 20 người con: một Thái hậu, ba Phu nhân, bốn Công chúa, mười hai Thái tử.
Năm Giáp Dần, Thiên Chương Bảo Tự thứ 2 (1134) lúc đầu Hoàng đế lấy con gái của Phụ Thiên Đại vương, bà Cảm Thánh Hoàng thái hậu. Thấy phu nhân có nhan sắc và tứ giáo, Hoàng đế lại đón về làm phi. Mới vào cung đã hiểu rõ đạo lý làm vợ, lên trên tông thất thì giữ bền phong độ nữ lưu. Ăn mặc, điểm trang ắt đúng độ, nói năng cử chỉ ắt đúng phép.
Bính Thìn năm thứ 4 (1136) được tiến phong Phụng Thánh phu nhân. Bấy giờ phu nhân giữ bền tân hạnh, thời thường lại sửa mình theo giáo hóa, bổn phận dâu hiền không hề thiếu sót, ân huệ lễ mọn cũng thấm xuống dưới. Sánh ngang Hoàng Anh vợ Thuấn, dâng lời phò trí giúp mưu, giống như Nhâm Khương giúp Chu, trước hết nêu cao đế đạo.
Đinh Tỵ năm thứ 5 (1137) gào khóc đi theo xe tang, nguyện ở lại trông lăng tẩm. Lòng không trễ biếng mà vẫn rõ ràng, tu đâu Thượng đạo mà giáo hóa hoàn bị. Phu nhân dung nhan đoan chính, tính tình kín đáo; mừng giận không lộ ra hình sắc, dùng người khiến vui mà ở lại, chẳng cần roi vọt bức bách. Đến khi đức Kim thượng lên ngôi, Thái hậu phụ chính, thường sóc vọng đều đến dự chầu. Kim thượng một lòng kính mến, chuyện trò rất mực ân cần mà không điều gì lầm lỗi. Mỗi khi dự tính việc gì, đều yết kiến riêng. Vua và Hoàng thái hậu thường đến tư thất, thấy việc nhà nề nếp, bèn khen phẩm cách và than rằng: – Bậc phu nhân thời thịnh trị ngày trước! Đối với tật riêng từng người, vẫn giữ một lòng cung thuận, hợp lễ; danh vọng sánh ngang các bậc vương công mà nếp nhà vẫn một niềm cung kính. Thường vinh hiển thì không quên tiên tổ, cội nguồn nguyện được mở thắng duyên để đền đáp duyên quyến ngộ của Tiên thánh. Lại mong khi từ giã cõi đời được gần gũi mẹ cha, ấy là lẽ vậy. Thế rồi chọn vùng xóm bãi giữa sông, được hương Tuế Phong là nơi đất đẹp. Núi đồi thanh tú vây quanh; sông hồ biếc trong bao bọc. Được hướng nhìn sông dựa núi, nhờ thế rồng ấp hổ chầu. Đặc ân thánh chỉ cấp nhân công, cho gỗ ngói để dựng bảo sở. Công việc chạm vẽ vừa xong thì khói hương không dứt, thật là ơn cao huệ cả của Chúa thượng.
Tháng Chín năm Chính Long Bảo tháng thứ 9 (1171) phu nhân lâm bệnh. Hoàng thượng thân hành thuốc thang cơm cháo, chạy chữa trăm cách bệnh vẫn không khỏi. Sáng sớm ngày Kỷ Mùi 18 tháng Mười năm ấy, phu nhân tạ thế, thọ 63 tuổi. Kim thượng rất thương xót, bỏ triều giảm ăn. Sắc ban lễ phúng gấp bội lệ thường, có thể gọi là lễ tang rất hậu. Chiếu Đại Thái phó họ Trần, Nội thị sảnh Phụng nghi lang họ Lê trông coi việc tang việc táng, mật dụ theo nghi thức của Nghi Thánh hoàng hậu trước đâu. Sáng sớm ngày Bính Dần, mồng Tám tháng Chạp mùa đông năm thứ 11 (1173) ân chỉ biệt táng tại địa phương, núi Phác Sơn, phía tây chùa Diên Linh Phúc Thánh. Lại sai Quốc sử thuật đạo đức tốt đẹp ấy ghi vào bia mộ”.
Nguồn: T15.
NĂM 1172 (NHÂM THÌN)
Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Thìn)
119. Anh Tông Thiên Tộ chăm lo củng cố quốc phòng
Ngay từ tháng 3-1171, nhà vua đã tiến hành một đợt đi tuần các đảo ngoài biển, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết được sự đau khổ của nhân dân và đường đi xa gần. Đến đây, mới qua tết Nhâm Thìn, nhà vua lại tiếp tục các cuộc tuần du chốn hải đảo, vẽ bản đồ địa giới các phiên bang nam bắc, ghi chép phong cảnh sản vật rồi về. Những điều ghi chép qua hai chuyến tuần du kinh lý ấy được biên chép vào cuốn Nam Bắc phiên giới địa đồ (theo Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, sách này sau bị thất lạc).
Sử thần Ngô Thì Sĩ bàn: “Từ khi Đỗ Anh Vũ chết, Tô Hiến Thành làm Thái úy nắm binh quyền, từ đấy mới tuyển quân chọn tướng, cho quan võ luyện tập đánh giặc phá trận. Vua cũng tự cưỡi ngựa bắn cung ở sân bắn và thân đi tuần các đảo ngoài biển. Việc quân cơ, việc phòng biên giới một phen chấn chỉnh. Chính sự năm Bảo Ứng so với cuối năm Đại Định thời có lúc chăm chỉ, có lúc trễ nải, lúc làm lúc bỏ khác hẳn nhau. Kinh Thi có câu: – Vô cạnh duy nhân (không gì mạnh bằng người). Kinh Dịch có câu: – Sư trinh trọng nhân cát (dùng quân theo chính nghĩa mà có người giỏi là tốt). Hiến Thành là người như vậy”.
Nguồn: Đ4, tr.246; Đ5, tr.378-379; L4, tập 5, tr.123.
Ngày 10 tháng 6 (25 tháng Năm – Nhâm Thìn)
120. Sinh Hoàng tử Long Cán (Long Trát)
Mẫu thân của Hoàng tử là Hoàng hậu Đỗ Thụy Châu. Theo Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự, trước khi sinh Long Cán, bà đã sinh Hoàng tử Thiên Bảo vào năm Giáp Tuất (1154), Hoàng tử thứ hai vào năm Bính Tý (1156) và Hoàng tử thứ ba vào năm Mậu Dần (1158). Tuy nhiên, các sử cũ đều không ghi nhận các sự việc trên.
Nguồn: Đ4, tr.246; Đ5, tr.379; V17, tr.154.
NĂM 1174 (GIÁP NGỌ)
Tháng 12 (tháng Một – Giáp Ngọ)
121. Anh Tông Thiên Tộ lập Long Cán làm Thái tử
Trước đây, Long Xưởng thông dâm với cung phi, vua không nỡ bắt tội chết, bèn cho giam vào ngục. Một hôm gọi Tể tướng bảo rằng: “Thái tử là gốc lớn của nước, Long Xưởng đã trái đạo, trẫm muốn cho Long Cán nối giữ nghiệp lớn, nhưng tuổi nó còn bé, sợ không đương nổi; nếu đợi nó lớn thì trẫm tuổi già suy yếu thì làm thế nào!”. Bấy giờ có nội nhân ẵm Long Cán ra, thấy vua đội mũ, khóc đòi đội, vua chưa kịp tháo mũ đưa cho thì càng khóc thét lên. Vua bèn tháo mũ đội cho, thì Long Cán cả cười. Vua càng lấy làm kỳ, ý lập Long Cán làm Thái tử bèn quyết định. Giáng Long Xưởng xuống làm Bảo Quốc vương.
Nguồn: V17, tr.146; Đ4, tr.246.
NĂM 1175 (ẤT MÙI)
Tháng 5 (tháng Tư – Ất Mùi)
122. Anh Tông Thiên Tộ sai Tô Hiến Thành ẵm Thái tử mà quyền nhiếp chính sự
Sau khi sách lập Long Cán làm Hoàng Thái tử, cho ở Đông cung, nhà vua phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự, tước Vương để giúp Đông cung. Cảm thấy sức lực đang suy yếu dần, Anh Tông Thiên Tộ cố gượng dậy sai Tô Hiến Thành ẵm Thái tử mà quyền nhiếp chính sự. Thấy vậy, Hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng, nhà vua nói: – Làm con mà bất hiếu, còn trị dân làm sao? Nhân đấy đưa di chiếu cho Tô Hiến Thành giúp đỡ Thái tử, công việc nhà nước nhất nhất tuân theo phép cũ.
Nguồn: V17, tr.153; Đ4, tr.246; Đ5, tr.381.
Ngày 20 tháng 8 (10 tháng Bẩy – Ất Mùi)
123. Anh Tông Thiên Tộ căn dặn Thái tử Long Cán
Ngày Giáp Thìn, nhận thấy bệnh nặng thêm, nhà vua nói với Thái tử rằng: “Nước ta non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất thiêng, châu ngọc bảo bối không cái gì không có, nước khác không thể nào ví được. Con hãy nên giữ nước cẩn thận”.
Nguồn: V17, tr.153-154.
Ngày 21 tháng 8 (11 tháng Bẩy – Ất Mùi)
124. Anh Tông Thiên Tộ băng hà
Nhà vua hưởng dương 40 tuổi, nắm giữ ngôi báu được 37 năm. Tuy nối ngôi khi còn thơ ấu nhưng như lời bàn của Sứ thần Ngô Sĩ Liên, đến khi tuổi ngoại hai mươi, với việc nhà vua sai Tô Hiến Thành đem quân đi tuần nơi biên giới, lại thân đi xem khắp tình thế núi sông để biết sự đau khổ của dân gian và đường đi xa gần, về mặt giữ dân giữ nước, quy mô đã thấy rõ. Lại đặt xạ đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép đánh trận, về mặt sửa binh nhung, giảng võ bị, quy mô đã thấy rõ. Thái tử là Long Xưởng có tội thì phế đi mà lập Long Cán làm Thái tử ở Đông cung để cho lòng người có chỗ hệ thuộc, đến khi ốm nặng, Hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng thì lấy lễ nghĩa mà bẻ vặn, không mê hoặc lời nói của đàn bà; lại cố gượng gọi Hiến Thành vào di chiếu giúp Thái tử, quyền nhiếp chính sự, phó thác được người giỏi, để phòng lo sau, rốt cuộc cái mưu phế lập của Thái hậu không thể làm được, trên yên dưới thuận, không phải là sức của Anh Tông sao?
Sử thần Ngô Thì Sĩ đánh giá, buổi đầu thời vua Anh Tông, bọn gian thần lộng quyền, chính sự không do mình truyền ra, thưởng phạt không đúng, thợ thuyền phu dịch làm việc quá nhiều dẫn đến thù oán, can phạm đến khí hòa âm dương, sao biến lạm ở trên, đất động ở dưới, ngập lụt hạn hán, bệnh tật tai họa xảy ra luôn luôn. Đến cuối năm Đại Định, Anh Vũ đã chết, Hiến Thành được dự chính quyền, giúp đỡ bên trong, chạy vạy bên ngoài, trung thành lo lắng, có cơ cảm phát, vua cũng động tâm nhân tính, suy việc trước giữ việc sau, trí tuệ ngày càng tăng, đức nghiệp ngày càng tiến, như bùn cát lọc hết thì nước trong chảy ra, mây mù tan hết thì mặt trời sáng tỏ. Luyện kinh giảng võ, chọn tướng sai sứ khiến cho Chiêm Thành phải giữ lễ phiên thần, nhà Tống phải phong là nước lớn, triều đình sáng sủa, biên giới yên lành, hầu như đem lại được nền thịnh trị như thời Thái Tông, thời Nhân Tông. Tuổi già gửi đứa trẻ mồ côi, biết rõ Tô Hiến Thành là người tốt, dù khác họ cũng phong tước vương, để cho tựa bình phong nhiếp chính mà không nghi ngờ. Đến khi sắp mất, tinh thần sáng suốt, dặn bảo rõ ràng nghiêm ngặt, trong cung không thể đưa được lời xin bỏ người nọ lập người kia, quan đại thần được làm hết chức trách giúp đỡ, bế vua nhỏ chầu mà xã tắc yên lành, nếu không phải là người rất sáng suốt, rất anh dũng thì không được như vậy. Xa thì ví với Thành Vương nhà Chu, có sự rạng rỡ trên thì xét với tổ tông nhà mình cũng không hổ thẹn. Nhìn lại buổi đầu khác hẳn như một người đó là vì sao? Có lẽ vì vua có tư chất rất cao, cho nên khi tính thời thư thái ổn định thì đức sáng thiên nhiên phát hiện ra. Nếu khi vua tuổi nhỏ mà được mẹ hiền dạy bảo, được người thầy tốt dìu dắt, sẽ làm nên sự nghiệp, chứ không chỉ như thế mà thôi.
Nguồn: V17, tr.154; Đ4, tr.246-247; Đ5, tr.382-383.
125. Thái tử Long Cán nối nghiệp vua cha
Thái tử lên ngôi trước linh cữu, tôn mẹ là Hoàng hậu Thụy Châu làm Chiếu Thiên Chí Lý Thái hậu; quần thần dâng tôn hiệu là Ứng Càn, Ngự Cực, Hoằng Văn, Hiến Võ, Linh Thụy, Chiếm Phù, Chương Đạo, Chí Nhân, Ái Dân, Lý Vật, Duệ Mưu, Thần Vũ, Hóa Cảm, Chính Thuần; Phu Huệ, Thị Từ, Tuy Du, Kiến Mĩ, Công Toàn, Nghiệp Thịnh, Long Hiện, Thần Cư, Thánh Minh, Quang Hiếu Hoàng đế; miếu hiệu là Cao Tông. Vua tuổi non nớt, việc lớn nhỏ đều giao cho Thái phó Tô Hiến Thành. Thái hậu có ý phế lập, rình lúc Hiến Thành ra ngoài, sai người đem vàng lụa hối lộ cho vợ lẽ ông ta là Lã thị, bảo nói với Hiến Thành. Hiến Thành nói rằng: – Ta ở ngôi Tể tướng, chịu lời cố thác của Tiên vương để phò ấu chúa. Nay nhận của đút của người mà mưu phế lập, thiên hạ sẽ nói ta ra sao? Ví thử như mọi người đều là người bưng tai bịt mắt không biết gì, thời ta lấy lời nào, mà bẩm với Tiên vương ở dưới suối vàng được?
Thái hậu biết rằng mưu của mình không thành, song ý vẫn không đổi, bèn vời Hiến Thành đến bảo rằng: – Ông đối với nước đáng gọi là trung đấy. Song tuổi ông cũng đã về chiều, mà lại thờ vua non tuổi, những việc ông làm thì ai biết cho? Chi bằng lập Trưởng quân, thì người đó sẽ mang ơn ông, mà cho ông giàu sang lâu dài, há có phải hay không? Hiến Thành nói rằng: – Bất nghĩa mà được giàu sang, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm. Huống hồ di chúc của Tiên vương, lời nói còn văng vẳng bên tai thì đối với công nghị sẽ ra làm sao? Thần không dám phụng chiếu! Rồi đi nhanh ra. Thái hậu bèn sai người vời gấp Bảo Quốc vương. Bảo Quốc vương nửa mừng nửa sợ liền lấy thuyền nhỏ đi theo sông Tô Lịch mà vào. Hiến Thành bèn vời các quan chức tả hữu dụ bảo rằng: – Tiên vương thấy ta và các ngươi hết sức phò vua, không ở hai lòng nên mới phó thác ấu chúa cho chúng ta. Nay Bảo Quốc vương nghe lời Thái hậu muốn phế Chúa thượng mà tự lập, các người phải hết lòng gắng sức, nghe ta truyền bảo, ai nghe mệnh ta, ta thưởng cho suốt đời, kẻ nào trái mệnh ta, sẽ bị giết ở chợ. Các ngươi nên gắng sức! Các quan chức ai nấy đều nghe mệnh. Lát sau, Bảo Quốc vương đến cửa Ngân Hà. Thái hậu vời càng gấp. Bảo Quốc vương toan vào, các quan chức đều ngăn lại, nói rằng: – Chúng tôi chưa được nghe chiếu chỉ nên không dám phụng mệnh. Nếu vương cứ cố mà vào thì kẻ phạm đến vương không phải là chúng tôi mà là quân lính đấy! Bảo Quốc vương nghe nói thế, sợ thẹn mà lui.
Nguồn: V17, tr.154-155.
NĂM 1177 (ĐINH DẬU)
Trong năm
126. Thủ lĩnh châu Thượng Nguyên Dương Ý nổi dậy bất tuân lệnh triều đình
Trước đó, người Chiêm Thành còn cho quân vào quấy rối phía đông châu Nghệ An.
Nguồn: V17, tr.156
NĂM 1179
Ngày 17 tháng 7 (12 tháng Sáu – Kỷ Hợi)
127.Thái úy Tô Hiến Thành qua đời
Trong những ngày Tô Hiến Thành ốm, Tham tri Chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm hầu bên cạnh; Gián nghị Đại phu là Trần Trung Tá vì có việc khác không lúc nào rỗi đến thăm. Lúc bệnh nặng Thái hậu tới thăm và hỏi rằng: – Nếu như ông không may thì ai là người có thể thay ông? Hiến Thành trả lời rằng: – Trung Tá có thể thay được. Thái hậu nói: – Tán Đường ngày nào cũng hầu thuốc thang ông lại không nói đến, thế là tại sao? Ông trả lời: – Vì bệ hạ hỏi người nào đáng thay tôi, nên tôi nói là Trung Tá, nếu như bệ hạ hỏi người nào hầu việc ăn uống thì không phải Tán Đường còn ai?. Thái hậu khen là trung, nhưng cũng không dùng lời của ông. Khi ông mất, vua bớt cơm 3 ngày, nghỉ chầu 6 ngày.
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: Tô Hiến Thành nhận việc ký thác con côi, hết sức trung thành, khéo xử trí khi biến cố. Tuy có lúc bị sóng gió lay động xô đẩy, nhưng vẫn vững như cột đá sừng sững giữa dòng, cuối cùng khiến trên dưới phải thuận, không thẹn với phong độ của bậc đại thần ngày xưa. Huống chi đến khi mất còn vì nước tiến cử người hiền, không vì ơn riêng. Thái hậu không dùng lời của Hiến Thành, đó là điều không may cho họ Lý đấy.
Sử thần Ngô Thì Sĩ bàn: Từ xưa, các bậc đại thần nhận di mệnh giúp chính sự, có thể gửi gắm vua còn nhỏ tuổi, có thể giao cho nắm mệnh lệnh, những địa bàn hàng trăm dặm, không phải là ít. Còn như vua nhỏ mới 3 tuổi côi cút phải ôm ẵm trong lòng, bà nội thì ngầm kiềm chế ở bên trong, hàng ngày tìm cách bỏ vua này lập vua khác, phản phúc hàng trăm kế, lần lữa đến 4 năm, xô đẩy ngờ vực, chưa thời nào có việc như vậy. Thế mà một mình Hiến Thành điều kiện công việc, dùng quyền hạn của người nhiếp chính, chống lại thế lực của người rủ mành. Cuối cùng làm yên được vua nối ngôi, định được xã tắc mà không thấy có sự vận dụng khó nhọc của ông. Nếu không phải là bậc rất trung rất công, được khắp kẻ trên người dưới tin cậy, đức vọng tài trí thấu khắp cả người thấy người nghe, thì sao được như thế? Thật đáng gọi là bầy tôi quan trọng của xã tắc, không thẹn với Y Doãn, Chu Công. Có người hỏi: Đạo Thành và Hiến Thành ai hơn? Trả lời rằng: Hai người ấy đều có tài mà chưa dễ ai có được, để đảm đang nhiệm vụ phi thường. Duy có Đạo Thành ở vào thế dễ, cho nên công trạng của ông khó nhìn thấy. Hiến Thành gặp phải vận hội khó khăn, cho nên công của ông được rạng rỡ. Vả lại Thánh Tông tin dùng Đạo Thành lại không giống Anh Tông tin dùng Hiến Thành. Thánh Tông không giao việc nặng nề phó thác con côi, cho nên Đạo Thành không khỏi phải gìn giữ tiếng tăm; Anh Tông có lòng thành ký thác con côi, cho nên Hiến Thành không thể trốn tránh hiềm nghi.
Nguồn: V17, tr.156-157; Đ4, tr.248-249; Đ5, tr.385-386.
NĂM 1180 (CANH TÝ)
Mùa đông
128. Cao Tông Long Cán gả Công chúa Hoa Dương cho thủ lĩnh châu Vị Long Hà Công Phụ
Châu Vị Long ngày xưa, nay tương đương với hai huyện Chiêm Hóa, Na Hang tỉnh Tuyên Quang, xuất hiện như một đơn vị hành chính cấp châu từ thời Lê Đại Hành. Họ Hà ở đây là một cự tộc, nhiều đời cai quản địa phương, trong đó có những nhân vật như Tù trưởng Hà Trắc Tuấn nổi lên bất tuân lệnh triều đình vào các năm 1013-1015; Châu mục châu Vị Long Hà Khánh Di lấy Công chúa Khâm Thánh năm 1074.
Nguồn: V17, tr.157; Đ4, tr.163-164; Đ5, tr.260-261.
NĂM 1181 (TÂN SỬU)
Tháng 2 (tháng Giêng – Tân Sửu)
129. Long Xưởng cho gia thuộc gây rối, mưu cướp ngôi
Cuộc gây rối trên lại rơi vào đúng lúc cả nước mất mùa, dân nhiều người bị chết đói khiến cho triều đình vô cùng lúng túng. Mãi tới đầu năm sau, Cao Tông Long Cán mới giao cho Ngô Lý Tín giữ chức Thượng tướng quân thống lãnh các đạo thủy bộ thường xuyên tuần tiễu diệt trừ trộm cướp. Nhà vua lại cho Lý Kính Tư làm Đế sư có nhiệm vụ trong thì hầu nơi màn trướng, ngoài thì răn dạy người dân trung hiếu. Nhờ vậy Chiêu Linh Thái hậu và Bảo Quốc vương Long Xưởng mới không dám manh tâm mưu đồ gì khác.
Nguồn: Đ4, tr.219; Đ5, tr.386-387.
NĂM 1185 (ẤT TỴ)
Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Tỵ)
130. Dương Chính thi đậu Đệ Nhị giáp Thái học sinh
Sử cũ gọi đây là kỳ thi kẻ sĩ trong nước, người nào từ 15 tuổi thông thi thư thì vào hầu Ngự điện. Lấy đỗ Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người còn lại phải học tiếp.
Trong số những người thi đỗ kể trên có Dương Chính, người huyện Thượng Phúc (nay thuộc Thường Tín – Hà Nội).
Nguồn: Đ4, tr.250; Đ5, tr.387; T7, tr.40.
Tháng 8 (tháng Bẩy – Ất Tỵ)
131. Cao Tông Long Cán cử Kiến Khang vương Long Ích đánh dẹp vùng Sách Linh (nay thuộc Thanh Sơn, Thanh Thủy – Phú Thọ)
Năm trước, dân các sách Tư Mông, Trịnh, Ô Mễ nổi dậy. Nhiều trận giao chiến với quân triều đình đã diễn ra ở ải Ông Trọng, Hương Bái, Khả Lão, Đãng Bái, Vạn Mễ, An Côi, La Biền. Đến đây, Long Ích đem hơn vạn quân tiến vào Ka Biều, Đỗ Gia, chiêu dụ được các Quan lang Đinh Vũ, Đinh Sáng.
Nguồn: V17, tr.158-159; Đ4, tr.250; Đ5, tr.387-388.
NĂM 1188 (MẬU THÂN)
Tháng 6 (tháng Năm – Mậu Thân)
132. Cao Tông Long Cán về chùa Pháp Vân ở Cổ Châu để cầu mưa
Cổ sử chép chùa Pháp Vân ở Doềnh Bà (trong chữ Hán, hai chữ này bị chép lầm từ chữ Doanh Lâu mà ra. Doanh Lâu hoặc Dinh Lâu chính là Liên Lâu, Luy Lâu – thủ phủ của Giao Châu, nằm trên đất Cổ Châu).
Sau khi đảo vũ ở chùa Pháp Vân, nhà vua cho rước tượng Pháp Vân về chùa Báo Thiên ở thành Thăng Long.
Nguồn: Đ4, tr.251; Đ5, tr.388.
NĂM 1190 (CANH TUẤT)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Canh Tuất)
133. Thái phó Ngô Lý Tín chết, giao chức này cho Đàm Dĩ Mông
Đàm Dĩ Mông là em trai Đàm Nguyên phi – vợ Cao Tông Long Cán, là người vô học và ngu tối.
Nguồn: Đ4, tr.251; Đ5, tr.389; V17, tr.161.
NĂM 1192 (NHÂM TÝ)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Nhâm Tý)
134. Người Cổ Hoàng (Thanh Hóa) bị đánh dẹp vì phản ứng việc Đàm Dĩ Mông được cử làm Thái Phó
Nhân điềm trâu trắng leo lên cây muỗm xảy ra từ năm Canh Tuất ứng với việc Đàm Dĩ Mông leo lên bậc cao sang, người giáp Cổ Hoàng (nay thuộc Hoằng Hóa – Thanh Hóa) nổi dậy. Đến đây nhà vua mới cử Đàm Dĩ Mông đem phủ binh Thanh Hóa đi đánh, bắt được người cầm đầu là Lê Vãn.
Ít lâu sau, thủ lĩnh Hồ Đồ ở châu Nghệ An cũng nổi dậy nhưng cuối cùng cũng bị Đàm Dĩ Mông đánh dẹp.
Nguồn: V17, tr.162; Đ4, tr.252; Đ5, tr.390.
NĂM 1194 (GIÁP DẦN)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Giáp Dần)
135. Hoàng tử Hạo Sảm sinh
Mẹ của Hoàng tử là Đàm Nguyên phi được phong làm An Toàn Hoàng hậu. Nhân dịp này nhà vua cho lấy vàng bạc trong kho để thiếp tượng Phạn Vương, Đế Thích đặt tại một chùa Thiên Phù, Thiên Hựu; cho bày tiệc yến và tổ chức đua thuyền ở hậu cung; đại xá cho thiên hạ; ban cho người già từ 70 tuổi trở lên mỗi người một tấm lụa; mở tiệc rượu lớn ở Thái miếu.
Nguồn: Đ4, tr.252; Đ5, tr.390; V17. Tr.163.
NĂM 1198 (MẬU NGỌ)
Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Ngọ)
136. Nhà vua nghe lời Đàm Dĩ Mông thải loại nhiều tăng đồ
Đàm Dĩ Mông nói với vua rằng: – Đương nay, số tăng đồ và số dịch phu ngang nhau. Chúng tự kết bè lũ, lập càn người chủ, tụ họp ở từng bọn, làm nhiều điều ô uế. Hoặc ở nơi giới trướng, tính xá mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở chốn tăng phòng tĩnh viện mà riêng tư gian dâm. Ngày ẩn tối ra như đàn cáo chuột. Chúng làm bại tục thương giáo, dần dần thành thói quen, nếu không cấm đi, để lâu tất ngày càng thêm tệ! Vua y lời tâu của Dĩ Mông. Dĩ Mông triệu tập tăng đồ trong xứ lại ở nơi kho thóc, độ vài chục người có danh tiếng làm tăng, số còn lại đánh dấu vào tay bắt hoàn tục.
Ngoài ra, nhà vua còn đến dự nhiều phiên xử án do viên Phu quốc Thái phó này tiến hành tại điện Thiên Khánh (vụ Thượng Lâm viện) hoặc Họa Quan (vụ Đô hộ phủ).
Nguồn: V17, tr.164.
NĂM 1198 (MẬU NGỌ)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Mậu Ngọ)
137. Người châu Đại Hoàng bắt đầu nổi dậy
Đinh Khả, Bùi Đô ở Đại Hoàng (Gia Viễn – Ninh Bình) xưng là con cháu Đinh Tiên Hoàng phối hợp với Ngô Công Lý – người hương Cao Xá, châu Diễn nổi dậy. Nhà vua sai người đem quân dẹp yên.
Nguồn: Đ4, tr.253; Đ5, tr.392.
NĂM 1202 (NHÂM TUẤT)
Tháng 9 (tháng Tám – Nhâm Tuất)
138. Hoàng thái tử Hạo Thầm sinh
Kể từ đây, đêm nào nhà vua cũng ngự ra hành cung Hải Thanh, sai nhạc công gảy đàn Bà Lỗ và hát những khúc khát Chiêm Thành tiếng nghe ai oán thảm thiết, đến nỗi Tăng phó Nguyễn Thường phải tâu bày: – Tôi thấy bài tựa Kinh thi có câu: âm nhạc của nước loạn nghe như oán, như giận vì chính sự của nước ấy là sai trái; âm nhạc của nước mất nghe như thương như nhớ, vì nhân dân nước ấy bị khốn cùng. Nay chúa thượng rong chơi vô độ; chính sự, giáo hóa sai trái lìa tan. Dân đen buồn khổ đến thế là cùng. Mà ngày nay nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng phải là điềm nước loạn, nước mất hay sao? Tôi biết rằng xa giá chuyến này trở về tất không lại ngự ra cung ấy nữa! Sau trong nước đại loạn, quả như lời Tăng phó nói.
Nguồn: V17, tr.163-164; Đ4, tr.253; Đ5, tr.392.
NĂM 1203 (QUÝ HỢI)
Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Hợi)
139. Cao Tông Long Cán lệnh cho làm nhiều việc thổ mộc, dựng đặt cung đài
Trong đó có việc xây dựng mới tại phía tây tẩm điện, ở giữa đặt điện Thiên Thụy, bên trái dựng điện Dương Minh, bên phải dựng điện Thiềm Quang, phía trước xây điện Chính Nghi, ở trên xây điện Kính Thiên, thềm gọi là Lệ Giao, ở giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Việt Thành, thềm gọi là Ngân Hồng, phía sau mở điện Thắng Thọ, ở trên xây gác Nguyệt Bảo, chung quanh dựng hành lang, thềm gọi là Kim Tinh. Bên phải gác Nguyệt Bảo đặt tòa Lượng Thạch, phía tây gác xây Dục Đường (nhà tắm), phía sau xây gác Phú Quốc, thềm gọi là Phương Tiêu, phía sau dựng cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư (nuôi cá), trên ao xây đình Ngoạn Ỷ. Ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ, nước ao thông với sông, cách chạm trổ, trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ, xưa chưa từng có vậy. Lúc trước khi gác Kính Thiên mới làm xong, có con chim thước đến làm tổ ở trên đó mà đẻ ra chim con. Quần thần nhân việc đó can vua rằng: – Xưa Ngụy Minh đế mới xây gác Lăng Tiêu, có chim thước đến làm tổ, Cao Đường Long nói rằng: Kinh Thi có nói: – Chim thước làm tổ, chim cưu đến ở. Nay cung thất mới làm xong mà chim thước đã đến làm tổ, thần ngu hèn cho rằng có họ khác đến ở đó. Thần xin bệ hạ xa trông lời nói của Cao Đường Long, trước cốt sửa mình, tu đức, sau hãy khởi công xây dựng mới là phải. Vua nín lặng hồi lâu rồi hỏi hoạn quan là Phạm Bỉnh Di. Phạm Bỉnh Di nói rằng: – Gác mới làm mà chim thước đến làm tổ, đẻ con, đó là điềm trời ban cho bệ hạ được dòng dõi trăm đời. Vua được đẹp lòng, lại càng đốc thúc công việc, trăm họ vì thế càng khốn khó.
Nguồn: V17, tr.166-167; Đ4, tr.253; Đ5, tr.393-394.
Tháng 9 (tháng Tám – Quý Hợi)
140. Hậu họa do Đàm Dĩ Mông gây ra
Tháng 8-1203, vua Chiêm Thành bị chú truất ngôi, đem 200 thuyền đưa vợ con và gia thuộc vào cửa biển Cơ La (sau đổi là Kỳ La) thuộc châu Nghệ An xin trú ngụ và cầu cứu. Tháng 9-1203, nhà vua sai Phụ quốc Thái phó Đàm Dĩ Mông và Khu mật sứ Đỗ An đi giải quyết công việc. Do ngu tối và thiển cận, lo ngại lỗ kiến soi, tấc khói và dã tâm lang sói của kẻ đến nhờ vả của Đàm – Đỗ nên đã đẩy đám quan lại địa phương manh động, tìm cách đánh úp hàng quân Chiêm Thành để làm kế tự bảo toàn. Kết cục mưu bị lộ, Điện tiền Chỉ huy sứ Đỗ Thanh, Châu mục Phạm Diên bị giết, quân lực của châu Nghệ An tan vỡ, chết không kể xiết. Hàng quân Chiêm Thành thả sức cướp bóc rồi nhổ neo về nước.
Bàn về sự kiện này, Sử thần Ngô Thì Sĩ viết: “Thanh và Diên là bề tôi giữ bờ cõi, không xét rõ tình hình địch, bàn càn công việc biên cương, ương bướng càn rỡ tự chuốc lấy sự chết chóc, dáng làm răn cho những người sinh sự cầu công để đến nỗi gây tai họa đến nhân dân… thì dù chết đến vạn lần cũng không chuộc được tội”.
Nguồn: V17, tr.167-168; Đ4, tr.253-254; Đ5, tr.393
Tháng 10 (tháng Chín – Quý Hợi)
141. Cuộc nổi dậy ở Đại Hoàng bùng phát trở lại
Thủ lĩnh cuộc nổi dậy ở Đại Hoàng lần này là Phí Lang. Địa bàn ban đầu là Ấp Lâm và Ấp Đà. Nghe tin Phí Lang nổi dậy, những dân phu là người Đại Hoàng đang xây cửa Đại Thanh ở Kinh thành Thăng Long đã bỏ trốn về quê ứng nghĩa còn Thượng tướng quân Nguyễn Bảo Lương cùng Thượng thư Từ Anh Nhĩ vào triều tâu xin nhà vua trừng phạt Đàm Dĩ Mông, kẻ mọt nước hại dân. Kết cục Đàm Dĩ Mông bị giáng làm Đại liêu ban.
Để đối phó, Cao Tông Long Cán đã cho Chỉ hầu Phụng ngự Trần Hinh làm Nguyên soái phối hợp cùng cánh quân điều từ phủ Thanh Hóa do Từ Anh Nhĩ chỉ huy đồng thời tiến đến Đại Hoàng nhưng cả hai đều bị chết trận tại sông Lộ Bố (có sách chép là Lộ Bái – nay thuộc Ý Yên – Nam Định).
Nguồn: V17, tr.168; Đ4, tr.254; Đ5, tr.394.
NĂM 1204 (GIÁP TÝ)
Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Tý)
142. Cao Tông Long Cán sai Thái bảo Lý Kính Tu đánh dẹp Đại Hoàng
Tại căn cứ của lực lượng nổi dậy, đứng trước khung cảnh núi rừng hoang sơ, Kính Tu nhát sợ không dám tiến vào sâu, bèn đóng đồn ở vụng Việt chia quân tiến đánh các ngả, còn Kính Tu chỉ lảng vảng ở giữa Chương Sơn (nay thuộc Bình Lục – Hà Nam), An Lão mà thôi, lại dâng thư nói rằng nay đang giữa mùa hè nắng nôi nóng nực, quân mỏi lương hết. Vua bèn vời về triều.
Tháng 6-1204 vua lại sai quan Nội hầu là Đỗ Anh Doãn đi dẹp Đại Hoàng, cũng không thắng, phải lui về.
Để chuẩn bị cho chiến dịch tổng tiến công vào căn cứ của Phí Long, tháng 11-1204 nhà vua tiếp tục cử Đàm Dĩ Mông đem binh lính các đạo đắp lũy đường Bà Câu trở về phía bắc, dọc theo cửa Lộ Giang đến trại Văn Lôi, để phòng ngự và sửa soạn cho việc tấn công người Đại Hoàng.
Nguồn: V17, tr.168-169.
NĂM 1205 (ẤT SỬU)
Tháng 9 (tháng Tám – Ất Sửu)
143. Đàm Dĩ Mông bị triệu hồi, Thị vệ Đô hỏa đầu Nguyễn Vị chiêu hàng được Phí Long
Sau khi Đàm Dĩ Mông đắp lũy xong, làm vài chục chiếc lâu thuyền, sai những tay bắn cung giỏi ở Phú Lương (nay thuộc Thái Nguyên) ở trên thuyền ấy, lấy dây dài buộc ở đằng sau thuyền rồi hạ lệnh rằng: – Giặc tới thì chèo thuyền qua sông mà bắn, nếu bất lợi thì kéo thuyền về! Rồi Dĩ Mông bị triệu về kinh, người Đại Hoàng đem lực lượng ra đóng ở bên bờ bắc. Quân lính làm như lời Dĩ Mông đã dặn. Người Đại Hoàng đứng trên bờ hò reo. Lính kéo thuyền thấy thế đối địch rất thịnh, ai nấy đều sợ hãi bỏ dây mà chạy. Thuyền dạt vào bờ bên phía địch quân, những tay bắn cung giỏi đều bị giết chết. Quan quân tan vỡ. Phí Lang trên đà chiến thắng, bèn thống suất lực lượng của Quan Sản thuộc man lão Chí Thổ đi đánh chiếm được một dải hương thôn, đốt hành cung ở Ứng Phong (nay thuộc Nam Định) và các kho thóc, nhà cửa của các bộ lạc cháy gần hết. Sau đến Nghiễn Động, Phí Lang bị người động đó đón đánh, phá được.
Mùa thu, tháng Tám (9-1205) vua sai chức Thị vệ đô hỏa đầu là Nguyễn Vi tới chiêu dụ người Đại Hoàng. Kết quả là, Phí Lang chấp thuận hạ vũ khí, đem 170 hào trưởng ra hàng phục triều đình. Tuy nhiên, đến năm 1207, Phí Lang lại đem lực lượng của mình đánh ấp Tập Tư. Trong hoàn cảnh đó, nhà vua phải xuống chiếu cho phép chọn những người khỏe mạnh trong số đinh nam ở các làng xã, cho quan các lộ thống quản.
Nguồn: V17, tr.169, 172.
Trong năm
144. Đất nước rơi vào nhiễu loạn
Ở biên giới, nhà Nam Tống cho binh lính sang cướp bóc, đốt phá khiến biên dân ngày khó nhọc đối phó. Giặc cướp nổi lên khắp nưi. Quan lại phần nhiều bán quan chức, buôn hình ngục còn nhà vua thì thích làm tiền.
Điện Thiên Thụy làm xong, vua ban yến cho quần thần ba ngày để mừng điện đã hoàn thành. Vua rất ham của cải lợi lộc, lấy việc bán quan buôn ngục làm chính sự. Hai người nào mà tranh nhau ruộng đất, sản vật, hễ một người đem dâng nạp rồi thì vua chẳng hỏi tình lý phải trái thế nào đều tịch thu sung công cả; vì thế mà kho đụn của nhà nước của cải chất như núi, còn bách tính thì kêu ca, oán thán. Giặc cướp nổi lên như ong.
Nguồn: Đ4, tr.254; V17. Tr.170.
NĂM 1206 (BÍNH DẦN)
Tháng 3 (tháng Hai – Bính Dần)
145. Cao Tông Long Cán khôi phục vị thế cho Đàm Dĩ Mông
Ngoài việc được phong làm Thái bảo, Đàm Dĩ Mông còn được phép đội mũ Củng thần. Đến tháng 5-1207, Đàm Dĩ Mông trở lại chức Phụ chính.
Nguồn: Đ4, tr.254; Đ5, tr.395; V17, tr.172.
Trong năm
146. Cao Tông Long Cán tiếp diễn chơi bời, buông thả
Mặc dù trong nước đã loạn lạc, mà nhà vua vẫn thích đi rong chơi. Đường sá bị ngãng trở, không đi đâu được, nhà vua bèn sai làm hành cung Ứng Phong, Hải Thanh ở chỗ đầm Ứng Minh, hàng ngày đem bọn cần thần, cung nữ đến chơi bời làm vui. Lại lấy thuyền to làm thuyền ngự, lấy các thuyền bé chia làm hai đội, sai bọn cung nữ, phường tuồng chèo thuyền, vua dẫn bọn tả hữu bắt chước nghi vệ như khi vua ngự đi chơi đâu vậy. Lại lấy sáp ong bọc những tấm lụa và các thứ hải vật thả xuống ao rồi sai người lội xuống mò lên giả làm đồ vật dưới Long Cung đem dâng. Quần thần thấy vua rong chơi vô độ đều sợ hãi không dám nói. Có người phường tuồng là Vũ Cao nói dối Thượng phẩm Phụng ngự là Trịnh Ninh rằng: – Có hôm Cao qua chơi trên bờ ao, thấy một người lạ cầm tay dắt đi vòng bờ ao, đến dưới gốc cây muỗm, bỗng người đó dẫn Cao đi xuống nước. Cao sợ chết đuối không dám tiến. Một lát nước ao bỗng tự rẽ ra. Cao đi xuống, đến một nơi, thấy cung điện nguy nga, thị vệ nghiêm chỉnh. Cao hỏi đó là chỗ ai ở, người đó bảo rằng, đó là chỗ ta ở để cai quản ao này! Người đó bèn sai dọn mâm cỗ, cùng Cao uống rượu. Rượu rồi, Cao tạ ơn xin về. Người đó đưa tặng cau, tiễn ra đến gốc cây muỗm, bỗng không thấy người đó đâu nữa, mà cau cầm ở trong tay đã hóa ra đá, Cao mới biết trong ao có thần! Ninh lấy làm kinh dị, bèn tâu với vua. Vua tuy nghe nói thế nhưng không sợ hãi gì cả, sai lấy sắt để yểm thần.
Đến những tháng đông, nước ao khô cạn. Vua bảo tả hữu rằng: – Ai có thể làm cho nước sông dâng đầy ao được thì ta sẽ hậu thưởng! Có tên nịnh thần là Trần Túc trả lời: – Thần có thể làm được! Vua bằng lòng, sai làm phép thuật của y nhưng không ứng nghiệm.
Một hôm, vua ngự chơi ở ao đó, nghe thấy ở ngoài thành có kẻ bị ăn cướp hô hoán lên, thế mà vua vẫn ham mê chơi bời, giả vờ như không nghe thấy.
Vua tính sợ sấm, mỗi khi sấm động thì sợ hãi. Có tên cận thần là Nguyễn Dư nói rằng có phép giáng sấm. Gặp khi có sấm nổ, vua sai Dư giáng sấm. Dư ngẩng mặt lên trời đọc chú. Tiếng sấm càng lớn hơn. Vua vặn hỏi việc đó, Dư nói rằng: – Thần răn nó đã lâu, nào ngờ nó còn cường bạo như thế đó!
Nguồn: V17, tr.170-171; Đ4, tr.254.
NĂM 1207 (ĐINH MÃO)
Tháng 9 (tháng Tám – Đinh Mão)
147. Anh em Đoàn Thượng, Đoàn Chủ nổi dậy ở Hồng Châu
Vào tháng 4-1207, Đoàn Khả Liệt đã cùng Vương Mãng bạo loạn ở châu Quốc Oai. Việc đánh dẹp chưa xong lại đến cuộc này. Vua sai Đàm Dĩ Mông đem đạo Đại Thông, Bảo Trinh hầu đem đạo Nam Sách, Thượng Phẩm phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem đạo Khả Liễu, Chi hậu hỏa đầu Trần Hinh đem đạo Phù Đái định gặp nhau cùng đánh Thượng. Thượng ngầm sai người đến đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, xin đem đảng chúng theo Du. Du vì Thượng mà cố xin với vua. Vua sai người đi triệu bọn Dĩ Mông bảo đem quân về, Thượng bèn thoát được. Từ đó Dĩ Mông, Bỉnh Di có hiềm khích với Du.
Sự kiện này được Đại Việt sử ký (toàn thư, tiền biên) cho rằng xảy ra muộn hơn mấy năm, cụ thể là vào tháng Hai năm Nhâm Thìn (3-1212). Khi đó Huệ Tông Hạo Sảm sai Đoàn Thượng chiêu mộ dân Hồng Châu bắt giặc cướp. Bây giờ thế nước suy yếu, triều đình không có chính sách hay, mất mùa đói kém luôn luôn, nhân dân cùng khổ. Đoàn Thượng cho rằng mình với vua cùng một vú nuôi, thừa thế loạn lạc tự tiện làm oai làm phúc, không một ai dám nói gì. Về sau tội trạng dần dần lộ rõ, bị các quan tâu hạch, phải giam vào ngục để hỏi tội.
Thượng rút kiếm, cởi trần chạy ra Hồng Châu, nhóm họp bè đảng, đắp thành ở, tự xưng vương, cướp bóc nhân dân địa phương, triều đình không ngăn cấm được.
Nguồn: V17, tr.172; Đ4, tr.257-258; Đ5, tr.400.
Trong năm
148. Cao Tông Long Cán hối lỗi
Vua thấy giặc cướp nổi lên như ong, bèn hối lại lỗi xưa, nhân đó hạ chiếu rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trùng, không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thán thì trẫm còn dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi, cùng dân đổi mới. Ai có ruộng đất sản nghiệp bị sung công sẽ được hoàn lại”.
Nguồn: V17, tr.172.
NĂM 1208 (MẬU THÌN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Thìn)
149. Cao Tông Long Cán sách lập Hạo Sảm làm Hoàng thái tử
Hạo Sảm là con thứ ba Cao Tông Long Cán và Nguyên phi Đàm Thị. Sau khi được sách phong, Hoàng thái tử được về ở Đông Cung.
Nguồn: Đ4, tr.255; Đ5, tr.396.
NĂM 1209 (MẬU THÌN – KỶ TỴ)
Tháng 1 (tháng Chạp – MậuThìn)
150. Phạm Du nổi loạn ở châu Nghệ An
Từ cuối năm Mậu Thìn (1208). Đại Việt lâm vào nạn đói nặng nề, những người chết đói nằm chất bên nhau; tiếp đến lại lụt lớn vào mùa đông; Vi Trí Cương từ đất Lộc Châu nhà Tống đem dư đảng sang cướp phá Lạng Châu.
Được triều đình cử vào coi việc quân ở châu Nghệ An, Phạm Du đã bẩm với vua rằng: – Nay thiên hạ rối loạn, bọn gian tặc nổi dậy khắp nơi, hoặc có kẻ ghen ghét với thần mà làm loạn, thì đầu thần còn không giữ nổi, huống chi là ân đức của bệ hạ! Xin bệ hạ để tâm một chút, cho phép thần được tuyển bọn trai tráng để tự đề phòng, ngõ hầu khỏi lo tai vạ. Vua bằng lòng. Do đó Phạm Du đã chiêu tập bọn vong mệnh, tụ tập bọn giặc cướp gọi là hậu nhân (người đi do thám tình hình) ngang nhiên cướp bóc, không sợ hãi gì cả. Giặc cướp vì thế mà nổi dậy như ong. Người Quốc Oai cũng đem đồ đảng đến đóng đồn ở Tây Kết, người trại Văn Lôi cũng đóng đồn ở sông Đà Mục. Từ đó, đường đất bị cắt đứt, thuyền bè không đi lại được. Vua sai Thượng phẩm Phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem người Đằng Châu ra phòng ngự. Phạm Du lại về hương Cổ Miệt cùng người Hồng Châu là Đoàn Thượng, Đoàn Chủ họp nhau đánh Đằng Châu. Người Đằng Châu xin Phạm Bỉnh Di đánh Phạm Du, không được phải trở về.
Tháng 2-1209 (tháng Giêng – Kỷ Tỵ) Phạm Bỉnh Di lại đem người Đằng, người Khoái đi đánh Phạm Du, bị thua liên tục, giận dữ chém những kẻ bỏ chạy để tuyên bố mệnh lệnh. Ngày khác lại ra đánh, thắng được khiến cho Phạm Du phải chạy ra đất Hồng Châu. Phạm Bỉnh Di tịch biên gia sản của Phạm Du rồi đốt hết. Từ đó Phạm Du và Phạm Bỉnh Di càng thêm oán ghét nhau.
Nguồn: V17, tr.173.
Ngày 16 tháng 4 (28 tháng Ba – Kỷ Tỵ)
161. Phạm Bỉnh Di tiến đánh Đoàn Thượng, Đoàn Chủ
Cuộc chiến diễn ra ác liệt tại cầu Vệ (Vệ kiều) thuộc Hồng Châu khiến cho lực lượng của họ Đoàn Thượng tan vỡ, Đoàn Chủ bị Hà Văn Lôi đâm chết.
Sau sự kiện này, vua sai Chi hậu Phụng ngự Trần Hinh triệu Phạm Bỉnh Di về Kinh sư do việc Phạm Du ngầm sai người vào Kinh, đem vàng bạc đút lót cho người trong Nội phủ, nói rằng Phạm Bỉnh Di tàn ác giết hại nhiều người vô tội. Vua tin lời triệu cả Phạm Du, Phạm Bỉnh Di về kinh.
Nguồn: V17, tr.174; K3, tập 1, tr.411.
Tháng 8 (tháng Bẩy – Kỷ Tỵ)
152. Loạn Quách Bốc, lập Hoàng tử Thầm làm vua
Ngay khi Phạm Bỉnh Di về đến Kinh sư, sắp vào tâu, có người can rằng: – Lời của Du đã đến tai vua trước rồi, vua còn chưa nguôi giận. Bỉnh Di nói: – Ta thờ vua hết trung mà bị kẻ gian tặc gièm pha ư? Huống chi là có mệnh vua đòi, ta còn tránh vào đâu? Rồi Bỉnh Di vào. Vua sai bắt cùng với con là Phụ giam ở Thủy viện. Sắp đem hành hình thì tướng của Bỉnh Di là bọn Quách Bốc nghe tin, đem quân đánh trống hò reo tiến vào đến ngoài cửa Đại Thành. Bị người coi cửa chống cự, Bốc phá cửa tiến vào. Vua thấy việc kíp quá, sai gọi Bỉnh Di và Phụ vào xứ Lương Thạch thềm Kim Tinh lấy giáo đâm chét. Bọn Bốc xông vào xứ Lương Thạch lấy xe của vua chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu của vua bọc xác Phụ, do cửa Việt Thành ra bến Đông Bộ Dầu; rồi lại trở vào cung Vạn Diên lập Hoàng tử Thầm làm vua. Bọn Đàm Dĩ Mông, Nguyễn Chính Lại đều chịu ngụy chức của Thầm. Cao Tông Long Cán chạy đến Quy Hóa giang.
Nguồn: Đ4, tr.255; Đ5, tr.396.
153. Trần Lý, Phạm Ngu bỏ Hạo Thầm, đưa Hạo Sảm lên ngôi
Khi cuộc bạo loạn Quách Bốc đang diễn ra dữ dội, Trần Lý thống suất thủy quân kịp thời đến Thăng Long rước Hoàng thái tử Sảm, hai Công chúa và Nguyên phi Đàm Thị về Hải Ấp và dự định nếu đón được Hoàng tử Hạo Thầm sẽ dựng làm vua ở đó. Biết được ý đồ trên, Lưu Thiệu vốn là gia thần của Hạo Sảm nói với Trần Lý và Phạm Ngu (người Giao hoặc Diêu Hào) rằng: – Thần tuy lớn nhưng là con thứ. Sảm tuy nhỏ nhưng là đích tử, xin hai ông liệu định! Nghe vậy, Trần Lý và Phạm Ngu rước Hoàng thái tử về Lỵ Nhân (có sách ghi là Mang Nhân), đưa làm Thắng Vương, giáng Hoàng tử Thầm xuống tước vương.
Ít lâu sau, Thắng Vương về ở công quán tại Lưu Gia, lấy trọng nữ – con gái thứ hai của Trần Lý làm Nguyên phi, ban cho Trần Lý tước Minh tự và cậu vợ là Tô Minh Từ làm Điện tiền Chỉ huy sứ, Phạm Ngu làm Thượng phẩm Phụng Sự.
Sự kiện trên đây được căn cứ vào Việt sử lược, có nhiều khác biệt với Đại Việt sử ký (toàn thư và tiền biên) như tuổi tác của Hạo Sảm, Hạo Thầm; việc sử dụng Đàm Dĩ Mông, Nguyễn Chính Lại (Đại Việt sử ký ghi hai nhân vật này đều chịu ngụy chức của Thầm trong khi Việt sử lược cho rằng Thắng Vương đã đưa họ vào vị trí Thái úy, Tham tri Chính sự).
Nguồn: V17, tr.174-175; Đ4, tr.255; Đ5, tr.396
Cuối năm
154. Anh em họ Trần họp hương binh dẹp loạn, đón Cao Tông Long Cán về Kinh
Về đến Kinh thành, anh em họ Trần còn giúp nhà vua khôi phục lại chính đạo, trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn và xử chúng theo thứ bậc khác nhau.
Nguồn: Đ4, tr.256; Đ5, tr.397.
NĂM 1210 (CANH TÝ)
Tháng 4 (tháng Ba – Canh Tý)
155. Cao Tông Long Cán đón Hạo Sảm từ Lưu Gia về Kinh
Thượng thẩm Phụng sự Đỗ Quảng đảm nhận việc đem quân về nhà riêng của Tô Trung Tự để đón Hoàng thái tử nhưng chưa đón Nguyên phi Trần Thị. Lúc này Trần Lý đã bị chết khi đi đánh dẹp, con trai là Trần Tự Khánh nhận tước Thuận Lưu bá, thay cha cai quản đám hương binh của họ Trần.
Nguồn: Đ4, tr.256; Đ5, tr.397-398.
Tháng 8 (tháng Bẩy – Canh Tý)
156. Cao Tông Long Cán tha tội cho tất cả những người đã lìa bỏ triều chính
Nhân được xá tội, Đàm Dĩ Mông cùng 28 người đã nhận chức tước của Hoàng tử Thầm xin về chầu sau khi cùng thuộc hạ đến hương An Lãng mưu bắt những người theo Hoàng thái tử Sảm để tâng công, không thành. Đỗ Anh Doãn (có sách ghi là Đỗ Anh Triệt) mắng Đàm Dĩ Mông: – Mày là Đại thần của cả nước, đã mang lòng vô quân, nhận tước phong của giặc, nay lại cùng ngồi ngang hàng với ta! Ta tuy bất tài nhưng mặt mũi nào đối diện với ngươi nữa! Đàm Dĩ Mông cả thẹn, sợ hãi mà lui ra.
Nguồn: V17, tr.176, Đ4, tr.256; Đ5, tr.398
Ngày 22 tháng 11 (tháng Mười – Canh Tý)
157. Cao Tông Long Cán băng hà
Nhà vua mệt nặng khi thời tiết sang đông. Ngày Nhâm Ngọ tháng Mười vua nằm trên giường bệnh, bỗng thấy hai người mặc áo xanh, cầm trượng đứng cạnh. Vua hỏi người cầm trượng là ai. Tả hữu tâu rằng không thấy ai cả. Đêm đó vua mất ở điện Thắng Thọ, hưởng dương 37 tuổi, miếu hiệu là Cao Tông, ở ngôi 36 năm, táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức, cải nguyên bốn lần.
Nguồn: V17, tr.176.
Cuối tháng 11 (giữa tháng Mười – Canh Ngọ)
158. Hoàng thái tử Hạo Sảm nối nghiệp vua cha
Hoàng thái tử lên ngôi trước linh cữu, quần thần dâng tôn hiệu là Tự Thiên, Thống Ngự, Khâm Nhân, Hoằng Hiếu Hoàng đế; lấy miếu hiệu là Huệ Tông. Huệ Tông Hạo Sảm tôn mẹ là Nguyên phi Đàm Thị làm Thái hậu, cùng dự triều chính.
Trần Tự Khánh đem quân đến bến Tế Giang xin cậu là Tô Trung Tự cho được dự lễ tang Cao Tông không được nên khi Huệ Tông sai người về đón Trần Thị đã bị Trần Tự Khánh cản trở.
Nguồn: V17, tr.177; Đ4, tr.257; Đ5, tr.399.
NĂM 1211 (TÂN MÙI)
Tháng 3 (tháng Hai – Tân Mùi)
159. Huệ Tông Hạo Sảm đón Trần Thị về Kinh
Trần Thị được lập làm Nguyên phi. Nhân đó, cho Tô Trung Tự làm Thái úy Phụ chính, Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu.
Nguồn: Đ4, tr.257; Đ5, tr.399; V17, tr.179.
Tháng 7 (tháng Sáu – Tân Mùi)
160. Các thế lực họ Đoàn, họ Trần, họ Phạm, họ Nguyễn tranh giành ảnh hưởng
Sau khi Đoàn Chủ chết, Hạo Sảm lên ngôi, Đoàn Thượng quy thuận triều đình, trở thành một lực lượng đáng gờm với nhiều đối thủ mới nổi lên. Từ đất Hồng Châu, Đoàn Thượng tập hợp dưới cờ nhiều danh tướng trong dòng tộc như Đoàn Ma Lôi, Đoàn Cấm, Đoàn Khả Như, Đoàn Trì Lỗi, Đoàn Nguyễn, Đoàn Nghi. Tuy nhiên trong tháng này, thế lực Hồng Châu chỉ làm chủ thêm vùng đất Khoái Châu, được vua ban cho tước hầu còn phần nhiều bị thua trận, mất đất, chết tướng (Đoàn Trì Lỗi).
Kể từ khi Tô Trung Tự vì tư thông với Công chúa Thiên Cực bị giết chết, quyền lực của tập đoàn Hải Ấp nằm trọn trong tay Trần Tự Khánh. Bên cạnh việc liên kết với Nguyễn Tự – một tướng cũ của Tô Trung Tự để chống lại thế lực Hồng Châu, Trần Tự Khánh còn liên kết với lực lượng họ Phạm – dòng dõi của Phạm Cự Lượng ở vùng Nam Sách.
Nguyễn Nộn từ một cư sĩ ở chùa Phù Đổng, được Trần Tự Khánh cưu mang rồi gả em gái họ, cho trấn giữ vùng Bắc Giang. Từ lúc giết chết các tướng Thân Trường, Thân Cải và Đoàn Nguyễn, Nguyễn Nộn có thêm sự ủng hộ của triều đình.
Đây là những tập đoàn quân sự địa phương đang biến thành các thế lực cát cứ chống đối lẫn nhau khiến triều đình khi thì dựa dẫm vào các lực lượng này lúc vào tập đoàn kia một cách tạm bợ và hờ hững.
Nguồn: V17, tr.179-184; Đ4, tr.257-259
NĂM 1212 (NHÂM THÂN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Nhâm Thân)
161. Trần Tự Khánh – Nguyễn Tự chia sẻ sơn hà
Nhận thấy triều đình ngày càng đổ nát, Trần Tự Khánh đã cùng Nguyên Tự họp nhau ở bến Triều Đông, nên danh nghĩa làm bạn sống chết có nhau, tận trung báo quốc, cùng bình họa loạn nhưng trên thực tế lại ngầm chia rạch đất nước mà phân giới là hai bờ sông lớn, mỗi người thống suất một bên. Từ Thượng Khối đến Na Ngạn, các hương ấp theo đường sông Bắc Giang và đường bộ thì thuộc về Trần Tự Khánh. Từ Kinh Ngạn đến Ô Diên thuộc về Nguyễn Tự. Lại hẹn đến tháng Ba họp nhau đánh mạnh vào thế lực họ Đoàn ở Hồng Châu.
Nguồn: V17, tr.182.
Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Thân)
162. Huệ Tông Hạo Sảm chạy lên Lạng Châu bất thành
Để thoát khỏi tai họa do các đám loạn quân liên tiếp gây ra ở Kinh thành và sự o ép của Trần Tự Khánh, nhà vua và Thái hậu rời đến nhà Đại liêu ban Đỗ Thưởng bên Đông Ngạn để từ đó chạy lên Lạng Châu nương nhờ các thổ hào họ Thân. Trần Tử Khánh nghe tin, bèn dẫn quân đến Kinh sư, sai tướng là Lại Linh, Phan Lân đem binh đến nhà Đỗ Thưởng đón xa giá về cung. Vua sợ hãi, nghi ngại, đêm đó vẫn quyết đi Lạng Châu. Lại Linh, Phan Lân bèn nắm lấy cương ngựa, khấu đầu xin ở lại, vua bèn thôi. Ngày hôm sau, Chương Thành hầu Trần Tự Khánh đến bến Đông Ngạn đón vua, vua quay về, đỗ giá ở bến Từ Điệu. Tự Khánh sai người quét dọn cung Thánh Nghị, xa giá vào ở cung đó. Vua và Thái hậu tới trước bàn thờ Phật, thề rằng: – Trẫm là người đức bạc, thẹn nối cơ đồ quý báu, đến nỗi gặp loạn li, gần sụp đổ mất cơ nghiệp của người xưa, để cho cung giá phải nhiều lần dời đổi. Nay trẫm muốn thoái lui nhường ngôi trời cho người hiền đức. Nói đoạn vua cầm dao định cắt tóc để đi tu. Tự Khánh và quần thần đều khấu đầu khóc lóc, vua mới thôi rồi xa giá về cung.
Chương Thành hầu Tự Khánh tự di chuyển đến Hạc Kiều. Ngày hôm đó, vua truyền cho văn võ bá quan đều phải nghe mệnh lệnh của Chương Thành hầu.
Nguồn: V17, tr.183-184.
Tháng 5 (tháng Tư – Nhâm Thân)
163. Trần Tự Khánh đem quân đánh Đoàn Thượng
Cuộc chiến diễn ra dữ dội tại Ấp Trì – Hồng Châu.
Nguồn: V17, tr.184.
NĂM 1213 (NHÂM THÂN)
Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Thân)
164. Trần Tự Khánh làm loạn trong cung
Đang tìm cớ uy hiếp triều đình thì được Đàm Kinh Bang đem tội trạng của Nội minh tự Doãn Tín Dực tâu bày, Trần Tự Khánh bèn tỏ ra giận dữ, phát binh đến Long Thành sai Điện tiền Chỉ huy sứ Nguyễn Ngạch đem các quan chức vào cả trong cấm thành, hét lớn lên ràng: – Tín Dực a dua thượng ý, làm rối loạn kỷ cương trong nước, ra vào chốn thâm cung, không rõ rành danh phận. Thần xin trừ bỏ nó đi, chớ để làm ô bẩn! Tín Dực sợ lắm, bèn trốn ở trên Hương Các. Nguyễn Ngạnh đột nhập vào bắt, trói bằng dây thép năm vòng đưa đến nhà công quán ở Mỹ Lộc giao cho Tự Khánh.
Nguồn: V17. Tr.184.
Tháng 2 và 3 (tháng Giêng, tháng Hai – Quý Dậu)
165. Huệ Tông Hạo Sảm tự thân đem quân đi đánh Trần Tự Khánh
Trước hết, trong tháng Giêng, Thái hậu ngầm sai Tiểu thị vệ Hỏa đầu Vương Thường vời các tướng ở đạo Phù Lạc là Phan Thế, ở đạo Bắc Giang là Ngô Nãi hẹn đến ngày Giáp Dần tháng ấy cùng phát binh đánh Tự Khánh. Ngày Giáp Dần, Vương Thường, Phan Thế tiến đánh quân Tự Khánh ở ngoài cửa Đại Hưng, định nhân đó sẽ vào hậu cung bắt mẹ Tự Khánh là Tô thị. Phạm thị biết chuyện bèn ngầm đem Tô thị đi qua thành, lên thuyền chạy trốn. Lúc bấy giờ quân lính không đề phòng, thấy Ngô Nãi đến đều tan chạy. Tự Khánh ở bến Đại Thông, không hay biết việc đó.Mấy ngày sau hay tin, liền đem quân vào Cấm thành đốt cháy cầu Ngoạn Thiềm rồi đem lực lượng về đóng ở bến Đại Thông, sai người lên Bắc Giang triệu Nguyễn Nộm để hỏivề tội cho Ngô Nãi đến đánh. Khi Nguyễn Nộn về đến kinh liền bị Trần Tự Khánh bắt trói bằng năm vòng dây thép.
Trước sự bức bách ngày càng tăng, nhà vua cho vời Đàm Dĩ Mông, Đoàn Thượng về hội rồi sai đi dánh Trần Tự Khánh. Đến tháng 3-1213 đích thân vua đem lực lượng của triều đình tấn công Mễ Sở nhưng khi đó Trần Tự Khánh đang ở châu Quốc Oai thắng như chẻ tre.
Nguồn: V17, tr.184-185.
Tháng 10 (tháng Chín – Quý Dậu)
166. Trần Tự Khánh kéo Nguyễn Nộn vào vòng ảnh hưởng của mình
Hồi tháng Tư, Tự Khánh đã thả Doãn Tín Dực về Kinh sư, nhân đó đút lót rất hậu, nói rằng: – Ông về chuyến này cố khéo nói giúp ta với vua và Thái hậu, để hai cung biết rõ nghĩa vua tôi thủy chung của ta, chớ nên nghe lời bọn tiểu nhân, cho ta được toàn tính mạng. Doãn Tín Dực về đến Kinh, vua hỏi han về Tự Khánh. Doãn Tín Dực nói rằng Tự Khánh có lòng thoán nghịch. Vua và Thái hậu lại càng ghét Tự Khánh.
Vào nơi giam giữ Tự Khánh thấy Nguyễn Nộn là người vẻ mặt khôi ngô, kỳ lạ, độ lượng, tuy sống trong cùm trói mà thần sắc vẫn giữ được tự nhiên, thấy dũng sĩ nhảy múa, cũng mang cả dây trói mà nhảy, giỏi hơn dũng sĩ. Tự Khánh lấy làm lạ, bèn cho cởi trói, phong làm tướng, gả con gái của dì mình làm vợ Nộn, cấp hai ấp Thần Khê, Cả Lũ (nay thuộc Thái Bình) để Nộn cai quản.
Nguồn: V17, tr.185-186.
NĂM 1214 (GIÁP TUẤT)
Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Tuất)
167. Tập đoàn họ Trần tấn công Thăng Long
Sau khi huy động tổng lực, Trần Tự Khánh họp binh các đạo thề ở đền Đỗ thái úy ở Đông Phù Liệt, định đánh Kinh sư. Để thực hiện kế hoạch này, Tự Khánh chia ra Phan Lân, Nguyễn Nộn chỉ huy quân ở Quốc Oai, theo đạo Bình Lạc đánh bằng đường bộ; Tự Khánh tự lĩnh thủy quân đến Đà Mạc giang (Trần Thừa và Tự Khánh đánh bên hữu ngạn sông Lô, Vương Lê, Nguyễn Cải đánh cầu nổi Phù Lương (ở bến Triều Đông). Nhận được tin dữ, vua tự làm tướng trong cuộc đánh dẹp Tự Khánh, nhưng trên đường hành quân gặp sương mù, đen tối, người chở đò không thấy rõ đường đất. Đến Mễ Sở quân triều đình gặp quân của Vương Lê, Nguyễn Cải. Chưa giao chiến, nghe tiếng hò reo tiến binh, quan quân triều đình đã tự tan vỡ, bỏ thuyền lên bộ mà chạy, trong đó có cả thuyền rồng.
Trần Thừa định tiến công hữu ngạn sông Lô. Đến bến An Diên gặp Đàm Dĩ Mông và An Nhân vương đem các quân ở đạo Bắc Giang tới, liền đem hết quân tinh nhuệ ra đón đánh. Hai quân của Dĩ Mông và An Nhân vương đều bại. Trần Thủ Độ, Trần Hiến Sâm thừa thắng tiến đến bến Từ Điệu, lại thắng được. Phan Lân bèn đến chợ Dừa (Da thị), gặp tướng Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ Hốt liền đánh, khiến họ đều thua, phải tắt qua cầu Nổi ở bến Triều Đông mà về.
Lúc bấy giờ vua ở đình Trà, nghe tin các quân đều thất bại, rất sợ hãi, sai xe giá vào trong Cấm thành rước Thái hậu cùng lên thuyền định đi Lạng Châu. Khi đi qua Đại Thất (tức Thái Thất) ở Thiên Đức (Từ Sơn), Dĩ Mông khóc lóc thảm thiết, ngăn lại nói rằng: – Đường đi Lạng Châu xa xôi, đất nhiều chướng khí, không phải là nơi yên ổn. Nay bệ hạ tị nạn mà đến nơi ấy, khác nào tránh nóng mà lại chạy vào lửa, có ích lợi gì? Xin bệ hạ lưu lại đây ít lâu, sai bọn thần thống suất người Hồng Châu lại cùng kẻ kia giao chiến, để mưu toan về sau. Vạn nhất có bất lợi, sau đó hãy ngự đi cũng chưa muộn!. Vua nghe lời. Tuy nhiên, mấy ngày sau Đàm Dĩ Mông với người Hồng Châu không đến. Vua lo lắm, ngày Kỷ Mão ngự đi Lạng Châu. Xe giá đến nhà Nguyễn Thuận ở hương Nhuế Duệ (có lẽ là Nội Duệ), nghỉ một lát. Đêm đó vua lại ngự đến nhà Trịnh Nông ở hương Đa Cảm. Trịnh Nông dâng món ăn, ăn xong vua lại đi, ngủ ở nhà Đào Niên ở động Chu Ma. Tự Khánh ở Hạc Kiều, sai bảo các tướng súy, vỗ về binh lính mới tập hợp ở các đạo. Lại Linh giữ Nghĩa Trụ, Phan Lân giữ Siêu Loại, Thủ Độ giữ Lăng Ải, Phạm Ngữ giữ Bần Ải, Nguyễn Nộn giữ Bắc Giang.
Lúc bấy giờ Trần Thủ Độ gặp binh của người Hồng Châu là Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi, Đoàn Khả Như, liền đánh nhau. Người Hồng Châu thua chạy.
Vua nghe tin Nguyễn Nộn giữ Bắc Giang, bèn sai tướng An Thiết là bọn Thân Trường, Thân Cải cự chiến ở cánh đồng Nhuế Duệ đều bị Nguyễn Nộn giết chết cả.
Vua bèn cùng Thái hậu chạy đến đất Mục Sơn ngụ ở nhà quan Nội hầu Vương Thượng (châu mục Lạng Châu).
Được vài ngày, Tự Khánh bèn cắt tóc, sai người đem dâng vua và nói rõ ý của mình rằng: – Thần thấy bọn tiểu nhân ở cạnh bệ hạ, lấn át người trung lương, bưng tai bịt mắt bệ hạ; dân tình uất ức, không thấu được lên trên. Cho nên, nhân lòng giận dữ của người trong nước, thần khởi binh dẹp lũ đó, cắt trừ gốc họa, để yên lòng dân mà thôi. Đến như phận vua tôi, thần mảy may không dám phạm đến một chút nào. Ngờ đâu, phải gánh lấy tội chuyên quyền đánh dẹp, để khiến cho xe giá phải long đong, tự xét tội của thần, thật đáng vạn lần chết. Xin bệ hạ nguôi cơn giận dữ, quay xe giá về kinh sư để thỏa lòng người mong muốn! Vua không ưng lời.
Tự Khánh lại sai Đàm Kinh Bang đem trăm quan, chuẩn bị xe giá rước vua về Kinh. Vua toan nghe lời. Quần thần đều vui mừng. Khi Doãn Tín Dực nói với Thái hậu rằng: – Kẻ kia có lòng dạ khác đã lâu, toan bày kế để bắt tù đấy thôi! Sao bảo là đón rước được? Xin bệ hạ nên suy đi nghĩ lại! Thái hậu lấy làm phải. Ngày hôm sau, vua sai xe giá trở về, vào tâu với Thái hậu. Thái hậu nói rằng: – Vua lấy quốc gia làm trọng, không thể không về được. Còn mẹ già thì đi đâu? Vua biết rằng Thái hậu không có ý trở về, bèn cùng Thái hậu ngự đi Cổ Lộng. Đoàn Kinh Bang cho người đứng chật đường, vin lấy đầu ngựa, khóc lóc nói rằng: – Kinh sư là nơi dân mong ngóng, bỏ đấy không về thì định đi đâu? Lại nói rằng: – Thần thấy tấm lòng của Tự Khánh trung trực không có ý gì khác, bệ hạ còn nghi ngờ gì nữa?Vua vẻ thất vọng xuống xe nói với quần thần rằng: – Quốc gia chẳng may lúc này gặp nhiều biến cố. Nay Thái hậu lặn lội nơi xa xôi nguy hiểm, trẫm lẽ nào dám bỏ nghĩa sớm hôm thăm hỏi! Nói rồi giục xe mà đi. Lúc bấy giờ bọn hộ vệ nhiều người bỏ đi, duy có bọn Nội thị phán thủ Trần Hân 30 người cùng theo. Vua và Thái hậu lên thuyền ngự đến núi Tam Trĩ (thuộc Lạng Châu) ở tại nhà Hoàng Ngũ Lâu rồi thấy thủy thổ không hợp, bèn lui đến bến Thang. Đêm đó đỗ xe ở thôn Tượng Nô.
Tháng Hai, ngày Tân Mùi, xe giá vào Phượng Sơn được hơn một tuần lại trở về Nam Sách.
Nguồn: V17, tr.186-189.
Ngày 1 tháng 4 (27 tháng Hai – Giáp Tuất)
168. Trần Tự Khánh cho đón Huệ Văn Vương về thay Huệ Tông Hạo Sảm
Ngày Mậu Thân (27 tháng Hai) Chương Thành hầu Trần Tự Khánh triệu tập các vương và bách quan bàn việc cải lập, bèn sai người đón con vua Anh Tông là Huệ Văn Vương đến Hạc Kiều lập làm vua. Ngày hôm đó bắt bọn Đàm Kinh Bang, họ nhà Thái hậu đều trói bằng dây thép đem giam ở Mỹ Lộc (Nam Định).
Ngày Quý Hợi (12 tháng Ba tức 16-4-1214) họp người trong nước thề ở sân Long Trì.
Tháng Ba, Huệ Văn Vương lên ngôi ở điện Đại An, cải nguyên là Càn Ninh, hiệu là Nguyên Vương. Ngày hôm đó có mưa to sấm lớn.
Nguồn: V17, tr.189.
Tháng 4 (tháng Ba – Giáp Tuất)
169. Đoàn Nhuyễn – Nguyễn Nộn giáp chiến ở Đông Cứu
Từ Hồng Châu, Đoàn Nhuyễn đem binh đánh vào núi Đông Cứu ở Bắc Giang. Người Đông Cứu không đề phòng, thấy Nhuyễn đến, đại quân đông đủ, bèn tan vỡ. Nhuyễn vốn hung hãn, được thắng lại càng kiêu, bèn đốt nhà cửa, giết bắt gà chó gần hết. Sau đó, Nhuyễn cởi giáp lên chùa trên núi, đánh chuông làm vui. Lúc bấy giờ người canh giữ các chùa đều kéo chuông. Nguyễn Nộn nghe tiếng chuông đem binh đón đánh, giết được Đoàn Nhuyễn. Nguyễn Nộn thừa thắng đuổi theo đến tận Pháp Kiều, bị Đoàn Nghi mai phục ở dưới cầu, lấy giáo đâm xuyên qua cả giáp sắt khiến Nguyễn Nộn bị thương ở lưng. Nguyễn Nộn bèn dẫn binh lui (xưa Nộn thấy Đông Cứu giáp giới với Hồng Châu, sợ người Hồng Châu đánh úp, đến cứu không kịp, nên đã dặn trước lính canh rằng: – Nếu thấy người Hồng Châu đến thời ai nấy đều đánh chuông cáo cấp để Nguyễn Nộn nghe thấy mà lại cứu. Đến bây giờ, Đoàn Nhuyễn lầm lỡ đánh chuông chùa, vì thế mà bị đánh thua).
Nguồn: V17, tr.189-190.
Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Tuất)
170. Họ Phan, họ Đỗ ở Cam Giá chống lại Trần Tự Khánh
Đầu tiên là Phan Cụ. Sau khi viên tướng này bị giam ở Mỹ Lộc, lại đến lượt Đỗ Bị và Phan Lân bị bắt. Đến khi Nguyễn Nộn rời bỏ, Trần Tự Khánh đem giết Nghĩa Tín Vương ở Dâm Đàm vì cho hai người này thông đồng với nhau. Không dừng lại ở đó, Trần Tự Khánh còn phát binh cướp vàng bạc hóa vật trong kho của nhà vua, sai Lại Linh đốt 19 nơi trong các cung thất ở Kinh đô, đưa Nguyên Vương xuống hành cung Lý Nhân rồi tự mình đến bến Đại Thông đắp lũy Nghĩa Trú.
Vì thế, họ Phan, họ Đỗ thề không đội trời chung.
Nguồn: V17, tr.190.
Ngày 28 tháng 7 (27 tháng Sáu – Giáp Tuất)
171. Huệ Tông Hạo Sảm trở về ngự ở Thái Thất
Khi đó, Trần Tự Khánh đem quân tiến đánh Nguyễn Nộn ở Kinh thành, đốt cung Thánh Nghi. Tháng Sáu, ngày Bính Ngọ, vua cùng Thái hậu ở Nam Sách trở về ngự ở Thái Thất, ban cho Tướng quân đạo Bắc Giang là Nguyễn Nộn tước hầu. Ngày Đinh Mùi, nhà vua và Thái hậu đến Đại Nội. Thái hậu mật chiếu cho Tướng quân Phù Lạc là Phan Thế dụ Ô Kim hầu Nguyễn Bát mà giết đi nhưng không xong. Sau lại phải sai Nguyễn Nộn làm việc này.
Để phòng bị, vua xuống chiếu cho đắp lũy từ thành Vạn Xuân đến Chợ Cái.
Nguồn: V17, tr.190-191.
Tháng 10 (tháng Chín – Giáp Tuất)
172. Trần Tự Khánh thả cho binh sĩ đốt phá Kinh thành
Ngoài việc sai Đàm Bật dâng thổ vật cho vua, Trần Tự Khánh lại sai Nguyễn Ngạnh đưa Đàm Kinh Bang – người cùng tông tộc với Thái hậu về Kinh sư thanh minh về sự trung chinh, một lòng theo vua. Không lung lạc được nhà vua và Thái hậu, Trần Tự Khánh dẫn binh xâm phạm cửa khuyết. Vua cùng Thái Hậu đem binh hội họp. Ngày hôm ấy Tự Khánh thả quân sĩ cướp tài vật của vua, đốt cả cung thất và nhà cửa của dân Kinh thành gần hết. Mấy ngày sau, vua cùng Thái hậu về Kinh sư, thấy cung thất bị đốt cháy hết, bèn đi ra cầu Thái Hòa ở cạnh đền Chúc Thánh, sai dựng căn nhà tranh để ở.
Nguồn: V17, tr.191.
NĂM 1215 (ẤT HỢI)
Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Hợi)
173. Huệ Tông Hạo Sảm ban chiếu kêu gọi đánh dẹp Trần Tự Khánh
Đứng trước sự lộng quyền của Trần Tự Khánh, nhà vua kêu gọi: – Trần Tự Khánh nhóm họp hung đảng, cướp nhiễu Kinh sư, đánh thủy, đánh bộ, làm đau đớn đến tông miếu, xã tắc. Mùa đông năm ngoái, lửa bạo ngược lại càng bốc cháy, nó đem quân lính, càn rỡ tham ngược, cướp bóc của cải của ta, đốt phá cung thất của ta, đến như ngõ ngách Kinh thành, cũng bị biến thành tro bụi! Trẫm nhân nổi giận của ức triệu thần dân, nhờ cậy anh linh của nhất tổ lục tông, đem cả năm quân, thân hành đánh dẹp. Hỡi tướng sĩ! Hãy nghe lời chiếu của trẫm, ai nấy hãy dốc lòng gắng sức, cho xứng với ý trẫm!.
Ngay sau đó, không khí giúp vua đánh kẻ phản nghịch trở nên sôi sục hơn. Để đối phó lại và tránh bị rơi vào cô lập, Tự Khánh dẫn quân đến đóng đồn ở Cửu Liên, chia tướng sĩ đến đóng đồn ở Cửu Ông thuộc Cửu Cao để phòng ngự Nguyễn Nộn. Lại sai tướng quân Lộ Khoái là Nguyễn Đường, Nguyễn Thử giữ Địa Dân. Nhưng chẳng bao lâu Nguyễn Đường và Nguyễn Thử hưởng ứng chiếu vua ban, đã cùng với Nguyễn Nộn thông mưu để đánh Tự Khánh. Tự Khánh lại sai Lại Linh giữ An Diên, Phù Liệt, tự mình đi đánh bộ ba Đường, Thử và Nộn.
Trong khi đó, quân đội triều đình đánh đuổi được Lại Linh ra khỏi An Diện, Phù Liệt. Bắc Giang hầu Nguyễn Nộn được phong làm Bắc Giang Vương.
Nguồn: V17, tr.192.
Tháng 4 (tháng Ba – Ất Hợi)
174. Trần Tự Khánh quyết giành giật vùng Khoái Châu
Trần Tự Khánh quyết giành lại Nguyễn Đường, Nguyễn Thử và vùng Lộ Khoái nên đem binh đến vây ép, dụ hàng được hai người này. Ngay lập tức, Trần Tự Khánh sai Nguyễn Đường, Nguyễn Thử đắp lại lũy Hoàng, An Lợi đắp lũy An Giá, Dương Từ đắp lũy Công Chúa. Tuy nhiên, khi Nguyễn Nộn đem binh tấn công, các lũy trên nhanh chóng bị san phẳng khiến Trần Tự Khánh phải đến giải nguy và cho các tướng Trần Thủ Khánh, Trần Hiếu Sâm và Đào Phán đóng ở Lam Kiều, tiến đánh cánh quân của Nguyễn Nộn do Phí Thám chỉ huy. Để thêm sự ràng buộc, Trần Tự Khánh còn gả em gái là Trần Tam Nương cho Nguyễn Đường.
Nguồn: V17, tr.192.
Tháng 6 (tháng Năm – Ất Hợi)
175. Huệ Tông Hạo Sảm cạo tóc, thoái thác ngôi vua
Một hôm, nhà vua nói với quần thần rằng: – Trẫm muốn thoái vị, các khanh thấy thế nào? Quần thần đều khóc lóc can ngăn. Vua không nghe, bèn cùng Thái hậu dùng dao cạo tóc. Ngày hôm đó, vua từ dinh Thái Hòa ngự đến nhà Đặng Lão ở Trương Canh, hồi giá về nhà Nội kí ban Đỗ An ở ngõ Chỉ Tác tại cầu Tây Dương.
Trong tháng đó, Tự Khánh đánh Đại Hoàng nhưng bị thua, ba quân tan vỡ, tướng là Nguyễn Đường bị chết đuối.
Nguồn: V17, tr.193.
NĂM 1216 (ẤT HỢI -BÍNH TÝ)
Tháng 1 (tháng Chạp – Ất Hợi)
176. Quần thần dựng Thảo điện (điện lợp cỏ tranh) ở nhà Đỗ An
Nhà Nội ký ban Đỗ An ở ngõ Chỉ Tác gần cầu Tây Dương (nay là Cầu Giấy – Hà Nội). Sở dĩ có việc này vì trước đó Trần Tự Khánh cho đốt cung Đông Nhân, nhà vua phải cho rước thần chủ của Linh Nhân Thái hậu về đến Chúc Thánh. Thấy vậy, Trần Tự Khánh gửi trả nhà vua chiếc mũ Bình thiên.
Nguồn: V17, tr.193.
Tháng 2 (tháng Giêng – Bính Tý)
177. Huệ Tông Hạo Sảm cùng Thái hậu coi triều ở Thảo điện
Nhân đó, Trần Tự Khánh lại đem trả lại nhà vua ghế thiếp vàng (kim ỷ).
Nguồn: V17, tr.193
Tháng 6 (tháng Năm – Bính Tý)
178. Huệ Tông Hạo Sảm hoàn toàn bất lực, tìm lối thoát
Từ việc nhà vua cho người đi bắt kẻ cướp ở Cơ Xá bị tướng Đỗ Ất đuổi đánh, triệu Đỗ Ất vào cung không nghe, sai Hiển Tín vương đi trừ hậu họa cũng bị chống lại đến việc Đỗ Nhuế đem quân tìm đánh vua trong cung rồi chạy theo Nguyễn Nộn đã khiến Huệ Tông hoàn toàn bất lực, tâm thần bất an. Thêm vào đấy, Thái hậu luôn luôn cho rằng, Trần Tự Khánh là phản trắc, thường chỉ mặt phu nhân là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi đi. Lại sai người bảo với phu nhân bắt tự xử, may mà vua biết nên ngăn lại. Không dừng lại, Thái hậu còn âm mưu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân, khiến mỗi bữa ăn vua phải chia cho phu nhân một nửa phần ăn của mình và không lúc nào rời xa. Thái hậu lại sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải tự tử, may mà vua ngăn kịp. Không còn cách nào khác, vào đêm Giáp Thìn (tháng Năm – Bính Tý) vua cùng phu nhân Trần thị xuống thuyền đi Thuận Lưu theo Tự Khánh. Trời sáng, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê lại đón. Thái hậu và Công chúa con vua thì đến Ô Kim. Tự Khánh trông thấy vua rất mừng, tướng sĩ đều vui vẻ hò reo. Từ đó, vua cùng Tự Khánh quyết ý đánh bọn Bắc Giang Vương Nguyễn Nộn, Hiển Tín vương Lý Bát, người Hồng Châu Đoàn Văn Lôi và Hà Cao ở Quy Hóa.
Ngày Giáp Thân, Thái hậu đem các Công chúa đến An Xướng dưới sự bảo hộ của Nguyễn Nộn. Lúc bấy giờ Nguyễn Nộn, Hà Cao lấy mệnh lệnh của Thái hậu đánh các ấp ở Từ Liêm đều hạ được.
Ngày Canh Tuất, Tự Khánh dựng Thảo điện ở Tây Phù Liệt, quy mô phỏng theo đại nội. Vua xuống chiếu cho Minh tự Phùng Tá Chu làm Chiêu thảo sứ. Ngày Giáp Thìn, vua đến Từ Liêm, sai Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn sau đó xuống chiếu đày Nguyễn Nộn làm lính.
Nguồn: V17, tr.193-194; Đ4, tr.258; Đ5, tr.400
Tháng 7 (tháng Sáu – Bính Tý)
179. Hoàng trưởng nữ Thuận Thiên Công chúa sinh
Bà húy là Oanh, con gái trưởng của Huệ Tông Hạo Sảm và phu nhân Trần thị, sinh tại bãi Cửu Liên (gần Cửu Cao – Văn Giang – Hưng Yên ngày nay) nơi đóng quân của Trần Tự Khánh.
Nguồn: Đ4, tr.259; Đ5, tr.401
NĂM 1217 (BÍNH TÝ)
Tháng 1 (tháng Chạp – Bính Tý)
180. Huệ Tông Hạo Sảm xếp đặt lại triều đình, nâng cao vị thế họ Trần
Việc nhà vua ngả hẳn về Trần Tự Khánh tạo ra nhiều phản ứng trong triều. Một tôn thất là Hiển Tín Vương Lý Bát đã đem binh tới phá Ấp Hợp, tướng Đỗ Tế chạy về Đan Phượng. Mãi tới tháng 6-1217, Trần Tự Khánh mới đánh đuổi được Hiển Tín vương Lý Bát lên sách An Lạc.
Sau khi sách phong phu nhân Trần Thị làm Hoàng hậu, Huệ Tông Hạo Sảm ban cho Trần Thừa – anh trai của Trần Tự Khánh tước Liệt hầu, chức Nội thị Phán thủ; Phùng Tá Chu và Lại Linh được tước Quan Nội hầu; Tự Khánh làm Thái úy, khi xuống lễ không phải gọi tên; Trần Liễu – con Trần Thửa cũng được tước Quan Nội hầu còn Trần Tự Hải được tước vương. Lại cho Trần Thừa mỗi khi có đại yến thì ngồi ở điện Thiên An; Tự Khánh và Thượng tướng quân Phan Lân xếp đặt quân ngũ, chế binh khí, tập võ nghệ.
Nguồn: V17, tr.194; Đ4, tr.259; Đ5, tr.401.
Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Sửu)
181. Huệ Tông Hạo Sảm mắc trọng bệnh
Vua mắc bệnh phong từ tháng Chạp năm trước, chữa chạy mãi không khỏi. Nay mới vào cuối xuân, đầu hè của năm Đinh Sửu, thời tiết nóng bức khiến nhà vua dần dần phát chứng điên, lúc nói là thiên tướng giáng, tay cầm thuẫn, cắm cây cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không thôi, hoặc khi thôi đùa nghịch lại đổ mồ hôi, miệng ráo khát nước, uống rượu ngủ li bì, ngày hôm sau mới tỉnh. Chính sự không giải quyết, giao phó cho Trần Tự Khánh, quyền lớn trong nước dần dần về người khác.
Việc nhà vua mắc trọng bệnh như trên còn được Đại Việt sử ký (toàn thư, tiền biên) ghi nhận thêm vào các năm Tân Tỵ (1221 – vua bị bệnh, thầy thuốc chữa đã lâu không hiệu nghiệm, ở sâu trong cung, giặc cướp thả sức tung hoành, dân ở ngoài thành phần nhiều lưu lạc, mất nơi ăn chốn ở, đều ngầm muốn nổi loạn), Giáp Thân (1224 – khi đó bệnh của vua ngày càng tăng, các Công chúa đều chia nhau các lộ làm ấp thang mộc, ủy nhiệm cho một mình Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ lãnh các quân Điện tiền để hộ vệ nơi cấm đình). Trong khi đó, Việt sử lược lại không hề đề cập tới các chi tiết này, vẫn đưa ra một lịch trình đầy đủ và rõ ràng về một Huệ Tông hoàn toàn tỉnh táo, bình an [như các sự kiện tiếp theo].
Nguồn: Đ4, tr.259. 260; Đ5, tr.401, 403.
Tháng 5 (tháng Tư – Đinh Sửu)
182. Huệ Tông Hạo Sảm xét tội thua trận của Phạm Ân
Vua ngự ở tòa Lương Thạch (đá mát), cho truất Phạm Ân làm Tiểu thị vệ, đánh 80 trượng. Sở dĩ có chuyện này vì trong tháng, Thái úy Trần Tự Khánh chia sáu đạo đi dẹp Nguyễn Nộn. Nguyễn Nộn đem binh xuất kỳ bất ý đánh Phạm Ân. Quân của Phạm Ân bị hãm ở cửa đầm Lãnh Kinh, bị quân của Nguyễn Nộn giết hơn năm chục người, rồi thừa thắng lại đánh Ái Đạo, gặp quân của Thái úy, giao chiến, quân Nguyễn Nộn thua lớn.
Sau trận này, Đoàn Thượng đem toàn bộ lực lượng ở Hồng Châu về quy hàng, được Huệ Tông Hạo Sảm phong tước vương. Tiếp đó, Trần Tự Khánh còn đem quân đánh dẹp thu lại Phong Châu khiến cho một giải hương ấp phía bắc trở lại thanh bình. Đến tháng 6-1218, Trần Thừa và Trần Tự Khánh gả Trần Tam nương, vợ góa của Nguyễn Đường cho Đoàn Văn Lôi – tướng Hồng Châu nổi tiếng vì tài thao lược, dũng cảm, được lòng dân.
Nguồn: V17, tr.194-195.
NĂM 1218 (MẬU DẦN)
Tháng 6 (tháng Năm – Mậu Dần)
183. Huệ Tông Hạo Sảm xuống chiếu về xử lý án ngục
Từ đầu năm, nhà vua có nhiều cuộc viếng thăm các địa phương như về Đọi Sơn và châu Cửu Liên xem bắt cá, ngự ra Cửu Kinh ăn vải, cho Bạch Lãng ở sách Na Luận làm Liệt hầu. Nhà vua còn hạ chiếu về các bản án đã xử xong rồi thì việc trước tiên phải giao cho các quan ở Viện Thẩm hình dự xét sửa đổi thêm sau đó mới chuyển lên vua.
Nguồn: V17, tr.195.
184. Huệ Tông Hạo Sảm cử Trần Thừa đem binh đánh Nguyễn Nộn
Bất lực trước hệ thống phòng ngự do Nguyễn Nộn xây đắp, Trần Thừa phải cho phá đê sông để nước tràn vào các hương ấp, nhân đó cho Lại Linh theo thế nước mà tiến đánh. Không đối phó kịp, quân Nguyễn Nộn bị tan vỡ thành nhiều mảnh. Vợ con Nguyễn Nộn bị quân triều đình bắt. Nguyễn Nộn chỉ còn hơn trăm quân lui về giữ Phù Ninh. Sau trận này, Lại Linh được vào coi châu Nghệ An.
Nguồn: V17, tr.196.
Tháng 10 (tháng Chín – Mậu Dần)
185. Hoàng thứ nữ của Huệ Tông Hạo Sảm sinh
Ban đầu Hoàng thứ nữ có tên là Phật Kim, sau đổi lại là Thiên Hinh tước hiệu là Chiêu Thánh Công chúa, sinh tại Kinh thành Thăng Long.
Nguồn: Đ4, tr.259; Đ5, tr.401.
Tháng 11 (tháng Mười – Mậu Dần)
186. Trần Tự Khánh bị người Mường ở Quảng Oai đánh bại
Trong khi đó, Lý Bất Nhiễm đẩy lui được cuộc xâm lấn của Chiêm Thành, Chân Lạp ở châu Nghệ, được thăng tước hầu, cho thực ấp hàng ngàn hộ.
Nguồn: Đ4, tr.259; Đ5, tr.401.
NĂM 1219 (KỶ MÃO)
Tháng 3 (thàng Hai – Kỷ Mão)
187. Huệ Tông Hạo Sảm dự nghe việc kiện tụng ở Đô hộ phủ
Nhân đó giáng quan Sĩ sư (một chức quan coi ngục, cấp dưới Đại tư khấu, Tiểu tư khấu, chuyên nghe về việc kiện tụng) ở Viện Thượng Lâm là Nguyễn Tuyên và con ông ta xuống làm Thư gia. Cho Lưu Viêm giữ chức này.
Nguồn: V17, tr.196.
Tháng 7 (tháng Sáu)
188. Huệ Tông Hạo Sảm đến bến Triều Đông ở Cựu Kinh xem các quân tiến đánh Nguyễn Nộn
Trước khi tiến đánh Nguyễn Nộn thì viên tướng phụ trách cánh quân ở Nam Sách là Phạm Dĩ bị phát bệnh mà chết, viên Phó tướng Vương Lê vội đem quân trở về, do đó Nguyễn Nộn dễ dàng chiếm lại Bình Cảo. Trần Tự Khánh muốn giành lại Bình Cảo nhưng không được.
Nguồn: V17, tr.196.
NĂM 1220 (KỶ MÃO – CANH THÌN)
Tháng 1 (tháng Chạp – Kỷ Mão)
189. Nguyễn Nộn bị trọng bệnh, qua đời;
Nghe tin chủ tướng mất, tướng của Nguyễn Nộn là Phí Thám đưa Thái hậu và các Công chúa con vua ra hàng Trần Tự Khánh. Viên Đại tướng của Nguyễn Nộn trốn vào rừng hiểm Thị Hàng, cuối cùng cũng ra hàng phục.
Về sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư chép khác hẳn như sau:
“Kỷ Mão, năm thứ 9 (1219) (Tống, Gia Định năm thứ 12). Mùa xuân, tháng Hai, Trần Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, bắt đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua y cho. Mùa đông, tháng Mười, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man Quảng Oai.
Canh Thìn, năm thứ 10 (1220) (Tống, Gia Định năm thứ 13). Mua xuân, tháng Ba, Nguyễn Nộn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua sai người đem sắc thư đến tuyên dụ, song vì vua có bệnh trúng phong không chế ngự nổi”.
Đại Việt sử ký tiền biên ghi chép gần giống như trên. Có điều khác biệt nữa là cả Toàn thư và Tiền biên đều ghi nhận Nguyễn Nộn không chết vào thời điểm này mà đến tận tháng Ba năm Kỷ Sửu (4-1229) mới qua đời với nhiều sự kiện tiếp diễn như sau:
– Tháng Hai – Bính Tuất (3-1226), Trần Thủ Độ đem quân đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và người Mường ở Quảng Oai, Tản Viên. Không hàng phục được, phong cho Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho huyện Đông Ngàn. Riêng Đoàn Thượng không đến nhận phong.
– Tháng Chạp – Mậu Tý (1-1229), Nguyễn Nộn đánh Hồng Châu, giết Đoàn Thượng, con Đoàn Thượng là Đoàn Văn đem gia thuộc tới hàng. Trần Thủ Độ phải gia phong Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, gả con là Công chúa Ngọc Thiềm.
– Tháng Ba – Kỷ Sửu (4-1229), sau khi kiêm tính được Hồng Châu, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ăn chơi vô độ, đến đây ốm nặng, cố gượng ăn uống và cưỡi ngựa để tiếp Nội nhân của Trần Thái Tông, được ít ngày thì mất. Dự tính đến tháng Mười vào chầu ở Thăng Long chấm dứt hoàn toàn.
Nguồn: V17, tr.197; Đ4, tr.259-260; 264-265; 267-268; Đ5, tr.401-402; 420-422.
Tháng 5 (tháng Tư – Canh Thìn)
190. Trần Tự Khánh và Trần Thừa đánh Hà Cao ở trại Quy Hóa
Trần Tự Khánh, Trần Thừa theo đường sông Quy Hóa (tức sông Thao, đoạn trên của sông Hồng), Lại Linh, Phan Cụ theo đường sông Tuyên Quang (tức sông Lô) cùng tiến. Phạm Cụ bị hãm ở trong đầm lầy và bị tướng của Hà Cao là Nguyễn Nãi chém. Hà Cao nghe tin quân Thái úy bao vây bốn phía rất gấp, bèn cùng vợ con đều thắt cổ chết. Từ đó những vùng Thượng Nguyên lộ, Tam Đái giang đều bình. Thái úy thấy Phan Cụ chết vì nước, xin truy phong cho là Minh Tín Vương.
Nguồn: V17, tr.198.
Tháng 12 (tháng Một – Canh Thìn)
191. Huệ Tông Hạo Sảm ngự ra bến Phù Liệt xem đua thuyền
Trước đó, Cung điện cho vua dự chầu được làm xong ở Kinh sư.
Nguồn: V17, tr.198.
NĂM 1221 (TÂN TỴ)
Tháng 7 (tháng Sáu – Tân Tỵ)
192. Nguyên Vương – tức Huệ Văn Vương qua đời
Số là, vào ngày 1-4-1214 khi Huệ Tông Hạo Sảm cùng Thái hậu kiên quyết ở lại vùng Phượng Sơn và Nam Sách, không chịu hồi kinh, Trần Tự Khánh bèn cho đón Công tử con trai Anh Tông Thiên Tộ Hoàng đế là Huệ Văn vương về Thăng Long để chuẩn bị việc cải lập, sẵn sàng cho sự thay thế vị trí của Huệ Tông Hạo Sảm. Dưới sự sắp xếp của Trần Tự Khánh, giữa tháng 4-1214, Huệ Văn Vương lên ngôi ở điện Đại An, cải nguyên là năm Càn Ninh, hiệu là Nguyên Vương. Từ tháng 5-1214, Trần Tự Khánh nhiều lần điên cuồng đốt phá cung điện, cướp đoạt vàng lụa trong kho, Nguyên Vương bị đưa xuống Hành cung Lý Nhân, chẳng mấy khi được đoái trông. Từ tháng 6-1216 khi Huệ Tông Hạo Sảm về với Trần Tự Khánh thì vai trò của Nguyên Vương không còn ai nhắc tới.
Đến đây, Nguyên Vương qua đời, Huệ Tông Hạo Sảm cho bãi chầu 5 ngày, ăn chay 3 ngày.
Nguồn: V17, tr.189, 190, 198.
Tháng 10 (tháng Chín – Tân Tỵ)
193. Huệ Tông Hạo Sảm ngự đến nhà riêng của Trần Tự Khánh
Nhà của Thái úy đặt tại Mỹ Lộc (nay thuộc Nam Định)
Nguồn: V17, tr.198.
NĂM 1222 (NHÂM NGỌ)
Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Ngọ)
194. Huệ Tông Hạo Sảm cho chia nước thành 24 lộ
Lộ được chia cho các Công chúa. Dưới lộ là giáp, lấy các hoành nô thuộc lệ và quân nhân của bản lộ cho cai quản các giáp.
Trong số 24 lộ kể trên, có một số lộ thường xuyên xuất hiện trong sử sách: Thiên Trường, Quốc Oai, Hải Đông, Kiến Xương, Khoái, Hoàng Giang, Bắc Giang, Long Hưng, Thanh Hóa.
Nguồn: Đ4, tr.260; Đ5, tr.402.
Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Ngọ)
195. Huệ Tông Hạo Sảm cùng Thái hậu dự lễ nạp hôn con trai Trần Tự Khánh
Lễ nạp hôn giữa Hiển Đạo Vương Trần Tự Hải với Hoàng trưởng nữ Thuận Thiên. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân về sau không thành.
Nguồn: V17, tr.198.
NĂM 1223 (QUÝ MÙI)
Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Mùi)
196. Trần Tự Khánh sai bắt giam Bảo Tín hầu Lại Linh
Lại Linh thấy người đến bắt, bèn treo cổ nhưng cứu được, bị giam vào ngục.
Lại Linh hiện tại được di duệ họ Lại làng Yên Phụ (Tây Hồ – Hà Nội) phụng thờ. Gia phả họ Lại cho biết ông là một tướng tài phụng sự hai vua Lý Cao Tông (1176-1210) và Lý Huệ Tông (1211-1225), được phong đến Bảo Tín hầu, Khu mật tả sứ Gián nghị Đại phu.
Vị thế của Lại Linh trong triều chỉ dưới Trần Tự Khánh, ngang với Trần Thủ Độ, cho nên vào năm Giáp Tuất 91214) khi Thủ Độ được giao giữ Bắc Giang thì Lại Linh được giao giữ Nghĩa Trụ. Bắc Giang khi này thuộc vùng đất biên ải phía bắc, còn Nghĩa Trụ là vùng trọng yếu cửa ngõ phía đông Kinh thành Thăng Long.
Sau đó, Lại Linh còn được sai đi coi giữ đất Nghệ An, vùng đất biên cương trọng yếu phía nam Đại Việt, nơi từng được giao trọng trách cho Thái úy Lý Thường Kiệt cai quản trước đó.
Phải chăng vai trò và vị thế của Lại Linh đã là trở ngại lớn trong toan tính phê truất nhà Lý của thế lực họ Trần. Lại Linh không chỉ là một tướng tài xông pha trận mạc, mà còn là một đại thần thân cận của nhà Lý, can gián hoạch định kế sách, lại hết mực trung thành với vương triều nên đã phải chịu kết cục bi hùng như vậy!
Nguồn: V17, tr.198; G2, tr.9, 73-79.
NĂM 1224 (QUÝ MÙI – GIÁP THÂN)
Ngày 10 tháng 1 (Kỷ Mão 26 tháng Chạp – Quý Mùi)
197. Phụ quốc Thái úy Trần Tự Khánh qua đời
Trước đó, ông còn mang quân đi đánh Sơn Lão ở sách Mông. Đến đây ông qua đời tại Phù Liệt. Vua cùng Thái hậu đến viếng khóc lóc rất thương xót, đặt tên thụy là Kiến Quốc Vương.
Nhìn nhận một cách toàn cục cuộc đời và sự nghiệp của Trần Tự Khánh nhiều nhà sử học nhận ra rằng, ông đến Kinh thành Thăng Long và với Huệ Tông Hạo Sảm giống như hành tung của một tướng cướp nhưng rồi nhận ra đó chỉ là một động thái nhằm tìm cách nắm lấy nhà vua và từ đó thay thế ông cậu Tô Trung Tự ngồi vào ngôi phụ chính.
Chưa thuyết phục được Huệ Tông Hạo Sảm, ông dựng Nguyên Vương làm thế đối trọng nhưng khi nhà vua ngỏ ý quay về, ông vui lòng đón rước và cũng vui vẻ trả lại Nguyên Vương về chỗ cũ. Chính hành động đại nghĩa trên đây đã giúp Trần Tự Khánh tiếp tục đánh thắng các thế lực to nhỏ hòng chia năm xẻ bẩy khi đó, dần dần thống nhất Đại Việt trở lại.
Như vậy, xét về toàn cục, Trần Tự Khánh xứng đáng được tôn vinh là Kiến Quốc Vương, như Ngô Sĩ Liên bình: “Trần Tự Khánh vì cớ Huệ Hậu bị Thái hậu làm khổ đem quân đến cửa khuyết xin đón xa giá. Đương lúc bấy giờ, lòng người không khỏi ngờ vực, cho nên Huệ Tông có lệnh bắt Tự Khánh mà không bắt được. Tự Khánh muốn làm việc cho kỳ được, mới nhiều lần làm kinh động đến vua, xa giá phải rời chỗ mấy lần, tội rõ ràng rồi. Nhưng mà Huệ Tông và Huệ Hậu rốt cuộc phải nhờ Tự Khánh mới được yên, thì tội ấy lại bỏ. Thế là việc tuy là trái nhưng tình thì thuận, sử chép không khen nhưng thực là khen. Nếu không thế thì chỉ là kẻ đầu sỏ giặc cướp mà thôi”.
Nguồn: V17, tr.198; Đ4, tr.260; Đ5, tr.402.
NĂM 1224 (GIÁP THÂN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Thân)
198. Huệ Tông Hạo Sảm lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy
Ngoài ra, Phùng Tá Chu được làm Nội thị Phán thủ, Thượng phẩm hầu Trần Bảo lên tước vương, hiệu là Hiển Thánh.
Kiến Quốc Vương Trần Tự Khánh được đưa về an táng ở Mỹ Lộc.
Nguồn: V17, tr.199.
NĂM 1225 (ẤT DẬU)
Mùa xuân
199. Huệ Tông Hạo Sảm ngự cửa Đại Hưng xem đặt lễ tàng thư cưu
Nhà vua còn xuống chiếu cho con gái đẹp ở trong nước tới xem.
Nghe tin châu Nghệ An biến loạn, nhà vua cử Phụ quốc Thái úy Trần Thừa đem quân đánh dẹp, thắng lợi trở về.
Nguồn: V17, tr.199.
Ngày 3 tháng 7 (Kỷ Mão 3 tháng Sáu – Ất Dậu)
200. Huệ Tông Hạo Sảm nhường ngôi cho Chiêu Thánh, hội thề Long Trì
Sử cũ ghi khác nhau về thời điểm diễn ra sự kiện này.
Đại Việt sử ký (Toàn thư, Tiền biên) đều ghi nhận việc nhường ngôi diễn ra vào tháng Mười năm Giáp Thân (tháng 11-1224) và ngay sau đó, Huệ Tông Hạo Sảm đi tu:
“Giáp Thân, năm thứ 14 (1224) (Từ tháng Mười về sau là Chiêu Hoàng, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1 – Tống, Gia Định năm tứ 17). Bệnh của vua ngày càng tăng, không có con trai để nối nghiệp lớn, các Công chúa thì đều chia ở các lộ làm ấp thang mộc, ủy nhiệm cho một mình Trần Thủ Độ làm Chỉ huy sứ lãnh các quân điện tiền mà hộ vệ cấm đình.
Mùa đông, tháng Mười, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu Hoàng”.
Việt sử lược lại ghi sự việc xảy ra vào năm Ất Dậu, hiệu Kiến Gia năm thứ 15 (1225):
“Tháng Sáu, vua nhường ngôi cho Công chúa thứ hai là Công chúa Chiêu Thánh, hiệu là Chiêu Vương (Chiêu Hoàng), tôn vua là Thái Thượng Vương (Thái Thượng Hoàng), cải nguyên là Thiên Chương Hữu Đạo.
Ngày Kỷ Mão, họp người trong nước thề ở sân Long Trì”.
Nguồn: Đ4, tr.260; Đ5, tr.403; V17, tr.199.
Ngày 24 tháng 12 (1 tháng Chạp – Ất Dậu)
201. Thái Thượng Vương Hạo Sảm chuẩn bị cho bước chuyển giao triều đại
Thấy Nữ vương (Nữ hoàng) còn bé mà lo, Thái Thượng Vương bèn cho vời Phùng Tá Chu đến bàn rằng: – Trẫm vì bất đức, chịu tội với trời, không có người kế tự, phải truyền ngôi cho con gái, lấy một âm mà chế ngự cả một bầy dương, nếu chúng không theo thì tất phải ăn năn. Cứ như ta thấy, không gì bằng bắt chước Đường Nghiêu ngày xưa, noi theo Nhân tổ mới rồi, chọn người hiền mà trao ngôi cho. Nay ta thấy con trai thứ Thái úy là Mỗ (tức Trần Cảnh), tuổi tuy còn bé, nhưng tướng mạo phi thường, tất có thể cứu đời, yên dân, nên ta muốn lấy làm con, để làm chủ xã tắc, mà lấy Chiêu vương (Chiêu hoàng) gả cho. Lũ khanh hãy vì trẫm mà nói dùm với Thái úy! Thái Thượng Vương Trần Thừa còn chưa tin. Tả phụ Nguyễn Chính Lại nói với Thái Thượng Vương rằng: – Họ Lý được nước, vua hiền đã có 6, 7 đời, ơn đức của các vua ấy đã thấm sâu vào lòng người ta, bỗng chốc vội lấy họ khác nối ngôi, chắc rằng chỉ định thử xem ý ta thế nào mà thôi! Nếu ta do đó mà nhận, thiên hạ ắt bảo Thái úy thật có chí cướp ngôi! Thái Thượng Vương toan theo lời ông ta; Thượng phẩm Phụng ngự Trần Thủ Độ nói rằng: – Ông Tả phụ nói không đúng. Nếu như Thượng Vương (Thượng Hoàng) có con trai mà lại toan nhường ngôi cho Nhị lang (chỉ Trần Cảnh), xét về nghĩa thì không thể vâng chiếu. Nay vì vua không người kế tự, muốn chọn người hiền mà phó thác ngôi cho, đó là Thượng Vương (Thượng Hoàng) bắt chước việc nhường ngôi của Nghiêu Thuấn ngày xưa, thì còn gì nữa? Huống chi ngôi trời không thể để khuyết lâu, mà ý Thượng Vương (Thượng Hoàng) muốn thoái lui đã quyết, (chọn người họ khác) để nối ngôi, dẫu muốn không phụng thờ người ấy thì có được không? Vả Thượng Vương (Thượng Hoàng) lấy nhị lang nối ngôi, đó là “ý trời): Trời đã cho mà không lấy thì ta sẽ phải chịu tội đấy. Xin Thái úy hãy suy nghĩ kỹ”.
Ngay sáng hôm đó, Thái Thượng Vương sai Nội thị Phán thủ Phùng Tá Chu, Nội thành khiển Tả ti lang trung Trần Tri Hoành đem văn võ bá quan, sửa soạn thuyền xe đến phủ Tinh Cương đón Trần Thừa.
Nguồn: V17, tr.199-200.
202. Trần Cảnh lên ngôi, lập ra nhà Trần
Sự kiện này, Sử cũ trình bày rất khác nhau.
Việt sử lược cho rằng từ khi Huệ Tông Hạo Sảm nhường ngôi cho Chiêu Thánh đến khi quyết định chuyển giao quyền lực, thời gian diễn ra trong vòng nửa cuối năm Ất Dậu (3 tháng Sáu – 1 tháng Chạp). Tuy nhiên, theo ghi chép của Đại Việt sử ký (Toàn thư, Tiền biên), tiến trình này kéo dài hơn 1 năm, từ tháng Mười Giáp Tuất đến tháng Chạp Ất Dậu và được diễn tả theo sự bày đặt, đạo diễn của Trần Thủ Độ như sau:
Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 (1225) (Từ tháng Chạp về sau là Trần Thái Tôn Kiến Trung năm thứ 1 – Tống, Lý Tôn Hú, Bảo Khánh thứ 1). Mùa đông, tháng Mười, xuống chiếu chọn con em của quan viên trong ngoài sung vào các sắc dịch trong nội, như Sáu hỏa Thị cung, Ngoại chi hậu, Nội nhân, Thị nội, ngày đêm cắt lượt nhau chầu hầu. Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ làm Tri thành thị Nội ngoại Chư quân sự; cháu gọi Thủ Độ bằng chú bác là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục Cục chi hậu; Trần Thiêm làm Chi hậu cục; Trần Cảnh làm Chánh thủ (Cảnh sau là Trần Thái Tôn). Cảnh lúc ấy mới 8 tuổi, chực hầu ở bên ngoài. Một hôm đến phiên giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong, Chiêu Hoàng trông thấy yêu lắm. Mỗi khi chơi đêm, cho gọi Cảnh đến cùng chơi: thấy Cảnh ở chỗ tối thì chạy đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng vào bóng. Có một hôm Cảnh bưng chậu nước đứng hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt, lấy tay té, nước ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: – Nếu thực có thế thì họ ta làm vua chăng? Chết cả họ chăng?. Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy xuống nói: – Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh? Chiêu Hoàng cười và nói: – Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó! Cảnh lại về bảo cho Thủ Độ biết. Thủ Độ sợ việc tiết lộ ra thì bị giết cả. Bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa cung, cắt người coi giữ. Các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: – Bệ hạ đã có chồng rồi! Các quan đều nói được, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng: – Từ xưa nước Nam Việt ta, đã có đế vương trị thiên hạ. Nghĩ triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, gồm có bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì Thượng Hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước gian nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ, chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi, trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không có người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, giữ thế nào nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản, đến thế là cùng cực rồi. Kinh Thư có nói: – Quân tử hảo cầu, Ngụ my tử phục. Du tai du tai! (Quân tử tìm bạn tốt, tìm mãi không được, lúc thức lúc ngủ, không lúc nào nguôi, lâu thay lâu thay). Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất vẹn tuyền, thực là thể cách hiền nhân quân tử, uy nghi chễm chệ, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tôn cũng không hơn được, sớm tối nghĩ kỹ, xét nghiệm từ lâu, nên nhường ngôi báu, để thuận lòng trời, để phụ lòng trẫm. Mong rằng đồng lòng hết sức, cùng giúp đỡ việc nước, để hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ, để mọi người biết.
Tháng Chạp, ngày 11, Mậu Dần, Chiêu Hoàng đặt đại hội ở điện Thiên An, ngự trên bảo sàng, các quan mặc triều phục vào chầu lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng trút bỏ áo ngự, khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế. Đổi niên hiệu làm Kiến Trung năm thứ 1; đại xá cho thiên hạ; xưng là Thiên Hoàng, rồi lại đổi là Văn Hoàng. Các quan dâng tôn hiệu là Khải thiên lập cực chí nhân chương hiếu hoàng đế. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, coi việc thiên hạ. Trần Thừa làm Nhiếp chính”.
Việt sử lược chỉ mô tả lễ chuyển giao vắn tắt như sau: “Ngày mồng 1 tháng Chạp năm ấy, (Ất Dậu, tức 24-12-1225) Nhị lang lên ngôi ở điện Thiên An, tôn Thuận Trinh vương hậu làm Thái hậu, giáng Chiêu Vương (Chiêu Hoàng) làm Chiêu Thánh Vương (hoàng) (hậu cả) nguyên Kiến Trung.
Thái Thượng vương cùng mẹ là Đàm Thái hậu ra ở chùa Phù Liệt, hiệu là Huệ Quang Thiền sư”.
Nguồn: Đ4, tr.261-262; Đ5, tr.405-407; V17, tr.261.
NĂM 1226 (BÍNH TUẤT)
Ngày 25 tháng 9 (10 tháng Tám – Bính Tuất)
203. Huệ Tông Hạo Sảm qua đời
Về cái chết của nhà vua, Việt sử lược ghi vắn tắt như sau:
“Năm thứ 2, hiệu Kiến Trung (1226), tháng Tám, ngày Bính Tuất (Huệ Quang Thiền sư) mất ở chùa Thiên Giáo, miếu hiệu là Huệ Tông, ở ngôi 15 năm (có lẻ), cải nguyên một lần, niên hiệu là Kiến Gia, được 15 năm, thọ 33 tuổi, táng ở chùa Bảo Nha phủ An Hoa”.
Đại Việt sử ký (toàn thư, tiền biên) ghi nhận tác động của Trần Thủ Độ đối với việc triệt tiêu mầm mống nhà Lý như sau:
“Mùa thu, tháng Tám, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tôn ở chùa Chân Giáo. Trước là Thượng Hoàng nhà Lý thường ra chơi chợ Đông, nhân dân tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ sinh biến loạn, dời cho ở chùa Chân Giáo, giả cách là để phụng sự Phật, nhưng thực là để giữ kỹ. Có khi đi qua trước chùa, thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói: – Nhổ cỏ thì nhổ hết rễ. Huệ Tông đứng vùng dậy, phủi tay nói: – Câu ngươi nói ta hiểu rồi! Đến đây sai người bày biện hương hoa và bảo: – Thượng phụ sai thần đến xin một việc! Thượng Hoàng nhà Lý nói: – Ta tụng kinh xong sẽ tự tử! Rồi vào trong buồng ngủ khấn rằng: – Thiên hạ của nhà ta đã về nhà mày rồi, mày lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến ngày khác con cháu nhà mày cũng lại như thế! Bèn tự thắt cổ ở vườn sau chùa. Thủ Độ sai các quan đến khóc, khoét thành phía Nam làm cửa (người bấy giờ gọi là cửa khoét), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang; tôn miếu hiệu là Huệ Tôn. Giáng Huệ hậu làm Thiên Cực Công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, lấy châu Lạng làm ấp thang mộc”.
Nguồn: V17, tr.201; Đ4, tr.265; Đ5, tr.415-416.
Ngày 30 tháng 9 (15 tháng Tám – Bính Tuất)
204. Lý Long Tường bắt đầu vượt biển tìm đường tới Cao Ly
Lý Long Tường là con thứ 7 của Lý Long Xưởng (1155-1219), gọi Long Hãn Lý Cao Tông bằng chú ruột, sinh vào khoảng 1194 (Giáp Dần, năm Thiên tư Gia Thụy 9), từng được giao trọng trách về binh nghiệp. Khi Trần Cảnh vừa tiếm ngôi đã phong ông làm Thái sư Thượng trụ quốc, Khai phủ Nghị đồng tam tư, Thượng thư Tả bộc xạ, lĩnh Đại đô đốc, tước Kiến Bình vương. Niên hiệu Kiến Trung thứ 2 đời Trần Thái Tông tháng Tám ngày rằm (30-9-1226). Ông đã cùng gia tộc thuộc vài trăm người bôn xuất. Trước khi ra đi, Lý Long Tường đã bí mật về cố hương tạ biệt lăng miếu, tới Thái miếu thu gom các bài vị, các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ Sơn đem hết tông tộc xuống thuyền. Sáu tháng sau, đoàn thuyền gặp bão, phải vào trú tại Đài Loan. Con trai của ông là Lý Đăng Hiền cùng với vợ con được ở lại đảo này còn đoàn thuyền tiếp tục vượt biển, đổ bộ lên cửa Phú Lương Giang, quận Khang Linh (Ong Jin-Gun), tỉnh Hoàng Hải (Hwang hac), thuộc Bắc Cao Ly. Vị trí đổ bộ này tên là Nak-nac-wac (Bến của khách phương xa mang theo đồ thờ cúng), được vua Cao Tông (Kojong) cùng quần thần tiếp kiến bằng bút đàm, ban đồ tiếp tế và cho lập cư ở Ung Tân phủ Nam Trấn Sơn (Chin Sang). Vương cùng thân tộc gắng sức mưu sinh, không quên luyện rèn võ lược.
Năm 1253, quân Nguyên Mông xâm lăng Cao Ly. Chiến thuyền và bộ binh Mông Cổ chiếm được nhiều nơi, đe dọa cả Kinh đô. Nhiều tướng Cao Ly tử trận. Trước tình hình ấy, Kiến Bình vương Lý Long Tường yết kiến Thái úy Vi Hiển Khoan để hiến kế sách rồi cưỡi ngựa đôn đốc binh sĩ. Sau 5 tháng kháng chiến kiên cường, quân Nguyên Mông phải rút lui. Trong lễ mừng chiến thắng, nhà vua phong cho vương Lý Long Tường làm Hoa Sơn Tướng công theo tên núi nơi ông cư ngụ, cho dựng bia trên núi ghi khắc công lao, lại ban tặng 3 chữ Thụ Hàng Môn (cửa giặc đầu hàng).
Nguồn: V22.
NĂM 1237 (ĐINH DẬU)
Tháng 2 (tháng Giêng – Đinh Dậu)
205. Trần Thủ Độ và Thiên Cực Công chúa đem vợ Trần Liễu là Công chúa Thuận Thiên lập làm Hoàng hậu Thuận Thiên
Khi ấy, Thuận Thiên Lý thị đang là vợ của Hoài Vương Trần Liễu, anh của Thái Tông Trần Cảnh. Do việc ấy, Hoàng hậu Chiêu Thánh bị giáng làm Công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con, mà Thuận Thiên thì có mang Quốc Khang ba tháng. Trần Thủ Độ và Công chúa Thiên Cực mật mưu với vua là nên mạo nhận lấy để nhờ về sau. Cuộc tranh đoạt ấy khiến Trần Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn, còn nhà vua trong lòng áy náy không yên, đêm ra khỏi thành đến ở nhà Phù Vân Quốc sư (Quốc sư là bạn cũ của Trần Cảnh) ở núi Yên Tử. Ngày hôm sau, Trần Thủ Độ đem các quan đến đón Thái Tông về Kinh sư. Vua nói: – Trẫm còn trẻ tuổi, chưa cáng đáng nổi việc nặng nề, Phụ hoàng đã vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, không dám ở ngôi vua mà làm nhục xã tắc! Thủ Độ cố nài xin hai ba lần, vua vẫn chưa nghe. Thủ Độ bèn bảo mọi người rằng: – Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đấy! Bèn cắm nêu trong núi, chỗ này làm điện Thiên An, chỗ kia làm gác Đoan Minh sai người xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế, tâu rằng: – Bệ hạ nên gấp về Kinh sư, chớ để làm hại núi rừng của đệ tử! Vua bèn về Kinh. Được hai tuần, Trần Liễu tự biết thế cô, khó lòng đối lập được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ Thái Tông xin hàng. Khi ấy vua đương ở thuyền lớn, nhìn nhau khóc. Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, rút gươm thét to rằng:- Giết chết tên giặc Trần Liễu! Vua giấu Trần Liễu ở trong thuyền, vội vàng bảo Thủ Độ rằng: – Phụng Càn vương (Phụng Càn là hiệu cũ của Liễu về thời nhà Lý) đến hàng đó thôi! Và lấy mình che đỡ cho Liễu. Thủ Độ tức lắm, ném gươm xuống sông nói: – Ta chỉ là con chó săn tôi, biết đâu anh em nhà ngươi thuận nghịch thế nào? Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về. Lấy đất các xã Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc và phong làm Yên Sinh Vương, ở đất ấy. Binh lính theo làm loạn ở sông Cái đều bị giết cả.
Nguồn: Đ4, tr.273; Đ5, tr.428.
NĂM 1247 (ĐINH MÙI)
Tháng 3 (tháng Hai – Đinh Mùi)
206. Đào Dương Bật thi đậu Thái học sinh kỳ thi Đại Ty
Đào Dương Bật vốn gốc họ Dương ở Thanh Hóa Nội trấn, chuyển sang họ Đào và di cư đến Át Lỗ thuộc Thanh Hóa Ngoại trấn hồi đầu triều Trần. Tại kỳ thi này, Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ Thám hoa.
Nguồn: Đ11; Đ4, tr.278; Đ5, tr.436.
NĂM 1248 (MẬU THÂN)
Tháng 7 (tháng 6 – Mậu Thân)
207. Hoàng hậu Thuận Thiên băng hà
Bà là Hoàng trưởng nữ của Huệ Tông Hạo Sảm và Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị, không rõ được gả cho Phùng Càn vương Trần Liễu năm nào. Bà bị chính mẹ mình khi đó cho xuống làm Thiên Cực Công chúa, rồi lại cùng Trần Thủ Độ đồng mưu cướp cho Thái Tông Trần Cảnh, gạt con gái thứ hai là Chiêu Thánh xuống làm Công chúa.
Sau khi về làm vợ Thái Tông Trần Cảnh, bà sinh Trần Quốc Tảng – con Trần Liễu rồi Trần Hoảng (1240) – tức Thánh Tông sau này; Trần Quang Khải (1246); Thái Đường Công chúa (1248) – sau lấy Vũ Tỉnh và là mẹ của Vũ Thành.
Khi ở với Trần Liễu bà đã sinh được Trần Doãn – anh của Trần Quốc Tảng.
Nguồn: Đ4, tr.278; Đ5, tr.437.
NĂM 1258 (MẬU NGỌ)
Ngày 29 tháng 1 (1 tháng Giêng – Mậu Ngọ)
208. Thái Tông Trần Cảnh gả Công chúa Chiêu Thánh cho Lê Phụ Trần
Lê Phụ Trần, nguyên là Lê Tần, con của Lê Khâm, được giữ chức Ngự sử Trung tướng Tri tam ti viện sự vào năm 1250, có công phò tá Thái Tông Trần Cảnh đốc chiến chống quân Mông Cổ tràn sang từ Vân Nam theo đường sông Hồng. Như sử cũ ghi, ngày 12 tháng Chạp năm Đinh Tỵ (10-1-1258) tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Thai xâm lấn đồng Bình Lệ. Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước xông pha tên đạn. Quan quân hơi núng, vua ngoảnh lại hai bên, chỉ có Lê Phụ Trần (tức Lê Tần) cưỡi ngựa một mình ra vào trận giặc, sắc mặt như thường. Lúc ấy có người khuyên vua đóng lại để trông coi chiến đấu. Phụ Trần cố sức can rằng: – Như nay chỉ là bệ hạ dốc túi đánh nước cuối cùng thôi. Nên lánh đi, chớ nên nhẹ tin lời người ta. Bấy giờ vua mới lui quân đóng ở sông Lô, Phụ Trần đi giữ ở sau, quân giặc bắn tới tấp. Phụ Trần lấy ván thuyền để che được thoát nạn. Thế giặc hăng lắm. Lại phải lui giữ sông Thiên Mạc. Phụ Trần theo vua bàn việc cơ mật, không mấy người biết.
Đến đây, nhân đuổi xong quân Mông Cổ, trăm quan vào chầu, Thái Tông Trần Cảnh ngự ở chính điện mừng trăm họ vẫn yên nghiệp như cũ, đinh công phong tước cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử Đại phu, đem Công chúa Chiêu Thánh gả cho và nói: – Trẫm không có khanh thì làm gì có được ngày nay. Khanh nên cố gắng để cùng được hưởng phúc sau này.
Nguồn: Đ4, tr.284-285; Đ5, tr.446-448.
NĂM 1260 (CANH THÂN)
Ngày 6 tháng 2 (1 tháng Giêng – Canh Thân)
209. Vợ chồng ông bà Dương Kiện – mở đầu tục lệ Cung tiến, gửi Hậu
Diên Khánh tự bi ký, tạo năm Hồng Đức thứ 10 (1479) dựng tại đình làng Cửa Ải, xã Hạ Bán Ngâm, lộ Bắc Giang (nay là đình thôn Môn Ải, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) ghi lại rằng:
“Vào năm Canh Thân niên hiệu Thiệu Long 3 (1260) tháng Giêng ngày mồng 1, chồng là Dương Kiện vợ là Nguyễn Thị Suyễn, tự đặt hiệu là Ông Ngộ Đạo, bà Ngộ Thiện. Hai người thường tự than rằng: Buồn thay! Thương thay! Tội chẳng gì lớn hơn là không có con nối dõi. Đạo trời không biết khiến cho chúng con đây không có con, lấy ai phụng dưỡng, lấy ai giúp đỡ! Nghĩ những điều bất thường có thể xảy ra nhanh chóng, lo lắng chốn địa ngục vất vả khổ sở, đời người tuy vui chỉ là huyễn hoặc, chẳng có gì tồn tại vững chắc, có rồi lại bị phá hỏng đi. Dân chúng ngưỡng mộ bậc thiện nhân, dám noi theo nương tựa vào bậc tín giả, cùng cúi xuống một tay nâng đỉnh. Bèn tạc ba pho tượng Phật cho chùa này, công việc đã hoàn thành, lưu truyền lại cho đời sau. Nhưng di tích có thể bị mai một, may được lão tăng trở về tiếp nối bước chân của tiền nhân. Nay gặp người hiền tài như gặp người nuôi dưỡng, không còn lo lắng. Tuy nhiên phúc đức sau này lưu lại ở mỗi thửa ruộng đất. Trong vườn chùa có hai khoảnh đất, hai khoảnh ở Tứ Lục nhà ta, ruộng mảnh ở vườn Đa Giá cùng với hoa quả trong vườn chùa, tất cả những vật đó đều giữ lại để thờ cúng trong các kỳ giỗ chạp. Ông giỗ ngày 12 tháng Hai, bà giỗ ngày 13 tháng Tám, đời đời phải cúng giỗ ông bà”.
Đây là tấm bia sớm nhất ghi lại sự ra đời của tục lệ Cung tiến, bầu Hậu ở Việt Nam. Vợ chồng ông bà Dương Kiện có thể được coi là người khởi xướng việc làm tốt đẹp này.
Nguồn: T12, tập 5, N04486; V5, tr.169-178.
NĂM 1261 (TÂN DẬU)
Tháng 7 (tháng Sáu – Tân Dậu)
210. Viên ngoại lang Dương An Dưỡng bàn định với phái viên Mông Cổ
Do việc vua Mông Cổ sai Lễ bộ Lang trung là Mạnh Giáp, Viên ngoại lang Lý Văn Tuấn mang dụ thư đến (Dụ thư đại lược viết: Tất cả quan liêu, sĩ thứ nước An Nam, gồm áo, mũ, lễ, nhạc, phong tục đều theo như lệ cũ ở trong nước không phải thay đổi. Phải báo các tướng ở biên giới không được tự tiện dấy binh cướp bóc xâm lấn biên cương, quấy nhiễu nhân dân, nhân dân nước ấy đều nên yên ổn như cũ). Mạnh Giáp đến dự yến ở cung Thánh Từ. Nhà vua bèn sai Thông thị Đại phu Trần Phụng Công, Chư vệ Ký ban Nguyễn Thám, Viên ngoại lang Nguyễn Diễn sang Mông Cổ để thông hiếu. Mông Cổ phong vua làm An Nam Vương, ban cho 3 tấm tây cẩm, 6 tấm gấm kim thục và trao cho hổ phù, lại dụ kỳ tiến cống 3 năm nên chọn nho sĩ, thầy thuốc và người thông âm dương bói toán, các hạng thợ thuyền mỗi loại 3 người, cùng là trầm hương, tê giác, trân châu, đồi mồi, vàng bạc, ngà voi, chén sứ. Vua lại sai Viên ngoại lang là Dương An Dưỡng đến tạ ơn và xin định cống vật, xin miễn đòi các hạng người (Dương An Dưỡng được cử mang 3 tờ biểu có nội dung: 1) Định vật tiến cống; 2) Miễn đòi các hạng người; 3) Xin cho nhận Thích Bình Trường làm chức Đạt Lỗ Hoa Xích). Vua Mông Cổ đồng ý, ban cho đai ngọc, vải lụa, thuốc men, yếm xe, theo thứ bậc khác nhau.
Nguồn: Đ5, tr.452, 461.
NĂM 1266 (BÍNH DẦN)
Tháng 3 (tháng Hai – Bính Dần)
211. Viên ngoại lang Dương An Dưỡng được cử sang Mông Cổ đáp lễ
Bính Dần, [Thiệu Long] năm thứ 9 [1266] (Tông Hàm Thuần năm thứ 2, Mông cổ Chí Nguyên năm thứ 3), mùa xuân, tháng Hai, sứ Mông Cổ là Nậu Thích Đinh đến. Ta sai sứ sang Mông Cổ, Mông Cổ sai Nậu Thích Đinh sang bảo ta: – Ta trước sai sứ sang thông hiếu. Vì người làm việc mê muội không biết nghĩ lại, vì thế ta có việc dụng binh năm trước. Vua sai Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn sang để đáp lễ. Trước đấy Ngột Lương Hợp Thai người Mông Cổ bình định nước Đại Lý rồi đem quân xâm lược phía Nam, 3 lần sai sứ mang chỉ dụ đến, đều bị ta bắt giữ, họ liền đánh Bình Lệ. Thượng Hoàng phải chạy ra ngoài để lánh nạn. Quân Mông Cổ vào Kinh sư, gặp 3 người sứ trước, đưa ra khỏi ngực, thấy lạt tre trói thân thể hằn sâu vào tận da, đến khi cởi trói thì 1 người sứ bị chết, bèn thỏa ý chém giết. Ở được 9 ngày, vì không chịu được nóng, bèn kéo quân về, Thượng Hoàng sai quân đón đánh. Mông Cổ lại sai 2 người sứ trước dụ Thượng Hoàng vào chầu, Thượng Hoàng không nghe. Khi ta đã lấy lại được Kinh thành, thấy cung khuyết bị tàn phá, rất căm phẫn sự tàn bạo của Mông Cổ, liền trói 2 người sứ rồi thả cho về. Cho nên Thích Đinh đến bảo và nói việc 2 người sứ bị trói, có lẽ là trách ta đấy!
Nguồn: Đ5, tr.455-456; Đ4, tr.291.
Tháng 10 (tháng Chín – Bính Dần)
212. Dương An Dưỡng về nước, mang theo thư và lễ vật của vua Mông Cổ
Thư có nội dung như sau:
“Theo bài Thánh chế của vua Thái Tổ Hoàng đế: phàm những nước đã quy phụ với Trung Quốc, thì vua phải thân hành đến chầu, cho con em ở tại Trung Quốc làm tin, biên nạp dân số, cung ứng quân dịch, nạp thuế khóa, còn đặt quan Đạt Lỗ Hoa Xích cai trị. Các khoản nói trên đều để tỏ rõ lòng trung thành làm nước chư hầu. Nay khanh cống hiến, không hề quá hạn ba năm, đủ biết lòng thành thật như trước, nên ta kể lại chế độ tổ tông nước ta, cũng lấy lòng thành thật tỏ bày vậy.Vả lại, vua chư hầu tới chầu, cho con em vào làm tin, nạp sổ dân, sổ thuế và xuất quân giúp nhau, xưa vẫn đã có, không phải mới ngày nay ta bày đầu. Khanh lo làm đầy đủ mấy khoản đó, thì Trẫm còn nói gì nữa, nếu chưa làm được, Trẫm cũng không trách, khanh cứ lo làm tròn bổn phận. Còn nói về việc xuất quân, cũng không phải đi chinh phục ở đâu xa mà lo. Chỉ sứ thần của khanh là Dương An Dưỡng tới nói có quân mọi Chiêm, Lạp và Sơn Liêu hay làm rối đáng lo. Như hai đám giặc mọi ấy biết phục tùng theo mình thì không cần chi đánh; cái đạo giao binh ai cho rằng dễ, nếu nó nghịch mạng thì mới dùng binh đánh dẹp. Huống chi quân lính của Vân Nam đóng tại đấy, khanh nên giúp sức để chóng thành công. Vả lại mỗi lúc tâu lên, khanh thường có lời nói thân mật như trong một nhà. Nay nghe Nậu Thứ Đinh ở bên ấy, có nhiều sự thường bị chống báng cấm đoán, không cho được hội đàm, quả như thế thì có phải lễ nghĩa thân mật trong một nhà đâu! Nghĩa vua tôi cũng như tình phụ tử, có lẽ gì tôi mà phản vua, con mà phản lại cha sao? Nếu Trẫm không nói ra, thì đãi khanh không có sự thành thật, khanh nên nghĩ lại cho chín chắn để tròn sự giao hảo trước sau như một”.
Nguồn: Đ4, tr.292; A1, tr.75.
NĂM 1278 (MẬU DẦN)
Tháng 4 (tháng Ba – Mậu Dần)
213. Phu nhân của Lê Phụ Trần là Công chúa Chiêu Thánh
qua đời
Chiêu Thánh lấy Phụ Trần hơn 20 năm, sinh được con trai là Thượng vị hầu Lê Tông, Công chúa là Ứng Thụy, Công chúa Lê Khuê. Đến 61 tuổi thì bà mất.
Đời sau, Đào Sư Tích lúc qua nơi ở cũ cuối đời của bà đã xúc cảm:
“Ức tích Chiêu Hoàng chí thử phương
Canh điền tạc tỉnh đới sầu trường.
Mao gia hậu nhật thành linh miếu
Di tượng thanh cao tự sự chương”
(Chiêu Hoàng xưa ở chốn này,
Cày đồng, đào giếng thảm thay lòng người
Nhà tranh thành miếu thiêng rồi
Thanh cao di tượng rạng ngời sự chương)
Nguồn: Đ4, tr.297; Đ5, tr.465.
NĂM 1282 (NHÂM NGỌ)
Trong năm
214. Đào Dương Bật xây dựng căn cứ Đông Trang
Trước sự đe dọa của nhà Nguyên, vua tôi nhà Trần đã chọn Vũ Lâm thuộc đất Thanh Hóa Ngoại trấn xây dựng Hành cung để triều đình dùng làm hậu cứ khi giặc tràn đến Thăng Long. Khi ấy ấp Át Lỗ đã được đổi tên là Đông Trang nằm ngay ở cửa ngõ Hành cung Vũ Lâm. Để làm nhiệm vụ của một trạm tiền tiêu đối với hậu cứ, Đào Dương Bật đã cho xây dựng Yên Ninh tự để vừa cảnh giới vừa có thể chặn giặc tiến từ cửa biển Thần Phù. Từ hậu cứ Vũ Lâm, ngày 3 tháng Năm năm Ất Dậu (30-5-1285) hai vua xuất quân qua Đông Trang, thắng lớn ở phủ Trường Yên, chém đầu cắt tai kẻ thù nhiều không kể xiết.
Nguồn: Đ11; Đ4, tr.308; Đ5, tr.479; L10.
NĂM 1324 (GIÁP TÝ)
215. Đào Toàn Mân đỗ đầu kỳ thi hương tại trường thi Bắc Giang lộ
Đào Toàn Mân, còn gọi là Toàn Bân hoặc Toàn Phú, gốc họ Dương ở Thanh Hóa Nội trấn, đầu thời Trần phải đổi sang họ Đào và chuyển cư về Song Khê, Cổ Dũng, lộ Bắc Giang (nay thuộc thành phố Bắc Giang), nổi tiếng học giỏi từ nhỏ. Sau khi đỗ kỳ thi Hương, ông mở trường dạy học tại quê nhà.
Nguồn: Đ11
NĂM 1338 (MẬU DẦN)
Ngày 16 tháng 5 (5 tháng Tư – Mậu Dần)
216. Tục Cung tiến, gửi Hậu do ông bà Dương Kiện khởi xướng bắt đầu khai triển và lan tỏa
Vẫn theo Diên Khánh tự bi ký (1479), phải tới 80 năm sau sự kiện ông bà Dương Kiên tự nguyện Cung tiến, gửi Hậu mới lại tiếp nối ngay tại quê hương bản quán:
“Ngày mồng 5 tháng Tư năm Mậu Dần (16-5-1338) tại làng Cửa Ải, xã Hạ Bạn Ngâm, lộ Bắc Giang, ông Nguyễn Tộ Thư hiệu là Ninh Phần đã cùng vợ gửi ba khoảng ruộng lưu tại chùa Diên Khánh, một khoảnh ở cửa chùa Bạch Đa, một khoảnh ở cầu Cảo, một khoảnh ở Mục Xá, số ruộng đó giữ lại làm ruộng hương hỏa để giỗ ông vào ngày 21 tháng Ba, giỗ bà vào ngày mồng 5 tháng Năm, phải cúng giỗ đời đời.
Bà Nguyễn Thị Nhuyễn, ông Nguyễn Chiểu, ông Nguyễn Nại, ba người cùng cho hai khoảnh ruộng ở đồng Nhuế. Ông Nguyễn Lãnh cho 10 khoảnh rộng ở đồng Tha Lạc, ông Nguyễn Cố cho một khoản ruộng tại đồng Mão Liên.
Năm Kỷ Mão Khai Hựu 11, ngày 15 tháng Giêng (15-2-1339) ở xã Hạ Bán Ngâm, lộ Bắc Giang, ông Nguyễn Hàn hiệu là Bình Đẳng cùng với bà hiệu là Từ Thiện đã gửi lưu tại chùa Diên Khánh 5 khoảnh ruộng, lưu làm ruộng hương hỏa cho các ngày giỗ chạp, số ruộng ở sau trong vườn chùa và ruộng ở trên dưới nước là ba khoảnh, đông tây đều gần bãi tha ma. Một khoảnh ruộng ở Đăng Miệt, phía đông gần Nguyễn Nữu, phía tây gần Đinh Đê. Một thửa ruộng ở đồng Phu cửa Miếu, phía đông gần ruộng Nguyễn Hà Khước, phía tây ruộng Nguyễn Tư. Giỗ ông ngày 10 tháng Mười, giỗ bà ngày 25 tháng Mười một. Tăng Bảo Nữu cho một khoảnh ruộng ở Suy Trúc. Ông Thị vệ Nguyễn Khả Nguyên cho hai khoảnh ruộng bồi. Bà Nguyễn Thị Uông cho một khoảnh ruộng chia đôi.
Năm Tân Tỵ, ngày mồng 1 tháng Hai (10-3-1341) tại xã Hạ Bán Ngâm lộ Bắc Giang, ông Nguyễn Kỷ ở Thánh Dực gửi 4 khoảnh ruộng lưu lại chùa Diên Khánh, gồm 2 khoảnh ruộng trên dưới Nương Nhuế, A Duy, một khoảnh ruộng đất bồi đã cao, số ruộng này lưu lại làm ruộng hương hỏa để cho các tiết giỗ chạp đời đời.
Năm Mậu Tý, Thiệu Phong 8, ngày mồng 5 tháng Mười (17-11-1348) tại xã Hạ Bán Ngâm lộ Bắc Giang, tiểu Văn Công Hạ, Nguyễn Nữu hiệu là Chân Giác cùng với Hoàng Đại Nương gửi lưu tại chùa Diên Khánh 4 khoảnh ruộng. Đó là ruộng ở vườn cả trên dưới gồm hai khoảnh. Phía đông gần bãi tha ma, phía tây gần ruộng Triết Nhĩ, ruộng bà Hà 2 khoảnh, phía đông gần bên ruộng Phiên Nhuế, phía tây gần Nguyễn Sát. Một khoảnh ruộng ở bãi tha ma, phía đông gần ruộng Vũ Sàng, nay phía tây gần bãi tha ma, lưu làm ruộng hương hỏa, ngày giỗ chạp phải cúng hương oản đời đời.
Đại Tạng Thanh Sử Nguyễn Tín, Vũ Thị Tiên cùng cho vườn đã biến thành ruộng mạ, trên dưới gồm hai khoảnh.
Nguyễn Đãn người làng Cửa Ải xã Hạ Bán Ngâm cùng với vợ là Nguyễn Thị Liên gửi lưu lại bốn khoảnh ruộng, một khoảnh ở Nương Đông, phía đông gần ruộng Nguyễn Nữu, phía tây gần ruộng Nguyễn Chinh Kiều. Một khoảnh ruộng ở đồng Mặc, phía đông gần Trạm, tây gần quan trung (đường quan?). Hai khoảnh ruộng ở Ma Miệt trong đó một khoảnh phía đông gần ruộng Nguyễn Dẫn, phía tây gần mả. Một khoảnh phía đông gần ruộng Nguyễn Nữu, phía tây gần đồng Hội, lưu lại làm ruộng hương hỏa cho các ngày giỗ chạp. Ông giỗ ngày 5 tháng bảy, bà giỗ ngày 13 tháng Ba đời đời cúng giỗ.
Nguyễn Thị Thân cho hai khoảnh ruộng lớn. Ông Chân Tâm cho một khoảnh ruộng. Bà Nguyễn Thị Giới, ông Lê Điền cùng gửi bên vườn chùa một khoảnh ruộng mạ, lưu lại làm ruộng cúng giỗ”.
Nguồn: T12, tập 5, N0.4486; V5, tr.169-178.
NĂM 1343 (QUÝ MÙI)
Ngày 1 tháng 4 (15 tháng Ba – Quý Mùi)
217. Vợ chồng ông bà Thư đô hỏa Dương Mãng cung tiến xây dựng tháp phật
Nhất ký Thiên Long tự thường trụ tam bảo vật (Bài ký trên vật thường trụ Tam bảo chùa Thiên Long) tạo năm Thiệu Phong 3, dựng tại chùa Thiên Long trên núi Dục Thúy (còn gọi là Non Nước nay thuộc phường Thanh Bình – thành phố Ninh Bình) ghi lại rằng, vào năm trước bốn phương đàn việt, ông già bà lão trong quận cùng nhau quyên góp tiền của, sức lực xây dựng tháp phật. Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Thiệu Phong 2 hoàn thành. Sang mùa xuân năm Quý Mùi mở đại hội chúc mừng. Khi ấy những người biết tin đều đến làm lễ chiêm bái. Đến ngày 15 tháng Ba lập đàn, các nhà công đức làm vật thường trụ Tam bảo của chùa nên khắc vào bia truyền mãi đời sau.
Trong số những người đóng góp và được khắc ghi vào bia đá có vợ chồng Thư đô hỏa Dương Mãng – Phạm Thị Khả Lôi cung tiến 100 quan tiền.
Nguồn: T1, số 6/2011, tr.58-68.
NĂM 1352 (NHÂM THÌN)
Trong năm
218. Đào Toàn Mân thi đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ
Sau khi đỗ đạt, ông được bổ quan tại phủ Thiên Trường, tức lộ Sơn Nam sau này, đưa gia đình về khai hoang, lập ấp Song Khê (nay thuộc thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh – Nam Định). Tương truyền, tuy làm quan nhưng ông vẫn không bỏ nghề dạy học. Trong số học trò của ông đỗ đạt và thành danh, ngoài con trai là Đào Toàn Kim (sử sách thường ghi là Đào Sư Tích) còn có anh em Lê Hiến Phủ – Lê Hiến Từ, Trần Đình Thám, những người đỗ đạt cao khoa thi năm Giáp Dần (1374). Danh sư Chu Văn An đã tặng Đào Toàn Mân bốn chữ Đại sư vô nhị để bày tỏ lòng kính trọng và cảm phục của mình.
Nguồn: Đ11.
NĂM 1366 (BÍNH NGỌ)
Trong năm
219. Bà Dương Thị Nương cung tiến ruộng đất cho nhà chùa Khánh Long
Chùa Khánh Long còn gọi là chùa Giầu thuộc xã Đình Xá (Bình Lục – Hà Nam). Theo văn bia Đại Phúc thông minh tạo năm Bính Ngọ, niên hiệu Đại Trị nhà Trần (1366) thì vào năm đó bà Dương Thị Nương cùng với nhiều người thuộc các dòng họ Phan, Lê, Trần, Đỗ, Nguyễn, Trương, Phạm được ghi danh vào bia này do việc Cung tiến ruộng đất cho nhà chùa.
Nguồn: T9, 2001, tr.654-664.
NĂM 1369 (KỶ DẬU)
Ngày 18 tháng 7 (15 tháng Sáu – Kỷ Dậu)
220. Nhật Lễ lên ngôi, lấy niên hiệu là Đại Định
Trần Dụ Tông không có con nên từ cuối tháng Tư – Kỷ Dậu, lúc đang ốm nặng đã xuống chiếu cho đón Nhật Lễ vào nối đại thống. Mặc dù nhà vua băng từ ngày 25 tháng Tư – Kỷ Dậu (31-5-1369) nhưng phải gần 2 tháng sau, Nhật Lễ mới được đón vào cung như sử cũ ghi lại: Tháng Sáu, ngày 10 mưa to gió lớn. Ngày 15, Hiển Từ Hoàng Thái hậu cho đón con thứ của cố Cung Túc Đại vương Dụ là Nhật Lễ vào lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Định năm thứ nhất.
Khi Nhật Lễ lên ngôi cũng là lúc sứ của nhà Minh là Trương Dĩ Ninh, Ngưu Lượng đến Thăng Long. Nhật Lễ được sử Minh ghi là Trần Nhật Kiên. Nhật Lễ sai Nguyễn Nhữ Lượng đến đón sứ Minh, xin cáo ấn nhưng không được, bèn cho Dỗ Thuấn Khâm sang báo tang, thỉnh mệnh còn Trương Dĩ Ninh vẫn ở lại đợi mệnh. Nghe tin sứ sang, vua Minh mặc áo trắng ngự cửa Tây Hoa gặp mặt, bèn mệnh cho Biên tu Vương Liêm sang tế, đem phúng năm mươi lạng bạch kim, năm mươi sấp lụa trắng. Lại sai Lại bộ chủ sự Lâm Đường Thần sang phong Nhật Kiên làm vuwng, tặng cho ấn vàng cùng bốn mươi sấp lụa gấm sợi vàng.
Về nguồn gốc Nhật Lễ, sử cũ cho biết:
“Nhật Lễ là con người phường chèo tên là Dương Khương. Mẹ Nhật Lễ gọi là Vương Mẫu, lúc diễn trò (có truyện Vương Mẫu hiến bàn đào, mẹ Nhật Lễ đóng là Vương Mẫu, do đấy làm hiệu), đang có thai, Dục thích sắc đẹp của nàng nên lấy về, đến khi sinh nhận là con của mình. Đến khi ấy vua băng, không có con nối ngôi, Thái hậu bảo quần thần rằng: “Dục là con đích trưởng không được làm vua lại mất sớm, Nhật Lễ không phải là con của Dục hay sao? Thế là sai người đón về lập làm vua, truy tôn dục làm Hoàng Thái bá”.
Hồ Nguyên Trừng trong Nam Ông mộng lục ghi lại khá chi tiết rằng:
“Nguyên trước kia, khi người con thứ ba của Minh Vương (Trần Minh Tông) là Hiến Vương (Trần Hiến Tông) đã lên ngôi, thì những người con đích của Minh Vương mới sinh ra: con trưởng là Cung Túc Vương (Trần Nguyên Dục), ngờ nghệch không hiểu về chuyện đời; con thứ là Lộc Tinh (Trần Dụ Tông) tuổi còn thơ ấu thì Hiến Vương mất, lại không có con thừa kế, nên Lộc Tinh đã vâng mệnh vua cha lên nối ngôi, ấy là Dụ Vương. Phong cho hai người anh thứ là Cung Tĩnh Vương (Trần Nguyên Trác) làm Thái úy, Cung Định Vương làm Tả tước quốc. Cung Định Vương là người trung hậu, thành thực, thờ vua thờ cha chu đáo, từng chân tơ sợi tóc không ai chê trách điều gì. Giao thiệp với người thì không thân lắm, cũng không sơ lắm; trước việc chính sự thì không có điều gì quá chê cũng không quá khen. Hồi Minh vương qua đời, Cung Định Vương để tang ba năm, mắt không lúc nào ráo lệ. Đoạn tang, quần áo không sắm các thứ tơ lụa màu mè; ăn không cần ngon; quả muỗm, cá hồng là những thức ăn quý ở phương Nam từ đấy tuyệt nhiên không tới miệng. Thờ Dụ Vương hơn mười năm. Khi Dụ Vương mất sớm không có con nối nghiệp, các quan đại thần bàn với nhau rằng: – Tả tướng quân rất tốt, nhưng không lý anh lại kế ngôi em!
Bèn theo lệnh Quốc mẫu đón con của Cung Túc Vương là Vong Danh (nghĩa đen là Không nhớ tên) về lập lên làm vua. Lúc bấy giờ, Cung Túc Vương cũng đã sớm mất […]. Con Cung Túc Vương thuở nhỏ không chịu học, chỉ thích chơi bời lêu lổng. Người ta nói bà mẹ đã tư thông với một người họ Dương ngoài hoàng tộc rồi đẻ ra Vong Danh, cho nên Vong Danh thường bị những người trong hoàng tộc khinh rẻ. Sau khi kế vị, Vong Danh để tang cha, không tỏ vẻ đau buồn, cử chỉ phần nhiều thất lễ, cất nhắc bọn tiểu nhân thân cận, miệt thị cha ông, làm cho đám khanh sĩ bất mãn”.
Nguồn: Đ4, tr.389; Đ5, tr.599; N1, tr;64-66.
Tháng 9 (tháng Tám – Kỷ Dậu)
221. Nhật Lễ lấy con gái Cung Định vương Trần Phủ (Trần Nghệ Tông) làm Hoàng hậu
Cùng với việc ấy, Nhật Lễ tôn Hiển Từ Hoàng Thái hậu là Hiển Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái hậu; Nghi Thánh Hoàng Hậu là Huy Từ Tả Thánh Hoàng Thái hậu.
Nguồn: Đ4, tr.390; Đ5, tr.600.
NĂM 1370 (KỶ DẬU – CANH TUẤT)
Ngày 11 tháng 1 (14 tháng Chạp – Kỷ Dậu)
222. Nhật Lễ bỏ thuốc độc giết Hiển Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái hậu
Bà là Hoàng hậu của Trần Minh Tông, mẹ của Trần Dụ Tông, Trần Nguyên Dục và Thiên Ninh Công chúa Ngọc Tha. Là con gái của Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn, bà được thụ phong là Huy Thánh Công chúa từ nhỏ, nổi tiếng là người nhân hậu. Biết bà hối hận vì việc dựng mình lên ngai vàng, Nhật Lễ đã ngầm đánh thuốc độc giết bà.
Nguồn: Đ4, tr.390-391; Đ5, tr.601-602.
Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Tuất)
223. Nhật Lễ muốn quay trở lại họ Dương, bỏ tên gọi Trần Nhật Kiên
Việc muốn trở lại họ Dương cùng với thói rượu chè hoang dâm, hàng ngày chỉ bày vẽ các trò để vui chơi khiến cho tôn thất, quan lại và dân chúng vô cùng chán ghét. Đồng thời, Nhật Lễ còn cho sứ sang nhà Minh cống voi, mừng nhà Minh bình định được vùng sa mạc, gấp gáp cử một sứ đoàn theo Trương Dĩ Ninh sang chầu tại Nam Kinh. Minh sử (Q.321 – Ngoại quốc) chép sự kiện này vào mùa xuân năm Hồng Vũ thứ tư (1371) có lẽ chậm 1 năm.
Nguồn: Đ4, tr.391-392; Đ5, tr.603-604; A3, tr.84.
Ngày 4 tháng 11 (20 tháng Chín – Canh Tuất)
224. Cha con Thái tổ Trần Nguyên Trác tổ chức giết Nhật Lễ bất thành
Ngoài con trai là Trần Nguyên Tiết, Thái tổ Trần Nguyên Trác còn nhận được sự hưởng ứng của hai người con của Công chúa Thiên Ninh và nhiều người trong tôn thất. Khi hay tin mọi người kéo vào cung cấm tìm giết mình, Nhật Lễ đã nhanh chóng trèo qua tường trốn nép vào cầu mới. Sau một hồi lùng sục không thấy, mọi người tan về. Gần sáng, Nhật Lễ vào cung, sai người chia đi bắt những người chủ mưu, cộng được 18 người, đem giết tất cả.
Về cuộc bạo động này, Hồ Nguyên Trừng viết: “Được một năm, những kẻ ngang ngạnh trong hoàng tộc cùng nhau làm loạn, bị Vong Danh bắt được đem chém, nhiều người liên lụy bị chết oan trong vụ này rất đông. Vong Danh còn ngầm mưu khử sạch những người có tên tuổi trong họ Trần, bèn giết Thái Tổ ngay tại nhà”.
Nguồn: Đ4, tr.392; Đ5. Tr.604; N1, tr.66.
Ngày 5 tháng 11 (21 tháng Chín – Canh Tuất)
225. Thái sư Trần Phủ cùng nhiều người trong hoàng tộc chạy lên trấn Đà Giang
Hồ Nguyên Trừng cho biết “Thái sư đang đêm phải lẻn trốn. Đến sáng hôm sau, những người cùng làm quan trong hoàng tộc, đều mang gia quyến chạy hết; Đô thành vì vậy vắng tanh. Thái sư theo đường hẻm tới tận vùng man động xa xôi, ý muốn tự tận, nhưng những kẻ xung quanh đã ngăn lại. Người man động giữ Thái sư ở đây hàng tháng trời, ai cũng biết tiếng Thái sư. Các quan trong tông thất nối nhau tìm tới. Quân lính do con Cung Túc Vương sai đi lùng bắt Thái sư cũng đều chạy về phía Thái sư cả”.
Sử cũ ghi việc này diến ra vào tháng Mười – Canh Tuất và cho rằng Thái sư Trần Phủ vì chưng có con gái làm Hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình, tránh ra trấn Đà Giang (tức là phủ Gia Hưng), ngầm hẹn với em là Cung Tuyên vương Kính Chương, Túc Quốc Thượng hầu Nguyên Đán và Công chúa Thiên Ninh Ngọc Tha cùng họp nhau ở sông Đại Lại phủ Thanh Hóa để dấy binh. Bấy giờ Nhật Lễ chuyên dùng Thiếu úy Trần Ngô Lang, không biết Ngô Lang cùng mưu với vua [tức Thái sư Trần Phủ], mỗi khi sai tướng đi đánh bắt, Ngô Lang ngầm bảo đi theo vua mà trở về; nhiều lần sai các quân Nam Bắc, không một người nào quay lại. Ngô Lang xin đi, Nhật Lễ không cho. Trước vua vốn không có ý gì về việc lấy nước, Công chúa Thiên Ninh bảo vua rằng: – Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại bỏ cho người khác, ông nên đi, tôi đem bọn gia nô dẹp yên được.
Nguồn: N1, tr.66-67; Đ4, tr.392-393; Đ5, tr.604-605.
Ngày 26 tháng 2 (13 tháng Một – Canh Tuất)
226. Nhật Lễ bị phế làm Hôn Đức Công
Kết thúc sự nghiệp của Nhật Lễ trên ngôi báu, sử cũ chép hết sức vắn tắt như sau: “Tháng Một, Thái sư cùng Cung Tuyên vương và Công chúa Thiên Ninh đều đem quân về Kinh sư. Ngày 13 đến phủ Kiến Hưng (tên cũ là Hiển Khánh), hạ lệnh phế Nhật Lễ làm Hôn Đức Công. Ngày 15, lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu, đại xá cho thiên hạ, xưng là Nghĩa Hoàng. Mọi công việc đều theo lệ cũ đời Khai Thái […]. Ngày 21, xa giá về đến bến Đông, Ngô Lang đưa Nhật Lễ mặc áo thường đến xin nhường ngôi, xuống thuyền đón tiếp. Vua bảo Nhật Lễ rằng: – Không ngờ ngày nay sự thể đến thế này! Lại đem giam Nhật Lễ ở phường Giang Khẩu”.
Hồ Nguyên Trừng cho biết: “Hữu Tướng quốc đốc thúc các quan khuyên mời Thái sư trở về Kinh đô để dẹp yên nơi cung điện. Thái sư sụt sùi thoái thác rằng:
– Chư vị sớm… trở lại Kinh thành, khéo giúp minh quân, chuyển loạn thành trị, đặt nước nhà vào thế yên ổn thì ta đến chết cũng vẫn chịu ơn. Ta có tội với Chúa thượng, thoát thân chạy trốn, chờ chết ở chốn núi rừng cũng đã là may, đâu dám có lòng này dạ nọ. Xin chư vị chớ nên cố ép.
Mọi người đều xôn xao, hết lượt này đến lượt khác khẩn khoản dâng thư, thề chết không đổi ý định, cố nài Thái sư lên đường, rồi dùng vai làm kiệu đưa Thái sư xuống núi. Người gần xa tụ tập đông nghịt, tiếng hoan hô vang động cả một góc trời. Khi về cách Đô thành ba trăm dặm, lão tướng Nguyễn (Trần) Ngô Lang bảo con Cung Túc Vương (Nhật Lễ) tự tay viết tội trạng mình và xin thoái vị, xong mang ra để đón xin lỗi Thái sư. Con Cung Túc vương phục xuống đất xin tha tội. Thái sư cũng xoài ra đất ôm con Cung Túc vương khóc lóc hết sức thảm thiết mà rằng:
– Làm sao Chúa thượng phải đến nông nỗi này? Thật không may cho thần, nào ngờ có ngày hôm nay!
Hữu Tướng quốc tuốt gươm thét lớn rằng:
– Trời sai trị tội, kẻ có tội sao được lắm lời? Thái sư lẽ nào lại vì chút lòng nhân huệ mà bỏ nghĩa lớn?
Bèn quát bảo quân tướng lôi con Cung Túc Vương đi, giục người có trách nhiệm chuẩn bị làm lễ rước Thái sư lên ngôi, phế con Cung Túc Vương làm Hôn Đức Công. Thái sư vào thành yết tông miếu, vừa khóc vừa khấn vái rằng:
– Sự việc hôm nay thật ngoài ý muốn của thần. Vì nền xã tắc, thần không thể từ chối. Trái lẽ trung hiếu, thẹn sợ trong lòng. Nguyện từ bỏ sự tôn quý và vinh dự của thần để thực hiện phần nào chí cũ”.
Nguồn: Đ4, tr.393; Đ5, tr.606; N1, tr.
NĂM 1371 (CANH TUẤT – TÂN HỢI)
Ngày 3 tháng 1 (21 tháng Một – Canh Tuất)
227. Nhật Lễ giết hại Trần Ngô Lang
Biết được từ lâu Trần Ngô Lang vẫn ngấm ngầm giúp Thái sư Trần Phủ, vì thế trước khi bị giam ở Giang Khẩu, Nhật Lễ còn triệu viên tướng này vào nghe lệnh rồi bất ngờ bóp cổ cho tới chết. Nhận được tin dữ, cháu Ngô Lang là Trần Thế Đô đem chuyện ấy tâu lên nhà vua. Nhật Lễ và con là Liễu bị đánh chết.
Nguồn: Đ4, tr.394; Đ5, tr.606.
Tháng 5 (tháng Ba nhuận – Tân Hợi)
228. Quân Chiêm Thành được mẹ của Nhật Lễ cầu cứu, kéo vào tàn phá Thăng Long
Đích thân vua Chiêm Thành là A Đáp A Giả chỉ huy đạo quân này, từ cửa bể Đại An (nay thuộc Nghĩa Hưng – Nam Định) tiến thẳng vào Kinh đô. Do lâu năm không có binh hỏa nên biên thành không có sự phòng bị, giặc đến không có quân chống đỡ. Nghệ Tông phải lánh sang Đông Ngàn. Quân Chiêm Thành vào thành làm loạn, bắt con gái, cướp ngọc lụa, đốt phá cung điện, sổ sách. Cung điện cũng bị thiêu trụi.
Nguồn: Đ4, tr.396-397; Đ5, tr.610-611.
NĂM 1374 (GIÁP DẦN)
Tháng 3 (tháng Hai – Giáp Dần)
229. Đào Toàn Kim (Sư Tích) thi đậu Trạng nguyên
Thi đình các Tiến sĩ, cho Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ Bảng nhãn, Trần Đình Thâm đỗ Thám Hoa, từ La Tu trở xuống cho đỗ Hoàng giáo cập đệ và đồng cập đệ; đều được ăn yến và áo xấp, xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Dẫn ba người đỗ đầu đi chơi phố 3 ngày. Theo lệ cũ, Thái học sinh 7 năm một lần thi, lấy 30 người đỗ mà thôi. Thi Trạng nguyên thì không có định lệ nhưng thuộc quan ở Tam quán, Thái học sinh, Thị thần học sinh, Tướng phủ học sinh và người có tước phẩm đều được vào thi cả.
Bài thi Đình của Đào Sư Tích có đoạn như sau: “Thần cúi đọc lời Thánh sách rằng “Tìm người tài chưa đúng cách là do việc làm của trẫm không đốc thực. Dùng người chưa đúng với tài năng của họ là do sự xét đoán của trẫm không sáng tỏ. Đối đãi họ chưa hết lòng mình là do ý trẫm chưa thành thực”. Ở chỗ này thần thấy bệ hạ hiểu rất sâu sắc về đường lối trị nước nhưng chưa bao giờ tự cho mình là đầy đủ cả. Thần kính nghĩ: Bệ hạ luôn luôn chăm lo trị nước chỉ lấy việc cầu hiền là cấp bách nhất. Không bỏ sót người hiền tài nơi thôn dã, đưa người tuấn tú ra làm quan.Việc làm đó há không có chỗ không hậu thực và tìm người há có chỗ chẳng đúng cách ư? Những người có tài kinh luân thì để họ ở nơi “đỉnh huyền” (nơi chủ chốt của triều đình). Những người am hiểu thao lược thì đưa họ ra làm quan ở nơi phiên trấn; cho đến cả các ty, các phủ ở bên dưới không một nơi nào mà không dùng đúng với tài năng và chức tước của họ. Sự suy xét ấy há có chỗ nào không sáng tỏ và sự dùng người há có ai không xứng đáng với tài năng của họ ư? Những bậc tể phụ không dùng làm những việc nhỏ nhặt, những vệ sĩ có nanh vuốt có thể khiến họ đem toàn lực liều chết cho triều đình. Đến như cả kẻ sĩ đại phu không một ai không lấy lòng thành thực để đối đãi chăm sóc họ rất hậu. Tâm chí của nhà vua há có chỗ nào không thành thực và đối đãi với họ há có chỗ không hết mình? Nhưng tất cả các điều ấy chẳng phải bệ hạ không có khả năng làm được! Điều cần suy nghĩ là việc làm hoặc chưa đến nơi đến chốn mà thôi. Thần mong hệ hạ hãy thận trọng khi sự việc đã kết thúc cũng như lúc mới bắt đầu, theo lòng ấy để thi hành. Việc làm đã hậu thì càng suy nghĩ để hậu thực thêm; sự suy xét đã rõ ràng thì càng lo nghĩ để sáng tỏ thêm, lòng đã thành thực thì càng lo lắng để thành thực thêm. Như thế thì đạt được hiệu quả hết mức của ba điều ấy thật không khó vậy!”.
Nguồn: Đ4, tr.399; Đ5, tr.615; T9, 1995, tr.338-345.
NĂM 1375 (ẤT SỬU)
Ngày 27 tháng 2 (5 tháng Hai – Ất Sửu)
230. Lệ Cung tiến, bầu Hậu có bước phát triển mới
Diên Khánh tự bi ký (1479) ghi tiếp về ảnh hưởng việc làm của vợ chồng Dương Kiện: “Năm Ất Sửu tháng Hai ngày mùng 5 Thi Đô giám trường Nguyễn Ngọc Điển đã lưu lại một khoảnh ruộng ở đồng Phu, phía đông cận Nguyễn Cộng, phía tây gần mà, lưu lại làm ruộng hương hỏa cho ngày giỗ.
Quách Thị Chủ cho một khoảnh ruộng bà Hà, Nguyễn Thị Nhuyễn cho một khoảnh ruộng ở đồng Phần.
Năm Đinh Mão tháng Năm ngày mồng 1 (30-5-1377) người tu hành là Nguyễn Đoàn gửi lưu lại một khoảnh ruộng ở Duyên Đâu, phía đông gần ruộng Phạm Dụng, phía tây gần Nghê, lưu lại làm ruộng hương hỏa cho ngày giỗ.
Người làm Thị vệ Nguyễn Nhật cho một khoảnh ruộng ở Trầm Phần Phần, ông Phạm Phiên cho một khoảnh ruộng bà Hà.
Năm Canh Ngọ Quang Thái 3, tháng Năm (6-1390), Nội Hộ Nguyễn Điếm gửi lưu tại chùa Diên Khánh một khoảng ruộng trong vườn chùa, phía đông gần đường quan?, phía tây gần đường Tùng, lưu làm ruộng hương hỏa cho các kỳ giỗ chạp. Bố giỗ ngày 24 tháng Tám, mẹ giỗ ngày 25 tháng Năm, cũng giỗ đời đời.
Bà Nguyễn Thị Doanh cho một khoảnh ruộng ở Đống Luyện, lưu làm ruộng Tam bảo. Ông Nguyễn Điển cho một khoảnh ruộng ở đồng Mặc. Ông Nguyễn Độ cho một khoảnh ruộng ở Từ Nguyễn làm ruộng Tam bảo. Bà Phạm Thị Xuân cho một khoảnh vườn biến thành ruộng mạ, lưu làm ruộng để cúng giỗ, hương oản đời đời. Bà Nguyễn Thị Thường cho hai khoảnh ruộng ở Nương Đông lưu làm ruộng cúng giỗ vào ngày mồng 10 tháng Tám.
Bà Nguyễn Thị Thành cho hai khoảnh ruộng, trên dưới cửa ngõ đồng Phu Một. Ông Đặng Hoan và vợ Nguyễn Thị cùng cho một khoảnh ruộng ở cầu Cảo, lưu lại làm chi phí dầu đèn, hương hỏa trong ngày giỗ, đời đời cúng giỗ.
Năm Tân Mùi tháng Hai ngày mồng 1 (26-2-1391) tại xã Hạ Bán Ngâm, Cấm quân điện Hậu Đê hầu Nguyễn Ưu, sách phong là Nhật, ông Nguyễn Khi, ông Nguyễn Kỳ cùng lưu tại vườn một khoảnh ruộng mạ, phía đông gần tha ma, phía tây gần đường quan, làm ruộng hương hỏa giỗ cha mẹ đời đời.
Năm Nhâm Thân tháng Giêng ngày mồng 1 (17-1-1392) tại xã Hạ Bán Ngâm, ông Nguyễn Nhĩ Đái cùng vợ là Nguyễn Thị Viện cùng cho một khoảnh ruộng đường Đạo, phía đông gần ruộng Nguyễn Tân và Nguyễn Cự Địch, phía tây gần ranh giới đường quan. Lưu lại làm Tam bảo chùa Diên Khánh đời đời.
Năm Mậu Thìn tháng Hai ngày 15 (10-3-1448), bà Nguyễn Thị Công có thổ trạch ở làng Ải xã Hạ Bán Ngâm, cho làm ruộng Tam bảo đời đời. Phía đông gần ruộng Nguyễn Thị Đa Mai, phía tây gần Hương […] sau này […]. Cả xã cùng đề ký.
Năm Quý Tỵ Hồng Đức 4 (1473) tháng Chín, tu đạo Phật điện, đến tháng Một năm Hồng Đức 10 (1479) đúc chuông.
Ba khoảnh lưu lại chùa Diên Khánh”.
Nguồn: T12, tập 5, N0.4486; V5, tr.169-178
NĂM 1379 (KỶ MÙI)
231. Lang tướng họ Dương được ghi nhận là người xây dựng am Bạch Dương
Quốc Oai trung lộ, Kim Bài tổn, Quách Xá xã, Quách Xá phường, Bạch Dương am (Văn bia am Bạch Dương, phường Quách Xá, xã Quách Xá, tổng Kim Bài, lộ Quốc Oai Trung) tạo năm Xương Phù thứ 3 triều Trần (1379) dựng tại chùa Xuyên Dương, tức am Bạch Dương, cho biết am này được xây dựng từ thời Trần Nhân Tông do tiên tổ một vị Lang tướng họ Dương xây dựng và mở mang ngày một khang trang. Để ghi nhớ công lao, Đức Hanh công Đoàn Kiêm ở trấn Chí Yên đã cho dựng bia và khắc bài minh nêu rõ: Xưa thời Lang tướng/ Có điện thờ phật/ Có nhà lễ phật/ Có ruộng tế tự/ Có phòng tiếp tăng (Tích tại Lang tướng/ Phụng phật hữu điện/ Lễ phật hữu đường/ Tư tự hữu điền/ Tiếp tăng hữu phong).
Nguồn: T1, số 5/2013, tr.68-70.
NĂM 1381 (TÂN DẬU)
Tháng 6 (tháng Năm – Tân Dậu)
232. Cha con Đào Toàn Mân được triều đình đắc dụng
Theo đó, người cha là Đào Toàn Mân được cử giữ chức vụ Tri thẩm hình viện sự còn con là Đào Toàn Kim (Sư Tích) giữ chức Nhập nội Hành khiển Hữu ty lang trung.
Năm Bính Dần (1386), Đào Toàn Mân qua đời, thọ 79 tuổi, được đưa về an táng tại Đồng Mới – sau gọi là Bãi Trạng thuộc Lim Xuyên – Song Khê (nay thuộc thành phố Bắc Giang). Tại Cổ Lễ, Đào Toàn Mân được tôn làm Thành hoàng, có đền thờ riêng.
Nguồn: Đ4, tr.408; Đ5, tr.626.
NĂM 1384 (QUÝ HỢI – GIÁP TÝ)
Tháng 1 (tháng Chạp – Quý Hợi)
233. Đào Toàn Kim (Sư Tích) đề tựa sách Bảo Hòa dư bút
Tháng 7-1383, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga và Đại tướng La Ngai đem quân bộ tiến đến tận Quảng Oai uy hiếp Thăng Long, triều đình phải cho tướng Nguyễn Đa Phương đốc quân dựng rào trại ở Kinh thành ngày đêm chống giữ; Thượng hoàng Nghệ Tông phải ngự sang Đông Ngàn.
Tháng 1-1384, Chế Bồng Nga rút quân về nước. Khi ấy, Thượng hoàng ở cung Bảo Hòa dựng trên núi Lạn Kha (nay thuộc Phật Tích, Tiên Du – Bắc Ninh) bèn sai Thiên tri Nội mật viện sự Nguyễn Mậu Tiên, Lang trung lễ bộ Phan Nghĩa và gia thần của Vũ Hiến Hầu ở Tiên Du thay phiên nhau chầu chực, cho ăn và hỏi các việc cũ, hàng ngày ghi chép, biên thành 8 quyển, ghi là Bảo Hòa dư bút.
Đào Toàn Kim (Sư Tích) đề tựa đầu tập sách được dùng để dạy bảo quan này.
Nguồn: Đ4, tr.409-410; Đ5, tr.627.
NĂM 1389 (KỶ TỴ)
Tháng 5 (tháng Tư – Kỷ Tỵ)
234. Phạm Cự Luận tiến cử Dương Chương với Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly sinh năm 1335, vốn tổ tiên là Hồ Hưng Dật, người Chiết Giang, thời Hậu Hán (947 – 950) sang nước ta, lúc đó là thời nhà Ngô (939 – 965), làm Thái thú Diễn Châu (Nghệ An). Sau cục diện Mười hai sứ quân, ông về hương Bào Đột (Quỳnh Lưu, Nghệ An), làm trại chủ vùng này và là thủy tổ dòng họ Hồ ở nước ta. Đến thời Lý, họ Hồ đã trở thành một họ lớn, có người lấy công chúa Nguyệt Địch sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Cháu đời thứ 12 là Hồ Liên dời ra hương Đại Lại (Hà Trung, Thanh Hóa) làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn. Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Lê Huấn. Hồ Quý Ly có hai bà cô được chọn làm cung nhân của vua Trần Minh Tông (1314 – 1357), một bà sinh ra vua Trần Nghệ Tông (1370 – 1395), một bà sinh ra vua Trần Duệ Tông (1372 -1377). Vua Trần Nghệ Tông còn gả em gái là Công chúa Huy Ninh cho Hồ Quý Ly và sau này, con gái trưởng của Hồ Quý Ly là Hoàng hậu của vua Trần Thuận Tông (1389 – 1398).
Là một quý tộc ngoại thích với nhiều quan hệ thân tộc chặt chẽ với các vua Trần, nhất là sự tin cậy của vua/ Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Hồ Quý Ly tiến thân rất nhanh và trở thành người có thế lực nhất trong triều đình. Từ chức Chi hậu tứ cục chánh chưởng, năm 1371, ông được thăng bổ làm Khu mật viện đại sứ, năm 1375 – Tham mưu quân sự, năm 1380 – Nguyên nhung hành Hải Tây đô thống chế, năm 1387 – Đồng bình chương sự, cương vị như Tể tướng. Có thể thấy, vào thời điểm này, trên thực tế Hồ Quý Ly đã nắm toàn bộ quyền lực quyết định mọi việc triều chính. Chính vì vậy, tháng Tư năm Quang Thái 2, ông đã cho Phạm Cự Luận làm Thiên thư Khu mật viện sự, rồi ỏi ai làm được thuộc Khu mật viện. Cự Luận bèn tiến cử em là Phạm Phiếm và Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Cảnh Chân đều là những người có danh tiếng, nhất là Đỗ Tử Mãn.
Tháng 5, cho Vương Khả Tuân Giám sát quân Thần Dực ở Ý Yên, Dương Cương Giám sát quân Thần Dũng.
Nguồn: Đ4, tr.414, 416; Đ5, tr.636; L7, tr.24.
NĂM 1390 (CANH NGỌ)
Ngày 10 tháng 3 (23 tháng Giêng – Canh Ngọ)
235. Chế Bồng Nga chết trận, Đầu ngũ Dương Ngang được ban thưởng
Chế Bồng Nga cùng với hàng tướng Trần Nguyên Diệu khi ấy đem hơn 100 chiếc thuyền đến xem tình hình cử quan quân. Các thuyền khác chưa đến hội. Ba Lậu Kê là tiểu thần của Bồng Nga, bị Bồng Nga trách phạt sợ phải giết, chạy trốn sang quân ta, trỏ vào thuyền sơn lục bảo rằng đó là thuyền của Quốc vương. Khát Chân sai các súng đều bắn vào, Chế Bồng Nga bị trúng suốt đến ván thuyền mà chết. Người trong thuyền kêu khóc ầm lên. Trần Nguyên Diệu cắt lấy đầu của Bồng Nga định tâng công chuộc tội với quan quân. Đại đội phó Thương đô quân Long hiệp là Phạm Nhữ Lặc và Đầu ngũ là Dương Ngang bèn giết Nguyên Diệu và lấy cả đầu Bồng Nga. Quân giặc chạy tan. Trần Khát Chân sai Giám quân là Lê Khắc Khiêm bỏ thủ cấp của Bồng Nga vào hòm chở thuyền về báo tin thắng trận ở thành tại Bình Than. Bấy giờ đồng hồ đã điểm canh ba, Thượng hoàng đương ngủ say, bị kinh động thức dậy, cho là giặc đánh đến ngự linh. Đến khi nhe tin báo thắng trận nói rằng đã lấy được thủ cấp của Chế Bồng Nga thì mừng lắm, cho gọi các quan đến xem. Các quan mặc triều phục hô “muôn năm”. Thượng hoàng nói: – Ta với Chế Bồng Nga cầm cự với nhau đã lâu, ngày nay mới được thấy mặt, khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ”. Thiên hạ yên rồi. La Ngai đem các quân còn lại đến phía trên bờ sông Lô làm hỏa táng cho Chế Bồng Nga, rồi đêm ngày đi bộ men theo chân núi, gác đường sàn mà nấu cơm ở trên, vừa đi vừa ăn, đem cả quân về. Gặp quan quân đuổi theo đánh thì dừng voi lại mà tung tiền của ra để khỏi đuổi.
Lấy Trần Khát Chân làm Long tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng tướng quân, phong tước Vũ tiết quan Nội hầu, Phạm Khả Vĩnh (người Tây Chấn) làm Xa kị vệ Thượng tướng quân, phong tước Quan Phục hầu; Phạm Lặc và Dương Ngang thưởng tước 5 tư, thămg Phạm Nhữ Lạc làm giám Cấm vệ đô, cho Dương Ngang 30 mẫu ruộng. Còn các người khác được thăng chức tước theo thứ tự bậc khác nhau.
Nguồn: Đ4, tr.418-419; Đ5, tr.641-642.
NĂM 1391 TÂN MÙI)
Tháng 6 (tháng Năm – Tân Mùi)
236. Thái úy Trang định Đại vương Trần Ngọc chạy ra trại Vạn Ninh nương nhờ Trại chủ Dương Đạc (Độ)
Lúc còn là Thái úy, khi Linh Đức Vương bị phế, Thượng hoàng Minh Tông đã xếp đặt ông vào ngôi vua. Vốn không ưa Thái úy nên Hồ Quý Ly vờ ủng hộ rồi gây sức ép buộc ông phải từ chối với lập luận không nhận ngôi báu là có đức lớn. Thượng hoàng tin là thật, bèn phong Trần Ngọc là Trang đinh Đại vương, đưa Trần Ngung – con út của Nghệ Tông lên ngôi, tức Thuận Tông Hoàng đế.
Kể từ đấy, hiềm khích giữa Hồ Quý Ly và ông ngày một lớn. Đến đầu mùa hè năm ấy, Thái úy phải bỏ trốn ra trang Nam Định rồi từ đó nhờ đưa bằng thuyền đến tại Vạn Ninh (phủ Hải Ninh, trấn An Quảng sau này). Hay tin, Thượng hoàng sai tướng coi quản Ninh Vệ là Nguyễn Nhân Liệt đến nhà Dương Đac (có bản ghi là Dương Độ) bắt về nhưng Nguyễn Nhân Liệt khi bắt được Thái úy lại theo lời Hồ Quý Ly, sát hại ông trên đường dẫn giải rồi về tâu Thượng hoàng rằng Thái úy vì bạo ngược nên bị người trại Vạn Ninh giết đi.
Sau, Thượng hoàng tỉnh ngộ, hỏi kẻ đuổi bắt Thái úy là ai. Nguyễn Nhân Liệt sợ hãi, tự thắt cổ chết. Khi Hồ Quý Ly giành được nước, vẫn không quên thù xưa, giáng Thái úy làm Liệt hiệu (Phán) Á hầu.
Nguồn: Đ4, tr.420; Đ5, tr.646.
NĂM 1393 (NHÂM THÂN – QUÝ DẬU)
Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Thân)
237. Đào Toàn Kim (Sư Tích) bị giáng làm Trung thư Thị lang Đồng tri Thẩm hình viện sự
Nguyên do là Hồ Quý Ly làm sách Ninh đạo 14 thiên dâng lên, đại khái cho Chu Công là Tiên thánh, Khổng Tử là Tiên sư; ở Văn miếu thờ Chu Công ở chính giữa ngoảnh về phương nam; Khổng Tử ở bên ngoảnh về phương tây; lại cho rằng sách Luận ngữ có bốn chỗ ngờ như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, ở nước Trần hết lương, Công Sơn Phật Hất gọi mà Khổng Tử muốn đến, v.v… cho Hàn Dũ là đạo Nho, cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Hiệu, Trình Di, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý Diên Niên, Chu Tử đều là học thì rộng nhưng tài thì kém, không quan thiết đến sự tình, chỉ chuyên làm nghề lấy cắp văn chương của người xưa. Thượng hoàng ban chiếu khen ngợi. Quốc tử Trợ giáo là Đoàn Xuân Lôi dâng thư lên Thượng hoàng. Thư này cũng được Đào Toàn Kim đồng thuận nói Hồ Quý Ly bàn thế là không phải, (Xuân Lôi, người xã Ba Lỗ, huyện Tân Phúc, lộ Bắc Giang là người minh mẫn biết việc, làm quan đến chức Trung thư hoàng môn Thị lang kiêm tri Ái châu Thông phán, chết tại chức); bị đày đi châu Nghệ An còn Đào Toàn Kim (Sư Tích) bị giáng làm Trung thư Thị lang Đồng tri Thẩm hình viện sự.
Nguồn: Đ4, tr.421-422; Đ5, tr.649.
NĂM 1396 (BÍNH TÝ)
Ngày 19 tháng 3 (10 tháng Hai – Bính Tý)
238. Đào Toàn Kim (Sư Tích), Nguyễn Ứng Long (Phi Khánh) đi sứ nhà Minh
Từ năm 1380 quan hệ giữa Đại Việt và nhà Minh bắt đầu trở nên rất căng thẳng. Tháng 9 năm 1384, yêu cầu Đại Việt phải cung cấp lương thực cho quân đội đang ở Vân Nam. Tháng 3 năm 1385, lại yêu cầu phải nộp 20 tăng nhân. Tháng 2 năm 1386, đòi phải nộp các loại cây ăn quả quý, cấp 50 thớt voi để đánh Chiêm Thành. Năm 1394, sai Hình bộ Thượng thư Dương Tĩnh dụ bảo Đại Việt sai chuyển tám vạn thạch gạo đến nuôi quân ở Long Châu. Quý Ly chuyển một vạn thạch, tặng một ngàn lạng vàng, hai vạn lạng bạc, nói đường bộ đến Long Châu hiểm trở, xin cho chuyển đến động Bằng Tường. Tĩnh không thể nghe, sai chuyển hai vạn thạch đến sông Đà Hải. Sông này cách Long Châu chỉ nửa ngày đường. Dương Tĩnh nhân đó tâu lên rằng: – Nhật Côn (Thuận Tông) tuổi nhỏ, việc nước đều do cha con Quý Ly quyết định, mới dám có ý chần chừ nghe ngóng như vậy! Bấy giờ, nhà Minh thấy Tông Thọ đã nạp khoản, dời quân sang chinh phạt các tộc man ở Hướng Vũ, bèn dụ Dương Tĩnh sai Đại Việt chuyển hai vạn thạch gạo cho quân, mà miễn cho số vàng bạc dâng hiến.
Tháng 6 năm 1395, quân Minh tiến đánh quân loạn ở Quảng Tây, yêu cầu Đại Việt phải cung cấp 5 vạn quân, 50 vạn thạch lương, 50 thớt voi. Về yêu cầu này nhà Trần chỉ nộp lương thực, quân Minh yêu cầu phải nộp tiếp tăng nhân, thanh niên và phụ nữ phục vụ chiến trường.
Các yêu cầu của nhà Minh ngày càng vô độ nên triều đình cần người tài giỏi đi sứ nhằm xoay chuyển tình thế. Bấy giờ nhà Trần ở vào thời mạt, quyền lực trong triều dần bị Hồ Quý Ly nắm lấy. Hồ Quý Ly khi tìm người thì thấy chỉ có mình Đào Sư Tích từng đỗ Trạng nguyên và Nguyễn Phi Khanh là có thể đáp ứng được yêu cầu này. Tuy nhiên lúc này Đào Sư Tích chán cảnh Hồ Quý Ly chuyên quyền nên đã cáo quan về quê bốc thuốc và dạy học. [Đây là khoảng thời gian qua tìm hiểu, Đào Sư Tích mới biết họ Đào vốn gốc họ Dương nên đã làm bài thơ Lão ngữ chư tử (Lời của già nói lại với các con): Dương Xá thiên thu trí Tổ phần/ Gia cư sinh tụ khởi phi chân/ Cố nhân ngự tặc nhưng tồn miếu/ Quản chỉ hồi chiêm lại hữu thần/ Kim trạch Tùng Khê thời dĩ cái/ Diệc ưu thủy lạo khí Canh tân/ Tồn tâm bồi trúc duy miêu duệ/ Dã đắc an toàn vạn cổ lân (Dương Xá ngàn thu đất Tổ phần/ Dựng nhà ăn ở chớ phân vân/ Người xưa chống giặc còn thờ tự/ Quê cũ thường trông có thánh thần/ Đất mới Tùng Khê thời đổi khác/ Bởi do nước lụt khí Canh tân/ Hậu lai bồi đắp đừng quên lãng/ Cầu được an bình mãi vạn xuân)]. Dù không ưa gì Đào Sư Tích nhưng vì không thể có ai thay thế, Hồ Quý Ly đành phải xin vua Trần cho Đào Sư Tích đi sứ. Khi Hồ Quý Ly triệu Đào Sư Tích vào triều còn ra lệnh nếu Đào Sư Tích không hồi triều đi sứ sẽ bị tru di tam tộc.
Để đề phòng dòng họ có thể bị sát hại, Đào Sư Tích đã kịp thời cho con cháu chuyển sang họ Phạm rồi mới về triều. [Về sau lại có người đổi từ họ Phạm sang họ Dương. Vì thế mà ngày nay từ đường họ Đào ở Cổ Lễ, quê của Đào Sư Tích có bức đại tự ghi là Đào – Phạm – Dương. Bên cạnh đó, có một nhánh con cháu họ Đào đổi sang họ Nguyễn].
Minh thực lục ghi nhận:
“Ngày 10 tháng Hai năm Hồng Vũ thứ 29 (19-3-1396)
Trần Nhật Côn (Thuận Tông) nước An Nam sai bọn bày tôi là Thông phụng Đại phu Đào Toàn Kim, Thiếu trung Đại phu Nguyễn Ứng Long dâng biểu cúng sản vật địa phương. Ban cho tiền giấy có sai biệt”.
Chuyến đi sứ này Đào Toàn Kim (Sư Tích) và Nguyễn Ứng Long (Phi Khanh) đã thuyết phục nhà Minh bỏ và giảm nhẹ nhiều lệ cống nạp hàng năm, trong đó bỏ hẳn được việc cống nạp tăng nhân, góp phần quan trọng kéo dài thời gian hòa hoãn cho Đại Việt.
[Tài năng của Đào Sư Tích khiến triều đình nhà Minh cũng phải e ngại, trong dân gian lưu truyền lại giai thoại:
Khi thời hạn đi sứ sắp hết, vua Minh có hỏi Đào Sư Tích rằng: – Nếu Bắc đánh Nam thì ai thắng.
Đào Sư Tích bèn ngâm hai câu thơ trả lời:
Bắc thắng, Nam thua, thua thua thắng
Nam thua, Bắc thắng, thắng thắng thua
Câu trả lời của Đào Sư Tích thể hiện được ý chí của nước Nam lại cũng không làm phật lòng vua Minh, giúp kéo dài thời gian hòa hoãn giữa hai nước, có lợi cho Đại Việt.
Vua Minh lại hỏi tiếp: – Nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly chuyên quyền, lòng dân ly tán, tại sao ta không thắng?
Đào Sư Tích cũng lại đáp bằng hai câu thơ:
Trần thực, Hồ hư, hư hư thực,
Cổ lai chinh chiến thực thực hư hư
(Nhà Trần là thực, Hồ chỉ là hư, hư là hư thực
Xưa nay chinh chiến thực thực hư hư)
Biết không dễ gì khuất phục được một người giỏi như Đào Sư Tích, vua Minh liền nghĩ cách giết đi. Vua trao cho vị quan chuyên tiếp đón Đào Sư Tích bốn phong thư và dặn rằng phải mở theo thứ tự.
Viên quan này mở phong thư thứ nhất thấy có câu “thượng văn vấn, hạ tri vương” nhưng không hiểu ý là gì bèn hỏi Đào Sư Tích.
Đào Sư Tích trả lời rằng: – Văn là nghe, nghe là tri, tri là nhĩ. Vấn là hỏi, hỏi là khẩu. Bên dưới có chữ vương. Hợp ba chữ: nhĩ, khẩu, vương thành chữ thánh. Vua Minh có ý bảo ta là thánh nhân đó mà. Vua Minh quá khen, cho ta là bậc thánh hiền. Ta đâu dám nhận lời khen đó.
Sau đó vị quan mở phong thư thứ 2, đây chính là đáp án giải nghĩa cho phong thư thứ nhất, đúng như những gì Đào Sư Tích đã giải nghĩa.
Phong thư thứ ba là sắc phong Đào Sư Tích làm Lưỡng quốc Trạng nguyên, tức Trạng nguyên của cả Trung Hoa lẫn Đại Việt.
Phong thư thứ tư có hai dòng chữ:
Hậu họa/ Nhất dược, nhị đao
Vị quan này hiểu rằng đây là mệnh lệnh phải giết Đào Sư Tích bằng đao hoặc độc dược nên ông rất buồn bã. Nhìn vẻ mặt của vị quan này Đào Sư Tích đoán được sự việc liền an ủi rằng: – Thánh thì thoát tục. Ông chẳng nên quá buồn rầu. Chỉ xin cho được chết bằng thuốc độc để ông khỏi phải khổ tâm khi phải trực tiếp giết ta.
Sau khi Đào Sư Tích qua đời, thi hài được đưa về nước mai táng].
Nguồn: Đ4, tr.410, 411, 424; Đ5, tr.628, 629, 653; A3, tr.86; M3, tập 1, tr.183; Đ11; N6.
NĂM 1408 (MẬU TÝ)
Trong năm
239. Dương Khắc Chung, Dương Thế Chân nổi dậy chống quân xâm lược Minh ở phủ Thái Nguyên
Mượn chiêu bài Phù Trần diệt Hồ, mùa xuân năm 1406 nhà Minh cho tên Việt gian Nguyễn Khang đổi tên là Trần Thiêm Bình đi theo hàng vạn quân Minh do Hoàng Trung tràn vào Đại Ngu. Bị đẩy lui, nhà Minh lại cho Chu Năng đeo ấn Chinh Di tướng quân hùng hổ lên đường nhưng phải bỏ dở cuộc chiến vì viên Tổng binh này bị ốm chết giữa đường. Liền sau đó, nhà Minh phát động cuộc xâm lăng mới vào ngày 19-11-1406 với 80 vạn quân do Trương Phụ – Trần Húc và Mộc Thạnh – Lý Bân theo 2 ngả tiến vào Thăng Long. Trong khi quân đội triều đình của cha con họ Hồ thua chạy khắp nơi thì quân xâm lược vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của các đội dân binh và quân khởi nghĩa tại khắp các địa bàn. Ngay từ năm 1408, phủ Thái Nguyên đã là khu vực hoạt động của Chu Sử Nhan, Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trà, Dương Khắc Chung, Dương Thế Chân, Ông Lão… Trong số các thủ lĩnh nghĩa binh này, Ông Lão là người có thế lực nhất và đã xây dựng được căn cứ ở huyện Động Hỷ (thuộc Thái Nguyên). Nhà Minh ra lệnh cho thổ quan Ma Bá Hổ giữ chức Đồng Tri phủ Thái Nguyên phải tuyển mộ thêm thổ binh để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân trong vùng.
Nguồn: K11, tr.65.
NĂM 1411 (TÂN MÃO)
Trong năm
240. Dương Cao Thiên khởi nghĩa
Cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở khu vực Vạn Nhai – Lạng Sơn. Nghĩa quân chiếm cứ vùng núi hiểm yếu chống cự trước các cuộc tấn công của giặc.
Nguồn: M3, tập 1, tr.352.
NĂM 1417 (ĐINH DẬU)
Ngày 9 tháng 11 (1 tháng Mười – Đinh Dậu)
241. Tổng binh Lý Bân sai Đô chỉ huy Chu Quảng đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Dương Tiến Giang tại phủ Thái Nguyên
Theo Minh thực lục, vào ngày tháng này, Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân sai Đô chỉ huy Chu Quảng mang quân đánh dẹp đầu đảng Dương Tiến Giang. Chu Quảng cho đánh phá các trại ở Bắc Trú, bắt Tiến Giang và các thủ lĩnh khác chém để làm răn. Các nghĩa binh còn lại tự tan rã.
Tuy nhiên, An Nam chí nguyên lại cho rằng, Dương Tiến Giang là một bộ phận của cuộc khởi nghĩa do Trần Nguyệt Hồ lãnh đạo nổ ra vào năm 1415 tại Thanh Hóa. Dương Tiến Giang hoạt động ở Thái Nguyên.
Trong khi sách Hoàng Minh thực lục cho rằng, Trương Phụ dẫn quân đi đánh Trần Nguyệt Hồ và đến tháng 11-1425 thì bắt được thủ lĩnh tại vùng Xích Thổ (nay thuộc Ninh Bình) thì An Nam chí nguyện lại viết: “Năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1415) Trần Nguyệt Hồ làm phản, Phương Chính tiến quân đánh úp tận sào huyệt, bắt sống được Tiến Giang”.
Như vậy, ngoài việc thời điểm vênh nhau 2 năm, tướng đánh dẹp khác nhau còn một điểm đáng lưu tâm nữa là, vào cuối năm 1407, Phạm Chấn khởi nghĩa ở Đông Triều đã lập Trần Nguyệt Hồ làm minh chủ. Cuộc khởi nghĩa thất bại ngay sau đó, Trần Nguyệt Hồ bị bắt. Vậy, điều còn lại là 2 nhân vật này có phải là một người không và nếu phải thì Trần Nguyệt Hồ trốn thoát vào lúc nào?
Nguồn: M3, tập 2, tr.47; A2, tr.216; K11, tr.87.
Trong năm
242. Nhiều người họ Dương bị bọn thống trị Minh đưa sang Yên Kinh
Nhà Minh định lệ hàng năm cống các nho học, sinh viên sung vào Quốc tử giám, nhà phủ học mỗi năm cống 2 người, nhà châu học 2 năm cống 3 người, nhà huyện học mỗi năm cống 1 người. Sau lại định nhà phủ học mỗi năm 1 người, nhà châu học 3 năm 2 người, nhà huyện học 2 năm 1 người.
Hoàng Phúc còn sức cho các hào phú, thổ quan là Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung, Đỗ Hy Vọng, Lương Sĩ Vĩnh, Dương Cự Giác đều phải đem người nhà đến Yên Kinh phục dịch để làm cung điện.
Nguồn: Đ4, tr.473-474; Đ5, tr.715-716.
NĂM 1420 (CANH TÝ)
Tháng 7 (tháng Sáu – Canh Tý)
243. Dương Cung khởi nghĩa
Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Người làng Chàng Kinh huyện Thủy Đường là Lê Ngã, đổi họ tên làm Dương Cung, tự xưng là Thiên thượng Hoàng đế, đặt niên hiệu là Vĩnh Thiên. Ngã vốn là gia nô của Trần Thiên Lại, tướng mạo đẹp, thường đi chơi bốn phương, ai cũng cung nuôi. Lại trá xưng là lính hầu của Mã Kỳ, hống hách các châu huyện, làm kế nuôi mình. Thấy Công Chứng, Phạm Ngọc, Phạm Thiện đua nhau dấy quân, Ngã bảo với người quen biết rằng: “Các anh có thích phú quý không? Ai thích thì theo ta đi”. Ngã bèn đến huyện Đan Ba ở Lạng Sơn, trá xưng là cháu bốn đời của Trần Duệ Tôn từ nước Lão Qua về. Phụ đạo ở Đan Ba là Bế Thuần gả con gái cho và lập làm vua. Trong khoảng mấy tuần một tháng, có quân hơn vài vạn người, đến Yên Bang giữ trại Hồng Doanh. Khi Công Chứng và Phạm Ngọc đã thất bại, dư đảng theo về với Ngã, thành ra có quân đến vài vạn người. Ngã tiếm xưng tôn hiệu, đặt niên hiệu, đặt quan, đúc tiền, đốt thành Xương Giang, cướp trại Bình Than. Có người biết rõ là Ngã cũng không dám nói. Trần Thiên Lại đến xem, ra ngoài nói rằng: – Nó là gia nô của ta, lạy nó làm gì! Bèn rời thuyền trốn đi. Ngã đuổi theo không kịp. Thiên Lại gửi hịch cho huyện bên cạnh, tự xưng là Hưng vận Quốc thượng hầu, đem quân đánh nhau với Ngã, bị Ngã giết chết. Lý Bân đem đại quân thủy bộ đến đánh. Ngã và Thuấn đều trốn đi đêm, không biết đi đâu.
Đại Việt sử ký tiền biên mô tả ngắn gọn hơn và có vẻ có cách nhìn hơi khác: “Thổ hào ở Đồ Sơn Phụng Hóa là Trần Thái Xung, Phạm Ngọc khởi binh bị Lý Bân đánh bại.
Lê Ngã người Thủy Đường làm loạn. Ngã giả xưng là cháu 5 đời của Duệ Tông từ Lão Qua về. Phụ đạo Đan Ba là Bế Thuấn gả con gái cho rồi lập lên, trong khoảng một tháng mộ được vài vạn người, tiếm xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Vĩnh Thiên, đặt quan chức đúc tiền, đốt phá Xương Giang cướp bóc trại Bình Than dư đảng của Trịnh Công Chứng, Phạm Ngọc đều theo, thế rồi Lê Ngã đổi họ tên là Dương Cung, có người biết Ngã là gia nô của Trần Thiên Lại (tôn thất nhà Trần). Thiên Lại đến trông thấy thì đúng như vậy, bèn truyền hịch đến huyện chung quanh tự xưng là Hưng Vận Quốc Thượng hầu đem quân đánh Ngã nhưng đều bị Ngã giết chết.
Lý Bân đem đại quân thủy bộ đến đánh, Ngã và Thuấn đều trốn, quân còn lại tan tác hết”.
Nguồn: Đ4, tr.480; Đ5, tr.718-719
NĂM 1421 (TÂN SỬU)
Ngày 15 tháng 10 (19 tháng Chín – Tân Sửu)
244. Dương Cung được cho là bị bắt đem sang Yên Kinh
Theo Minh thực lục, vào ngày này Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân sai Đô chỉ huy Vương Trung chỉ huy lực lượng tiến đánh, bắt được Dương Cung. Trước đây viên thủ lĩnh tiếm xưng vương, tụ tập đám đông làm loạn, quan quân truy đánh, Cung chạy trốn không bắt được. Sau vì bắt được người cậu tên là Đỗ Cô bèn bắt chỉ đường đến huyện Giáp Sơn, phủ Tấn An thì bắt được, liền cùm giải sang Bắc Kinh.
Chép như trên, Minh thực lục đã che dấu sự thật sau đây:
Khi chưa bắt được Dương Cung, Lý Bân tìm cách cho người đóng thế. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết “Lý Bân và nội quan là Lý Lượng bắt Phạm Luận là sinh viên ở huyện Giáp Sơn mạo là Dương Cung để tắc trách đối với chiếu mệnh lùng bắt, bắt đến cả gia thuộc của Luận là bọn Phạm Đỗ, đưa về Yên Kinh. Tri huyện là Đặc Khiêm làm chứng là không phải tên Cung, bọn Bân không nghe. Khiêm lấy bao vàng dâng đại cáo tâu thẳng về Yên Kinh. Bân sai người chặn đường bắt về. Hoàng Phúc khuyên Khiêm rằng: – Mọi người đều nhận là đúng, chỉ riêng anh bảo không phải là làm sao? Khiêm nói: – Ai có thể ra ngoài mà không qua cửa ngõ? Bân cho giải cả Khiêm và Luận về Yên Kinh, giao xuống cho pháp tư xét hỏi. Khiêm suýt nữa bị tội, vì anh của Khiêm đánh trống đăng văn khiếu oan được hỏi tội. Rồi sau thăng đầu đến chức Hữu bố chính sử nước ta. Gia thuộc của Luận rốt cuộc bị chết ở trong ngục”.
Dưới ách thống trị của nhà Minh, còn không ít người thuộc dòng họ Dương như Dương Thì Lợi, Dương Thái Nhất, Dương Công Đình, Dương Công Táo, Dương Huyền Trung đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Nguồn: M3, tập 2, tr.88; Đ4, tr.482; Đ5, tr.720
NĂM 1427 (ĐINH MÙI)
Tháng 2 (tháng Giêng – Đinh Mùi)
245. Lê Lợi sai Dương Thái Nhất sửa chữa đền thờ Trần Hưng Đạo
Ngay khi còn sống, Trần Hưng Đạo đã được lập Sinh từ nằm ở phía đông nam đền Kiếp Bạc, thuộc khu Phủ đệ Thung Trong. Sinh từ sau trở thành đền thờ khi ông mất. Ngoài việc tu sửa, Dương Thái Nhất còn phải tuân thủ lệnh cấm không được chặt hạ cây cối quanh vùng. Ngoài ra, Lê Lợi còn sai Án sát Dương Thì Lợi tham gia tổ chức kỳ thi Hội đầu tiên, bổ 575 người làm Thuộc viên ở Viện Hàn lâm và 4 đạo mới giải phóng. Sau đại thắng bình Ngô, Dương Công Đình trở thành Nội giám, Dương Công Tảo được cấp thực ấp rộng 500 mẫu để lập làng Thụ Triền (nay thuộc xã Cảnh Hưng, Tiên Du – Bắc Ninh).
Nguồn: K3, tập 1, tr.777-778; V1.
NĂM 1434 (GIÁP DẦN)
Tháng 12 (tháng Một – Giáp Dần)
246. Tri châu Phục Lễ Dương Đại Nhuệ cung tiến tu tạo đền thờ Dương Tam Kha tại Cổ Lễ
Mùa xuân năm Nhâm Tý (1432), Lê Thái Tổ đem quân đánh Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, đổi tên thành châu Phục Lễ, cho Dương Đại Nhuệ làm Tri châu.
Mùa đông năm Giáp Dần (1434), Tri châu Dương Đại Nhuệ trong dịp về thăm quê đã ghé thăm nơi thờ tự Dương Tam Kha ở Cổ Lễ, tổng Thần Lộ, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường – Nam Đạo (nay đền thờ thuộc thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh – Nam Định), thấy đổ nát tang thương bèn bỏ tiền cho tu tạo lại rồi dâng biểu lên triều đình tâu bày về công lao, sự tích vị thần nhân được dân thờ phụng. Nhận được biểu, Lê Thái Tông đã cho Bắc Đạo Tư mã Lê Văn An về làm lễ Quốc tế.
Đền thờ Dương Tam Kha về sau còn được Trấn thủ Sơn Nam là Dương Tùy Ngộ sửa chữa vào năm Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1793) và lần sửa chữa thứ 3 do ông Dương Thiệu Nhân bỏ ra 300 quan vào thời Nguyễn.
Nguồn: C5.
NĂM 1435 (ẤT MÃO)
Trong năm
247. Dương Huyền Trung được cử làm Hộ bộ Chủ sự Linh đại trang
Đây là chức vụ chuyên trông coi việc biên soạn lịch cho nhà nước.
Nguồn: Đ4, tr.553.
NĂM 1441 (TÂN DẬU)
Tháng 4 (tháng Ba – Tân Dậu)
248. Hoàng hậu Dương Thị Bí xuống làm dân thường
Tháng Mười năm Kỷ Mùi (11-1439), Hoàng hậu Dương Thị Bí sinh Hoàng tử Nghi Dân. Đến ngày 21 tháng Giêng năm Canh Thân (14-2-1440) Nghi Dân được lập làm Hoàng Thái tử. Kể từ đó, Hoàng hậu ngày càng trở nên kiêu ngạo. Lê Thái Tông biết nhưng chỉ giáng xuống làm Chiêu Nghi, hy vọng sớm sửa đổi lỗi lầm. Tuy nhiên, Chiêu Nghi ngày càng chứa chấp lòng đố kỵ, không kiêng nể phép tắc. Nhà vua cho rằng người mẹ ác tâm như thế thì con cái khó là người tốt. Bèn cho giáng làm dân thường, xuống chiếu cho thiên hạ biết là ngôi Hoàng Thái tử chưa định đoạt.
Nguồn: Đ4, tr.575-576.
NĂM 1448 (MẬU THÌN)
Ngày 19 tháng 9 (1 tháng Chín – Mậu Thìn)
249. Dương Chấp Trung thi đậu Hoàng giáp
Ông sinh năm 1414, người thôn Văn Thai, xã Sài Xuyên, tổng Lạc Xuyên, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, Thừa tuyên Nghệ An (nay thuộc xã Cẩm Minh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh) – con trai Tráng hiến Đại vương Bàn Thạch hầu Dương Công Cứ.
Theo Thái Hòa lục niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ đề danh bi ký (Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, năm Thái Hòa thứ 6) thì kỳ thi này được tổ chức vào mùa thu, ngày 23 tháng 8 năm Mậu Thìn (11-9-1448). Hoàng thượng ngự điện Tập Hiền, đích thân ra đề văn sách. Sai Đặc tiến Nhập nội Tư khấu Đồng Bình chương sự Trịnh Khắc Phục làm. Đề điệu, Ngự sử trung Thừa Ngự sử đài Hà Lật làm Giám thí, Môn hạ sảnh Tả ty Tả nạp ngôn Tri Bắc đạo quân dân bạ tịch Nguyễn Mộng Tuân, Hàn lâm viện Thừa chỉ Học sĩ Trình Thuấn Du, Quốc tử giám Tế tửu Nguyễn Tử Tấn làm Độc quyển. Ngày 1 tháng Chín năm Mậu Thìn (19-9-1448) lấy những bài thi có văn phong khí cốt đáng khen, chọn Nguyễn Nghiêu Tư trở xuống, ban cho đỗ Tiến sĩ cập đệ và xuất thân có thứ bậc khác nhau. Mọi nghi thức ban cấp áo mũ, yến tiệc đều tuân theo lệ cũ. Duy có việc dựng đá đề danh thì lúc đó chưa kịp tiến hành.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa này được Hàn lâm viện Thị tộc Đông các Đại học sĩ Đỗ Nhuận soạn; bia dựng tại Văn miếu ngày 15 tháng Tám năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (25-9-1484), vẫn còn ghi đậm lời nhắc nhở:
“Nay những người được đề tên vào tấm đá này, cho dù nay đã có nửa phần tuổi tác đã cao, nhưng con người trung chính hay tà ngụy thế nào, việc làm được mất nên hư thế nào, công luận nghiêm xét, ngàn đời khó trốn.
Còn những người hiện đương tại chức, hãy nên nhớ lại ơn lựa chọn của tiên triều, ngẫm tới sự hiển đạt của mình ngày nay, tiết muộn đường dài, hãy thận trọng để khỏi hổ thẹn. Còn những người hậu tiến sờ vào tấm đá này, liếc nhìn bài văn này cũng nên biết cách thức khích lệ của thánh triều, kiếm tìm dấu tích danh thực của tiền bối, lựa lấy điều hay để theo mà bắt chước; đừng để cho đời nay phải chê trách đời trước, thế là việc rất tốt trong việc tốt vậy”.
Nguồn: V2, tr.37-42.
Tháng 12 (tháng Một – Mậu Thìn)
250. Dương Thắng Kim nổi dậy, bị đàn áp
Dương Thắng Kim, người sách Thám Già – Tuyên Quang hiệp với Nông Thế Ôn ở An Phú cùng Thừa tuyên từ lâu dựa vào thế đất toàn rừng núi hiểm trở không chịu nộp phú dịch cho triều đình. Phụ đạo An Phú là Nguyễn Doãn Bộ cáo giác, triều đình sai Tổng quản Lê Luân đem quân bản trấn bắt về Kinh đô xử tội.
Nguồn: Đ4, tr.591.
NĂM 1449 (MẬU THÌN – KỶ TỴ)
Tháng 1 (tháng Chạp – Mậu Thìn)
251. Hoàng giáp Dương Chấp Trung được làm Khởi xá Cư nhân
Cùng vào dịp này, nhà vua cho lấy Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư và Tiến sĩ Trịnh Kiển làm Hàn lâm Trực học sĩ (vì Kiến nguyên là Đô quan Lục phẩm), Bảng nhãn Trịnh Thiết Trường, Thám hoa lang Chu Thiêm Uy làm Trung thư Xá nhân, Tiến sĩ Nguyễn Bá Ký làm Hàn lâm Tri chế cáo, Nguyễn Mậu, Dương Chấp Trung làm Khởi cư Xá nhân, Phạm Đức Khản, Nguyễn Đình Tích, Nguyễn Di Quyết, Đặng Nghi làm Hàn lâm Đãi chế, Bùi Phúc, Nguyễn Văn Chất, Phan Hoan, Nguyễn Thúc Thông làm Quốc sử viện Đồng tu sử, Phụ bảng là Đoàn Nhân Công 13 người sung Ngự tiền Học sinh; lại lấy An phủ Phó sứ Thiên Trường là Phan Phu Tiên làm Bác sĩ Quốc tử giám, Chuyển vận Phó sứ huyện Phú Lương là Phạm Hùng làm Trợ giáo, Lộ giáo thụ là Vũ Vĩnh Trinh làm Giáo thụ Quốc tử giám, Thính hậu quan là Phan Tử Viết làm Quan sát sứ. Cuối cùng, nhà vua cho lấy những người ngự thí hợp cách là Đặng Duy Khiêm 33 người sung Giám sinh Quốc tử giám. Lệ thi hàng năm học trò các lộ đến thi, sinh đồ hợp cách ở bản đạo mà đỗ Hương cống thì sung Giám sinh, nếu là quân dân mà đỗ Hương cống thì không được sung Giám sinh, vẫn là Hương cống. Đến đây tư khấu Trịnh Khắc Phục mới xin lấy quân dân đỗ Hương cống là Duy Khiêm sung Giám sinh, mà Sinh đồ đỗ Hương cống lại không được vào Quốc tử giám.
Một thời gian sau vào tháng Một – Kỷ Tỵ (12-1449) Dương Chấp Trung được bổ làm chuyển vận sứ huyện Thủy Đường (nay là Thủy Nguyên – Hải Phòng) rồi Quyền Quốc Oai đẳng xứ Tán trị Thừa tuyên sứ ty Tham chính.
Nguồn: Đ4, tr.592; C1, tr.90.
NĂM 1453 (QUÝ DẬU)
Tháng 3 (tháng Hai – Quý Dậu)
252. Dương Tông Hải thi đậu Hoàng giáp
Ông người xã Minh Sơn, tổng Kênh Triều, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, Thừa tuyên Hải Dương (nay thuộc xã Trung Hà, Thủy Nguyên – Hải Phòng), trú quán tại xã Ninh Giang, tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Đình Xuyên, Gia Lâm – Hà Nội), nguyên là Dương Tông Mỗi, được nhà vua cho đổi tên.
Nguồn: C1, tr.98.
NĂM 1458 (CANH DẦN)
Trong năm
253. Dương Tử Do thi đậu Tiến sĩ (không phân hạng)
Ông sinh năm 1410, người xã Trang Liệt, tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Thừa tuyên Kinh Bắc (nay là phường Trang Liệt, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), nhà nghèo, lớn lên giữa cảnh đất nước loạn lạc, lại bị nhà Minh thống trị nên thất học. Năm ông 43 tuổi (1452) nhân có việc ở đình làng, ông vạch mặt viên xã trưởng gian dối tiền của dân làng nên bị hắn xỉ nhục là kẻ không biết chữ, không cho dự ở chốn đình chung. Ông bèn bỏ sang Hà Lỗ tìm thầy, dùi mài kinh sử và đến năm này, ông thi đậu. Cảm phục chí khí của ông, người đời sau tặng ông 4 câu thơ:
“Tứ thập tam tuế thủy khai tâm
Tứ thập cửu tuế dĩ đăng đệ
Dụng công duy hữu lục niên gián
Quân tử thắng nhân tại thông tuệ”
(Bốn ba mới học vỡ lòng
Đến năm bốn chín đã ông Nghè rồi
Dụng công có sáu năm trời
Hơn đời cốt ở tính người thông minh)
Kỳ thi này chỉ lấy đỗ 5 người (Nguyễn Văn Nễ, Nguyễn Văn Xướng, Nguyễn Như Huân, Nguyễn Điện, Dương Tử Do), do không kịp thi Đình vì nhiều chuyện rắc rối trong triều nên tất cả đều xếp một hạng Tiến sĩ xuất thân. Dương Tử Do làm quan tới Công bộ Hữu thị lang.
Nguồn: Đ4, tr.606; P4, tr.219-220.
NĂM 1463 (QUÝ MÙI)
Ngày 2 tháng 3 (22 tháng Hai – Quý Mùi)
254. Dương Văn Đán, Dương Đức Nhan có tên trên Bảng Vàng cửa Đông Hoa
Cùng 44 sĩ tử vượt qua 1400 tham dự kỳ thi Hội, Dương Văn Đán và Dương Đức Nhan trúng thức vào thi Điện do Nhập nội kiểm hiệu Tư đồ bình chương sự Nguyễn Lai, Nhập nội đô đốc Đồng bình chương sự Đông đạo chư vệ dân quốc Quốc tử giám tế tửu Lê Niệm làm Đề điệu, Chánh sự viện Tham nghị chính sự Nguyễn Sự làm Giám thí, Môn hạ sảnh ty Tả gián nghị Đại phu Bắc đạo dân quân Bạ tịch kiêm Hàn lâm viện thừa chí Học sĩ Nguyễn Như Đỗ, Hàn lâm viện Thừa chí Học sĩ tri Đông đạo quân dân Nguyễn Vĩnh Tích, Quốc tử giám Tế tửu Nguyễn Bá Ký làm Độc quyển.
Theo Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký (Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi năm Quang Thuận 4) do Hàn lâm viện Thị giảng Đông các hiệu thư Đào Cử soạn, bia dựng ngày 15 tháng Tám năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (15-9-1484) tại Văn Miếu, thì:
“Ngày 16 tháng Hai (năm Quý Mùi, tức 24-2-1463) Hoàng thượng ngự ở hiên điện thân hỏi về đạo trị nước của các bậc đế vương; sai bọn Kiểm hiệu Tư đồ Bình chương sự kiêm Đô đốc Đồng bình chương sự Đông đạo chư vệ quân Nguyễn Lỗi làm Đề điệu, Quốc tử giám Tế tửu Lê Niệm cùng trông coi công việc.
Sáng hôm sau, Tả ty môn hạ sảnh gián nghị đại phu Tri Bắc đạo quân dân bộ tịch sảnh kiêm Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Như Đổ, Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Tri Đông đạo quân dân Bạ tịch Nguyễn Vĩnh Tích, Quốc tử giám tế tửu Nguyễn Bá Ký dâng quyển lên đọc, Hoàng thượng ngự lãm, định thứ bậc cao thấp. Ban cho từ Lương Thế Vinh trở xuống đỗ Tiến sĩ cấp đệ, xuất thân thứ bậc có khác nhau.
Ngày 22 (tháng Hai Quý Mùi, tức 2-3-1463) vua ngự điện Kính Thiên, cho gọi loa xướng tên người thi đỗ. Quan bộ Lễ rước Bảng Vàng ra yết ngoài cửa Đông Hoa để cho các sĩ tử xem tên. Lại ban áo mũ, yến tiệc để tỏ ý yêu mến đặc biệt, ơn sủng thật trọng hậu […].
Đến nay chế độ văn vật rõ ràng sáng suốt, khắc vào bia đá dựng ở nhà Quốc học, một là để làm thịnh điển của triều vua sáng, hai là để làm vinh quang cho kẻ sĩ, soi tỏ mai sau, ngụ lời khuyến khích.
Kẻ sĩ may mắn được ghi danh vào tấm đá này, phải làm cho danh đúng với thực, sửa nết giữ mình, bắt chước Văn Hiến giữ lòng, đừng theo Công Tôn học hành xiên vạy. Thanh danh đức hạnh phải như Triệu Duyệt Đạo, khí tiết cứng cỏi phải giống Phạm Cảnh Nhân. Những người ở chức tháp tùng hầu vua phải lo dâng tiến mưu hay, những người nắm giữ kỷ cương phải lo làm cho chính sự trong sạch, những người cai trị địa phương phải lo làm sao rạng tỏ đức bề trên mà thấu tình người dưới, những người giữ quyền chăn dân phải lo sao cho nơi mình làm quản dân được no đủ mà gốc nước được vững bền. Ngõ hầu trên không phụ thịnh ý của triều đình ban khen, dưới không phụ hoài bão lớn muốn phò vua giúp nước, để danh dự được lưu lại đời đời, danh thơm truyền mãi mãi, khiến cho người đời đến xem đọc bia đá này, chỉ vào tên mà nói: đây là những người trung với nước, hiếu với dân, bàn nói ngay thẳng làm sáng thánh đạo, giữ vững đạo đức kiến lập công lao, được như thế là may mắn lắm. Nếu không được thế thì người xem đưa mắt bảo: kẻ này nhu nhược, kẻ này đức mỏng, kẻ này hèn nhát v.v… Công luận còn đó, há chẳng nên cẩn thận lắm sao?
Xem thế đủ biết Thánh thiên tử có ý ban khen khuyến khích rất sâu sắc, lòng kỳ vọng rất mực, sự khích lệ cao cả chân thành hơn cả xưa nay. Đó là vì vua muốn được người chân Nho giúp việc trị nước, truyền lại cơ đồ tốt đẹp cho con cháu đời sau. Thế thì việc khắc đá đề danh chẳng những là tốt đẹp cho đất nước muôn vạn năm, mà cũng là phúc lớn cho con thần cháu thánh muôn vạn đời”.
Trên Bảng Vàng, Dương Văn Đán, nguyên gốc người Yên Thế, tổ tiên chuyển cư về xã Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội) đỗ Hoàng giáp; Dương Đức Nhan, người xã Hà Dương, tổng Hạ Đam, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, Thừa tuyên Hải Dương (nay thuộc xã Cống Hiền, Vĩnh Bảo – Hải Phòng) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, sau làm quan đến Hình bộ Hữu thị lang tước Dương Xuyên hầu, tác phẩm có bộ Tinh tuyển chư gia luật thi (Tinh tuyển thi tập).
Được biết, trước khi thi đỗ Đệ tam Tiến sĩ, Dương Đức Nhan đã hoàn thành Tinh tuyển chư gia luật thi – còn được gọi bằng nhiều tên khác như Thi gia tinh tuyển; Tinh tuyển tập; Cổ kim chư gia tinh tuyển; Tinh tuyển chư gia thi tập. Lê Quý Đôn cho biết, bộ sách này gồm 15 quyển,. Đến Phan Huy Chú chỉ thấy bộ sách này còn 5 quyển, chép từ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trung Ngạn trở xuống gồm 13 thi gia với 472 bài thơ. Ông được Ngô Thế Vinh coi là một trong bốn bậc tiền nhân giành nhiều công sức bảo tồn sự nghiệp văn chương của lớp người đi trước để lại cho đời sau:
“Thơ có thể dùng để xem xét con người, bàn bạc thời cuộc. Người sưu tập thơ nhân người mà bảo tồn thơ, nhân thơ mà lưu giữ người. Nói về thuyết ấy, cái không thể bảo tồn cũng ít vậy. Đất Giao Nam ta là nước văn hiến, các sáng tác thơ phong phú đặc biệt đáng sợ. Trước đây Phan Phu Tiên, Dương Đức Nhan, Hoàng Đức Lương, Lê Quý Đôn bốn bậc đại gia đều có ghi chép, tuyển chọn riêng” (Bài tựa Minh Đô thư vựng).
Nguồn: V2, tr.45-51; C1, tr.116.
NĂM 1466 (BÍNH TUẤT)
Ngày 1 tháng 5 (26 tháng Ba – Bính Tuất)
255. Dương Như Châu thi đậu Hoàng giáo
Thi Hội các cử nhân trong nước, lấy đỗ 27 người. Tháng Ba, ngày 12 (năm Bính Tuất, tức 17-4-1466) vua ngự ra cửa Kính Thiên, thân ra đầu bài văn sách hỏi về các đế vương trị thiên hạ. Sai Sùng tiến Nhập nội tả đô đốc kiêm Thái tử thiếu bảo Lê Cảnh Huy và quyền Chính sự viện Thượng thư kiêm Cẩn Đức điện Đại học sĩ Thái tử tân khách Nguyễn Như Đổ làm Đề điệu, Hàn lâm viện Đại học sĩ quyền Ngự sử đài Đô ngự sử Đại phu Trần Bàn làm Giám thí, Hàn lâm viện Thừa chỉ Nguyễn Trực, Hàn lâm viện Thừa chỉ Hộ bộ Hữu thị lang kiểm Cẩn Đức điện Đại học sĩ Nhập thị Kinh diên kiêm Tá xuân phường Thái tử Tả dụ đức Nguyễn Cư Đạo, Hàn lâm Học sĩ hành Hải tây đạo Tuyên chính sứ ty Tham tri kiêm Bí thư Giám học sĩ Vũ Vĩnh Trinh làm Đọc quyển. Lấy Dương Như Châu 8 người đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Nhân Thiếp 19 người đỗ đồng Tiến sĩ. Ba năm một khoa thi bắt đầu từ đây. Ngày 26 (tháng Ba – tức 1-5-1466) xướng danh bọn tiến sĩ Dương Như Châu, ban cho ân mệnh; bộ Lễ đem bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa.
Tháng Ba nhuận, ngày mồng 3, cho bọn Tiến sĩ Dương Như Châu vinh quy. Bài ký Đề danh Tiến sĩ do Đàm Văn Lễ soạn rằng: “Nhân tài đối với nhà nước có quan hệ rất lớn. Từ đời Đường, Ngu, Tam đại cho đến Hán, Đường, Tống lập ra nhà trường, nhà tự và nhà học hiệu, mà nhân vật tài được thành, dựng phép thi cử mà nhân tài có chỗ dùng. Tuy rằng công hiệu chính trị có thuần tạp khác nhau, nhưng không bao giờ không lấy việc được người tài giỏi làm trước hết. Thái Tổ bình định thiên hạ, dạy nuôi anh tài, về sự tìm rộng thì có tìm người ẩn dật, về sự thu nhặt thì có thi các học sinh, tuy là tên khoa tiến sĩ chưa đặt mà khí mạch văn học đã đủ. Thái Tông dựng nền từ năm Nhâm Tuất mở khoa, các nhân tài được thu vào hết. Nhân Tông mở liền ba khoa thi, văn hóa càng thêm rõ rệt. Đến Thánh Tông Trung hưng, khoa thi năm Quý Mùi lấy người so với trước lại thịnh hơn. Song từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mùi, hoặc 6 năm một khoa, hoặc 5 năm một khoa, 3 năm một khoa thì năm Bính Tuất này mới bắt đầu. Phàm người thi đỗ đều gọi là người được. Rồi sau chế độ ngày càng tường bị, văn hóa ngày càng đầy đủ, thi Hội có lục đăng khoa, đã đủ nêu sự thịnh trị của đời nay, có bia đề tên, lại đủ làm gương khuyến khích cho đời sau”.
Dương Như Châu, người xã Lạc Thổ, tổng Lạc Thổ, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, Thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Hồ, Thuận Thành – Bắc Ninh) giành học vị Hoàng Giáp.
Khi vào thi Đình, được hỏi về quan hệ bang giao với Trung Quốc, Dương Như Châu đã tâu bày:
“Bề tôi không dám dâng kế cùng binh độc vũ, cậy vào binh lính để đánh nhau mãi, cũng không dám dâng kế sách buông lơi việc võ mà chú trọng việc văn. Chỉ mong sửa sang điều nhân thực hành điều nghĩa, chọn người giỏi văn, giỏi võ, trao trách nhiệm cho tướng soái, răn bảo việc luyện tập quân sĩ, chăm việc võ bị. Trong khi rảnh việc cày bừa, không quên việc giảng duyệt (…). Như thế là đạt tới chỗ dùng văn, dùng võ đúng lúc, có thể tiêu trừ họa hoạn lúc chưa thành, giữ nền cực trị đến mãi mãi. Nước ta vững như bàn thạch, sáng như lửa hồng, hễ giặc đụng đến đâu thì là nát tan, chạm đến đâu là thiêu cháy. Điều lành về nhân, chính vì vậy mà mở rộng mãi ra (…). Thế tất quân sĩ đều vui vẻ ra lệnh, một người có thể địch trăm người, dựa vào đấy đã tiến là đánh, đánh là diệt, thức thời bốn phương có thể yên ổn, còn có lo gì đến việc gây hấn ở biên thùy”.
Nguồn: Đ4, tr.628-629.
NĂM 1467 (ĐINH HỢI)
Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Hợi)
256. Dương Tông Hải có bước thăng tiến
Nhà vua cho Dương Tông Hải từ Thiêm đô Ngự sử đài lên Đô cấp Sự trung quyền Thượng bảo Tự khanh. Đến tháng Năm năm đó, ông lại được cùng Tả thừa Thông chính ty Nghiêm Nhân Thọ dạy học cho các quân kiêu dũng binh mã.
Nguồn: Đ4, tr.636-638.
Ngày 6 tháng 6 (14 tháng Năm – Đinh Hợi)
257. Dương Chấp Trung được lên chức
Ông đang từ Quyền Quốc Oai đẳng xứ Tán trị Thừa tuyên sứ ty Tham chính lên Đại lý Tự khanh quyền Hình bộ Tả thị lang. Đến ngày 20 tháng Năm, ông cùng các Đại thần và Chức sự dự cỗ yến ở điện Cần Chính.
Nguồn: Đ4, tr.639.
Tháng 12 (tháng Một – Đinh Hợi)
258. Dương Như Châu chuyển đổi công việc
Ông từ Đãi chế (trật Tòng lục phẩm) chuyển làm Hồng lô Tự thừa.
Nguồn: Đ4, tr.646.
Trong năm
259. Ngự tiền học sĩ Dương Bích viết chữ bia Thái sư Cương Quốc công bi ký
Văn bia do Trạng nguyên Nguyễn Trực soạn, bia dựng tại nhà thờ họ Nguyễn tại xã Thượng Xá, tổng Ngô Trường, huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, lộ Nghệ An (nay thuộc xã Nghi Hợp, Nghi Lộc – Nghệ An) ghi lại tiểu sử của Nguyễn Xí như sau: Cuối đời Hồ, từ năm lên 9 tuổi, ông cùng anh là Biện lên Lam Sơn theo Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) khởi nghĩa chống quân Minh, xông pha tên đạn, lập nhiều chiến công. Khi Lê Thái Tổ sắp mất viết di chiếu giao cho ông làm Phụ chính Đại thần, giúp Thái Tông còn nhỏ tuổi. Thời Nhân Tông, bọn Phạm Đồn, Phạm Ban phản nghịch giết vua, lập Nghi Dân lên ngôi. Ông tập hợp các đại thần trung nghĩa dấy binh dẹp loạn, tôn lập hoàng tử Tư Thành lên ngôi (tức Lê Thánh Tông), được ban Quốc tính (họ Lê), hàm Thái phó, giữ chức Bình chương Quân quốc trọng sự (Tể tướng), tước Á Quận công. Ông là người cương trực mà sáng suốt, dũng cảm có đạo nghĩa, được dự hàng Khai quốc Công thần, công lao to lớn bậc nhất trong hàng các đại thần đời Lê sơ. Ngày 30 tháng Mười năm Quang Thuận thứ 6 (1465) ông lâm bệnh qua đời, thọ 69 tuổi. Con trai 16 người, con gái 8 người đều hiển vinh (trong đó con gái thứ hai là Ngọc Lệ làm vợ Hoàng thái tử tức Lê Hiển Tông).
Nguồn: V12, tr.775-776.
NĂM 1468 (Đinh Hợi – Mậu Tý)
Tháng 1 (tháng Chạp – Đinh Hợi)
260. Dương Tông Hải tiến cử Huyện quan dám đàn hạch nạn sâu mọt
Nhà vua cho phép các triều thần tiến cử các Huyện quan cương trực, biết chỉ trích kẻ gian nịnh. Để việc tiến cử được những người trực ngạnh đáp ứng đúng mong mỏi của triều đình, nhà vua chỉ rõ: – Sáu bộ, sáu khoa và Ngự sử đài bảo cử bậy thì chịu tội giáng hay bãi; nếu bảo cử được người giỏi thì tất có thưởng hậu.
Trong số những người được tiến cử, ngoài Huyện quan do Dương Tông Hải tiến cử nhà vua đã loại bỏ người do Thái bảo Lê Niệm giới thiệu, thu lại văn bằng người do Lương Như Hộc đưa vào. Những người do Nguyễn Như Đổ bảo cử được đánh giá là hạng tân tiến thường tài.
Nguồn: Đ4, tr.646.
Tháng 12 (tháng Một – Mậu Tý)
261. Dương Văn Đán được cử đi sứ nhà Minh
Cùng trong sứ đoàn có Phạm Giảm, Hoàng Nhân. Khi về ông được cử giữ chức Thừa chính sứ.
Nguồn: Đ4, tr.650.
NĂM 1469 (KỶ SỬU)
Tháng 4 (tháng Hai nhuận – Kỷ Sửu)
262. Dương Chấp Trung được cử làm Giám thí khoa thi Hội
Ngày 26, vua ngự ra cửa Kính Thiên, thân ra đầu đề văn sách hỏi về việc trị nước, sai Thái bảo bình chương Quân quốc trọng sự kiêm Đề điệu Quốc tử giám là Lê Niệm và Thượng thư Lại bộ Nguyễn Như Đổ làm Đề điệu, Đại lý tự khanh quyền Hữu thị lang Hình bộ là Dương Chấp Trung làm Giám thí, Hàn lâm viện Thừa chỉ là Nguyễn Trực, Hàn lâm viện Đại học sĩ Thự viện sự kiêm Quan lộc tự khanh đồng tri Kinh diên sự là Vũ Vĩnh Ninh, Hàn lâm viện Trực học sĩ là Nguyễn Đức Trinh, Quách Đình Bảo, làm Độc quyền, cho Phạm Bá đỗ Tiến sĩ xuất thân theo thứ bậc khác nhau.
Nguồn: Đ4, tr.650-651.
NĂM 1470 (CANH DẦN)
Trong năm
263. Họ Dương và các họ Hồ, Lê, Nguyễn, Phạm lập Hương ước xã Lỗ Giản (Quảng Nam)
Trùng tu Thánh tự bi tạo năm Nhâm Thân (1512) dựng tại chùa Thánh, xã Lỗ Giản, tổng Lỗ Giản, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, Thừa tuyên Quảng Nam cho biết khi mới thành lập xã này chỉ có 5 họ là: Dương, Hồ, Lê, Nguyễn, Phạm. Các ông tổ của 5 họ trước đây đều theo vua lên phương Bắc rồi đến đây lập nên xã này. Trước đây họ đã xây dựng đình chùa, đến năm Hồng Đức 7 (1470) thì họp và lập Hương ước, các đời cứ tuân theo đó mà làm. Nay con cháu nối nghiệp tổ tiên sửa chữa lại chùa, làm cho cái đẹp của đời trước thịnh vượng đến đời sau.
Nguồn: T12, tập 20, N0 19275.
NĂM 1471 (TÂN MÃO)
Ngày 22 tháng 12 (22 tháng Một – Tân Mão)
264. Ngự tiền Học sinh Dương Bích viết chữ bia Quận Thượng chúa Lê thị chi mộ chí
Văn bia do Trạng nguyên Nguyễn Thực soạn, dựng tại xã Trung Giản, tổng Chuyên Nghiệp, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, Thừa tuyên Sơn Nam (năm 1890 tổng Chuyên Nghiệp, tổng Mộc Phàm cùng huyện cắt sang Duy Tiên – Hà Nam) ghi về thân thế của Quận chúa Lê Quỳnh Cư – cháu Hoàng đế Lê Thái Tông, con gái trưởng của Lương Quốc, mất ngày 9 tháng Bẩy năm Hồng Đức thứ 2 (1471) khi mất mới 17 tuổi, an táng tại thôn Phù Vân xã trên.
Nguồn: T12, tập 12, N011302-03; V5, tr.130-134.
NĂM 1472 (NHÂM THÌN)
Trong năm
265. Dương Khai thi đậu Hương cống
Ông tự là Ngộ Chân, người xã Quỳnh Đôi, tổng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn Châu, Thừa tuyên Nghệ An, sau dời vào Lạc Xuyên, tổng Lạc Xuyên, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa cùng Thừa tuyên (nay thuộc xã Cẩm Lạc, Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh), không làm quan, dạy học ở nhà.
Nguồn: H3.
NĂM 1477 (ĐINH DẬU)
Tháng 3 (tháng Hai – Đinh Dậu)
266. Dương Cẩn khắc văn bia do Hoàng đế Lê Thánh Tông đề
Khi đó, Dương Cẩn là Thượng y giám Nha đới cục Cục chính thần. Bia khắc ngay tấm đá trước cửa động Bạch Ác – còn gọi là chùa Bạch Á (nay thuộc xã Nga Thiện, Nga Sơn – Thanh Hóa). Văn bia do Thiên Nam Động chủ Lê Thánh Tông đề, Đô chỉ huy sứ Bùi Huấn viết chữ. Nội dung văn bia cho biết, sau khi lên ngôi, Hoàng đế về bái yết Sơn Lăng ở Lam Kinh, lúc trở về nhà vua cho dừng thuyền trước động đá ngắm cảnh, ngẫu hứng đề thơ lên vách núi.
Nguồn: T16, tập I, tr.41-43.
NĂM 1478 (MẬU TUẤT)
Ngày 21 tháng 6 (1 thán Sáu – Mậu Tuất)
267. Dương Bính, Dương Tĩnh thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Hồng Đức cửu niên Mậu Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký (Văn bia dề danh Tiến sĩ khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9) do Nguyễn Đôn Phục soạn, viết:
“Năm thứ 9 sau khi đổi niên hiệu Hồng Đức, quan Bộ Lễ theo điển chế cũ, thi Hội các Cử nhân trong nước, chọn hạng trúng cách tất cả 62 người.
Ngày 14 tháng Năm (năm Mậu Tuất, tức 5-6-1478) Hoàng thượng ngự hiên điện ra bài thi, xem xét bài đối đáp để đánh giá tài năng. Hoàng thượng dụ bảo danh hiệu cao nhất sĩ tử không đạt tới. Cho nên khoa này về hàng Tiến sĩ cập đệ không có đệ nhất danh [Đến ngày 1 tháng 6 (21-6-1478)] chỉ ban cho Lê Quảng Chí đỗ Đệ nhị danh; Trần Bích Hoành, Lê Ninh đỗ Đệ tam danh; còn lại ban cho Nguyễn Địch Tâm 9 người đỗ Tiến sĩ xuất thân và 50 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. Theo lệ tất cả đều được đề danh vào bia đá dựng ở nhà Thái học, nhưng Bộ Công chần chừ nên chưa dựng được. Bảy năm sau, đến năm Giáp Thìn (1484) Hoàng thượng xuống chiếu bảo phải truy dựng, sai thần là Đôn Phục soạn bài ký.
Kính nghĩ: Khí vận quốc gia quan hệ bởi nhân tài, nhân tài cao thấp cốt do nơi khoa mục. Thái Tổ Cao hoàng đế ngay từ khi sáng lập ra triều ta đã dùng kinh nghĩa luận sách để thi học trò, khoa mục khởi thủy từ đấy. Thái Tông Văn Hoàng đế nối chí kế nghiệp, mở mang kỷ cương, trong niên hiệu Đại Bảo mở khoa thi, nhân tài nối nhau xuất hiện, từ đó khoa mục đại chấn hưng. Nhân Tông Hoàng đế nối nhau theo phép cũ, không dám sơ xuất.
Hoàng thượng dấy nghiệp Trung hưng, khôi phục hết thảy những việc từng bị bỏ bễ, cứ ba năm mở một khoa thi, cách nhau rất đều, thứ tự ban ơn, chu tất hoàn hảo. Từ năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo (1442) tới nay, cả thảy 10 khoa, lựa được nhân tài cho quốc gia sử dụng đến vô cùng, tốt đẹp thịnh vượng lắm thay! Lại cho khắc tên vào nền đá để ghi việc tốt, truyền lại sự vinh hiển cho đời sau xem biết. Há dung cho hạng người không xứng đáng trà trộn trong đó, ắt phải cứu xét kỹ lưỡng. Bởi vì ý chính của triều đình cho dựng bia khắc tên là cốt mong cho những người tôi trung con hiếu ngày thường thì can ngay nói thẳng, tôn vua giúp dân, khi gặp việc thì vì nước quên nhà, gặp gian nguy thì dám quên mình, khiến người ta chỉ vào tên mà nói: người này trung, người kia thẳng, người này dám tiến cử người tốt, bài xích kẻ gian tà, giúp ích cho nước; người nọ trọn đạo làm tôi, không thẹn danh khoa mục, được như thế thì năm tháng càng lâu mà bia càng không mòn. Còn như mượn khoa mục để cầu sự ấm no, mượn khoa danh để làm lối tắt cho đường sĩ hoạn, chỉ lo cho riêng mình, không nghĩ tới việc nước, thì người ta sẽ chỉ tên mà nói: kẻ này gian, kẻ kia hãm hại người tốt, bè đảng gian tà, ô danh khoa mục, như thế thì càng lâu lại càng thêm rõ tì vết. Nay ý nghĩ sâu xa của việc dựng bia, há phải chỉ cốt lưu lại sự vẻ vang lâu dài mà thôi đâu!”.
Tại khoa thi này, họ Dương có hai Đệ tam Tiến sĩ:
– Dương Bính, người xã Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc (nay thuộc xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội), làm quan tới chức Thừa chánh sứ. Ông là Tằng tổ của Dương Cảo.
– Dương Tính, người xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây (nay thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc – Vĩnh Phúc), làm quan đến Công bộ Tả thị lang. Ông là ông nội của Dương Đôn Cương.
Nguồn: V2, tr.76-82; C1, tr.160, 166.
NĂM 1479 (KỶ HỢI)
Tháng 12 (tháng Một – Kỷ Hợi)
268. Tạo dựng bia tại chùa Diên Khánh để ghi nhớ công lao vợ chồng Dương Kiện
Ngoài việc ghi lại đóng góp vào việc khai mở tục Cung tiến, gửi Hậu của ông bà văn bia còn cho biết bước phát triển trong gần hai thế kỷ tại một làng quê thuộc huyện Gia Bình – Bắc Ninh với biết bao việc làm đầy ý nghĩa khác.
Nguồn: T12, tập 5, N04486; V5, tr.169-178.
NĂM 1481 (TÂN SỬU)
Ngày 8 tháng 6 (21 tháng Năm – Tân Sửu)
269. Dương Nghĩa Phương thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Hồng Đức thập nhị niên Tân Sửu khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Tân Sửu năm Hồng Đức 12 – 1481) ghi rằng, năm Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức (1481) là năm thư 54 Hoàng triều mở vận và năm thứ 22 Hoàng thượng trung hưng, mở khoa thi Hội đến năm nay cũng đã 11 năm. Khoa này các Cử nhân đến đua tài ở bộ Lễ đông đến hơn 2.000, chỉ tuyển chọn được 31 người, lựa chọn như thế thật là kỹ càng.
Ngày thi Đình, quan Hữu ti và các viên chấp sự mỗi người một việc. Vua ngự ở chính điện, đích thân ra đề văn sách. Sáng hôm sau, Hoàng thượng xem quyển chọn bài, lấy Phạm Đôn Lễ đỗ đầu, Lưu Hưng Hiếu thứ hai, Nguyễn Doãn Địch thứ ba, đều ban cho hạng Tiến sĩ cập đệ; những người còn lại ban cho các hạng Tiến sĩ xuất thân và Đồng Tiến sĩ xuất thân có thứ bậc khác nhau. Thứ lớp ban ơn y theo điển cũ. Những người được chọn vào viện Hàn lâm thì đặc cách cho thêm một cấp. Hoàng thượng đích thân sắc dụ sai quan Bộ Công dựng đá đề tên ở Quốc tử giám.
Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết:
“Mùa hạ, tháng Tư, thi Hội các Cử nhân trong nước, lấy đỗ bọn Phạm Đôn lễ 40 người.
Ngày 27, vua ngự điện Kính Thiên, thân ra văn sách hỏi về lý số, cho Phạm Đôn Lễ, Lưu Hưng Hiếu, Nguyễn Doãn Địch 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ; bọn Ngô Văn Cảnh 8 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Nguyễn Minh Đạo 29 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân (Phạm Đôn Lễ tự là Ngu Khanh, người huyện Ngự Thiên phủ Tân Hưng, ngụ ở làng Thanh Nhàn, huyện Kim Hoa, khi đỗ 27 tuổi, thi Hương, Hội, Đình đều đỗ đầu, tục gọi Tam nguyên Đôn Lễ).
Tháng 5, ngày 21, Tiến sĩ Phạm Đôn Lễ vào trong Đan Trì; vua ngự tại điện Kính Thiên; các quan Hồng lô truyền chế xướng danh; bộ Lại ban ân mệnh; bộ Lễ đem Bảng Vàng, nổi nhạc rước ra ngoài cửa Đông Hoa treo lên; xong rồi Ty Mã cứu đem ngựa tốt đưa Trạng nguyên về nhà”.
Về họ của Nghĩa Phương, bia Tiến sĩ Đề danh dựng tại Văn Miếu – Hà Nội năm 1484 ghi họ Thang ( ) còn Kim bảng lưu danh (Văn bia Đề danh Tiến sĩ từ khoa Nhâm Thìn – 1472 đến khoa Đinh Mùi – 1487) dựng tại Văn miếu Bắc Ninh ghi ông họ Dương ( ), người xã Cẩm Chương, huyện Đông Ngàn (nay thuộc thị xã Từ Sơn – Bắc Ninh).
Nguồn: Đ4, tr.692; V2, tr.93, 662.
NĂM 1483 (QUÝ MÃO)
Trong năm
270. Dương Tá Thành thi đậu Tiến sĩ võ
Ông người xã Thần Đầu, tổng Đỗ Chử, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, Thừa tuyên Nghệ An (nay thuộc Kỳ Anh – Hà Tĩnh), làm đến Trấn thủ Thừa tuyên Sơn Nam.
Nguồn: H4, tr.97.
NĂM 1484 (GIÁP THÌN)
Ngày 16 tháng 4 (1 tháng Tư – Giáp Thìn)
271. Dương Bang Bản (Lê Tung) thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ
Tháng Hai – Giáp Thìn, tổ chức thi Hội các cử nhân trong nước, lấy đỗ Phạm Trí Khiêm 44 người. Thi Đình được tổ chức vào ngày 1 tháng Ba (18-3-1484), văn sách hỏi về nhà Triệu Tống dùng nho sĩ. Ngày 1 tháng Tư cho Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Giác, Mai Duy Tinh ba người đỗ Tiến sĩ cập đệ, Ngô Văn Phòng 16 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Chu Đình Bảo 25 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Dương Bang Bản, người xã An Cư, tổng Đông Xá, huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam (nay thuộc xã Liêm Thuận, Thanh Liêm – Hà Nam), đỗ Tiến sĩ xuất thân (Đệ nhị Tiến sĩ), được ban Quốc tính, đổi gọi là Lê Tung.
Nguồn: Đ4, tr.697; C1, tr.182.
Ngày 25 tháng 9 (15 tháng Tám – Giáp Thìn)
272. Dương Chấp Trung, Dương Văn Đán, Dương Đức Nhan, Dương Nghĩa Phương được lưu danh vào bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu
Dương Chấp Trung lưu danh tại Thái Hòa lục niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ đề danh bi ký vì: “Nay Thượng hoàng để thay trời mở vận trung hưng, gánh vác đạo lớn, đề cao Nho học, suy nghĩ canh cánh bên lòng. Huống chi đã được liệt kê thánh hàm dưỡng sâu sắc, lại thêm mười năm ra sức chấn hưng tác thành. Trước đây 6 năm mới mở một khoa thi lớn, nay theo quy chế nhà Chu, chỉ 3 năm mở một khoa cũng không ngần ngại. Trước chọn kẻ sĩ chỉ lấy đỗ không quá hai ba chục người. Nay thì rộng chọn thực tài, không ngại số người trúng tuyển tăng lên gấp bội. Cho đến việc ban khen cất nhắc, đức ý nồng hậu, ơn vinh ban phong có thứ bậc khác nhau, tiết mục rành rẽ tự nhiên rực rỡ, vượt cả xưa nay. Cho soạn bài ký khắc vào đá tốt đặt tại cửa hiền để khuyến khích kẻ sĩ. Chế độ của Thánh thượng thật tốt đẹp thay!
Như vậy thì trong sự đầy đủ của nền văn minh triều ta, chế độ khoa cử khởi đầu từ năm Thuận Thiên mà chính thức bắt đầu từ năm Đại Bảo, tiếp tục thi hành vào đời Thái Hòa, mà thịnh nhất là đời Hồng Đức vậy. Nếu chẳng phải Thánh thượng làm hết trách nhiệm của người làm vua làm thầy, đích thân nắm quyền hành, thì làm sao có thể làm xong những việc mà tiên đế chưa làm xong, hoàn thiện những điều mà tiên thánh chưa làm đủ.
Con thánh cháu thần, ngước nối chí lớn, quy mô xa rộng, trăm đời sau vẫn còn biết được”.
Dương Văn Đán và Dương Đức Nhan thì được lưu danh vào Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký. Trong Hồng Đức nhị thập niên Tân Sửu khoa Tiến sĩ Đề danh ký do Nguyễn Xung Xác soạn mà Dương Nghĩa Phương được lưu danh có đoạn:
“Người người đều anh tài đó là do cái tâm dạy người không biết mệt của Văn Vương. Sao không trồng người? Đó là lời giáo huấn rất dễ hiểu. Hoàng thượng cổ vũ nhân tài, chấn hưng văn trị. Thơ Vực phốc tỏ đạo nhân từ, thơ Tinh nga ngụ lời giáo hóa, mặc dầu xưa nay khác nhau mà công dụng vẫn là một. Kẻ sĩ sinh ở đời này gặp gỡ đấng thánh minh, trang điểm tiếng tăm văn chương, tắm gội thấm nhuần giáo hóa; thừa buổi gặp hội gió mây, ngước trông vừng nhật nguyệt; lên đường vinh qui, bước chân vào hạng anh hùng; tên khắc bia đá, để lại lâu dài, há chẳng phải là vinh hạnh ư? Nhưng danh là bề ngoài của thực, tốt là đối tượng của xấu. Có danh có thực, há chẳng phải tốt sao? Có danh không thực, há chẳng phải xấu sao? Những người được đề danh vào bia đá này, cố nhiên phải lấy đạo nghĩa đức hạnh để tu dưỡng bản thân, phải dùng văn học mà trau dồi tâm tính; làm vị Trạng nguyên chân chính, làm vị Tiến sĩ chân chính, trên không phụ ơn tri ngộ của triều đình, dưới không phụ với sở học thường ngày, đừng như Công Tôn học thức a dua, phép canh tân gạt người, hoặc như Trại Lang đặt ra chỉ làm lụy cho khoa mục mà thôi. Vả chăng bia đá này dựng ở nhà Thái học là cốt để cho những người làm quan và những người làm việc từ chương chữ nghĩa mắt nhìn chăm chú, miệng đọc thuộc lòng, bồi hồi xem đọc, ngưỡng mộ sự tốt đẹp lớn lao, để cho nhân tâm có cơ được khích lệ, khiến cho ý nghĩa của bài văn này càng thêm lớn lao sáng tỏ. Điều đó đối với căn nguyên của đạo trị, đối với phong tục giáo hóa có quan hệ rất lớn vậy”.
Nguồn: V2, tr.37-61; 89-90..
NĂM 1487 (ĐINH MÙI)
Ngày 27 tháng 2 (14 tháng Hai – Đinh Mùi)
273. Chùa Tam Bảo (Từ Liêm – Sơn Tây) ghi nhận công lao với nhà chùa của Sơn Tây Hiến sát sứ ty Dương Văn Đán
Tam Bảo tự bi dựng năm Đức Long thứ 3 (1631) cho biết, chùa Tam Bảo thuộc ấp nằm ở phía tây huyện Từ Liêm là nơi danh lam thắng địa nằm giữa vùng núi cao sông rộng. Xưa, vào ngày 14 tháng Hai năm Hồng Đức thứ 18 (1487) đất chùa dùng để thờ phật không phải chịu thuế là nhờ Sơn Tây Hiến sát sứ ty Dương Văn Đán, Sơn Tây Tán tri Thừa tuyên sứ Quách Đình Bảo cùng nhau sát khám, tâu bày đầy đủ về triều để vua ban sắc chỉ theo đó mà phụng sự.
Bia cũng nhấn mạnh rằng, cái gốc chính sự của quốc gia là ở ruộng đất. Ruộng tế làm dày dặn thêm chính sự của bậc quân tử. Ruộng đất cũng là điều thứ nhất của Tam Bảo dùng để cúng tiến nhà Phật.
Nguồn: T9, 1996, tr.426-432.
NĂM 1487 (ĐINH MÙI)
Ngày 15 tháng 6 (4 tháng Năm – Đinh Mùi)
274. Nguyễn Bảo Khuê – dòng dõi Đào Sư Tích, đỗ Đệ nhị Tiến sĩ
Bia Hồng Đức thập bát niên Đinh Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký (Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi năm Hồng Đức 18) do Thân Nhân Trung soạn ngày 15 tháng Tám – Đinh Mùi (22-9-1487) cho biết:
“Ngày mồng 4 tháng Năm – Đinh Mùi (15-6-1487), Hoàng thượng ngự điện Kính Thiên, loa truyền gọi tên người thi đỗ, các quan mặc triều phục chúc mừng, rước bảng vàng treo ngoài cửa Đông Hoa. Sĩ tử, dân chúng kéo nhau đến xem, đều bảo: đời thánh văn minh, nhân tài đông đảo, thật là cuộc gặp gỡ tốt đẹp của đời thịnh. Việc ban thưởng phẩm vật nghi thức y như điển cũ. Hoàng thượng cho ràng việc ban ân sủng chỉ vẻ vang nhất thời, còn họ tên phải khắc vào bia đá mới có thể truyền tới lâu dài. Bèn sai Bộ Công mài đá đề danh, lại sai thần là Nhân Trung viết bài ký ghi lại sự việc”.
Để có kết quả này, từ tháng Ba – Đinh Mùi (4-1487) triều đình đã cho tổ chức kỳ thi Hội các nhân sĩ trong nước, lấy đỗ Phạm Trân 60 người. Mùa hạ, tháng Tư, ngày mồng 7 (năm Đinh Mùi, tức 20-4-1487) vua thân đến ra đề văn sách hỏi về đạo trị nước; xem quyển xong, lại cho gọi các Tiến sĩ hạng ưu vào cửa Nhật Quang, thân xếp cao thấp. Lấy Trần Sùng Dĩnh đỗ thứ nhất, Nguyễn Đức Huấn, Thân Cảnh Vân đỗ thứ hai và ba, đều cho Tiến sĩ Cập đệ, Vũ Cảnh 30 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Phạm Trân 27 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Nguyễn Bảo Khuê, người xã Lý Hải, tổng Lý Hải, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây (nay thuộc xã Phú Xuân, Yên Lãng – Vĩnh Phúc) đỗ Đệ nhị Tiến sĩ. Ông là ông nội của Nguyễn Sư Phổ, Nguyễn Duy Tường mà về Nguyễn Sư Phổ, sử cũ ghi:
“Nguyễn Sư Phổ: Người xã Lý Hải huyện Yên Lãng, đỗ Tiến sĩ năm Đoan Khánh, làm đến Hàn lâm viện Kiểm thảo. Ông vâng mệnh đi sứ, khi trở về, gặp lúc Mạc Đăng Dung bắt ép vua Chiêu Tông dời đến ở Bảo Châu, ông không theo, bị họ Mạc bắt. Tương truyền Sư Phổ nguyên là họ Đào, dòng dõi Trạng nguyên Đào Sư Tích”.
Nguồn: V2, tr.99-100; Đ4, tr.709; Đ3, tập 2, tr.1490.
Ngày 22 tháng 9 (15 tháng Tám – Đinh Mùi)
275. Nguyễn Bảo Khuê được lưu danh trên bia Đề danh Tiến sĩ ở Văn Miếu
Hồng Đức thập bát niên Đinh Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký do Thân Nhân Trung soạn, nhấn mạnh rằng:
“Trời mở thái bình thịnh trị muôn năm cho nước nhà, tất sinh hiền tài để giúp nước. Đó là vì sự hưng thịnh của trị đạo, giáo hóa có gốc ở sự thu dùng hiền tài. Có nhiều hiền tài hay không là do ở sự giáo dưỡng. Kinh thi có câu: “Hiền sĩ tuấn kiệt, sinh ở nước vua”. Lại có câu: “Chu vương tuổi cao, lẽ nào không trồng người”. Như vậy, mở nền trị bình lâu dài, nếu không có nhiều nhân tài thì sao mà làm được […].
Thần trộm nghĩ: Nhân tài phồn thịnh vẫn quan hệ ở khí chất biến hóa của trời đất, nhưng chủ yếu vẫn do ở nền giáo hóa của bậc thánh nhân. Bởi vì khí chất trời đất biến hóa thì nguyên khí phối hợp rồi lan tỏa bàng bạc khắp nơi, cho nên mới có số nhiều đông đảo. Phải nhờ có giáo hóa của thánh nhân thì văn đức mới được tôi luyện hun đúc, tạo nên cảnh tốt đẹp đượm đà. Khổng Tử nói: – Khoảng đời Đường Ngu là thời thịnh, đó là do khí chân nguyên hội hợp mà nên chăng? Kinh Thi nói: – Người xưa không biết chán, kẻ tài tuấn giỏi giang, đó là sự hun đúc văn đức chăng?
Nay khí hóa thuần nhất rộng tỏa, trị giáo sáng tỏ đẹp cùng trời đất, sự hưng thịnh sánh ngang đời Ngu, Chu. Nhân tài đông đảo hơn thuở trước, kén được người giỏi nhiều gấp mấy ngày xưa, đủ sáng soi cho những thành tựu của nền giáo hóa, là biểu hiện tốt đẹp của nước nhà. Kẻ sĩ được đề danh vào bia đá này, thật may mắn biết bao! Cho nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau, làm những việc hợp sở học để làm nên sự nghiệp to lớn quang minh, khiến thiên hạ đời sau phải nhón chân lên mà nhắc nhở thanh danh, mến mộ khí tiết. Ngõ hầu trên không phụ ơn triều đình dưỡng dục, dưới không phụ hoài bão thường ngày thì tấm đá khắc ra sẽ đời đời không mục vậy. Thảng hoặc có người ngoài có vẻ văn chương mà trong đức hạnh thiếu phần tu dưỡng khiến cho cái mà người ta đọc được trên bia không giống như dư luận mà họ nghe biết, việc làm trái với sở học, làm hủy hoại hạnh kiểm, điếm lụy danh giáo thì là vết nhơ cho tấm đá này. Thế chẳng phải ý nguyện triều đình trông mong ở kẻ sĩ, cũng chẳng phải là cách kẻ sĩ dùng để tự đối đãi mình.
Ôi! Khi nhỏ đi học, khi lớn thực hành, đọc hết kinh sách để đem ra áp dụng hết mức, người ta đều có chí hướng ấy. Vậy thì từ nay về sau, kẻ sĩ sinh ở đời này, đọc bài văn này, nhìn tấm đá này phải nên suy nghĩ thế nào? Kính cẩn chép vào đá, ngõ hầu tỏ ý với tương lai”.
Nguồn: V2, tr.99-100.
NĂM 1490 (CANH TUẤT)
Ngày 26 tháng 6 (18 tháng Năm – Canh Tuất)
276. Dương Trực Nguyên thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ
Tháng Ba năm Canh Tuất (4-1490), triều đình cho tổ chức kỳ thi cho các Cử nhân trong nước, lấy từ Nguyễn Xao 54 người (Xao người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, thi Đình đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân). Tháng Tư năm Canh Tuất, số Trúng cách kể trên bước vào kỳ thi Điện. vua thân ra đầu đề văn sách. Sai Thượng thư Binh bộ Định Công bá Trịnh Công Đán và Thượng thư Hình bộ Lễ Năng Nhượng làm Đề điệu; Phó đô Ngự sử đài Quách Hữu Nghiêm làm Giám thí; Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung và Thượng thư Lại bộ Nguyễn Bá Kỳ làm Độc quyển. Vua xem quyển thi, xếp thứ bậc cao thấp, cho Vũ Duệ, Ngô Hoán, Lưu Thư Ngạn 3 người đỗ Tiến sĩ Cập đệ, Lê Tuấn Mậu 19 người đỗ Tiến sĩ Xuất thân, Lê Đình Quát 32 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Ngày 18 tháng Năm năm Canh Tuất (26-6-1490) vua ngự điện Kính Thiên, truyền loa xướng danh các Tiến sĩ kể từ Vũ Duệ; các quan mặc triều phục chúc mừng; bộ Lễ đem Bảng Vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa. Ngày 19, ban mũ đai y phục. Ngày 20 ban yến.
Dương Trực Nguyên, Đệ nhị Tiến sĩ (Tiến sĩ xuất thân) là người xã Thượng Phúc, tổng La Phù, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam (nay thuộc Tả Thanh Oai, Thanh Trì – Hà Nội).
Nguồn: Đ4, tr.714-715; C1, tr.213.
NĂM 1492 (NHÂM TÝ)
Tháng 5 (tháng 4 – Nhâm Tý)
277. Dương Trực Nguyên được thăng Hiến sát sứ ty Hiến sát sứ Thừa tuyên Hải Dương
Hoàng đế Hồng Đức là người thích văn thơ. Một lần đến Lam Sơn làm thơ, Hoàng đế nhớ lại cơ nghiệp của Thánh tổ, trong bài thơ họa lại Dương Trực Nguyên có câu kết: “Lam Sơn chỉ xích thiên nam vọng/ Vạn cổ nguy nga sáng nghiệp công” (Trông lại Lam Sơn chừng thước tấc/ Công lao sáng nghiệp ngất muôn xưa). Hoàng đế phê: – Câu ấy có khí tượng dài xa!
Sau chuyến đi ấy, Dương Trực Nguyên được bổ dụng.
Tuy nhiên, ít lâu sau ông có tâu việc trái ý nhà vua, bị giáng đổi làm Hàn lâm viện Hiệu lý.
Nguồn: Đ4, tr.717.
NĂM 1493 (QUÝ SỬU)
Ngày 14 tháng 2 (8 tháng Giêng – Quý Sửu)
278. Bồi thần Lê Tung mừng Hoàng đế lập Hoàng Thái tử
Hoàng tử trưởng của Hoàng đế Lê Thánh Tông húy là Tranh (hoặc Sanh, còn gọi là Lê Huy) sinh ngày 1 tháng Tám năm Tân Tỵ (26-8-1461), mẹ là con gái thứ hai của Nguyễn Đức Trung, được tuyển vào làm Sung nghi năm Canh Thìn (1460) ở cung Vĩnh Ninh – tức Trường Lạc Hoàng Thái hậu sau này.
Cùng dự lễ mừng với Lê Tung còn có Bồi thần Nguyễn Hoàng Thạc.
Nguồn: Đ4, tr.615, 718.
NĂM 1494 (GIÁP DẦN)
Tháng 12 (tháng Một – Giáp Dần)
279. Hàn lâm viện Hiệu lý Nguyễn Bảo Khuê, Dương Trực Nguyên được tham gia họa vần tập thi ca Quỳnh Uyển cửu ca của Hoàng đế Lê Thánh Tông
Hoàng đế thấy hai năm Quý Sửu (1493) và Giáp Dần (1494) các giống lúa má được mùa, bội thu, bèn đặt các bài ca vinh để ghi điểm tốt gồm có các bài về đạo làm vua, tiết làm tôi, vua sáng tôi giỏi, tưởng xa đến người anh hiền kỳ tài, cùng viết chân viết thảo, chơi đùa thành văn, nhân gọi là tập thơ Quỳnh uyển cửu ca. Sai Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đông các Hiệu thư Ngô Luân, Ngô Hoán, Hàn lâm viện Thị tộc Chưởng viện sự Nguyễn Xung Xác, Hàn lâm viện Thị tộc Tham chưởng viện sự Lưu Hưng Hiếu, Hàn lâm viện Thị thư Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Đức Huấn, Vũ Dương, Ngô Thầm; Hàn lâm viện Thị chế Ngô Văn Cảnh, Phạm Trí Khiêm, Lưu Thư Ngạn, Hàn lâm viện Hiệu lý Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Tôn Miệt, Ngô Quyền, Nguyễn Bảo Khuê, Bùi Phổ, Dương Trực Nguyên, Chu Hoản, Hàn lâm viện Kiểm thảo Phạm Cẩn Trực, Nguyễn Ích Tốn, Đỗ Thuần Thứ, Phạm Nhu Huệ, Lưu Dịch, Đàm Thận Huy, Phạm Đạo Phú, cùng họa vần.
Nguồn: Đ4, tr.718.
NĂM 1496 (BÍNH THÌN)
Trong năm
280. Dương Thế Thông thi đậu Hương cống
Thế Thông hiệu Mai Hiên, người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), phụ thân là Hương cống Dương Văn Khai – Giám sinh Quốc tử giám và là thân sinh của Chế khoa Ngự thí Dương Bàng.
Nguồn: H3.
NĂM 1497 (ĐINH TỴ)
Ngày 20 tháng 3 (26 tháng Hai – Đinh Tỵ)
281. Dương Trực Nguyên được thăng làm Đông các Hiệu thư
Dịp đó, đại hạn, Dương Trực Nguyên dâng thư xin vua sửa đức để vãn hồi tai biến của trời.
Nguồn: Đ4, tr.729.
Ngày 25 tháng 3 (1 tháng Ba – Đinh Tỵ)
282. Tả ty Thiên giám lại Dương Tiến viết chữ cho bia Nga Mi tự bi
Theo văn bia do Tiến sĩ Nguyễn Giản soạn, Dương Tiến viết chữ thì chùa Nga Mi xưa thuộc xã Hoàng Mai, tổng Hoàng Mai, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam (nay thuộc phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai – Hà Nội). Từ thời Lý ngôi chùa này đã là một danh lam nổi tiếng, trải qua bao hưng phế bị đổ nát. Vào năm Quang Thuận 4 (1463) Cư sĩ Thuần Trung đã tự bỏ tiền ra tạo dựng lại chùa này. Sau lại có sư thầy Thanh Sán và Thanh Nhân Cư sĩ dẫn dắt trùng tu, khuyến hóa khiến cảnh trí của nhà chùa càng thêm đẹp đẽ.
Nguồn: V5, tr.301-311; T21, tr.60-69.
NĂM 1498 (MẬU NGỌ)
Tháng 4 (tháng Ba – Mậu Ngọ)
283. Dương Trực Nguyên được thăng Đô cấp sư trung Lại khoa
Ngoài thăng chức, ông còn được cấp tiền bổng liêm khiết.
Nguồn: Đ4, tr.734.
Trong năm
284. Thống chế Vệ thần vũ Dương Triệt hồi hưu
Ông người xã Tuy Lộc, tổng Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Bình, đạo Thuận Hóa (nay thuộc xã Lộc Thủy, Lệ Thủy – Quảng Bình). Khoảng năm Hồng Đức (1470-1497) được triều đình sung làm Bình A Lực sĩ tại vệ Thắng Uy, sau có công lại được phong là Thống chế ở vệ Thần vũ. Vào năm Cảnh Thống nguyên niên (1497) được cho về nghỉ. Bấy giờ ở địa phương các phe đảng và hào cường tranh đoạt, hãm hại lẫn nhau nhưng riêng ông chỉ vui thú cảnh điền viên, dạy bảo con cháu một lòng đề cao trung hiếu.Dương Triệt hưởng thọ 80 tuổi.
Nguồn: Ô1, tr.141.
NĂM 1499 (KỶ MÙI)
Ngày 16 tháng 5 (16 tháng Tư – Kỷ Mùi)
285. Dương Phấn Phi, Dương Đức Kỳ được xướng danh trên Bảng Vàng cửa Đông Hoa
Đầu tháng Tư năm Kỷ Mùi (5-1499), Hoàng đế Lê Hiển Tông ra sắc dụ cho Lễ bộ Thượng thư Vũ Hữu rằng: “Nhân tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí mạnh thì đạo trị nước mới thịnh. Khoa mục là con đường chính của người làm quan, đường chính mở thì chân nho mới xuất hiện. Cho nên ngày xưa dùng khoa cử lấy người tài giỏi phải đặt quy mô chia vị cho nghiêm, phải định thể lệ dán tên cho chặt, có lệnh cấm bảo nghĩa cho nhau, đối sách cho nhau, cốt để ngăn ngừa mầm gian, thu nhiều người giỏi nhằm cung cấp cho nhu cầu dùng người vô cùng của thiên hạ. Phép chọn kẻ sĩ của tổ tông ta bắt chước đời xưa mà làm, đến nay quy mô rộng lớn đã rất kỹ lại đầy đủ. Song phép lập đã lâu, thói gian, tệ xấu theo đó mà nẩy sinh, kẻ tầm thường thì lạm vào hạng thi đỗ, người thực học thì bị gạt ra ngoài vòng, lời bàn tán xôn xao, lòng học trò chưa thỏa. Trẫm giữ cơ nghiệp lớn, rạng tỏ đạo công, sùng chuộng lòng thành muốn vãn hồi phong tục thuần phác, ngăn cấm lề thói phù hoa, mau trừ bỏ thói tệ kiêu bạc. Để cho bậc hiền triết nối gót bước lên, việc phòng giữ phải đặt ra minh bạch. Nhắc rõ các điều cụ thể về quyền quy: thường thì phải rộng rãi, trong chia làm bốn khu, mỗi khu đều ngăn bằng rào thưa, bốn góc trong trường thi đều làm chòi, đến ngày vào thi lấy Nội thần Hiệu úy mỗi chòi một người đứng trên chòi để trông coi”.
Cùng tháng ấy, xuống chỉ cho thi Hội sĩ nhân cả nước. Bấy giờ có hơn 5.000 người dự thi, vua nói: “Phép cấm không nghiêm thì không thể nào ngăn chặn được lối cầu may, rũ bỏ không kỹ thì không lấy được người thực giỏi”. Liền cho Nghi tào định ra phép thi, cận thần ra đầu bài thi in ra đưa xuống từng lều, từng khu, các viên tuần xước phải thay nhau canh gác cả ngày, khảo quan ai có người thân vào thi thì cho hồi ty.
Lấy đỗ Trúng cách 55 người. Ngày 9 tháng Tư năm Kỷ Mùi (9-5-1499) thi Điện, vua ra bài Văn sách hỏi về “Nhân tài và vương chính”.
Sai Bắc quân Đô đốc phủ tả Đô đốc Hoa lâm hầu Trịnh Tốn và Lại bộ Thượng thư Trần Cận làm Đề điệu. Hình bộ Thượng thư Đinh Bộ Cương làm Giám thí. Đông các học sĩ Nguyễn Bảo, Hàn lâm viện thị giảng tham chưởng Hàn lâm viện sự Lê Ngạn Thần làm Độc quyển.
Ngày 16 tháng Tư năm Kỷ Mùi (16-5-1499) vua ngự điện Kính Thiên, quan Hồng lô truyền loa xướng danh, Lễ bộ đem Bảng Vàng yết ngoài cửa Đông Hoa. Danh sách tân khoa theo thứ bậc.
Có tên trên Bảng Vàng cửa Đông Hoa, họ Dương có:
– Dương Phấn Phi, người xã Dương Tuyền, huyện Tây Quan, phủ Đoan Hùng, đạo Sơn Tây (nay thuộc Đoan Hùng – Phú Thọ).
– Dương Đức Kỳ, người huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam (nay thuộc Duy Tiên – Hà Nam).
Cả hai ông đều giành được học vị Đệ tam Tiến sĩ.
Nguồn: Đ4, tr.738; T7, tr.162-168.
Tháng 6 (tháng Năm – Kỷ Mùi)
286. Dương Trực Nguyên thăng tiến
Ông từ Đô cấp sự trung Lại khoa được cử làm Phủ doãn phủ Phụng Thiên.
Nguồn: Đ4, tr.739
Ngày 14 tháng 11 (21 tháng Mười – Kỷ Mùi)
287. Hoàng đế Lê Hiển Tông sắc dụ cho Thượng thư Lại bộ Trần Cận, Cấp sư trung Lại khoa Lê Tung về việc khảo khóa các quan
Trong sắc dụ gửi cho hai viên đại thần, Hoàng đế viết: Tước thưởng là để khuyến khích người đời, khảo khóa là để xét thực các quan. Thăng giáng người hay người dở, Ngu Thuấn do đó mà làm trọn mọi việc; tóm xét về danh về thực, Hán Tuyên do đó mà nên nghiệp trung hưng. Vì rằng ở trên đã có máy thần tình để cổ vũ, thì bên dưới tất mài giũa lấy tâm trí giỏi giang. Việc ưa ghét không công bằng, thì khuyên răn thế nào được. Nước nhà ta, đặt quan theo đời xưa, dùng người giúp chính sự, quyền tuyển cử đã công lại minh, việc khảo xét rất kỹ và đủ. Tại sao các quan lại cho là hư văn? Trưởng quan không biết người hiền người ngu, theo thể lệ mà chia hơn kém; Cai ty (Ty Phụ trách) không rõ kẻ hay kẻ dở, chi nhất khái cho là liêm năng. Thuyên tào (Lại bố) chỉ cân nhắc lấy lệ; Lại khoa cũng ít khi bác đi. Người cần lao hết sức cũng lâu năm mới được thăng lên; kẻ hèn kém làm gian mà ít ngày cũng được tiến trật. Quan trường nhũng lạm, bởi đó mà ra. Nay lúc ta lên ngôi buổi đầu, chính trị càng nên đổi mới. Sự lệ nên làm thế nào, dụ cho các ngươi được biết. Từ nay trở đi, các quan viên văn võ trong ngoài, tại chức đủ 9 năm không có tham tang can phạm gì, lệ được khảo khóa, thì quan giữ việc khảo xét theo như lệ trước mà xét kỹ sự thực. Viên nào có tài cán làm được việc, quả không phải là hạng tầm thường, theo người mà tiến lui, thì mới được xét vào hạng xứng chức, cho thăng thưởng như lệ. Nếu viên nào tuy tại chức đủ 9 năm, không tham tang can phạm, nhưng là người không có tài năng gì, nhờ người khác mà nên việc, thì không được khảo xét thăng thưởng; cùng là kẻ lười biếng hèn ngu như hạng cục phó Trân mỹ cục là Nguyễn Lao, nhẹ thì phải biếm, nặng thì phải giáng. Quan khảo xét dám có tình riêng mà khảo xét bậy, Lại bộ xét lại không rành, Lại khoa xét bác không đúng, thì giao cả cho Hình bộ theo luật trị tội”.
Nguồn” Đ4, tr.743-744.
Ngày 31 tháng 12 (9 tháng Chạp – Kỷ Mùi)
288. Nguyễn Bảo Khuê, Lê Tung được cử lên Xương Giáng, Thị Cầu đón các sứ đoàn nhà Minh sang viếng Hoàng đế Lê Thánh Tông
Ngày Canh Tý 15 (tháng Chạp – Kỷ Mùi) nước Minh sai Hành nhân Ty hành nhân là Từ Ngọc sang làm lễ viếng Thánh Tông Hoàng đế. Ngày Nhâm Dần 17, nước Minh sai Chánh sứ là Ty kinh cục Tẩy mã kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Lương Chừ, Phó sứ là Binh khoa Cấp sự trung Vương Chẩn mang sắc sang phong vua làm An Nam Quốc vương. Trước đây, tháng ấy ngày mồng 9, vua sai Binh bộ Thượng thư Cống Xuyên bá Lê Năng Nhượng, Thiếu bảo Trịnh Công Đán, Hình bộ Tả thị lang Nguyễn Khắc Cung, Cẩm y vệ Đô chỉ huy Thiêm sự tri Đình úy ty sứ Phạm Miễn Lân, Đông các Hiệu thư Phạm Trí Khiêm, Đại lý Thiếu khanh Lưu Túc, Thanh Hoa đạo Giám sát Ngự sử Vũ Đạt Đạo cùng Thông sự là bọn Vũ Nhân Tu, Nguyễn Khâm, Phạm Cận lên địa đầu nước ta; Phò mã Đô úy Trần Khuê, Hình bộ Hữu thị lang Bùi Nguyên Đạo, Công bộ Hứu thị lang Lê Nhạc, Hình khoa Đô cấp sự trung Nguyễn Bảo Khuê đi đến trạm Thọ Xương; Bắc quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Hoa Lâm bá Trịnh Quý Thuật, Công bộ Hữu thị lang Nguyễn Giản, Lại khoa Đô cấp sự trung Lê Tung, Hải Dương Thừa tuyên Tham nghị Nguyễn Hán Đình sang trạm Thị Cầu; Nam quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Phò mã đô úy Lâm Hoài bá Lê Đạt Chiêu, Hộ bộ Hữu thị lang Trần Sùng Dĩnh, Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử Hoàng Hãng, Yên Bang đạo Giám sát Ngự sử Trịnh Quỳ sang trạm Lã Khôi để ứng tiếp Lương Chừ, Từ Ngọc, theo như lệ cũ vậy. Ngày 23, bọn Lương Chừ, Vương Chẩn, Từ Ngọc đều đến trạm Thị Cầu. Hôm ấy vua sai Đông các Đại học sĩ Đàm Văn Lễ, cùng các Học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp, Bùi Nhân đến trạm Thị Cầu cùng với Lương Chừ bàn việc làm lễ. Ngày 24, Từ Ngọc đi từ Thị Cầu đến trạm Lã Khôi. Vua đi thuyền Tiểu Quang đến trạm đón tiếp. Khi vua về cung, Chừ đưa ra ngoài cửa trạm trông theo, bảo Bùi Nhân rằng: “Ngày nay thấy Quốc vương tuổi đã lớn, thực là tướng thánh nhân, tướng trường thọ, quả là phúc của nhân dân phương Nam. Sao mà học rộng và ứng tiếp công việc nhanh chóng như thế”. Khen ngợi mãi không thôi. Ngày 25, Từ Ngọc khởi hành từ trạm Lã Khôi đến bến Thịnh Liệt xuống thuyền. Vua đến điện Quỳnh Vân tiếp kiến. Vua về cung trước. Từ Ngọc đến điện Cần Chánh làm lễ viếng Thánh Tông Hoàng đế. Làm lễ xong, vua cùng Từ Ngọc làm lễ ra mắt nhau, và sai các quan đưa đến sứ quán. Ngày 17, Lương Chừ đến điện Kính Thiên làm lễ mở đọc chiếu thư. Lời chiếu thư đại khái nói “Phụng thiên thừa vận Hoàng thượng phán rằng: nhà Minh ta làm vua muôn nước, tóm trị các phương, thánh giáo rộng ban, gần xa thấm khắp. Nước An Nam ngươi ở về cõi Nam, phên dậu của ta, đáng khen là nước giữ lễ, rực rỡ cố tục Trung Hoa. Vua nước ngươi xưa tên là Hạo (Lê Thánh Tông), kính chăm lễ cống, giữ dân yêu nước, gần bốn mươi năm. Nay đã trọn đời, quốc thống nên còn nối. Thế tử là Tranh, đức tốt hơn mọi người, dân chúng đều quy phục, dâng biểu xin phong, lời lẽ thành khẩn. Đặc ân sai bọn Lương Chừ đem thù tiết sang phong làm An Nam quốc vương Ôi! Quý người trước có đức tốt, chọn con cháu giống đức xưa, dù xa gần nghĩa không phân biệt; nối theo chí của người xưa, làm theo việc của người trước, giữ trước sau lòng chớ đổi thay. Mong các kỳ cựu quan viên trong nước, cùng nhau cung kính, để đáp lại đức của ta vỗ yên người xa. Vậy nên ban xuống chiếu thư để mọi người đều biết”. Nghi chú lễ cũ không có mục dâng hương, mục nhảy múa tung hô; đến đây bọn Chừ, Chẩn đưa sang nghi chú có các mục ấy. Vua không theo, đều bảo cho bọn Chừ biết là tuân theo lệ cũ. Làm lễ xong, vua đến điện Cần Chánh làm lễ ra mắt nhau, và sai các quan đưa bọn Chừ đến sứ quán. Ngày 29, Lương Chừ ốm, vua thân đến sứ quán thăm, Chừ ra tiếp kiến. Ngày hôm ấy vua thết yến bọn Chừ ở điện Cần Chánh và cho vàng bạc tơ lụa theo thứ bậc khác nhau, bọn Chừ đều không nhận, cố từ chối xin về nước. Vua làm thơ để tiễn.
Nguồn: Đ4, tr.745-746.
NĂM 1500 (CANH THÂN)
Tháng 5 (tháng Tư – Canh Thân)
289. Thăng Dương Trực Nguyên lên chức Đô đình úy
Khi làm Phủ doãn phủ Phụng Thiên, ông không ngần ngại trừng trị bọn cường hào, quyền quý, buộc chúng phải chùn tay. Hoàng đế được Lê Quảng Độ bảo cử và tâu bày là Dương Trực Nguyên có chính thuật cương nghị xứng đáng ở cương vị mới nên đã ban mệnh này.
Nguồn: Đ4, tr.747.
NĂM 1501 (TÂN DẬU)
Ngày 9 tháng 1 (1 tháng Giêng – Tân Dậu)
290. Dương Trực Nguyên giữ chức Hữu thị lang Công bộ
Do việc trước khi Hoàng đế ngự Tây Kinh đã ban chiếu rằng, quan trông coi quan và thợ, khi đốc thúc làm việc công, hoặc có ai lười biếng bỏ thiếu, đáng trừng giới thì tuyên bố tội phạm của người ấy mà trừng trị theo như phép, không được dùng gậy to, chân tay, ngói gạch, dùi gỗ mà tự tay mình đánh đau. Dương Trực Nguyên về bộ Công để thực thi chiếu này.
Nguồn: Đ4, tr.749.
NĂM 1502 (NHÂM TUẤT)
Ngày 30 tháng 1 (3 tháng Giêng – Nhâm Tuất)
291. Hình bộ Hữu thị lang Dương Trực Nguyên được cử làm Binh bộ Tả thị lang
Sở dĩ có mệnh này là vì Hoàng đế có sắc chỉ rằng: 1. Từ nay trở đi, các quan huyện châu các xứ phải sức cho các xã trưởng rằng phàm các quân nhân cục tượng trong bản xã, khi sắp đến kỳ đại tập quân lính mà lên phải đoan khai rõ ràng, biết rõ là kẻ ngoan ngạnh lười biếng, đến kỳ phiên cho báo cáo với quan huyện châu đem việc ấy tâu lên, giao cho bộ phụ trách trị tội. 2. Từ nay trở đi, các vệ ty sở có người trốn về làm nghề cũ và dân đinh già ốm, mỗi khi đến kỳ lên phiên, cho theo như lệnh trước mà làm việc nhẹ; còn người khỏe mạnh, nếu bị ốm không làm được việc, cũng có thể cho bản ngũ được nộp tiền, không được gian trá giả, bệnh.
Đến tháng Một cùng năm (12-1502), ông lại được cử làm Lễ bộ Tả thị lang.
Nguồn: Đ4, tr.752-753.
Ngày 28 tháng 3 (1 tháng Ba – Nhâm Tuất)
292. Dương Trực Nguyên làm Giám thị kỳ thi Hội, Đào Thúc Viện có tên trên Bảng Vàng.
Tháng Hai – Nhâm Tuất (3-1502) thi Hội các Cử nhân trong nước. Số đi thi là 5.000 người, lấy đỗ Trần Dực 61 người. Bộ Lại kê tên tâu lên. Vua thân ra đầu bài văn sách hỏi về Đế vương trị thiên hạ. Sai Nam quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Phò mã đô úy Lâm Hoài bá Lê Đạt Chiêu và Hộ bộ Thượngthư Vũ Hữu làm Đề điệu; Binh bộ Tả thị lang Dương Trực Nguyên và Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử Bùi Xương Trạch làm Giám thị; Lễ bộ Thượng thư Tả xuân phường Hữu dụ đức kiêm Đông các Đại học sĩ Đàm Văn Lễ, Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị tộc chưởng. Hàn lâm viện sự Nguyễn Bảo, Lễ bộ Tả thị lang kiêm Đông các Học sĩ Lê Ngạn Tuấn, Quốc tử giám Tế tửu Hà Công Trình, Tư nghiệp Hoàng Bồi, Thái thường Tự khanh Nghiêm Lâm tiến đọc quyển thi. Vua xem xong, ngày 1 tháng Ba (28-3-1502) cho Lê Ích Mộc (người xã Thanh Lãng, huyện Thủy Đường, khi trước làm Đạo sĩ, đến khi đỗ, vua sai tuyên đọc lời Chế thư, bưng lư đốt hương ra trước, bỏng tuột cả tay mà không biết), Lê Sạn, Nguyễn Văn Thái 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Cảnh Diễn, Lê Nhân Tế 24 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Phạm Khiêm Bính, Nguyễn Mậu 34 người đỗ Đệ tam giáo đồng Tiến sĩ xuất thân. Vua ngự điện Kính Thiên, Hồng lô tự truyền loa xướng danh. Hàng năm Bảng Vàng vẫn treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đến nay vua sai bộ Lễ bưng ra, nổi nhạc rước đem treo ở cửa nhà Thái học. Bảng vàng treo ở cửa nhà Thái học bắt đầu từ đây.
Kỳ thi này có Đào Thúc Viện, dòng dõi Đào Sư Tích, người xã Song Khê, tổng Phúc Tằng huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, đạo Kinh Bắc (nay thuộc thành phố Bắc Giang) đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Nguồn: Đ4, tr.752; V2, tr.118-130.
NĂM 1503 (QUÝ HỢI)
Ngày 25 tháng 1 (8 tháng Giêng – Quý Hợi)
293. Dương Tình được cử coi sóc việc đê điều, chống lụt lội
Quý Hợi năm thứ 6 (1503), mùa xuân, tháng Giêng, ngày mồng 8, có sắc chỉ dụ cho Thanh Hoa Tán trị Thừa tuyên sứ ty Tham nghị Dương Tình rằng: – Ta rất lưu ý về việc nhà nông, ngươi coi binh dân phải nên hết sức. Đi thăm nom không lười biếng; chứa tháo nước phải theo thì. Chăm làm chính hay, để giữ công mãi. Kinh thư nói rằng: – Có phòng bị thì không lo ngại là thế đó. Trừ ra những việc đã tâu lên không kể, nơi nào bị hạn hay bị lụt, cần phải dự bị đề phòng trước về việc cày cấy: Các quan châu huyện kia, coi dân như người nước Tần nước Việt, ai béo ai gầy không bợn lòng đến. Ta mỗi khi sai nội thần đi khám đồng điền, thì thấy hoặc có chỗ ruộng đồng bờ thấp, hoặc đường đi bỏ rậm, hoặc bờ ruộng bị lở, hoặc thả vịt hại lúa, nước chứa chỉ được vài ngày, không thể lâu được, nắng chưa mấy ngày, ruộng cạn hết nước, đó đều là do người chia lo với ta không được người giỏi, phương pháp để ngừa chống chưa có kế hay. Than ôi! Bọn các ngươi mũ aó cho đẹp, bổng lộc cho nhiều, để làm cửa nhà cho giàu ư? Hay là để giúp việc cho vua ư? Ta một mình chăm sóc lo sợ, để cho các ngươi vui thú rong chơi. Huống chi năm nay gặp vận hạ nguyên, đương khi mạt kiếp. Kinh Huyền khu nói: Ngày đông chí gặp ngày “nhâm” thì bỏ đất ngàn dặm không trồng cây được. Kinh Địa mẫu nói: Năm Quý Hợi mà mưa nhiều nước quá, thì việc sửa đắp đê điều không cần kíp ư? Ngươi phải lập tức sửa làm các cống nước, xe guồng, khe nhỏ, đường lớn trong hạt, hạn trong 2 tháng phải xong. Ngươi phải thân đến kiểm lại, nếu hoàn hảo thì đặt vào hạng khảo bậc thượng, sửa đắp không tốt thì biên vào hạng không xứng chức, đề rõ ràng lên, để định thăng giáng. Nếu bọn ngươi vô tình không chịu đốc thúc, đến khi mưa dầm, lúa ruộng bị ngập, xét được đích thực, sẽ giao xét hỏi cả.
Quả nhiên, trong năm này trước thì đại hạn, sau thì nước to, núi Tản Viên và Tam Đảo đều bị lở.
Nguồn: Đ4, tr.755, 757.
Tháng 5 (tháng Tư – Quý Hợi)
294. Dương Trực Nguyên tâu xin đắp đê sông Tô Lịch
Theo đó, Lễ bộ Tả thị lang xin đắp trên từ xã Trát Kiều (tổng Thượng Hồng) xuống đến xã Cống Xuyên (tổng Đông Cứu) để phòng lụt và hạn lợi cho việc nông và khai cừ An Phúc xuống đến cừ Thượng Phúc (tổng La Phù) để tưới nước vào ruộng cho dân.
Các xã và tổng trên khi đó thuộc huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam (nay thuộc Thường Tín – Hà Nội).
Nguồn: Đ4, tr.756.
NĂM 1504 (QUÝ HỢI – GIÁP TÝ)
Ngày 14 tháng 1 (8 tháng Chạp – Quý Hợi)
295. Dương Trực Nguyên được kiêm việc Hàn lâm viện
Chức Lễ bộ Tả thị lang của ông vẫn được giữ nguyên.
Nguồn: Đ4, tr.757.
NĂM 1505 (ẤT SỬU)
Ngày 25 tháng 3 (1 tháng Ba – Ất Sửu)
296. Dương Đức Giản thi đỗ Đệ nhị Tiến sĩ
Ngày 18 tháng Hai năm Ất Sửu (13-3-1505) Hoàng đế cho mở kỳ thi Hội các Cử nhân trong nước lấy đỗ Lê Nại (người làng Mộ Trạch huyện Đường Yên) 55 người. Ngày 1 tháng Ba (25-3-1505) công bố kết quả thi Đình cho bọn Lê Nại, Bùi Doãn Văn, Trần Phi (người làng Chi Nê, huyện Chương Đức, là con Trần Khải) 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Tiếu Tượng, Trần Lỗi 16 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Phạm Đôn Thảo, Nguyễn Tú 36 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Dương Đức Giản, người xã Linh Quang, tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, đạo Thái Nguyên (nay thuộc xã Khai Quang – thành phố Vĩnh Yên) đỗ Đệ nhị Tiến sĩ. Ông là ông nội của Dương Tông, làm quan đến Đô cấp sự, về trí sĩ.
Nguồn: Đ4, tr.761; C1, tr.283; T29, tr.67.
Ngày 19 tháng 6 (28 tháng Năm – Ất Sửu)
297. Dương Trực Nguyên chuyển làm Hộ bộ Tả thị lang
Bên cạnh chức vụ mới, ông còn kiêm Chiêu Văn quán.
Nguồn: Đ4, tr.672.
Ngày 25 tháng 6 (5 tháng Sáu – Ất Sửu)
298. Lê Tung được cử làm Thừa tuyên sứ Thanh Hóa
Trước đó, ông giữ chức Đô cấp Sự trung.
Nguồn: Đ4, tr.672.
NĂM 1507 (ĐINH MÃO)
Tháng 12 (tháng Một – Đinh Mão)
299. Dương Trực Nguyên, Lê Tung đi sứ sang nhà Minh
Mùa đông, tháng Một, sai sứ sang nước Minh, gồm Hộ bộ Tả thị lang Dương Trực Nguyên, Đông các Hiệu thư Chu Tống Văn, Hàn lâm viện kiếm thảo Đinh Thuận mừng Vũ Tôn lên ngôi; Lương Khản tạ ơn ban vóc lụa; Hồng lô Tự thiếu khanh Nguyễn Thuyên dâng hương; Công bộ Hữu thị lang Nguyễn Đạo, Hàn lâm viện Kiểm thảo Doãn Mậu Khôi, Hộ khoa Cấp sự trung Lê Đĩnh Chi tạ lơn làm lễ viếng, Thanh Hoa Thừa tuyên sứ Lê Tung, Hàm lâm viện Kiểm thảo Đinh Trinh, Giám sát Ngự sử Lê Hiếu Trung tạ ơn sách phong; Nghệ An Tham nghị Lê Uyên, Hàn lâm viện Hiệu lý Ngô Tuy, Giám sát Ngự sử Hoàng Nhạc tiến cống hàng năm.
Nguồn: Đ4, tr.764.
NĂM 1508 (MẬU THÌN)
Ngày 21 tháng 3 (1 tháng Ba – Mậu Thìn)
300. Nguyễn Sư Phổ, Nguyễn Duy Tường đỗ Đệ tam Tiến sĩ
Mậu Thìn, năm thứ 4 (1508). Mùa xuân, tháng Hai, thi Hội các Cử nhân trong nước. Lấy đỗ Đỗ Dung (Dung người huyện Thu Trì, thi Đình đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân) 54 người. Đến khi thi Đình, cho bọn Nguyễn Giản Thanh, Hứa Tam Tỉnh, Nguyễn Hữu Nghiêm 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ; bọn Trần Tông 15 người đỗ Đệ nghị giáp Tiến sĩ xuất thân; Nguyễn Nghĩa Thọ 36 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Nguyễn Sư Phổ sinh năm Mậu Dần (1458), Nguyễn Duy Tường sinh năm Ất Tỵ (1485) – cả hai ông đều là cháu nội của Nguyễn Bảo Khuê. Tuy cùng thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhưng Nguyễn Duy Tường không nhận, chờ khoa thi sau giành học vị cao hơn.
Nguồn: Đ4, tr.764; T29, tr.68-69.
Tháng 7 (tháng Sáu – Mậu Thìn)
301. Dương Trực Nguyên, Lê Tung đi sứ từ nước Minh về
Riêng Hộ bộ Tả thị lang Dương Trực Nguyên được vua ban cho hốt ngà và đi bạc.
Nguồn: Đ4, tr.765.
NĂM 1509
Ngày 22 tháng 7 (16 tháng Sáu – Kỷ Tỵ)
302. Vợ chồng Dương Đường đóng góp vào việc tôn tạo chùa Đông Tác
Tam bảo tại chùa Đông Tác (nay thuộc phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa) tạo năm Đoan Khánh 5 (1509) cho biết, người đề xướng là Nguyễn Liệu hiệu Phát Tâm, người xã Đông Sơn, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên cùng vợ là Nguyễn Thị Trần, hiệu Hướng Đạo đều là những người ham làm điều thiện, yêu thích Phật Giáo, coi việc hóa duyên làm công việc (hằng ngày).
Ngày 9 tháng Chín năm Cảnh Thống thứ 3 (21-9-1500), ông bà đã xây cây cầu đá, khơi nước đồng Cách, thông Đông Kiều. Ngày 13 tháng Sáu năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Thống thứ 6 (12-4-1503), trồng hoa và cây bạch dong ở chùa Khám, thôn Đông Kiều. Tiếp đến, lại mời thân mẫu làm lễ khánh thành và cho đốt hết các khoán ước cho vay nợ.
Ngày 15 tháng Năm năm Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (3-6-1508) đắp núi đất, xây giếng đá gồm 20 khối đá, và mua một miếng đất bên phía nam để đổi một thửa đất bên phía đông bắc cúng Tam bảo. Ngày 23 tháng Sáu năm Kỷ Tỵ niên hiệu Đoan Khánh thứ 5 (29-7-1509), nhân dịp khánh thành, lại một lần nữa sẽ xóa bỏ các loại nợ riêng, vui vẻ vì mối thiện duyên đã hoàn thành. Tuy nhiên, ông bà vẫn e sau này khi ngày tháng trôi qua, cầu hư giếng tắc, hoa tươi điêu tàn, mà chẳng có người tiếp nối thì những mối thiện duyên này chẳng được viên mãn. Nghĩ vậy nên bèn thuê thợ đẽo đá để ghi lại việc lớn. Mong rằng, các thiện nam tín nữ về sau, thấy cầu hư hỏng thì tu bổ lại, thấy giếng bị tắc thì khơi thông, thấy cây cối điêu tàn thì bổ sung thêm. Những việc làm này cũng đều là thiện duyên cả, chứ đâu phải chỉ có những việc làm hôm nay mới là thiện duyên đâu? Đây chính là những việc phải nên dụng tâm phi phát tâm, chính là những việc phải nên phát nguyện trên con đường hướng đạo vậy.
Bia được khắc xong và tạo dựng vào ngày 16 tháng Sáu năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Đoan Khánh 5 (22-7-1509), trước ngày làm lễ khánh thành và xóa các khoản nợ 7 ngày. Ngoài vợ chồng ông bà Nguyễn Liệu và nhiều người khác đóng góp, có vợ chồng ông bà Dương Đường.
Nguồn: T16, tập 1, tr.51-56; V5, tr.537-542.
Tháng 8 (tháng Bẩy – Kỷ Tỵ)
303. Hộ bộ Tả thị lang Dương Trực Nguyên thăng chức
Chức vụ Đô ngự sử Ngự sử đài mà ông được nhận là chức vụ cuối cùng trên đường hoạn lộ của Dương Trực Nguyên.
Nguồn: Đ4, tr.767.
Tháng 10 (tháng Chín – Kỷ Tỵ)
304. Dương Đức Giản tâu bầy về chế độ khoa cử
Tháng Chín, Đô cấp Sự trung Lại khoa Dương Đức Giản tâu rằng: – Thần vâng xét năm Hồng Đức 7 có sắc chỉ rằng Quốc tử Giám sinh, Tam xá sinh người nào từ 30 tuổi trở lên thì bản quan mới được bảo cử bổ dụng. Năm thứ 8 có sắc chỉ rằng Nho sinh ở Sùng văn quán và Tú lâm cục do bản quan bảo kết khảo xét, người nào lâu năm, tài cán và thi Hội trúng trường đều được bổ dụng. Thần trộm nghĩ rằng: Giám sinh, Nho sinh chưa đến 30 tuổi mà vào học chưa đầy 15 năm, lấy thi Hội được trúng trường, thỉnh thoảng cầu may được bổ, thì có sự hỗn loạn không tiện. Cúi xin từ nay trở đi, các Giám sinh, Nho sinh từ 30 tuổi trở lên mà vào học đã đủ 15 năm trở lên thì bản quan mới được bảo tuyển bổ dụng như lệ. Người nào dám lấy tình riêng mà bảo cử người tuổi trẻ năm ít, thì các khoa và Ngự sử đài tâu hoặc trị tội, để răn những kẻ làm tôi mà lấy tình riêng bảo cử bậy và trừ các tệ cầu may hỗn loạn.
Ninh quận công Lê Quảng Độ tâu rằng: – Bọn thần trộm nghĩ lời nói của Dương Đức Giản cũng có lý thực, nhưng trong ấy vẫn còn chưa đủ, nay bọn thần xin bàn lại các điều như sau:
Vâng xét Giám sinh Quốc tử Giám, người nào thi Hội nhiều lần trúng trường, được 15 năm trở lên, tuổi cao trúng trường nhiều, mới được sung vào Thượng xá sinh mà dẫn tuyển bổ dụng cho làm các chức Mục dân, Thủ lĩnh, Bạn độc, Trưởng sử, Huấn đạo. Nếu trúng trường nhiều và đã đủ 15 năm mà chưa được sung vào Thượng xá sinh, cùng là người nào trúng trường một lần mà đã đủ 18 năm trở lên, thì cũng cho bảo tuyển, bổ làm các chức Cáp môn, Tự ban, Bạn độc, Trưởng sử, Giảng dụ.
Vâng xét con cháu các quan viên sung vào Nho sinh ở Sùng văn quán và Tú lâm cục, thi Hội trúng trường, tuổi cao trúng trường nhiều, đủ 15 năm trở lên, cùng là người nào chỉ trúng trường một lần mà đủ 18 năm trở lên, mới được bảo tuyển bổ làm các chức mục dân, thủ lĩnh. Nếu là người tuổi cao tài cán, không trúng trường mà đủ 25 năm trở lên, thì cũng cho bảo kết khảo thí, bổ các chức Tá nhị ở các châu huyện. Người nào đã được dẫn tuyển mà chưa đủ niên hạn, phải đợi khi đủ niên hạn mới được bổ dụng. Còn như thân thuộc dòng dõi của Hoàng hậu và con cháu của khai quốc công thần sung vào nho sinh ở Sùng văn quán thì vẫn theo lệ cũ”.
Nguồn: Đ4, tr.767-768.
Đầu tháng 12 (đầu tháng Một – Kỷ Tỵ)
305. Lê Tung cùng nhiều đại thần tham gia vào lực lượng của Giản Tu công Lê Oanh chống lại Lê Uy Mục
Chiếm được ngôi báu, Lê Uy Mục đêm nào cũng vào cung cùng với cung nhân uống rượu vô độ, ai say thì giết, quyền lực do ngoại thích điều khiển hết. Tôn thất và công thần bị ruồng bỏ, đuổi về Thanh Hóa. Giản Tu công Lê Oanh, cháu của Hoàng đế Lê Thánh Tông còn bị giam ở ngục, nhờ đút lót nên trốn được về Tây Đô, đến cửa biển Thần Phù được Nguyễn Văn Lang tôn làm minh chủ. Nguyễn Văn Lang rèn đúc giáo dài và cùng với các Đại thần là Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm và Thanh Hoa Tổng binh Thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn, Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Thì Ung dấy binh, sai Lương Đắc Bằng làm Hịch dụ các Đại thần và các quan, đại lược rằng:
“Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Thoắt đã gần được 5 năm, tội ác đến muôn vẻ. Giết hại người xương thịt; dìm hãm các thần liêu. Bọn họ ngoại được tin dùng mà phường đuôi chó tung hoành làm bậy, kẻ cương trực bị ruồng bỏ mà người đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi. Đánh thuế tỉ mỉ, tiêu tiền như bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính; bề tôi ngựa trâu, coi dân như rác, kiêu ngạo còn quá Ngụy Canh. Huống chi lại làm cung thất to, làm vườn hoa rộng. Bắt dân trồng cây, theo bánh xe đổ gò Hoa Cương nhà Tống; lấp biển làm điện, nối gót hôn mê cung A Phòng nhà Tần. Việc thổ mộc làm lại thôi, thôi lại làm, mệt nhọc dân Hải Dương, Kinh Bắc, bọn quý tộc ngạo lại ngược, ngược lại ngạo, quấy rối vùng phiên trấn tứ Tuyên. Nhân dân nhức óc, cả nước đau lòng”.
Lại làm bài Hịch rằng: – Đoan Khánh làm vua, họ ngoại chuyên chính. Tử Mô là phường ngu hèn nơi phố chợ, rối loạn triều cương; Thắng Xung là hạng trẻ con chốn hương thôn, càn làm uy phúc. Thậm chí đánh thuốc độc bà nội, sát hại các thân vương. Lấy lòng riêng mà giết nhân dân, không biết cùng cực; lấy thân thiết mà đòi tiền của, mặc sức tham lam. Bốn biển khốn cùng, muôn dân sầu oán.
Giản Tu công Lê Oanh giả xưng là Cẩm Giang vương (tức Lê Sùng, anh trai Lê Oanh) dựng cờ chiêu an của Cẩm Giang vương.
Nguồn: Đ4, tr.768-769.
Ngày 29 tháng 2 (28 tháng Một – Kỷ Tỵ)
306. Dương Trực Nguyên mất trong trận chống cuộc nổi dậy của Giản Tu Công
Tháng Một, ngày mồng 8, Giản Tu công Lê Oanh từ Tây Đô đem các dinh thủy bộ đều tiến. Quân thủy đến núi Thiên Kiện (Thanh Liêm – Hà Nam). Vua lấy hai thuyền nhẹ Hà Thanh và Hải Thanh rảo đến chùa Bảo núi Thiên Kiện, bắt được một viên tướng thủy dinh và giết cắt tai được 20 người binh lính đem về ngoài cửa Đông Hoa. Vua sai Phó tướng là Đông Nham bá Lê Vũ làm Tán lý, Ngự sử đài Đô ngự sử Dương Trực Nguyên làm Ký lục và Hiếu thị lang Phạm Thịnh, Trần Năng đem cấm quân và quan quân các vệ Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền để chống giữ, không được. Ngày 1, anh của Oanh là Cẩm Giang vương Sùng, em là Tĩnh Lượng công và Quyên cùng với Thọ Mai Phò mã Nguyễn Kính đều bị giết. Quân của Oanh còn dùng cờ chiêu an của Cẩm Giang vương để phủ dụ Lê Vũ về hàng. Lê Vũ lấy đầu của Cẩm Giang vương giơ cho xem và nói: – Đây là đầu của Cẩm Giang vương, còn nói dối gì nữa” rồi cưỡi voi chỉ huy các quân tiến đánh đến xứ Đồng Lạc, thua trận, không chịu khuất mà chết, những người khác như Dương Trực Nguyên, Phạm Thịnh, Trần Năng cũng chết ở Châu Cầu. Quan quân bị thua về. Ngày 26, các dinh quân của Oanh đều tiến đến các xứ Bảo Hà, Nhân Mục, Hồng Mai, Thiêu Thân. Vua ra cửa Thanh Dương úy lạo các lực sĩ điện Kiên Quang và tướng sĩ các vệ Cẩm y Kim ngô, lấy kiếm cho bọn Trình Chí Sâm, Lê Quảng Độ. Phát vàng bạc tiền của cho tù nhân hiện giam ở ngục Ngũ hình mỗi người 2 quan, sai đi đánh giặc. Các tù nhận tiền rồi đều về nhà cả. Lại vội vàng gọi quân. Vua sai trung sứ và hoa văn học sinh mỗi ty 2 người mang sắc và phù đến các đô ty Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bang đưa sắc và kháp phù, bắt lấy thổ binh các trấn mỗi trấn 5.000 người để phòng đánh giặc. Các người nhận sắc phù đi, vua cho mỗi người một chiếc giáo ngắn ngự tiền sơn son để giữ mình. Bọn ấy chưa đi đến các xứ Bồ Đề, Xuân Canh, thì quân của Lê Oanh đã tiến đến giáp thành, mọi người đều trốn. Hoàng hậu là Trần Thị Tùng trốn ra đến xã Hồng Mai, náu ở nhà dân rồi tự thắt cổ chết ở miếu chùa. Lê Quảng Độ cùng với Giản Tu công trong ngoài thông tin với nhau; bắn súng làm hiệu, giương gậy làm cờ, chặt cây làm binh khí để đánh lẫn nhau cho các quân kinh hãi, rồi bắt hiếp vua sang phương Bắc. Khi Giản Tu công đến thành Đông Kinh, được tin cha là Kiến vương và anh là Cẩm Giang vương, em là Tĩnh Lượng công Doanh, em út là Quyền đều bị giết, sai quan sửa việc tang và làm lễ tống táng. Ngày28, vua chạy đến phường Nhật Chiêu. Một vệ sĩ cũ đuổi theo bắt được, đem nộp cho Giản Tu công, giam ở cửa Lệ Cảnh. Giản Tu công cho người vệ sĩ ấy là bất nghĩa, sai giết đi. Tháng Chạp, ngày mồng 1 (31-12-1509), vua uống thuốc độc tự tử. Giản Tu công cho là vua khi trước giết hại cha mẹ và anh, em mình, cơn giận chưa nguôi, sai người lấy súng lớn để xác vào miệng súng, súng nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy tro tàn đem về chôn tại An Lăng ở quê mẹ là làng Phù Chẩn, giáng xuống làm Mẫn Lệ công (Có thuyết nói rằng: Khi quân khởi nghĩa đến sát Kinh thành, vua chạy ra thôn Cập Hối xã Đông Cao huyện Yên Lãng, bị người ở hàng chợ xã ấy đón về đem nộp cho Nguyễn Văn Lang. Văn Lang đem về quán Bắc sứ giết đi, bọn ngoại thích cũng bị giết hết).
Nguồn: Đ4, tr.769-771.
NĂM 1510 (KỶ TỴ – CANH NGỌ)
Ngày 3 tháng 1 (4 tháng Chạp – Kỷ Tỵ)
307. Lê Tung được cử đi sứ nhà Minh
Ngày 1 tháng 1-1510 (2 tháng Chạp – Kỷ Tỵ, theo văn bia Cổ tích linh từ bi ký do Lê Tung soạn tháng Tám – Canh Ngọ, tức tháng 9-1510; còn Đại Việt sử ký toàn thư là ngày 4 tháng Chạp – Kỷ Tỵ) Giản Tu lên ngôi Hoàng đế, đại xá, đổi niên hiệu, lấy năm đó làm Hồng Thuận năm thứ 1. Ngày 3 tháng 1-1510 (4 tháng Chạp – Kỷ Tỵ) sai các đầu mục là Lê Quảng Độ, Lê Điêu, Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Lê Hưng Hiếu, Trình Chí Sâm, Trịnh Tuy, Lương Đắc Bằng, Đỗ Lý Khiêm, Đinh Cương, Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Lê Nại, Đàm Thận Giản, dâng biểu trần tình cho nhà Minh, lời biểu rằng: Đoan Khánh Lê Tuấn, tập phong tước vương, trải khoảng 4 năm, yêu dùng họ mẹ là bọn Khương Xung và Nguyễn Bá Thắng, ngang tàng bạo ngược, đảo lộn triều cương, tàn sát họ hàng, độc giết tổ mẫu, người nước khổ sở, dân chịu không xong. Bọn Xung Thắng quyền át trong ngoài, ác đảng ngày càng lan rộng, mưu cướp quyền nước.
Nguồn: Đ4, tr.772.
Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Ngọ)
308. Lê Tung và những người ứng nghĩa được xét công trạng
Sau khi cho xét bàn công lao của những người ứng nghĩa, nhà vua cho Nghĩa Quận công Nguyễn Văn Lang làm Nghĩa Quốc công, gia phong Thiệu Quận công Lê Quảng Độ làm Thiệu Quốc công, Lạng Quận công Lê Phụ làm Lạng Quốc công, Uy Quận công Lê Bá Lân làm Uy Quốc công, Hộ bộ Thượng thư Trịnh Duy Đại làm Văn Quận công, Điện tiền đô Kiểm điểm Thụy Dương hầu Trịnh Hựu làm Thọ Quận công, Phò mã Đô úy Lê Mậu Chiêu làm Diêm Quận công, Nguyễn Hoằng Dụ là con Nguyễn Văn Lang làm An Hòa hầu; Trịnh Duy Sản làm Mỹ Huệ hầu, Thanh Hoa Tổng binh Thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn (đổi tên là Bá Thuyên) làm Lễ bộ Thượng thư, Do Lễ bá Thanh Hoa Thừa tuyên sứ Lê Tung làm Lại bộ Thượng thư, Độ Thư bá Thanh Hoa Tham chính Nguyễn Thì Ung làm Ngự sử đài Đô ngự sử, Lương Văn bá Đàm Thận Huy làm Hình bộ Thượng thư, Hàn lâm viện Thị độc Tham chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng làm Lại bộ Tả thị lang.
Nguồn: Đ4, tr.773-774.
Tháng 9 (tháng Tám – Canh Ngọ)
309. Lê Tung soạn văn bia Cổ tích linh từ bi ký đặt tại đền thờ Cao Sơn
Đền được dựng tại xã Tử Trầm, tổng Tứ Lân, huyện Ninh Sơn, phủ Đoan Hùng, đạo Sơn Tây (nay vẫn còn trên núi Tử Trầm thuộc xóm San, xã Phụng Châu, Chương Mỹ – Hà Nội). Văn bia do Tiến thận Quang lộc Đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử Giám Tế tửu, Tri kinh diên Sự thần Lê Tung soạn, cho biết “Thánh tổ Cao Hoàng đế buổi đầu khởi nghĩa, tất có sự phù hộ lớn lao, họa phúc đều bởi do các bậc thần linh nổi tiếng, trời đất chí nhân, quỷ thần có đức. Về sau đền miếu được dựng xây, triều đình ban ơn lớn lao, để xuân thu tế lễ, đều là báo đáp công ơn của thần. Bỗng chốc Lệ Mẫu (tức Lê Uy Mục) thất đức hung bạo, ngoại thích chuyên quyền, trong triều can gián, chà đạp dân chúng, giết hại tôn thần. Trời oán dân giận mà không biết, dân chúng chống lại rời bỏ mà không hay.
Tháng Một năm Kỷ Tỵ (12-1509) Hoàng thượng tránh nạn ở Tây Đô, tập trung nghĩa binh để khôi phục công nghiệp lớn lao của Cao Tổ, của muôn triệu dân. Lúc ấy ở điện Trường Lạc người thân thuộc cùng nhau bàn bạc, dốc lòng trung thành, khai quốc công thần: Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Văn Lữ cùng kính cẩn vâng mệnh đi đánh dẹp. Cùng nhau tập hợp hào kiệt, nhóm họp dân binh, giúp cho cờ quạt đao binh đi làm việc lớn. Vượt qua khó khăn, Văn Lữ hành quân đến huyện Ninh Sơn (sau đổi là Yên Sơn). Núi rừng rậm rạp hoang vắng, có vực sâu, khoảng một mẫu yên tĩnh ngập nước, sâu không lường được, cây cối cành lá giao nhau, trên có một đền thờ lợp bằng cỏ tranh, trong đền dựng một cột đá đề chữ Cao Sơn Đại Vương. Văn Lữ nhìn thấy, sợ hãi mà khấn rằng: Đoan Khánh tàn ngược dân không sao sống nổi. Lòng người, mệnh trời đều trở về với người có đức. Nay Thánh thượng lấy con của Kiến Hoàng cháu của Thánh Tông lên làm vua. Nghĩ rằng tổ tông gian nan dựng nghiệp, thương muôn họ phải chịu cảnh đọa đầy. Vì sự duy trì của xã tắc mà dấy binh để trừ tàn khử bạo. Văn Lữ giúp nhà vua giữ yên thiên hạ. Thần như linh thiêng phù hộ cùng cứu giúp việc lớn. Công việc thành công Văn Lữ tâu với triều đình để tôn vinh công lao của thần.
Cầu xong, hàng ngũ chỉnh tề kéo đi, bề tôi và dân chúng không hẹn nhau mà mọi người đều tập trung đi theo, chuẩn bị giỏ cơm, túi nước để đi đón quân của nhà vua. Binh không phải khổ máu dây mũi gươm đao, dân thỏa nguyện mong chờ, như nắng hạn gặp mưa rào, giặc bị tiêu diệt, cung cấm sạch lầu, muôn năm bền vững. Đại đế, do sự linh thiêng của miếu mạo, Tam cương, cửu trù được bền vững dài lâu, sự nghiệp lớn lao được khôi phục.
Vận nước do đó lại được an, chưa đến một tuần mà đã thành công nhanh chóng. Được như thế là do đức thánh phù hộ, đạo trời và lòng người giúp sức, quỷ thần cũng tương trợ chăng.
Ngày 2 tháng Chạp năm ấy (1509) Hoàng thượng lên ngôi. Nhà vua vỗ về, thi hành nhân nghĩa để thể hiện sự sùng chuộng, muôn họ được bao hàm phẩm trật để tỏ lòng mến mộ. Văn Lữ cùng bách quan được thưởng công lớn. Nghĩ rằng công thần thật lớn lao. Nghe lời ngọc, ban sắc cho xã Tử Trầm, huyện Ninh Sơn. Sai quân dân xây dựng đền thờ, mệnh cho bộ Công dựng bia, sai thần soạn bài minh để lại mãi mãi…”.
Có một điều lạ và trùng hợp là, vào khoảng niên hiệu Hoàng Định (1602-1619), trên bến Bồ Đề xuất hiện một tấm bia từ huyện Phụng Hóa trôi đến. Mãi hơn 100 năm sau, vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1771), dân phường Kim Liên mới kéo tấm bia lên, trên trán bia thấy có dòng chữ lớn Cao Sơn Đại vương thần từ minh tịnh tự (Bài tựa và minh đền thờ Cao Sơn Đại vương) và lời lẽ trong lòng bia giống hệt như Cổ tích linh từ bi ký dựng ở núi Tử Trầm, đều do Lê Tung soạn vào cùng một thời điểm. Dân phường Kim Liên chỉ khắc thêm dòng ngày tháng dựng lại bia (1 tháng Tám năm Nhâm Thìn, tức 9-9-1771). Hiện bên trái đình Kim Liên vẫn còn tấm bia này.
Nguồn: T1, số 2/2005, tr.50-61; số 3/2007, tr.3-8.
TRONG NĂM
310. Lê Tung soạn nhiều Thần tích về Cao Sơn Đại vương ban cho một số địa phương
Với tư cách là Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ kiêm Tế tửu tri Kinh diên sự thần, lại là người chấp bút soạn văn bia về vị Cao Sơn Đại vương được thờ phụng ở Tử Trầm, trong năm 1510, một số nơi như xã Bối Khê (tổng Thịnh Đức, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam), thôn Thọ Khang, xã Đinh Loan (tổng Nghĩa Trai, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc), xã Xuân La (tổng Trà Lương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, đạo Hải Dương), xã An Trực (tổng Đồng Hải, huyện Thanh Quan, phủ Thái Ninh, đạo Sơn Nam) đều có Thần tích về Cao Sơn Đại vương do Lê Tung soạn.
Hiện, trong tàng thư thuộc sự quản lý của Viện Hán Nôm có một số thần tích về Trần Quang Khải Đại Vương (Trang Liệt, tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc), Thiên Tôn Thượng đẳng thần (Văn An, tổng Ngu Nhuế, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam), Điện Công (Mã Não, tổng Thụy Lôi, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam), Ỷ Lan thời Lý, Đào Hồng âm phù Hai Bà Trưng (Đồng Bào, Gia Lộc – Hải Dương), Sự tích 2 vị thần triều Lý (Đồng Xuyên, tổng Lang Tài, huyện Lang Tài, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc), Sự tích Lý Hải triều Lý, Nguyễn Phục triều Lê (Long Vĩ, tổng Trà Lương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, đạo Hải Dương), Sự tích thần Áp Quốc, Duyệt Tịch thời Lê Đại Hành (Đỗ Xuyên, tổng Lương Lỗ, huyện Thanh Ba, phủ Lâm Thao, đạo Sơn Tây), Sự tích Lý Phật Mã, Nhã Lang, Ả Lã Nàng Đê… (Bồng Mạc, tổng Xa Mạc, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, đạo Sơn Tây) ghi Lê Tung soạn vào các năm 1470-1472 có lẽ không phải vì tới năm 1484 sau khi thi đậu Tiến sĩ ông mới bước vào con đường hoan lộ, có vai vế và trọng trách với các bản Thần tích trên.
Nguồn: D2, Q. Thượng, tr.365-677.
NĂM 1511
Ngày 21 tháng 5 (5 tháng Năm – Tân Mùi)
311. Nguyễn Duy Tường, Dương Khải thi đậu Đệ nhị, Đệ tam Tiến sĩ
Theo Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ Đề danh (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Tân Mùi năm Hồng Thuận 3) do Đặc tiến kim tử Vinh lộc Đại phu Thiếu bảo Thượng thư bộ Lễ, Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử Giám Tế tửu Tri Kinh diên sự Đôn Thư bá Trụ quốc Lê Tung soạn, cho biết:
“Trời mở vận trung hưng, năm đúng kỳ mở khoa thi lớn. Mùa xuân năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511), bộ Lễ kính theo lệ cũ, triệu tập sĩ tử tới kinh đô để đua tài, chọn được hạng ưu tú 47 người. Ngày 17 tháng Tư (năm Tân Mùi – tức 3-5-1511), Hoàng thượng đích thân ra bài văn sách, hỏi về đạo trị nước xưa nay. Sai Đề điệu là Suy trung Tán trị Minh kính Khiêm cung công thần Đặc tiến Khai phủ Kim tử Vinh lộc đại phu Bình chương quân Quốc trọng sự Thống quốc chính Thái tể Thái sư Thiệu quốc công thượng trụ quốc Lê Quảng Độ, Phụng trực đại phu Công bộ Thượng thư Tư chính Thượng khanh Trình Chí Sâm; Giám thí là Gia hạnh đại phu Hộ bộ Tả Thị lang Khuông nghĩa doãn Phạm Hạo, Tả Thị lang Bộ Lại Triều liệt đại phu Thu thận doãn Đặng Minh Khiêm cùng các quan hữu ty chia giữ các việc.
Sáng hôm sau, các viên đọc quyển là Phụng trực đại phu Lễ bộ Thượng thư Tư chính Thượng khanh Nguyễn Bá Nhậm, Phụng trực đại phu Thượng thư Ngự sử đài Đô Ngự sử Tư chính thượng khanh Nguyễn Thì Ung, Phụng trực đại phu Thượng thư Đông các Đại học sĩ Nhập thị Kinh diên Tư chính Thượng khanh Đỗ Nhạc dâng quyển lên đọc. Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ bậc cao thấp. Lấy bọn Hoàng Nghĩa Phú 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Bùi Doãn Hiệp 9 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Trần Doãn Minh 35 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Ngày mồng 4 tháng Năm (năm Tân Mùi – sớm hơn 1 ngày so với Đại Việt sử ký toàn thư), Hoàng thượng ngự điện Kính Thiên, cho truyền loa xướng tên người thi đỗ, trăm quan mặc triều phục chúc mừng. Bộ Lại vâng ban ơn mệnh, bộ Lễ vâng rước Bảng Vàng treo ở ngoài cửa nhà Thái học. Lại ban áo mũ cân đai cho các vị tân khoa, ban ơn cho dự yến tiệc, lễ đãi hiền đầy đủ cả lễ nhạc.
Đặc sai Dương Vũ Hiệp mưu Đồng đức Hiệu trung Khai quốc công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Tán lý Hiệp thuận Khai phủ Nghi đồng Tam ty Bình chương quân Quốc trọng sự Phụ quốc Thừa tướng Thượng tể Thái phó nghĩa quốc công Thượng trụ quốc Nguyễn Văn Lang sửa lại trường Quốc học, cất nhà bia mới ở phía đông và tây. Lại sai Tá lý công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Công bộ Thượng thư Chưởng lục bộ sự tri Hiển Phúc điện Uy Quận công Thượng trụ quốc Nguyễn Bá Lân trông coi việc dựng bia đề tên, sai từ thần soạn bài ký.
Trong kỳ thi này, Nguyễn Duy Tường giành học vị cao hơn kỳ thi trước 1 bậc. Dương Khải, người Vũ Ninh – Kinh Bắc (nay thuộc Quế Võ – Bắc Ninh) đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Nguyễn Duy Tưởng làm đến chức Tham chính, khi mất tặng Thị lang, phong Phúc thần. Dương Khải làm đến Thừa chính sứ, bị nhà Mạc bắt, trốn vào Thanh Hóa tiếp tục phục vụ nhà Lê, giữ chức Thừa chính sứ Quảng Nam đến khi mất.
Nguồn: V2, tr.131-139; Đ4, tr.778-781; C1, tr.311-314.
NĂM 1512 (NHÂM THÂN)
Tháng 4 (tháng Ba – Nhâm Thân)
312. Lê Tung tiếp tục được gia tặng phẩm trật
Đến đây ông là Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu tri Kinh diên Đôn thư bá.
Nguồn: Đ4, tr.784.
Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Thân)
313. Triều đình truy tặng tước vị cho Dương Trực Nguyên
Do những công lao, đóng góp ông được truy tặng Ngự sử đài Đô ngự sử.
Nguồn: Đ4, tr.785.
NĂM 1513
Ngày 18 tháng 9 (30 tháng Tám – Quý Dậu)
314. Lê Tung soạn văn bia Tiến sĩ đề danh, Nguyễn Duy Tường và Dương Khải có tên ở Văn Miếu
Đó là tấm bia Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh dựng theo chủ trương khôi phục lại lệ này bị bỏ bễ nhiều năm. Nhà vua ban sai Công bộ Thượng thư Chưởng bộ sự tri Hiển phúc điện Uy Quận công Nguyễn Bá Lân đứng trông coi việc làm bia đề tên, Thiếu bảo lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu tri Kinh diên sự Đôn Thư bá Lê Tung soạn bài ký, Trung thu Xá nhân Ngô Ninh viết chữ chân, Tri thượng bảo Giám các cục Nguyễn Huệ viết chữ triện.
Văn bia có đoạn:
“Kẻ sĩ ở đời được ghi tên vào tấm đá này thực may mắn biết bao! Nếu quả thật biết dồi mài trung nghĩa, cố gắng liêm cần để có tiếng là vị Trạng nguyên trung hiếu, là bậc quân tử ngọc vàng, thì mai sau các học trò nhà Thái học sẽ chỉ vào tên mà nói: Vị này vào hàng khoa bảng, vị này là bậc hiền tài, người hiền lương biết vậy mà lấy làm khích lệ. Thảng như có kẻ ngoài ngọc trong đá, bề ngoài như chim phượng mà tiếng kêu như cú diều, dua nịnh giống phường dựa cột, hèn nhát như lũ bó tay, thiên hạ đời sau sẽ chê cười nói: kẻ ấy tà học như hạng Công Tôn Hoằng, kẻ kia phản lại kinh sách cũng như Vương Anh Thạch, kẻ gian ác thấy đấy mà tự lấy làm răn. Được như thế thì tấm bia này dựng lên, trong chỗ ngợi khen còn có ngụ ý khuyên răn nữa.
Rực rỡ lớn lao thay quy mô chọn dùng hiền tài của liệt thánh. Kế thừa cao cả thay mực thước chọn dùng hiền tài của Thánh thượng ngày nay. Đó là vì muốn cho trời đất sinh hiền tài mà lập tâm, vì muốn nước nhà sử dụng được hiền tài mà lập pháp; và vì có ý mở ra cuộc thái bình muôn nghìn đời cho thiên hạ vậy”.
Nguồn: Đ4, tr.789; V2, tr.131-137.
NĂM 1514 (GIÁP TUẤT)
Ngày 11 tháng 5 (27 tháng Tư – Giáp Tuất)
315. Lê Tung được cử trông coi kỳ thi Đình
Tháng Ba Giáp Tuất (4-1514), thi Hội sĩ nhân trong nước. Bấy giờ dự thi 5.700 người, lấy đỗ Nguyễn Bỉnh Đức (Bỉnh Đức trước tên là Giới, sau đổi là Ninh Chỉ, lại đổi là Ninh Bang, người ở phường Thịnh Quang, huyện Quảng Đức, thi Đình đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân, triều Mạc làm quan đến Thượng thư Thiếu sư Liêm Quận công), cộng 43 người.
Mùa hạ tháng Tư, ngày 27, vua thân ngự thi Điện, đầu đề văn sách hỏi về nhân tài. Sai Tả bình chương Quân quốc Trọng sự Nhập nội kiểm hiệu Thượng tướng Thái úy Lạng Quốc công Lê Phụ; Lại bộ Thượng thư tri Chiêu văn quán Tú lâm cục Đàm Thận Huy, Công bộ Hữu thị lang Lê Tản Tương, Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư Do Lễ bá Nguyễn Bá Thuyên, Hộ bộ Thượng thư tri Chiêu văn quán Tú lâm cục Cẩn Lễ nam Đoàn Mậu, Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tri Kinh diên sự Đôn Thư bá Lê Tung, Hộ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ nhập thị Kinh diên Đỗ Nhạc, chia nhau trông coi việc thi. Cho Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Chiêu Huấn, Hoàng Minh Tá 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Nguyễn Vũ 20 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Nguyễn Bỉnh Di 20 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Tháng Năm, có chiếu cho các Tiến sĩ mới là bọn Nguyễn Đức Lượng vào điện Thiên Quang làm bài ứng chế, vua sai làm bài ký điện Thiên Quang.
Nguồn: Đ4, tr.790; V2, tr.143.
Tháng 10 (tháng Chín – Giáp Tuất)
316. Lê Tung được sai viết Đại Việt Thông giám Tổng luận
Tháng Tư năm Tân Mùi (5-1511), với tư cách Binh bộ Thượng thư Tư nghiệp Quốc tử giám kiêm Sử quan Đô tổng đài, Vũ Quỳnh hoàn thành việc biên soạn bộ sách Đại Việt Thông giám thông khảo (Đại Việt Thông giám) chép từ Hồng Bàng thị đến Thập nhị sứ quân về trước gọi là Ngoại kỷ, từ đời Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu Thái Tổ Cao hoàng đế triều Lê gọi là Bản kỷ, cộng 26 quyển. So với Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn trước đó, nội dung và thời gian không khác biệt nhưng về phân kỳ, phân ranh giới Ngoại kỷ và Bản kỷ có khác nhau.
Trên cơ sở bộ sách của Vũ Quỳnh, Lê Tương Dực đã sai ông soạn Đại Việt Thông giám Tổng luận để chỉ ra những điều cốt yếu nhất để tiện xem. Tuy nhiên, với bút lực của mình, Đại Việt Thông giám Tổng luận đã trở thành phần mở đầu không thể thiếu của các bộ Quốc sử, trong đó có Đại Việt sử ký toàn thư. Mở đầu bài tổng luận, ông viết:
“Thần nghe: Ngu điển tức là sách sử của nhà Ngu, từ khi Khổng Tử sửa sách Thượng thư để làm điển mô thì đạo tu tề trị bình của đế vương càng rõ; Xuân Thu vốn là sách sử của nước Lỗ, từ khi Khổng Tử làm kinh Xuân Thu để định khen chê thì quyền điển lễ mệnh thảo của thiên tử càng tôn. Cho nên các đế vương thánh minh trị thiên hạ, có chí ở trách nhiệm làm vua làm thầy, không thể không nghiên cứu học vấn của đế vương, mà có chí ở việc nghiên cứu học vấn của đế vương, thì không thể không biết rõ sự lý đời xưa đời nay. Xem như thế thì các sách sử làm ra cốt để làm rùa bói, làm gương soi cho vua các đời là bởi ý ấy.
Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ, học thánh cao minh, lòng đạo thuần túy, nối phúc tốt của công đức tổ tông, gặp vận hội lúc trời cho người phục, nghiệp to lớn đã thành, công trị bình đã định, mới chú ý việc thái bình, để tâm đến sách vở; có chí ở học vấn đế vương, nghiên cứu kỹ các sách thánh hiền. Xem các tập Thiên Nam dư hạ của Thánh Tôn Thuần hoàng đế, đọc sách các tập Lạc uyển dư nhàn của Đức Tôn Kiến Hoàng đế, mà hiểu đúng nguồn gốc của đế phạm; nhàn rỗi thì tùy việc mà thơ phú, lời nói răn ngừa, tức là bài ca kính trời của Ngu Thuấn; đồ dùng thì ngụ lý mà chế minh, để lòng tu tỉnh, tức là lời răn khắc bàn của Ân Thang. Phàm là văn ngang trời dọc đất, là đạo trị nước tề nhà, không gì là không thông suốt. Lại hàng ngày mở Kinh diên, tìm trị đạo. Bèn sai Binh bộ thượng thư Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quán đô tổng tài là Vũ Quỳnh soạn bộ Việt giám Thông khảo, chép từ Hồng Bàng thị đến mười hai sứ quân, tách làm Ngoại kỷ, từ Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu mới đại định của Thái tổ Cao hoàng đế của quốc triều, chép làm Bản kỷ, cộng 26 quyển. Lớn như đạo tam cương ngũ thường cho đến nhỏ như lẽ tinh vi của sự vật, không cái gì không chép hết. Lại sai Bí thư giám là bọn Hoàng Khu viết ra bản nữa, để truyền lại lâu dài. Bây giờ Hoàng thượng bệ hạ, lấy lòng sâu rộng mà bao trùm như trời đất, lấy trí sáng suốt mà xét rõ như mặt trời mặt trăng, muốn tóm tắt đại yếu để cho khi xem mà đạo cương thường của trời đất càng rõ rệt, đạo trị bình của đế vương càng sáng thêm, như giường lưới đã cất thì các mắt lưới đều căng ra, như gương sáng đã treo thì muôn hình tượng đều chiếu thấy, có quan hệ đến đời lớn lắm vậy. Bèn sai thần Lê Tung làm bài Tổng luận. Nghĩ thần học thức kém, kiến văn ít, sao đủ để bàn xét việc xưa nay mà phát huy chí lý. Song; đã lạm vâng minh chiếu, dám đâu không đáp lại để tuyên dương mệnh tốt của thánh thiên tử. Thần kính cẩn chắp tay rập đầu xin dâng bài Tổng luận như sau:
Thần nghe sách Chu Dịch nói rằng: “Có trời đất rồi sau mới có muôn vật, có muôn vật rồi sau mới có vợ chồng, có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi”, đạo cương thường bởi đấy mà đặt vậy; sách Đại học nói rằng: “Lòng có chính thì sau mình mới sửa được, mình có sửa thì sau nhà mới tề được, nhà có tề thì sau nước mới trị được, nước có trị thì sau thiên hạ mới bình được”, đạo trị bình bởi thế mà thi hành. Xem thế thì đạo trời đất không thể ngoài cương thường mà dựng quy tắc, thì đạo của đế vương há có thể ngoài cương thường mà làm chính trị được sao […]”.
Nguồn: Đ4, tr.30-43, 778, 791.
317. Bình phẩm của Lê Tung trong Đại Việt Thông giám Tổng luận về nhà Lý và vai trò của Dương Cảnh Thông
Lý Thái Tố nhân Ngọa triều thất đức, hiệp điểm tốt sét đánh thành chữ, ứng mệnh trời thuận lòng người, thừa thời mở vận; có đại độ khoan nhân, có quy mô xa rộng, dời đô, định vạc, kính trời, yêu dân; tô ruộng có lệnh tha, phú dịch có mức độ. Bắc Nam thông hiếu, thiên hạ bình yên. Song thánh học chưa nghe, nho phong chưa định; dân gian một nửa là tăng ni, chùa chiền dựng đầy trong thiên hạ, không phải là đạo sáng nghiệp mở dòng vậy. Thái Tông trí dũng gồm hai, đánh đâu được đấy; có đức hiếu hữu, học tập lễ văn, đánh giặc giã, dẹp man nhung, cày tịch điền, khuyên việc ruộng, thân oan có chuông, việc hình có luật; là một bậc vua giỏi giữ nền nếp vậy. Song, say thơ kệ đạo Phật ở chùa Tiên Du, mê điệu hát Tây Thiên của nước Chiêm Thành không phải là đạo sửa sang việc nước chăm nuôi nhân dân vậy. Thánh Tông yêu nhân dân, trọng việc ruộng, vỗ người xa, yêu người gần, đặt khoa bác học, trọng lệnh dưỡng liêm, đặt quan Bí các, làm đường Minh luân, sửa sạng việc văn, chuẩn bị việc võ, trong nước đều yên tĩnh, là bậc vua hiền nối đức trước vậy. Song, xây tháp Báo Thiên nhọc sức dân, sửa cung Dâm Đàm phí của dân, đó là chỗ kém. Nhân Tông tính trời nhân hiếu, có tiếng đức tốt, trọng kén chọn danh thần, đặt khoa thi tiến sĩ, có quan hầu Kinh diên, xuống chiếu mở đường nói, cầu người hiền, nghe lời can, nhẹ thuế khóa, ít giao dịch, cho nên tự hưởng cõi thái bình, rất mực nên giàu thịnh, đáng gọi là bậc vua giỏi ở lúc thừa bình vậy. Song Lãm Sơn mở tiệc, để cho mẫu hậu dạo chơi. Quy Điền đúc chuông, bị bọn tăng ni lừa phỉnh, đó là chỗ sai. Thần Tông sửa sang chính sự, nhậm dụng hiền năng, đặt khoa Hoành từ, định lệnh binh nông, kể về mặt chính trị cũng là siêng năng. Song quá thích điềm lành, sùng thượng đạo Phật, đánh giặc cũng quy công cho Phật, dâng hươu cũng cho lạm tước quan, sao mà ngu thế! Anh Tông đặt ra trường giảng võ để nghiêm võ bị, làm miếu Khổng Tử để chấn văn phong, cày ruộng tịch điển, lập đàn Nam Giao, kể mặt chính trị cũng là kỹ càng. Song, không phân biệt được kẻ gian tà, không công minh trong việc thưởng phạt, yêu dùng kẻ gian thần mà mở đường tượng cước, tin sùng đạo Phật lão mà đặt khoa tăng đạo, sao mà tối thế? Cao Tông buổi đầu chuyên dùng các hiền thần là Tô Hiến Thành, Lý Kính Tu, cùng nhau mưu tính việc chính trị, có lệnh chẩn bần, có chiếu cầu hiền, cho nên từ năm Thiên Tư Gia Thụy về trước, chính sự còn khả quan. Đến năm Thiên Gia Bảo Hựu về sau, việc thổ mọc như lông dím, bọn giặc cướp nổi như ong, mà triệu chứng mất nước đã nảy từ đấy. Huệ Tông say đắm hoang dâm, giao chính sự cho quyền thần Tô Trung Tự, Trần Tự Khánh, vua yếu tôi mạnh, trời oán người giận, chính lệnh bạo ngược, hình phạt phiền hà, dân nghèo giặc nổi, mà cái điềm mất nước đã quyết định từ đấy. Hơn nữa, Chiêu Hoàng là vua đàn bà, gánh vác không nổi, họ Trần nhân đó mà dời ngôi nhà Lý, đáng tức biết bao!
Hoặc lại bàn thêm rằng: Triều Lý trải 8 đời vua, ngôi truyền hơn 200 năm, những bậc đáng khen là Thái Tổ có độ lượng đế vương, Thái Tông có tư chất trí dũng, Thánh Tông có lòng thương dân, Nhân Tôn có đức ơn dân. Song Thái Tổ lập hoàng hậu ba ngôi, tình vấn vít với lòng yêu, mà đạo nhà không chính; Thái Tông làm ra Nam sơn năm ngọn, đương tang trở lại vui chơi, mà đạo hiếu không còn; Thánh Tông theo lối cũ của Thái Tổ mà lập hoàng hậu quá chế độ; Nhân Tông nghe lời của mẹ đẻ, mà mẹ đích đem giam giết đi; còn như cấm con gái các quan lấy chồng trước khi sung tuyển, thì Thần Tông say đắm nữ sắc; yêu chuộng kẻ quyền thần dâm loạn, thì Anh Tông yêu dùng gian tà; Cao Tông lấy hoang dâm làm thích; Huệ Tông lấy tửu sắc làm vui. Đạo tu tề trị bình của Đế vương có như thế chăng? Bề tôi trong triều, thì có Lý Đạo Thành được thác cô, Tô Hiến Thành làm Phụ chính, cũng gần như trung ái của Y Doãn, Chu Công, cố nhiên đáng khen. Còn những bực như Đào Cam Mộc, Đào Thạc Phụ, Lương Nhậm Văn, Đào Xử Trung, Lý Đạo Kỷ, Liêu Gia Trinh, Kim Anh Kiệt, Tào Lương Hàn, Dương Cảnh Thông, Ngụy Trọng Hoằng, Lưu Vũ Nễ, Lý Công Bình, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Kính Tu, không biết can vua để nêu tục tốt, cho nên chính trị không được bằng đời cổ là phải. Đến như Đỗ Anh Vũ kiêu dâm, Đàm Dĩ Mông ngang ngược, có kể làm gì […].
Nguồn: Đ4, tr.36-38.
NĂM 1516 (BÍNH TÝ)
Ngày 2 tháng 5 (19 tháng Tư – Bính Tý)
318. Dương Bảo phát hịch giúp nước đánh Trần Cảo
Trần Cảo vốn là viên quan coi điện Thuần Mỹ, người trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường (Hải Phòng), tự xưng là cháu chắt của Trần Thái Tông, là họ ngoại của Quang Thục Hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ của Lê Thánh Tông. Bên cạnh Trần Cảo có con trai là Trần Cung, Phan Ất – người Chiêm Thành, gia nô của Trịnh Duy Đại – Đinh Ngạn, Đinh Nghệ, Công Uẩn, Đình Bảo, Đoàn Bố. Tập hợp ban đầu của quân Trần Cảo thể hiện phần nào những mâu thuẫn của xã hội lúc đó.
Mùa xuân, tháng Ba năm Bính Tý (1516), Trần Cảo dấy quân ở chùa Quỳnh Lâm (xã Hạ Lôi, huyện Đông Triều, Quảng Ninh), chiếm cứ các huyện Thủy Đường (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đông Triều (Quảng Ninh). Chỉ tháng sau, quân Trần Cảo đã tiến sang Tiên Du, Quế Dương, Gia Lâm, đến bến Bồ Đề, nhằm vào Kinh đô.
Vốn bất mãn với Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản nhân dịp này cùng với Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm lấy cớ đi đánh Trần Cảo, điều quân về bến Thái Cực, đang đêm dẫn hơn 3000 quân các vệ Kim ngô, Hộ vệ vào cung. Vua Lê hốt hoảng tướng quân Trần Cảo ập đến, chỉ kịp cùng viên Thừa chỉ – kẻ suốt ngày đêm uống rượu, đánh bạc ở nội điện – lén tắt qua cửa nhà Thái học và rồi bị Trịnh Duy Sản giết chết cả vua lẫn tôi.
Nguyễn Hoằng Dụ đang án ngữ tại Bồ Đề, dẫn quân trở về Kinh đốt phá nhà cửa phố xá, giết chết Vũ Như Tô – viên Đô đốc kiêm kiến trúc sư coi các sở ở Công bộ và công trình Cửu Trùng Đài.
Nhân cơ hội Kinh thành vừa trống không, Trần Cảo tiến quân trở lại, chiếm được Kinh thành Thăng Long. Sự kiện này được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại như sau:
“Ngày 11, Trần Cảo lấy Kinh thành, tiếm đặt niên hiệu là Thiên Ứng, ra chầu làm việc, dùng Lê Quảng Độ coi việc nước. Khi ấy Đô lực sĩ là Thiết Sơn bá Trần Chân, người xã La Ninh huyện Từ Liêm, tập hợp các cựu dũng sĩ con em và hương binh 5, 6 nghìn người, nổi dậy ở chợ Hoàng Hoa. Cảo nghe thấy, bèn chia đường sai Phan Ất từ xã Bảo Đà huyện Thanh Oai tiến đi. Chân cũng từ xã Dư Dụ huyện Thanh Đàm kéo đến. Chân đem quân đón đánh trước, khi tiến đến Cồn Bắn, ra sức đánh nhau với Ất, khí giới hết cả, lấy vò lọ nhỏ để ném. Chân răng và miệng bị thương đau lắm, lại vì quân cô không có cứu viện, khó lòng ở lâu, bèn đêm rút về đóng ở chợ Hoàng Hoa. Khi ấy bọn Dương Bảo cũng có hịch giúp nước đánh giặc Cảo”.
Nguồn: Đ4, tr.795.
NĂM 1521 (TÂN TỴ)
Tháng 4 (tháng Ba – Tân Tỵ)
319. Nhiều người trong dòng họ Dương cung tiến ruộng Tam bảo cho chùa Đại Bi
Theo Công đức điền Tam bảo hiện còn tại Kiến Hưng (Hà Đông – Hà Nội) tạo tháng Ba năm Tân Tỵ, niên hiệu Quang Thiệu 6 (1521) thì khi đó tại thôn Mậu Lương Hạ, xã Thanh Oai Trung, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam đã ghi danh các quan viên, xã trưởng cùng nhiều già trẻ trong đó có các ông Dương Văn Nghi, Dương Văn Tuy, Dương Văn Tri, Dương Văn Bân, Dương Lịch, Dương Tuấn, Dương Văn Nhàn… cung tiến ruộng Tam bảo cho nhà chùa.
Nguồn: V3, tr.60-63.
NĂM 1522 (NHÂM NGỌ)
Ngày 7 tháng 9 (28 tháng Bảy – Nhâm Ngọ)
320. Dương Kim Cao theo Mạc Đăng Dung bàn việc phế bỏ Quang Thiệu lập Hoàng đệ Xuân
Ngày 5-5-1522 (20 tháng Tư – Nhâm Ngọ), giặc ở Kinh thành nổi lên như ong, đốt cháy nhà cửa, phố xá khắp nơi. Cùng khi ấy, tại Đông Ngàn thuộc phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc, Lê Bá Cương và Lê Bá Hiếu cũng nổi dậy. Ngày 6-9-1522 (27 tháng Bẩy – Nhâm Ngọ), trước áp lực và mối đe dọa ngày một lớn của Mạc Đăng Dung, nhà vua phải chạy ra huyện Minh Nghĩa (sau này là Tùng Thiện – Sơn Tây). Ngày hôm sau Đăng Dung mới biết, đem quân đi đón chặn các chỗ quan yếu, kéo cờ ở Kinh thành, truyền lệnh cho các nhà ở phường phố không được kinh động. Lại sai Hoàng Duy Nhạc đem binh mã đuổi theo kịp vua ở huyện Thạch Thất. Vua đem quân huyện Thạch Thất chống lại, bắt được Duy Nhạc. Ngày hôm ấy, Đăng Dung vào kinh thành, tha cho Trình Chí Sâm và Nguyễn Thì Ung ra khỏi tù (trước đây, vua cho là hai người này về bè với Đăng Dung, đem giam ở điện Quỳnh Vân, chưa kịp giết, thì vua chạy ra ngoài) rồi cùng với Thái sư Lang quốc công Lê Phụ, Mỹ Quận công Lê Chu, Cẩm Sơn hầu Lê Thúc Hưu, Hoành Lễ hầu Phạm Gia Mô, Đoan Lễ hầu Dương Kim Cao, Quỳnh Khê hầu Vũ Hộ, Dương Xuyên hầu Nguyễn Như Quế bàn lập em vua là Xuân và buộc Hoàng đế Xuân ra lời sắc dụ rằng: – Ta là cháu của Đức Tôn Kiến Hoàng đế, con thứ ba của Minh Tôn Triết Hoàng đế, em ruột của Quang Thiệu Hoàng đế, nay vì đêm ngày 27 tháng Bẩy năm Quang Thiệu thứ 7, Quang Hiệu Hoàng thượng bị kẻ gian bắt hiếp phải thiên ra ngoài, triều thần là Thái sư Lạng Quốc công Lê Phụ, Thái phó Nhân Quốc công Mạc Đăng Dung và các Công, Hầu, Bá, Phò mã, Đô úy, các quan văn võ, cùng lòng suy tôn, đều nói rằng nhân dân không thể không người đứng chủ, ngôi báu không thể bỏ không lâu ngày, cùng xin ta nối giữ nghiệp lớn. Tạ vì Tôn Xã và nhân dân, nghĩa không thể từ chối được, đã tạm trông coi các việc trong cung rồi, các quan văn võ trong ngoài cứ giữ chức như cũ. Quân hộ vệ và tướng sĩ các dinh ở Kinh phải túc trực nghiêm cẩn, phòng giữ như phép. Nhân dân ở phủ Phụng Thiên và các phủ huyện xã đều nên ở yên, làm ăn vui vẻ, để hưởng phúc sinh toàn”. Ngày 30, Lê Chu và Nguyễn Như Quế đón Hoàng đệ Xuân sang Hồng Thị ở huyện Gia Phúc làm hành điện, và gấp sai quân dân đắp lũy Cẩm Giàng để phòng giữ.
Nguồn: Đ4, tr.813-814.
Ngày 9 tháng 9 (30 tháng Bẩy – Nhâm Ngọ)
321. Dương Khải cùng một số trung thần theo Quang Thiệu chống lại Mạc Đăng Dung
Khi đó Phó đô tướng Bắc Giang Phúc Sơn bá Hà Phi Chuẩn, Bình Hồ bá Nghiêm Bá Ký, Phúc Nguyên bá Nguyễn Xí, Phù Hưng bá Phạm Tại đã nhận được mật chiếu và văn phủ dụ của Quang Thiệu đế từ trước, bèn đem các con em ở Bắc Giang đều đóng quân ở sông Tây Kiều huyện Đông Ngàn, Lâm Xuyên bá Đàm Thận Huy, Chưởng Hàn lâm viện Nguyễn Hữu Nghiêm và Dương Khải đều ở cả đấy. Đăng Dung đốc các tướng cầm cự với Phi Chuẩn. Đăng Dung dụ Phạm Tại làm hướng đạo. Nguyễn Bá Ký thua chạy. Khi ấy, văn thần là Nguyễn Bỉnh Hòa, Phạm Chính Hoa, Nguyễn Bạt Tụy, Chử Sư Đổng cùng đến xã Lãm Sơn huyện Quế Dương, cùng với Phạm Khiêm Bính mưu đi theo Quang Thiệu đế, thấy Khiêm Bính đã ở dinh của Phi Chuẩn rồi, biết là việc không thành, bèn cùng nhau đến yết kiến Hoàng đệ Xuân.
Tháng Bẩy ngày mồng 1, Đăng Dung cùng với bọn Lê Phụ đem các quan cùng tôn Hoàng đệ Xuân lên ngôi Hoàng đế. Xuống chiếu rằng: “Trời lập vua là vì dân, vua kính trời để thương dân. Anh ta là Quang Thiệu Hoàng thượng, kính chịu phúc trời, nối theo tông tổ, dẹp yên loạn lạc, trở lại chính thống, ban ra ân đức để yên nhân dân, đến nay đã 7 năm, đêm ngày 27 tháng Bẩy năm nay, bị kẻ gian thần bắt hiếp thiên ra bên ngoài. Triều thần là bọn Lê Phụ lấy ta là con thứ hai của Minh Tôn Triết hoàng đế, em ruột của Quang Thiệu Hoàng thượng, đồng lòng suy tôn, hai ba lần khuyên mời lên ngôi. Ta lấy Tôn Miếu sinh dân là việc hệ trọng, cố ý từ chối không được, bèn kính cáo Tôn Miếu, lấy ngày mồng 1 tháng Tám năm nay lên ngôi, đổi niên hiệu làm Thống Nguyên năm thứ 1, đại xá thiên hạ cộng 32 điều”.
Tháng 9 (tháng Tám – Quý Mùi) Mạc Đăng Dung phế Quang Thiệu đế làm Đà Dương Vương, đày đi Tuyên Quang.
Nguồn: Đ4, tr.814, 818.
NĂM 1526 (ẤT DẬU – BÍNH TUẤT)
Ngày 19 tháng 1 (17 tháng Chạp – Ất Dậu)
322. Dương Kim Cao được cử làm Đề lĩnh Tứ thành Quân sự vụ
Viên Đề lĩnh này còn được phong Đoan Lễ hầu. Ngày 14-3-1256 (12 tháng Hai – Bính Tuất) Cao lại được làm Lưu thủ Đông Kinh.
Nguồn: Đ4, tr.819-820.
NĂM 1532 (NHÂM THÌN)
Mùa xuân
323. Dương Hạng thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ nhà Mạc
Tại khoa thi Hội, Nguyễn Thiếu, Bùi Vinh, Ngô Sơn Khoái đậu Đệ nhất Tiến sĩ (Tiến sĩ Cập đệ), Nguyễn Địch Khang, Hoàng Du, Dương Hạng, Lương Quý, Trần Dự, Trần Nguyên Khải đậu Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Lượng Bật 18 người đậu Đệ tam Tiến sĩ.
Dương Hạng, con trai Dương Trực Nguyên, sinh năm 1507, làm quan cho nhà Mạc đến chức Thị lang tước Vị Hủy bá, sau bị giáng làm Thừa chính sứ.
Nguồn: Đ4, tr.828-829; C1, tr.368-369
Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Thìn)
324. Mạc Đăng Doanh phong hoạn quan là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất thống quản ba phủ ở Thanh Hóa
Năm 1530, Lê Ý, con của Công chúa An Thái, cháu ngoại nhà Lê, đã khởi binh chống Mạc ở Da Châu (sau là châu Quan Hóa, Thanh Hóa), tự xưng làm vua, nhiều người theo về hưởng ứng, quân sĩ có đến vài vạn.
Mạc Đăng Dung và Đăng Doanh đã đích thân cầm quân đi đánh dẹp Lê Ý nhưng không thành công, sau cử Mạc Quốc Trinh ở lại đối phó. Khi Lê Ý trở nên tự kiêu, chủ quan khinh suất, Mạc QuốcTrinh đã đem thủy binh tinh nhuệ đến đánh úp tại trại Da Châu, bắt sống được Lê Ý, giải về Kinh sư xé xác. Ngay sau khi Lê Ý bị giết hại, năm 1531, bề tôi cũ của nhà Lê là Bích Khê hầu Lê Công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ Trường, Nguyễn Nhân Liên (Công Uyên người làng hải Lịch huyện Lôi Dương, Thọ Trường người làng Hà Nội huyện Nông Cống, Nhân Liên người huyện Chương Nghĩa xứ Quảng Nam) nổi quân ở Thanh Hoa. Bấy giờ Công Uyên giận họ Mạc không giữ đạo vua tôi, mới đem con em về Thanh Hoa nổi quân, cũng xưng là quân của nhà Lê, bắt người cướp của ở các quận huyện, đốt phá nhà dân. Hoặc có kẻ chết tại trận, hoặc có kẻ bị bắt đưa về Kinh, dân một phương chịu hại riêng, không được nghỉ ngơi, nhân dân đói kém, 1 thăng gạo trị giá 1 tiền. Đến sau có người Sơn Đông tên là Hùng Sơn, vì có tội với họ Mạc, đem con em vài trăm người trốn vào Thanh Hoa, dựng doanh trại, giữ được vài tháng, Đăng Doanh sai tướng đi đánh. Sơn đóng ở thôn Ngọc Huân, rồi ốm chết, quân tán loạn. Để tiếp quản và cai trị vùng đất Thanh Hóa đông người nhiều của, Mạc Đăng Doanh đã phong hoạn quan là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất (người huyện Hoằng Hóa) làm Đại tướng quân, sai đem binh mã thống quản ba phủ ở Thanh Hoa, cùng với quan Tam ty Tổng trấn binh dân một phương. Thấy vậy, Tây An bá Lê Phi Thừa (người xã Hương Thị huyện Yên Định vốn là Xá nhân) gièm rằng: – Chỗ đất Ái Châu núi sông hiểm trở, ruộng đất tốt mầu, binh lương nhiều đủ; vả lại quyền nên chia không nên cho chuyên, nếu chuyên quyền tất sinh họa loạn, lỡ xảy có biến sợ sau khó lòng kiềm chế, mà đất ấy sẽ không phải là của triều đình nữa. Thần xin xét kỹ lại, chớ để có sự hối hận về sau! Đăng Doanh bèn chia Thanh Hoa ra làm đôi, 7 huyện Thụy Nguyên, Yên Định, Vĩnh Phúc, Đông Sơn, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Quảng Bình thì giao cho Lê Phi Thừa quản thống, để khống chế Trung Hậu hầu. Đến khi Phi Thừa được quyền, càng thêm kiêu túng, rồi xin đổi lòng.
Nguồn: K3, tập 2, tr.107; Đ4, tr.832-833; Đ9, tr.276-277.
NĂM 1535 (ẤT MÙI)
Mùa Xuân
325. Dương Mậu, Dương Xân thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc
Khoa thi Hội này, nhà Mạc lấy Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khắc Đốc, Nguyễn Thừa Hưu đậu Đệ nhất Tiến sĩ; Nguyễn Di Lượng 7 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Trùng Quang, 22 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Dương Mậu, người xã Lạc Thổ, cùng quê với Dương Như Châu, làm quan đến Thị lang tước Bá thời Mạc Đăng Doanh. Dương Xân, người xã Cao Hương, tổng Hào Kiệt, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, Vụ Bản – Nam Định), làm quan đến Hình bộ Hữu thị lang, tước Diên Hà bá của nhà Mạc.
Nguồn: D4, tr.833; C1, tr.378-384.
NĂM 1537 (ĐINH DẬU)
Tháng 5 (tháng Tư – Đinh Dậu)
326. Lê Phi Thừa cướp phá vùng đất do Dương Chấp Nhất quản lý, quy thuận Nguyễn Kim
Kể từ tháng 1-1532 (tháng Chạp – Nhâm Thìn) công cuộc khởi dựng lại sự nghiệp nhà Lê được trao vào tay Nguyễn Kim – con trai của Nguyễn Hoằng Dụ – một danh thần của nhà Lê. Đăng Dung cướp ngôi, Nguyễn Kim lánh sang vùng Sầm Châu (Sầm Nưa thuộc Lào) nương nuy. Được vua Ai Lao lúc đó là Sạ Đẩu giúp đỡ, cấp cho đất và dân để nuôi dưỡng quân lính, chiêu nạp tướng sĩ, ngầm mưu khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim xây dựng căn cứ ở vùng núi tây nam Thanh Hóa thuộc biên giới Việt – Lào, thuận tiện cho việc qua lại, tiếp tế, ẩn náu. Năm 1531, Nguyễn Kim đã dẫn quân từ Ai Lao về Thanh Hóa. Mạc Đăng Dung sai quân đi đánh, bị thua. Đầu năm 1533, Nguyễn Kim tìm được một người con của vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, cho lập làm vua – tức vua Lê Tang Tông, niên hiệu Nguyên Hòa, người khởi đầu triều Lê Trung hưng, từ đó Nguyễn Kim được phong là Thái sư Hưng Quốc công, trông coi mọi việc quân binh, triều chính.
Nhận thấy đây là cơ hội thoát khỏi cái bóng của Dương Chấp Nhất, tháng 5-1537, Lê Phi Thừa tập kích vào vùng đất của viên hoạn quan ấy gây 1 tổn thất cho nhà Mạc rồi thu quân sang Lào theo Nguyễn Kim. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, Tây An hầu Lê Phi Thừa có ý bất bình, thường nói ra những câu phẫn uất, càng ngày càng kiêu ngạnh. Thái sư Nguyễn Kim sai người bóp cổ chết.
Nguồn: Đ4, tr.832-835
NĂM 1538 (MẬU TUẤT)
Mùa xuân
327. Dương Duy Nhất, Nguyễn Hoành Xước thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc
Khoa thi Hội này lấy Giáp Hải, Trần Toại, Hoàng Sầm đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Phan Cảo 8 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Hoàng Thuyên 25 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ (Đại Việt Thông sử gọi là khoa thi Cử nhân).
Dương Duy Nhất, người xã Vĩnh Thái, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức – Sơn Tây (nay thuộc Hoàn Kiếm – Hà Nội) nhưng trú quán tại thôn Đông Hoa, xã Dị Sử, tổng Phá Lãng, huyện Lang Tài, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Đông Hương, thị trấn Thía, Lang Tài – Bắc Ninh). Nguyễn Hoàng Xước là con trai của Hoàng giáp Nguyễn Duy Tường, thân phụ của Tiến sĩ Nguyễn Thế Thủ và Cao tổ của Hoàng giáp Nguyễn Quang Luân.
Nguồn: Đ4, tr.833-834; Đ7, tr.278; T19, tr.72.
NĂM 1539 (KỶ DẬU)
Tháng 11 (tháng Mười – Kỷ Dậu)
328. Dương Quang Bật có công trong triều chính của Mạc Đăng Doanh
Bia không tiêu đề, thường gọi là Bia Bà ghi về sự tích Đệ nhị Cung phi đời Mạc Thái Tông (1530-1540) do Nguyễn Tiến Thanh – Bùi Hoằng soạn tháng Mười – Kỷ Dậu (1539), trước dựng tại cánh đồng Đa Bang, sau chuyển về đình La Khê, tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Văn Khê, Hà Đông – Hà Nội) cho biết, Đệ nhị Cung phi là con gái Đô Lực sĩ Thái Sơn bá Trần Châu, quê ở làng này, được đón vào cung làm Phi tử cho Thái tử Mạc Đăng Doanh. Năm Nhâm Thìn (1532) sau khi sinh con, sức khỏe của bà bị hao mòn, bà trở về quê trị bệnh, được Bản cung Cung phó Dương Quang Bật, Ngự y Đàm Hữu Luân và Nữ quan Hồ Tiểu Ứng hết lòng chăm sóc nhưng bà không qua khỏi.
Nguồn: T1, số 6/207. Tr.72-75.
NĂM 1540 (CANH TÝ)
Tháng 12 (tháng 11 – Canh Tý)
329. Dương Duy Nhất cùng Phái bộ nhà Mạc lên Nam Quan
Trước sự đe dọa của nhà Minh, đầu năm 1538 nhà Mạc sai Văn Trường bá Phạm Chánh Nghị mang thư cáo cấp đến Vân Nam, giải thích việc chấp chính của mình và phủ nhận gốc tích không rõ ràng của Lê Ninh “họ Lê không có con nối, khi Khoáng sắp mất có bàn với quân thần, cha con Đăng Dung đều có công với nước, vậy giao ấn tín cho y để giữ nước. Bởi thế cả nước suy tôn Dung lên ngôi. Sở dĩ không dâng biểu xưng thần và nộp cống là vì năm trước Trần Thăng (tức Trần Cung) chiếm cứ Lạng Sơn, nghẽn đường không qua được, về sau lại bị các quan giữ cửa ải của Thượng quốc đóng cửa không cho qua. Còn như Lê Ninh là con của tên loạn thần Nguyễn Kim, mạo xưng họ Lê chứ không phải là con trai của Huệ”.
Tháng 3-1539, Mạc Đăng Dung sai Nguyễn Văn Thái lên Nam Quan dâng biểu.
Mùa thu năm Canh Dần (10-1954), quân Minh do Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm Tổng đốc Quân vụ, Thượng thư bộ Binh Mao Bá Ôn làm Tham tán Quân vụ đến Quảng Tây. Bá Ôn truyền hịch phô trương thanh thế, lên giọng Hưng diệt kế tuyệt và ra giá “nếu ai mang quận huyện đến hàng sẽ được giao cho cai quản hành chính quận huyện đó, giết hoặc bắt cha con Mạc Đăng Doanh được thưởng 2 vạn lạng vàng, quan cao, tên tuổi được ghi công 2, 3 lần”, vừa dụ dỗ “cha con Đăng Dung muốn trói tay chịu tội, nạp đủ số hộ tịch, nạp cống, tuân theo mệnh sẽ được tha chết” với hạn định là “ngày 3 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 19 đến hàng”. Trước động thái đó, Đăng Doanh rất lo, liền cho tu sửa trại sách, luyện tập thủy quân, trưng cầu hết thảy các cựu thần lão tướng để cùng bàn việc nước, phục chức cho Thái bảo Vũ Hộ làm Tây quân Tả đô đốc Chưởng phủ sự, mời tới triều đình bàn chính sự, mặt khác Mạc Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và 40 bề tôi là Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vinh… qua trấn Nam Quan dâng biểu xin hàng, thuận lòng đem trả lại nhà Minh đất 4 động Tư Lẫm, Liễu Cát, Kim Lặc, Cổ Sâm vốn thuộc Khâm Châu do các thổ tù họ Hoàng cai quản, năm 1427, đã đem đất 4 động đó xin nội phụ vào An Nam. Nhà Lê cho vùng đất đó thuộc vào châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, nhưng các thổ tù họ Hoàng vẫn thế tập cai quản và nhà Minh vẫn ra sức chiêu dụ các thổ tù, đòi nhà Lê phải trả lại đất. Như vậy là nhà Mạc chỉ trả lại đất vốn của Trung Quốc cho nhà Minh, hoàn toàn không phải cắt đất đem dâng cho nước ngoài như lâu nay sử sách vẫn chép.
Nguồn: Đ4, tr.834; Đ3, tập 2, tr.1299-1230.
NĂM 1541 (TÂN SỬU)
Mùa xuân
330. Dương Ức thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc
Kết thúc kỳ thi Hội, nhà Mạc cho Nguyễn Kỳ, Phạm Công Sâm, Nguyễn Thế Lộc đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Ngô Quang 4 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Phạm Nguyên 23 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Dương Ức, người Hóa Trung, tổng Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc phường Vinh Quang – thành phố Thái Nguyên), làm quan đến Thừa chính sứ.
Nguồn: Đ4, tr.835; Đ7, tr.280.
NĂM 1543 (QUÝ MÃO)
Mùa xuân
331. Dương Chấp Nhất mang quân quy phục Lê Trang Tông tại Tây Đô
Sau một thời gian, Nguyễn Kim đã đem quân về chiếm cứ một số địa phương vùng Thanh – Nghệ, đưa Lê Trang Tông vào Tây Đô (1543), xây dựng các hành điện, hành tại ở Vạn Lại, Yên Trường (đều thuộc Thọ Xuân, Thanh Hoá). Đông đảo hào kiệt và nhân dân các nơi kéo về hưởng ứng, thanh thế càng mạnh. Đầu năm đó, với một lực lượng hùng mạnh, vua từ thành Tây Đô tiến quân. Tướng họ Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đem con em đến trước quân lạy chào ở cửa Nam thành Tây Đô. Ba quân dõng dạc cả mừng. Bấy giờ Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim còn ở Ai Lao chưa theo đi. Vua sai Tuyên Quận công Trịnh Công Năng mang chiếu thư về gọi. Nguyễn Kim bèn chỉnh đốn bộ ngũ, ngay ngày ấy lên đường, đến bái yết ở hành tại trên sông Nghĩa Lộ. Vua mừng lắm, gia thăng Thái tể, sai làm Đô tướng Tiết chế tướng sĩ các dinh chia đường đều tiến, dẹp yên dân miền Tây Nam, hễ đánh là thắng.
Nguồn: K3, tập 2, tr.122; Đ4, tr.836; Đ7, tr.280.
NĂM 1544 (GIÁP THÌN)
Mùa xuân
332. Dương Bạt Tụy thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc
Khoa thi Hội năm này lấy vũ Kính 3 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ, Nguyễn Dực 14 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Dương Bạt Tụy, người xã Lôi Trạch, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng trấn Hải Dương (nay thuộc xã Hòa Bình, Vĩnh Bảo – Hải Phòng), làm quan đến Thừa Chánh sứ.
Nguồn: Đ4, tr.837; D7, tr.281.
Mùa hè
333. Dương Bàng cung tiến tiền của chuộc lại đất ruộng, ao chùa Đức Mục
Văn bia Kiều Trì thôn Đức Mục tự bi tạo năm Quảng Hòa 4, được dựng tại xã Hà Trì, tổng Hà Trì, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc Hà Đông – Hà Nội) do Tiến sĩ Nguyễn Tiến soạn, cho biết:
Phàm ở làng lấy hòa làm quý. Nếu hòa thuận ở làng thì tục làng mới tốt và lòng mới hướng cả về việc thiện vậy. Thôn Kiều Trì là làng quê văn vật của Thanh Oai ta. Nơi đây đất đẹp dân thuần, tục cổ. Bởi qua nhiều cuộc binh hỏa mà mốc đá tản mác, ruộng đất ao chùa có chỗ bị lấn chiếm. Muốn hoàn lại đất phúc, phải chờ những bậc đại phúc. May mà các vị đứng đầu trong giáp đã hòa lại thuận; vui vẻ lấy ân tình để cùng thương yêu nhau, ôn tồn lấy từ thiện để khuyến khích nhau.
Lại e rằng do lâu ngày mà thất truyền, bèn khắc vào bia đá. Chẳng những khiến người làng hiện nay nức lòng làm điều thiện, bỏ mối tham mà còn khiến cho muôn đời sau người trong làng nhìn vào cùng phấn khởi mà đi theo con đường thiện ấy. Thế thì quả phúc sẽ tròn. tục làng sẽ hậu. Há chẳng phải là do hòa thuận mà sinh ra vậy sao? Tôi tuy vụng về nhưng may mắn được ở làng quê này lại cùng mọi người chung lòng lạc thiện, đâu dám tự ý riêng, chính vì điều đó mà đặt tên chùa là Đức Mục.
Dương Bàng, thay mặt mấy gia đình ở giáp Phú Khê đã tham gia vào các việc làm kể trên.
Nguồn: V8, tr.70-73; V11, tr.90-92.
Ngày 2 tháng 10 (26 tháng Tám – Giáp Thìn)
334. Dương Đình Tuấn, Dương Ngọc Bảo được ghi danh cung tiến tiền của tu bổ chùa Đặng (Hiển Linh tự)
Hiển linh tự bi dựng tại chùa Hiển Linh, xã Thanh Đặng, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Thanh Đặng, Văn Giang – Hưng Yên) tạo vào thời điểm trên ghi rằng:
Toà Phật điện của chùa bị hư hỏng, đột nát. Ngày 24 tháng Mười năm Quý Mão (10-11-1543), học sinh Phan Đình Bảo và vợ là Tiền Quận phu nhân Thang Thị Uyển thấy Phật điện chùa cổ ở phía tây xã vốn rất anh linh, thường giúp sinh ra nhiều nhân tài, chức trọng. Liền bàn với ngài Tiền Hiệu lực Hậu vệ Chỉ huy đồng tri Thang Lặc và vợ là Lê Thị Lộ, cùng Vương Trị, nguyên Huyện thừa huyện Ý Yên và vợ là Thang Thị Phong đồng tâm đồng sức, bỏ gia tài, mua gỗ lim tu sửa Phật điện hoàn tất.
Vì thế dựng bia, kê họ tên và ruộng, đất Tam bảo.
– Tín chủ 4 vị: Thang Thị Uyển, người xã Thanh Quan; Lê Thị Lộ người xã Thanh Đặng; Thang Thị Phong tự Diệu Thiện, Phan Đình Bảo người xã Thanh Quyết.
– Tín thí 34 người, gồm: Dương Đình Tuấn, Dương Ngọc Bảo […].
Nguồn: V11, tr.87-89.
NĂM 1545 (ẤT TỴ)
Ngày 18 tháng 6 (20 tháng Năm – Ất Tỵ)
335. Dương Chấp Nhất sát hại Nguyễn Kim
Hàng tướng Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất ngầm chứa hai lòng. Bấy giờ đại quân tiến đóng Yên Mô (nay thuộc Ninh Bình). Nhân trời nóng nực, Dương Chấp Nhất mời Thái tể Nguyễn Kim đến dinh của hắn, ngầm bỏ thuốc độc trong quả dưa dâng lên trước mâm cỗ. Thái tể tin lòng ăn dưa, bị thuốc độc, đến khi về trong lòng buồn bực rồi chết. Trung Hậu hầu đêm hôm ấy trốn đi, lại về với họ Mạc (Trước Trung Hậu hầu xuất thân là hoạn quan, trải thờ Mạc Đăng Dung, làm quan đến chức Chưởng bộ, nghe tin vua khởi quân khôi phục bờ cõi, bèn cùng bàn với họ Mạc dùng mẹo trá hàng, định muốn hại vua. Vì việc không làm được mới ngầm bỏ thuốc độc hại Thái tể). Vua xuống chiếu tặng Nguyễn Kim làm Chiêu huân Tĩnh công, thụy là Trung Hiến. Sai người rước linh cữu về Bái Trang huyện Tống Sơn làm lễ chôn rất hậu. Phong con trưởng là Nguyễn Uông làm Lãng Quận công, con thứ là Nguyễn Hoàng làm Hạ Khê hầu, sai coi quân đánh giặc.
Nguồn: K3, tập 2, tr.123-124; Đ4, tr.837; Đ7, tr.281.
NĂM 1546 (BÍNH NGỌ)
336. Dương Bảng thi đậu Chế khoa Ngự thí (Tiến sĩ) nhà Lê
Ông tự là Cát Phủ, hiệu Phúc Sơn, con trưởng của Thủy tổ Dương Thế Thông ở Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), từng đậu Giải nguyên khoa thi Hương năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Thống Nguyên 1 (1522). Thời Lê Trang Tông, tại khoa thi năm Bính Ngọ, niên hiệu Nguyên Hòa 14 (1546) tổ chức tại sách Vạn Lại, tổng Yên Trường, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Châu, Thọ Xuân – Thanh Hóa), Dương Bảng thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ (Thám hoa), làm quan cho nhà Lê đến chức Lại bộ Hữu thị lang.
Kỳ thi này không được sử sách ghi lại. Theo Quỳnh Đôi khoa danh trường biên thì địa điểm thi đặt ở Biện Sơn – Thanh Hóa. Theo Họ Dương Quỳnh Đôi và một số tài liệu khác cho biết, năm Ất Dậu (1885) làng bị đốt phá khi phong trào Cần vương nổi lên nên các sách mệnh của tiên tổ bị cháy cả. Năm Quý Sửu (1913) có ông Nguyễn Văn Giá – có vợ là cháu nội của Tiến sĩ Dương Thúc Hạp, khi làm quan tại Huế, được đọc sách vở ở Quốc sử quán thấy có cụ Cát Phủ trong danh sách Tiến sĩ thời Lê, bèn sao lại gửi về cho dòng họ Dương. Nhận được tài liệu, ông Dương Khánh Nghiên đời thứ 13, cho khắc vào gỗ ngày 4 tháng Năm năm Bảo Đại 19 (24-6-1944) để ghi nhớ. Nội dung như sau:
“Kính cẩn sao chép về sự trạng khoa hoạn của cụ tiên tổ đời thứ nhất.
Vào thời vua Lê Trang Tông chuyển triều đình về hành cung sách Vạn Lại. Sau khi lên ngôi được ba năm thì các vị anh hùng hào kiệt trong thiên hạ theo về rất đông. Năm Bính Ngọ (1546) nhà vua cho tổ chức thi và ra đề bài phú là Tu ki dĩ an bách tính (Tu dưỡng mình để vỗ về trăm họ) và bài luận là Thủ thiên hạ ư nhân tâm (Lấy được thiên hạ ở lòng người). Lấy đỗ Thám hoa Ngô Trọng Điển người ở Đặng Sơn xứ Nghệ An; Dương Cát Phủ người Quỳnh Đôi làm quan đến Hữu Thị lang, được gia phong làm Khiêm cung Kiệt tiết Tuyên lực công thần Lại bộ Gia Hạnh đại phu, tước Đốc Trung tử; lấy đỗ Hoàng giáp Lê Văn Vi ở làng Phan Xá huyện Chân Lộc, Phan Duy Thực ở Yên Thành; lấy đỗ Tiến sĩ các ông Lê Doãn Nguyên ở làng Đào Hoa huyện Đông Thành, Nguyễn Đình Nghĩa làng Xa Lang tỉnh Hà Tĩnh. Các ông Trần Đăng Dụng làng Đồng Luân huyện Nam Đàn, Phan Tiến Thọ làng Hương Cái huyện Hưng Nguyên, Phan Nhân Tường làng Vũ Liệt huyện Thanh Chương, Vũ Duy Nhượng làng Lương Trường, Bích Triều, Nguyễn Tống Ngọc ở Cát Ngạn trong sách Đăng khoa lục không thấy ghi chép, bi kí cũng không thấy có mà người đời sau cũng không thấy truyền, do vậy để tạm tồn nghi đợi tra cứu thêm.
Nguyên bản lưu trữ ở Quốc sử quán cho biết đến khoa Quý Sửu triều ta, triều đình mở khoa thi Hội lấy đỗ Tiến sĩ Nguyễn Văn Giả ở Tri Lễ, Đặng Sơn đã vâng mệnh đến Kinh thi, sao chép đưa về cho họ Dương, lại tuân theo sao lại vào bảng này.
Ngày mùng 4 tháng 5 Bảo Đại 19 (1944), cháu đời thứ 13 là Dương Khánh Nghiên cung kính trang hoàng lại dâng lên”.
Ngoài ra, tại nhà thờ họ Dương vẫn còn giữ được hai đạo sắc phong đề ngày 18 tháng Ba năm Khải Định 2 (9-4-1917) và ngày 25 tháng Bẩy năm Khải Định 9 (24-8-1924).
Nguồn: H3; T9, 2013, tr.452-456.
NĂM 1547 (ĐINH MÙI)
Mùa xuân
337. Dương Phúc Tư, Dương Trí Tri, Dương Đôn Cương, Dương Văn An thi đậu các hạng Tiến sĩ nhà Mạc
Đây là khoa thi Hội do nhà Mạc tổ chức, họ Dương có nhiều người thi đậu và giành học vị ở tất cả các bậc:
– Dương Phúc Tư, người xã Lạc Đạo, tổng Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Ngọc, xã Lạc Đạo, Văn Lâm – Hưng Yên), giành học vị Trạng nguyên (Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh) vào năm 43 tuổi. Làm quan cho nhà Mạc đến chức Tham chính, khi quy thuận nhà Lê vẫn giữ chức cũ. Sau về dạy học, đào tạo được nhiều người thành đạt. Dương Phúc Tư là ông nội của Dương Thuần, cố nội Dương Hạo, viễn tổ Dương Công Thụ (chú).
– Dương Trí Tri, người xã Duy Liệt (còn gọi là Liệt Thượng), tổng Đỗ Chử, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Kỳ Phú, Kỳ Anh – Hà Tĩnh), đỗ Đệ nhị Tiến sĩ, làm quan đến chức Hàn lâm.
– Dương Đôn Cương, người xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc – Vĩnh Phúc), cháu của Dương Tĩnh, đỗ Đệ nhị Tiến sĩ, làm quan đến Hình bộ Hữu thị lang, tước Đạm Giang bá.
– Dương Văn An, người xã Tuy Lộc, tổng Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Bình, trấn Thuận Hóa (nay thuộc xã Lộc Thủy, Lệ Thủy – Quảng Bình, trú tại thôn Phú Diễn, tổng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc phường Phú Minh, quận Nam Từ Liêm – Hà Nội), thi đậu Đệ tam Tiến sĩ khi 34 tuổi, làm quan đến Lại khoa Đô cấp sự trung rồi thăng Thượng thư, Sùng Nham hầu, khi mất được tặng tước Quận công. Ông có tác phẩm nổi tiếng Ô Châu cận lục (1555).
Nguồn: Đ4, tr.838; Đ7, tr.286; C1, tr.407-413.
338. Bài văn sách của Dương Phúc Tự
Để đạt được học vị Trạng nguyên với lời châu phê của Mạc Phúc Nguyên: “Điều đối thiết yếu, chân đại thủ bút, sĩ vị chân nho xuất thế tạo hành” (Trả lời thiết đáng, đúng là một cây bút lớn. Khi đã có bậc chân nho, đạo cứ thế mà hanh thông), Dương Phúc Tư đã thể hiện một cách hoàn mỹ tư duy kinh bang tế thế, đạo quân thần, phép tu thân xử thế của giới nho sĩ đương thời.
Trước khi đi vào trả lời từng câu hỏi của đề thi, Dương Phúc Tư nhấn mạnh về đạo trị nước:
“Thần từng nghe cái cốt yếu của việc trị nước không phải chỉ có một. Trị nước là phải có tâm ngay thẳng. Nhân nghĩa, giao xã, đồn điền, thủy lợi, lục nghệ, đồ thư học hiệu, văn chương đều là cái cốt yếu của việc trị nước. Cho nên trị nước không chỉ là một việc. Vậy nên tâm mình đã ngay thẳng thì việc trị nước sẽ êm thấm, tâm không ngay thẳng thì việc trị nước sẽ rối loạn. Tiếp đó, ông mới tra lời câu hỏi thứ nhất được hỏi là:
“Bậc đế vương cai trị thiên hạ tất phái lấy nhân nghĩa, giao xã, đồn điền, thủy lợi, lục nghệ, đồ thư, học hiệu, văn chương làm điều cốt yếu trong việc cai trị?”. Ông trả lời rằng: “Thần trộm nghe, về nhân nghĩa đã có ghi trong sách Chu thư, giao xã có chép trong sách Trung chuyện, cho nên việc nhân nghĩa, giao xã đáng là việc đầu tiên. Làm cho nước giầu dân đủ là việc đồn điền. Dân làm ruộng phải dựa vào thủy lợi. Vì vậy việc đồn điền thủy lợi cần phải phát triển; lục nghệ đều mang nghĩa lý sâu xa, đồ thư chứa sự thâm thúy của Lý học. Thế thì lục nghệ, đồ thư há không nghiên cứu sao? Trường học là cái gốc của nền giáo hóa, văn chương là tinh hoa của đạo trị nước. Thế thì trường học văn chương há không coi trọng được sao? Nhân nghĩa được thi hành thì sinh dân hưởng lợi. Giao xã dựng lên thì lễ nhờ được minh bạch. Đồn điền lập nên thì đủ quân lương. Thủy lợi phát triển thì tăng thêm của cải trong dân. Không có lục nghệ thì lấy đâu ra vật dụng từng ngày, không có đồ thư thì lấy gì để nghiên cứu phép lớn trị nước. Trường học phát triển thì qua đó nền giáo hóa được tốt đẹp lên. Văn chương phát triển thì thế đạo nhờ đó mà hưng thịnh. Những điều cốt yếu của phép cai trị thiên hạ của bậc đế tương đâu có ngoài những điều trên”.
Câu hỏi thứ hai: “Thế nào gọi là động? Thế nào gọi là tĩnh? Động, tĩnh đúng là có tương thông với nhau không? Thế nào gọi là hợp? Thế nào gọi là phân? Phân, hợp cái nào thì thích hợp? Có phương pháp hoàn thiện việc phòng thủ, giảm bớt sự vất vả của việc vận chuyển, làm cho đất nước đủ cái chi dùng, thực hiện phương pháp này có khó không? Trong thì Kinh đô, ngài thì các quận, xa nữa là nơi biên giới, ai là người có thể khai thác nguồn tài lợi ở những nơi đó?”.
Trả lời: “Thần trộm nghĩ: Nhân nghĩa có động có tĩnh. Cái dụng của điều nhân tuy hòa thuận niềm mỏng nhưng cũng có bao hàm cái ý vận động vượt lên, nên cái thế của nó lại thuộc về động. Cái dụng của nghĩa tuy là cứng rắn nhưng cũng có ý tuỳ thời mà quyền biến nên cái thế của nó là tĩnh lặng thuộc về âm… Ôi! Nhân thuộc động, nghĩa thuộc tĩnh. Điều này xem ra có vẻ không thông. Nhưng xét kỹ thì động đến cực điểm thì trở về tĩnh, tĩnh đến cực điểm thì trở nên động, một động một tĩnh là gốc lẫn cho nhau. Như vậy, nhân nghĩa, động tĩnh há không phải nương vào nhau mà lưu thông sao?…”.
Các câu hỏi tiếp theo về “Phân và hợp” Thịnh và suy” đều được thí sinh giải đáp theo phép biện chứng “Mâu thuẫn – Thống nhất”, “Biến và thông” của Lý học, được lý giải bằng hiện thực lịch sử. Cuối cùng bài văn Chế sách đưa ra kết luận như kiểu một “Kiến nghị” về đạo trị nước, lấy “Nhân nghĩa” làm đầu:
“Thần xin Hoàng thượng bệ hạ gắng thực hành nhân nghĩa, trước sau giữ được đạo nhân nghĩa. Khi nhân nghĩa đã được thực hiện rồi thì suy nghĩ thêm việc thực hiện nhân nghĩa. Khi nhân nghĩa đã được củng cố rồi thì suy nghĩ thêm việc củng cố nhân nghĩa. Thế thì không thể kể hết tác dụng của nhân nghĩa. Cái tốt đẹp của nền cai trị sẽ giữ luôn được tốt đẹp”.
Mở đầu bằng đạo “Chính tâm”, kết thúc bằng thuyết “nhân, nghĩa”, bài văn Chế sách đã biểu hiện rõ cả tâm và tài của tác giả, xứng đáng được nhận lời châu phê “Điều đối thiết yếu, chân đại thủ bút, sĩ vị chân nho xuất thế tạo hành”.
Nguồn: T19, tr.1-14.
NĂM 1550 (CANH TUẤT)
Mùa xuân
339. Đào Minh Dương, Dương Thận Huy thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc
Kỳ thi này lấy Trần Văn Bảo, Trần Vân, Nguyễn Ninh Dương đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Lê Khâm 4 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Thừa Hưu 18 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Đào Minh Dương, còn có tên là Đào Dương Bằng, hậu duệ của Đào Sư Tích, quán tại xã Hộ Xá, tổng Hộ Xá, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, tấn Sơn Nam (nay thuộc Xuân Thủy – Nam Định), làm đến Thừa chánh sứ.
Dương Thận Huy, người xã Lan Giới, tổng Lan Giới, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là xã Lan Giới, Tân Yên – Bắc Giang), làm quan đến Thừa chánh sứ.
Nguồn: Đ4, tr.839; Đ7, tr.289; C1, tr.421.
NĂM 1553 (QUÝ SỬU)
Trong năm
340. Tô Quận công Lê Quang Bí làm thơ vịnh Lê Ngột – con trai Lê Tung
Ông tự Thuần Phu, người thôn Trạch Xuyên, xã Thì Cử, tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Mộ Trạch, Bình Giang – Hải Dương), thi đậu Đệ nhất Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1526) nhà Mạc. Năm 1548, nhà Mạc cử một đoàn sứ sang nhà Minh, do Lê Tiến Quy làm Chánh sứ, Lê Quang Bí làm Phó sứ về việc cống hiến thường niên. Khi đến Nam Ninh, triều Minh ngờ là quan giả mạo, bắt phải chờ để tra xét minh bạch đã mới cho dâng lễ phẩm. Thế rồi gửi văn thư đi tra xét nhưng chẳng có hồi âm, Quang Bí cứ phải lưu tại sứ quán chờ mệnh lệnh. Phúc Nguyên thì vì lúc ấy trong nước nhiều nạn, bỏ khiếm khuyết việc cống hiến đã mấy năm liền nên cũng không dám tâu xin. Đến năm Quý Hợi niên hiệu Gia Tĩnh thứ 42 (1563), quan quân Lưỡng Quảng nhà Minh mới sai người đưa Quang Bí tới Bắc Kinh, Nhân dịp, Phúc Nguyên cũng sai hầu mệnh gửi cho Quang Bí 25 lạng bạc để thưởng lạo. Khi Quang Bí tới Kinh đô lại bị lưu ở xứ quán. Đến lúc này, viên Đại Học sĩ triều Minh Lý Xuân Phương, thương hại Quang Bí ở trong nước Minh đã l8 năm, lúc ra đi tóc mây xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ, như Tô Vũ đi sứ ngày xưa đến lúc bạc đầu mới được hồi quốc.
Khi Quang Bí trở về tới Đông Kinh, Phúc Nguyên tỏ lời an ủi, thấy sứ sự của ông giống hệt Tô Vũ bèn phong cho tước Tô Quận công.
Đằng đẵng gần 20 năm lưu lại quê người, lòng ông luôn nhớ về đất nước, nhân đó soạn ra tập thơ về chư vị tiền nhân quá vãng trong lịch sử học thuật được thờ phụng của bản xã, gồm 66 bài, gửi về quê nhà. Tập thơ được lấy nhan đề là Tư hương vận lục (Thơ nhớ quê). Trong số những bài đó, có một bài viết về Lê Ngột – con trai của nhà sử học Lê Tung (Dương Bang Bản) như sau:
“Đông vụ tây trì khẳng ngoại cầu
Bất từ tiểu chức lạc hưu hưu
Tự tùy cầm kiếm tam thiên lộ
Nhậm bả công danh nhất diệp châu
Khách lý ưu du tiêu tuế nguyệt
Sĩ trung tiêu sái hảo phong lưu
Tế nhân Trăn Vị âm công tại
Thiểu nhượng tiền hiền nhất địa đầu”.
(Rong ruỗi đông tây há đâu vì cầu kiếm vật ngoại thân
Không nề chức trách dù nhỏ, giữ lòng vui hớn hở
Bên thân mang lấy đàn và kiếm trải khắp ba ngàn lối đời,
Đối với công danh chỉ là một chiếc đò nhẹ
Giữa cảnh làm khách giữa đời, thong dong vui vẻ
rong chơi tuế nguyệt
Trong chốn quan trường thư thái hưởng thú phong lưu
[Như người xưa] cứu giúp trăm họ nơi sông Trăn, sông Vĩ,
âm công còn mãi
Chỉ nhường bước một chút so với những bậc tiền hiền
hàng đầu [trong sử]).
Nguồn: T14, tr.465.
NĂM 1555 (ẤT MÃO)
Ngày 22 tháng 7 (15 tháng Sáu – Ất Mão)
341. Dương Văn An hoàn thành sách Ô Châu cận lục
Sinh thời, Dương Văn An sống và làm việc chủ yếu tại trú quán là xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm chứ không phải ở sinh quán là xã Tuy Lộc huyện Lệ Thuỷ, nhưng, dường như bất cứ lúc nào ông cũng nhớ về quê cha đất tổ, ưu ái đành cho nơi chôn nhau cắt rốn những tình cảm thật chân thành và nồng hậu. Chính những tình cảm thiêng liêng, cao cả và tốt đẹp đó đã thôi thúc ông, tạo ra nguồn cảm hứng và niềm say mê để ông viết nên cuốn Ô Châu cận lục rất đáng quý này. Ô Châu cận lục đã ghi chép những điều thiết yếu về Châu Ô. Điều thiết yếu theo quan niệm của Tiến sĩ Dương Văn An khi viết công trình này là tên phủ, tên huyện, tên châu và tên làng xã thuộc Châu Ô, phải chính xác là tên núi sông, tên bến đò, tên chợ quán và đặc biệt là tên các quan văn, quan võ, người trung nghĩa, bậc tiết phụ vốn là của Châu Ô.
Nguồn: O1, tr.9-11.
NĂM 1563 (QUÝ HỢI)
Ngày 12 tháng 5 (1 tháng Tư – Quý Hợi)
342. Nhiều người họ Dương công đức tu tạo chùa Chân Tiên (Phúc Lâm tự)
Theo Trùng tu Phúc Lâm tự chung minh tinh tự (Bài minh và lời tựa về việc đúc chuông chùa Phúc Lâm) khắc trên quả chuông treo tại chùa Chân Tiên (phố Bà Triệu, Hai Bà Trưng – Hà Nội), đúc ngày 6 tháng Tư năm Thuần Phúc 2 nhà Mạc (15-5-1563) do Tiến sĩ Ngô Bật Lượng soạn ngày 1 tháng Tư cùng năm thì ngôi chùa xây dựng đã từ lâu vốn là một cổ tích, bảo sái nguy nga, thân vàng đột ngột, phía sau nước chảy, trước mặt hướng đông bắc (Dần Thân), vòng quanh phong cảnh tĩnh mịch, mọi vật đều tốt tươi nảy nở như cung Đâu Suất trời đất thế giới cõi tiên.
Nghĩa Quốc phu nhân Trần Thị Ngọc Sắt có tấm lòng hiền từ lớn lao. Lúc đầu bà đã bỏ của cải gia tài ra để làm được nhiều người ca ngợi. Một Thứ phi của Tuyên tông Hoàng đế đã bố thí 10 lượng bạc, Tuy Quận công Tạ Vĩnh Dịch cúng thí 5 lượng bạc. Nhờ có những tấm lòng vàng đó mà thiện nam, tín nữ đều vui vẻ noi theo. Chưa đầy trong một tháng mà của cải quyên góp được như suối chất thành núi, gạo thóc thu về thu được hơn 100 cân đồng. Vào năm Thuần Phúc thứ 2 năm Quý Hợi, ngày 6 tháng Tư, bèn tập thợ kim hoàn, trời đất hân hoan dựng lò mở khoá âm dương làm khuôn xây xung quanh vậy. Vàng dòng trong sạch nước ngưng tụ thành, một ngày mà tạo hoá phôi thai thành hình, xưa nay hiếm có, ở nơi ấy treo lên lầu báu, sớm khua, chiều đánh, đã trọn vẹn, tiếng kêu như tiếng sấm kình rộng khắp mọi người nghe thấy, khiến cho công đức boong boong chở khắp, dưới thì truyền lại phúc khánh há chẳng là vô cùng thay. Vả lại chuông đã thành mà bài minh thì chưa, bài tự ở ta, ta thường ghi bậc tiên nho có mà chăng thảo ra ghi chiêu để. Việc người có lòng làm thiện, không thể việc ấy ở trước mắt mình sao.
Bên cạnh sự cung tiến của hàng trăm người, bài minh chuông chùa Phúc Lâm đã ghi danh Kim Lê bá Dương Lực, bà Dương Thị Lẫm, ông Dương Công Chính đã công đức tiền của vào việc đúc quả chuông này.
Nguồn: V11, tr.508-514.
NĂM 1565 (ẤT SỬU)
Mùa xuân
343. Dương Trí Dụng thi đậu Đệ nhất Chế khoa nhà Lê Trung hưng
Nhà Lê Trung hưng đặt Chế khoa để chọn nhân tài, cho Lê Khiêm 4 người đỗ Đệ nhất Chế khoa, Lê Nghĩa Trạch 6 người đỗ Đệ nhị Chế khoa.
Dương Trí Dụng, người xã Bạt Trạc, tổng Nga Khê, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Nhân Lộc, Can Lộc – Hà Tĩnh) sau khi thi đỗ, từng giữ Hộ bộ Hữu thị lang, Binh bộ Tả thị lang lãnh Thừa chánh sứ Sơn Nam
Nguồn: Đ4, tr.849; C1, tr.452-453.
NĂM 1568 (MẬU THÌN)
Mùa xuân
344. Dương Thúc thi đậu Tiến sĩ (không rõ thứ hạng)
Đây là khoa thi Hội được tổ chức dưới triều Mạc, năm Sùng Khang 3, lấy Vũ Hữu Chỉnh đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Đỗ An 4 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Giáp Phong 12 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ. Năm này không thấy sử ghi nhà Lê mở khoa thi.
Trong tổng số 17 vị đại khoa đỗ kỳ thi đó, không có tài liệu nào ghi tên Dương Thúc. Tuy nhiên, theo Trùng tu tạo tác/ Thánh thượng tiền triều/ Lê Đại Hành Hoàng đế/ Bi ký tịnh minh dựng tại điện vua Lê, xã Trường Yên Hạ, tổng Trường Yên, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, đạo Thanh Bình (nay thuộc xã Trường Yên, Hoa Lư – Ninh Bình) ghi rõ văn bia do Nghĩa Khê hầu Dương Thúc, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, Thượng thư bộ Hình soạn năm Hoằng Định 12 (1611) nhà Lê. Cũng tại đây còn có bia Tiền triều Lê Đại Hành Hoàng đế miếu do Nguyễn Lễ, hiệu Thuần Khang, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, Tả thị lang bộ Lễ Đông các học sĩ, tước Nghĩa Khê hầu, soạn văn bia vào năm Hoàng Định 7 (1606). Như vậy, Dương Thúc và Nguyễn Lễ là bạn đồng khoa của kỳ thi Hội khoa Mậu Thìncủa kỳ thi Hội khoa Mậu Thìn (1586) thời Lê Trung Hưng.
Nguồn: T12, tập 16, N0 15859-62; 15870-71; V12, tr.672-674.
NĂM 1572 (NHÂM THÂN)
Ngày 21 tháng 5 (23 tháng Tư – Nhâm Thân)
345. Nhiều tín thí họ Dương hưng công để đặt lại hướng chùa Nghiêm Quang
Nghiêm Quang tự bi tạo năm Sùng Khang 7 (1574) tại chùa Nghiêm Quang, xã Cối Xuyên (sau đổi là Hội Xuyên), tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc thị trấn Gia Lộc – Hải Dương) cho biết: Từ khi Đạo sĩ quán Bùi Sĩ Thanh vinh hiển về làng, lại cùng các thiện sĩ đồng lòng nhất trí bỏ hướng Khôn mà theo hướng Tốn để tu sửa lại chùa. Chọn ngày lành tháng Hai năm Nhâm Thân khởi công, qua tháng Ba, hoàn thành. Càng thấy quy mô đẹp đẽ, chế độ mới mẻ. Cột giường, điện gác cao vời vợi. Nhân đó tô tượng Phật.
Chùa Nghiêm Quang, trước âm u mà nay sáng sủa, cũng là điều dễ thấy. Huống chi, hình trạng của chùa ngày nay: họp bầy tiên để làm bạn, góp mọi của báu để sửa sang.
Bàn về địa thế, thì lên điện cao có thể nhìn suốt phía nam, mở cửa lớn có thể xem cả dòng nước phía đông và cả hình thế rộng lớn. Vịnh cảnh, thì có rặng trúc đầy như màn che, mai kín như gai mọc, trải dài từng khóm đến thôn Lương, thôn Quế.
Trải xem các nơi phúc địa, thực đây là một danh lam bậc nhất. Học vấn chỉ là một Hiệu sinh, tôi chỉ muốn ghi lại sự việc ngày nay, khắc rõ vào đá, lưu truyền lâu dài.
Đóng góp vào công việc trên, ở thôn Đức Phong có ông Dương Đức Chiếu; thôn Đại Liên và Mỹ Long có ông Dương Thuận, bà Dương Thị Phố.
Nguồn: T12, tập 13, N012812-3; V11, tr.198-204; V8, tr.140-145.
NĂM 1573 (QUÝ DẬU)
Ngày 14 tháng 11 (1 tháng Một – Quý Dậu)
346. Huyện thừa Dương Hữu Độ cung tiến tu tạo chùa Đại Bi
Đại Bi tự bi do Quốc tử giám Trung xá sinh Nguyễn Trí Tri soạn tạo năm Quý Dậu, dựng tại chùa Đại Bi, xã Bối Khê, tổng Bối Khê, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay là thôn Song Khê, xã Tam Hưng, Thanh Oai – Hà Nội) ghi:
Chùa của hai xã Bối Khê và Hồng Khê thuộc huyện Thanh Oai là ngôi chùa rất danh tiếng.
Ở đây có pho Bồ Tát, chân tượng. Mỗi khi gặp hạn hán, úng lụt; đến cầu đảo đều được ứng nghiệm. Bởi thế từ xưa đã được coi là một nơi thiên định danh lam vậy. Trải lâu đời tượng hư hỏng. Nay có vị Thiền sư là Mậu Pháp cùng Huệ Tu vốn có lòng hiếu thiện, đã đứng ra bỏ tiền của tu sửa tượng Phật. Các ông trong làng xóm là Nguyễn Kim, Phạm Tán… lại cùng bỏ tiền của ra tư mua vật liệu mới.
Vật liệu đã đủ, nhằm ngày 16 tháng Một năm Giáp Tuất (10-12-1572) khởi công tu sửa. Không đầy một tháng mà công việc đã hoàn thành. Chế độ mới hơn, quy mô khác trước. Trong ngày lễ khánh thành, người làm việc thiện, nhà giàu có, cùng cúng tiến tài vật. Nhân đó mời thợ đá về khắc bia để ghi công đức.
Huyện thừa huyện Thanh Oai Dương Hữu Độ là một trong hàng trăm người cung tiến tu tạo chùa.
Nguồn: V8, tr.159-162; V11, tr.214-217.
NĂM 1580 (CANH THÌN)
Tháng 9 (tháng Tám – Canh Thìn)
347. Tín vãi Dương Thị Biết cung tiến tu tạo chùa Đại Từ
Trùng tu Đại Từ tự bi do Nho sinh Tứ lâm cục Nguyễn Công Thường ghi, dựng tại chùa Đại Từ, xã Đông Phan, tổng Hương Đại, huyện Thanh Hà, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Tân An, Thanh Hà – Hải Dương) ghi:
Ngày Nhâm Thân tháng Kỷ Mão năm Canh Thìn (3 tháng Hai – Canh Thìn, tức 7-3-1580) sãi vãi và thiện nam tín nữ tu sửaThiêu hương, Tiền đường, các tòa Hành lang của chùa và tô tượng Hộ pháp, làm bàn thờ, đòn kiệu, mâm thờ. Công việc hoàn tất, khắc bia lưu truyền về sau.
Tháng Tám – Canh Thìn việc tu tạo hoàn thành. Tín vãi Dương Thị Biết cùng hàng trăm người có công được bia ghi danh.
Nguồn: T12, tập 12, N011448, tr.448; V8, tr.204-205; V11, tr.286-288.
NĂM 1581 (TÂN TỴ)
Tháng 2 (tháng Giêng – Tân Tỵ)
348. Nhiều người họ Dương đóng góp tu tạo chùa Thuận Ứng
Tu tạo Thuận Ứng tự bi hiện còn trên núi Mã (thành phố Hải Phòng) dựng tháng Giêng năm Diên Thành thứ 4 nhà Mạc ghi rằng, có công tất được báo đền, khắc vào bia đá để truyền lại lâu dài các ông, bà – trong đó có Dương Văn Kiến, Dương Thanh Triệu, Dương Thời Trung, Dương Thanh Lan để con cháu biết sự đóng góp của mọi người trong việc góp tiền của tu tạo chùa Thuận Ứng.
Nguồn: T9, 2001, Tr.593-596.
Ngày 3 tháng 3 (9 tháng Hai – Tân Tỵ)
349. Hai ông Dương Doãn Dịch, Bùi Doãn Lộc hưng công tu tạo cầu đá Giao Tất
Tu tạo thạch kiều nhị xứ bi do Tiến sĩ Ngô Tào soạn tháng Giêng năm Bính Tuất (1586) ghi rằng:
“Từng nghĩ cầu có tên đã từ lâu. Hoặc bắc ở bể, hoặc bắc ngang sông, hoặc bắc ở bến để giúp đi lại tránh hiểm nghèo. Người ta nhờ đó mà mang ơn huệ.
Nay chùa Trùng Nghiêm của làng Giao Tất, ấp Gia Lâm là nơi có dấu tích cổ, cảnh trí thanh. Một tòa lâu đài sum xuê xây dựng trước mặt, bên phải lại có đình Kỳ Dương, bạn thơ rượu trong làng hội họp ở đấy. Phía trước là một dải nước sát nối đường Thiên lý, trên có cầu. Tuy vậy, quy mô nhỏ hẹp, người qua lại chưa được thỏa mãn. Nay có các tín sãi là Bùi Doãn Lộc, Dương Doãn Địch cùng phát lòng thiện, khôi phục cho đẹp hơn trước. Mua gỗ đá, thuê thợ về làm. Phía trên thì bắc sà lợp mái, phía dưới thì lát đá làm sàn. Khởi công vào ngày 9 tháng Hai năm Diên Thành thứ 4 (1581), đến ngày 5 tháng Năm thì hoàn thành. Chưa có mây sao có rồng, chưa có ráng sao có cầu vồng. Mỗi khi ngắm sóng gợn, lúc nhìn nước lặng như đi đường bằng phẳng trong không, bóng soi mồn một. Khách qua lại đề thơ, thi nhân mang rượu đến thưởng ngoạn. Người lọng dù, ngựa xe ngơi nghỉ, tiện lợi cho mọi người buôn bán. Hành khách ngại gió mưa, ẩn trú rất tốt. Sãi vãi đi lễ phật, sĩ tử thưởng xuân. Kẻ qua, người lại thấy lợi lạc. Phúc giúp cho người cho vật; công đức vô cùng xán lạn. Năm tháng còn mãi, nhân duyên tốt vậy, há chẳng đẹp sao!”.
Đóng góp vào việc này còn có các Tín thí Dương Hạch, Dương Thị Hy.
Nguồn: T12, tập 4, N03179, tr.180; V8, tr.268-270; V11, tr.379-382.
NĂM 1582 (NHÂM NGỌ)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Nhâm Ngọ)
350. Thôn trưởng Dương Công Pha tham gia dựng bia ghi công tu tạo chùa Viên Giác
Viên Giác tự bi do Nguyễn Đức Nhuận soạn, dựng tại chùa Viên Giác, xã Hương Lãng, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Minh Hải, Văn Lâm – Hưng Yên) ghi rằng:
“Thường nghe: Thuận An là xứ đẹp, chùa Viên Giác là danh lam. Phía sau có sông Thiên Đức, phía trước là dòng Tế Giang, tiếp với sông Nhị Hà mà liền Kinh kỳ đô thị. Thật là một nơi có đất phúc vậy.
Vào tháng Tư năm Sùng Khang thứ 10 (1575) già trẻ lớn nhỏ trong xã đúc chuông lớn. Đến tháng Tám năm Tân Tỵ, huyện sĩ Phạm Đạo, Phúc Thọ, Thịnh Phúc Nhiêu, Lê Phúc Kiều cùng phát lòng Bồ đề, dựng bè công đức. Thúc đẩy làm điều thiện coi là vui nhất cùng góp sức hoàn thành.
Gác chuông, Thượng điện cao ngất, Tiền đường nguy nga. Bên ngoài có hành lang dài, bên trong có lầu gác cao. Bên trái có đền thờ Thánh linh ứng, bên phải có cửa đình đông vui. Ai đến cầu nguyện, đều linh ứng, Âm phù đất Việt, dương báo phúc lành. Ở lòng, ở thân, ở con, ở cháu đều thấm nhuần công đức lợi lạc mà từ nhà ra nước tới thiên hạ cùng thấy cảnh Bồ đề sáng sủa. Khéo tạo nhân duyên được lâu dài mãi.
Nguồn: T12, tập 6, N05891-2, tr.892; V8, tr.214-219; V11, tr.302-305
NĂM 1583 (QUÝ MÙI)
Ngày 26 tháng 3 (6 tháng Hai – Quý Mùi)
351. Nhiều người họ Dương hưng công tu tạo chùa Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc tự bi/ Tín thí do Phùng Khắc Khoan soạn, dựng tại chùa Vĩnh Phúc, xã Tín Chỉ, tổng Phú Hà, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Tín, Thọ Xuân – Thanh Hóa) cho biết:
“Chùa Vĩnh Phúc vốn là chốn danh lam thuộc đất Yên Trung, huyện Thụy Nguyên, được xây dựng từ triều trước, nhân dân cầu đảo đều vô cùng linh ứng. Sau này, tuy trải binh đao, nhưng hương hỏa thì vẫn hưng thịnh như xưa.
Nay có vị Trưởng lão ở xã Diêm Phố, huyện Thuần Hựu, phủ Hà Trung là Bùi Tất Thắng và các sãi có thiện duyên là Mai Đăng Đệ, Đồng Văn Hoa cùng nhau phát tâm Bồ đề, kêu gọi các danh gia, thiện tín trong thôn, cung tiến tài vật, xây dựng lại ngôi chùa mới trên nền chùa cũ. Bắt đầu khởi công từ tháng Chín năm trước, sau vài tuần chùa xây dựng đã hoàn thành. Lại tạc sáu pho tượng Phật, tuy chưa được tráng lệ như xưa, nhưng ở trong cửa rừng công đức cũng đã khơi dậy được điều thiện tâm “trưởng thiện tiêu ác” của người đời vậy.
Bèn đến xin ta làm bài văn để lưu truyền mãi mãi”.
Vợ chồng ông bà Dương Thọ Sơn, bà Dương Thị Mông cùng dân làng công đức tu tạo chùa.
Nguồn: T16, tập 1, tr.67-76.
NĂM 1585 (ẤT DẬU)
Ngày 20 tháng 3 (20 tháng Hai – Ất Dậu)
352. Tín vãi Dương Ám công đức tạo tượng Phật chùa Phúc Khánh
Phúc Khánh tự tạo phật bi do Nguyễn Tập Hy soạn văn bia dựng lại chùa xã Bồng Lãng, tổng Do Nghĩa, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Sơn Vi, Lâm Thao – Phú Thọ) ghi lại việc hai xã Bồng Lãng, Lãng Thị tạo tượng như sau:
“Thường nghe: chùa là nơi thờ Phật, sở dĩ để chúc thọ Thánh đế, để tích tụ phúc hương ấp. Chùa làng trang nghiêm, nhưng tượng chưa hoàn bị. Lúc này, đạo đã đắc được chân pháp, có thể noi theo cổ xưa. Luôn ra tay phương tiện, rộng mở cửa tứ mã, ngày vun trồng âm đức, bẻ được cành quế năm chi. Nay muốn nối dài hậu duệ, cần noi gương theo tiên hiền.
Vào ngày 20 tháng Hai năm Ất Hợi, tín vãi Tì khâu Nguyễn Công Khanh, Lê Trọng Viễn, Lê Trí Viễn, Nguyễn Hiến, Nguyễn Tô, Lê Trọng, Nguyễn Tập, Lê Hữu Hằng, Lê Hữu Bang, Đỗ Vũ, Bùi Đình Chỉ, Bùi Đình Cương, Nguyễn Văn Hiển, Dương Ám, Lê Quang Bí, Lê Sĩ Trung, Lê Duy Năng, Bùi Sư Triết, Lê Ngọc Miễn, Lê Trọng Tùy, Nguyễn Cảm, Lê Đức Tú, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu, Lê Văn Ứng, cùng tu tạo 7 pho tượng Phật. Công việc hoàn hảo. Làm được việc này nhờ phương sách lớn. Người công đức ắt được phúc thọ, an khang. Do vậy ghi lại”.
Nguồn: T12, tập 8, N07692-3; V11, tr.361-364.
NĂM 1586 (BÍNH TUẤT)
Mùa xuân
353. Nguyễn Thế Thủ thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc
Khoa thi này, nhà Mạc cho Nguyễn Giáo Phương đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Phạm Minh Nghĩa 3 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Văn Tảo 17 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Nguyễn Thế Thủ, con trai của Nguyễn Hoành Xước – cháu Nguyễn Duy Tường dòng dõi Đào Sư Tích ở Lý Hải – Yên Lãng, làm quan đến Tham chính, sau theo về nhà Lê.
Nguồn: Đ4, tr.871; C1, tr.499.
Ngày 30 tháng 11 (20 tháng Mười – Bính Tuất)
354. Giám sinh Quốc tử Giám Dương Như Thiết làm Hội chủ trùng tu chùa Phượng Tường
Phượng Tường tự do Tiến sĩ Lê Hạng soạn, dựng tại chùa xã Kiên Cương, tổng Kiên Cường, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc) đã ghi danh toàn bộ những người công đức đợt trùng tu do Dương Như Thiết làm Hội chủ.
Đồng thời, vẫn Tiến sĩ Lê Hạng, tác giả văn bia Phương Tường tự bi ký soạn cùng thời điểm cho biết, chùa Phượng Tường danh lam huyện Bạch Hạc trở thành cổ tích, sau nạn binh đao. Nay được khôi phục lại. Tuy việc tu bổ đã thành, nhưng quy mô chưa hoàn bị. Việc tu bổ ấy tất chờ phương sách lớn, lực lượng lớn đảm nhận vậy. Tì khâu bản chùa pháp hiệu là Mậu Thiền, tự Đức Tâm và thái ông lão bà, thiện nam tín nữ vùng phụ cận thờ Phật thành tâm, vui làm việc thiện, bỏ tiền góp gỗ, mời thợ khởi công làm thượng điện, lại dựng tiền đường, xây thềm đá. Quy mô hơn cũ. Bày tượng điểm nhãn, sửa sang diện mạo. Rồi lại mua 2 sào ruộng cúng làm của Tam bảo, sửa đặt pháp hội, tạo khắc bia đá. Thật là nền phúc cao đầy, quả thiện viên mãn. Công đức như vậy khôn lường, lưu truyền mãi mãi. Bèn khắc hết thảy họ tên ra đây.
Nguồn: T12, tập 5, N04368-9; tập 15, N014288-9 ; V8, tr.260-263 ; V11, tr.371-374.
NĂM 1587 (ĐINH HỢI)
Ngày 27 tháng 4 (20 tháng Ba – Đinh Hợi)
355. Nhiều người họ Dương cung tiến tiền của sửa chùa Sùng Ân
Văn bia do Tô Quý Kê soạn, cho biết, chùa Sùng Ân thuộc xã Phú Kê, tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Phú Kê, Tiên Lãng – Hải Phòng) vào năm đó tạo mới phật đá, sơn sửa lại các pho tượng cùng với chùa gác. Các ông bà Dương An Lương (Kỳ Vỹ), Dương Thôi Tự, Dương Thị Bộ (Tuấn Vĩ) cùng hàng trăm tín vãi dã hưng công vào việc trên.
Nguồn: V6, tr.42-57.
NĂM 1589 (KỶ SỬU)
Tháng 11 (tháng Mười – Kỷ Sửu)
356. Dương Luân, Dương Tông thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc
Khoa thi này, Mạc Mậu Hợp tổ chức vào tháng Mười, mùa đông năm Quang Hưng 12 lấy 17 người trúng tuyển.
Dương Luân, người Khê Triền (còn gọi là làng Chiềng, sau đổi là Trịnh Xuyên) tổng Đông Cao, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Nghĩa An, Ninh Giang – Hải Dương), sau theo về nhà Lê, làm đến Hiến sát sứ. Dương Tông người xã Linh Quang, tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Khai Quang – thành phố Vĩnh Yên), cháu nội của Dương Đức Giản, sau theo về nhà Lê, làm đến Thị lang.
Nguồn: Đ7, tr.350; C1, tr.301-303; T29, tr.77.
Trong năm
357. Địch Vũ bá Dương Khắc Quang đóng góp vào việc hưng tạo quán Tiên Phúc
Tiên Phúc quán bi do Bùi Thuần Phu soạn năm Đoan Thái 4 (trên thực tế phải là năm Hưng Trị thứ hai nhà Mạc vì kết thúc năm Đoan Thái thứ 2, tức hết năm 1587 nhà Mạc đổi gọi là Hưng Trị thứ nhất từ đầu năm 1588), dựng tại quán xã Thượng Chiểu, tổng Thượng Chiểu, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Tân Dân, Kinh Môn – Hải Dương) ghi rằng:
“Thường nghe chữ quán được tạo bởi chữ quan và chữ sá. Có các loại nhị quán, tam quán, tứ quán và lục quán là do người xưa đặt ra vậy. Nay nhìn quán này: vẻ kỳ tú tự nhiên như được tô vẽ, khí đất chung đúc linh thiêng. Mạch nước Kiệt Sơn một dòng đổ về, đỉnh Tú Lĩnh gối sau cao thẳm, dòng Hán Xuyên ba chi hội tụ, dải Ngân Hà đối mặt trong xanh. Nước triều lên, thuyền qua lại, cảnh tượng thật trù phú. Quả là một nơi tráng lệ bậc nhất của xứ Hải Dương, điểm tô cho ấp ta vậy. Bậc trí giả đi về hội họp, tiệc sen bày đẹp, chén vàng rượu ngọt, hết đỗi mừng vui lúc tương phùng, áo gấm hương đưa. Ngày mở hội, đường rộng, ngựa xe nhiều như chất đống. Kẻ sĩ về triều, thương nhân ra chợ, hết thảy rạng rỡ. Ngư dân thả lưới, mục đồng chăn trâu hết đỗi mừng vui. Bởi chưng cảnh vật nơi đây vô cùng tươi đẹp. Thực là thắng địa xứ Kinh Đông, độc nhất vô nhị vậy. Khi ấy có Thân Vương thường hay ngự tới, cùng Vương Phi hàng ngày qua lại, nên quán này mới được như vậy. Mấy ai lại không thành kính đến thăm: khiến cho tên quán càng hiển danh, di tích càng rạng rỡ.
Từ xa xưa, cổ nhân đã đến đây xây dựng, nhưng lâu ngày hư hỏng. Nay Thượng Quận chúa phát lòng thiện, bỏ tiền của, quyên tập chúng sãi, cho mời thợ về khởi công dựng quán vào năm Mậu Tý. Nhân nghĩa thêm rạng, đạo đức càng ngời, quy mô rộng lớn, chế độ mới tươi. Ngay cáo thành, ai nấy đều thấy công đức này lớn cùng trời đất, cao tày núi non. Được phúc lộc do Hoàng thiên ban dáng thì tuổi thọ kéo dài, cháu con đông đúc, phú quy nhường bao. Có được như vậy cũng chính là từ việc làm thiện ở đây vậy, Vì thế khắc lên bia đá để lưu truyền muôn đời.
Văn bia có ghi danh Địch vũ bá Dương Khắc Quang.
Nguồn: T12, tập 5, N04092; V8, tr.283-287; V11, tr.405-409.
NĂM 1590 (CANH DẦN)
Ngày 24 tháng 3 (19 tháng Hai – Canh Dần)
358. Người họ Dương đóng góp vào việc dựng lại chùa Cam Lộ
Cam Lộ tự bi ký do Quốc tử sinh Dương Chuân, người xã Trình Viên, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Phú Túc, Phú Xuyên – Hà Nội)soạn. Văn bia cho biết:
“Chùa Cam Lộ ở xã Đường Hoàng Trung huyện Phú Xuyên là một danh lam. Chùa gần làn nước, lâu đài được ưu tiên ánh sáng riêng một cõi trong thế giới ba nghìn, hướng về mặt trời, hoa cỏ biếc tựa tiết xuân. Thật là cảnh đệ nhất của nước Việt Nam. Bụi bặm ở ngoài đời đều rũ sạch, thần tượng bên trong cùng sáng tươi. Thân thoát ra cảnh tục phàm như trúc thiêng mang dấu tích của Phật. Từ vô thành hữu, từ không thành sắc. Người cầu cúng thường được linh ứng. Quy mô đã lớn, là nơi các sư tăng sớm tối lễ Thánh, thì Kinh điển hàng ngày trì tụng há lại không dâng lễ cung kính sao?
Vào năm Bính Tuất niên hiệu Đoan Thái thứ 2 có vị Tì khưu trụ trì là Lương Hữu Tộ, Thích hiệu Pháp Thông và Kinh chủ Nguyễn Lệ, hiệu Phúc Ân, Trần Ngọc Toản hiệu Phúc Thọ, Đào Cao hiệu Phúc Long… cùng phát tâm tứ vô lượng, muốn gieo trồng quả phúc tương lai, bèn trước bỏ tiền của gia tư làm gương khuyến thiện rồi phổ khuyến các thiện nam tín nữ cùng mở rộng lòng quyên cúng độ kinh, mời thợ chọn gỗ, lượng khắc kinh, sao thành bản mới… Công gọt đũa, tay nghề cao, mực thước tốt, mượn tay bút khéo khắc lên gỗ thị đẹp đẽ, xếp thành tập gồm 10 chương để ban phát cho tăng đồ. Đó chẳng phải là cùng mọi người vui mừng hưởng ân huệ đến muôn đời sau mà vẫn còn sáng rạng sao?
Than ôi, thật tốt đẹp thay! Di cảo hoàn thành, công đức viên mãn, để lại nơi lan đài, thạch thất. Mọi người lại có ý muốn nhờ tôi viết bài tựa ghi lại việc tốt đẹp ấy để lưu truyền mãi mãi về sau.
Mặt sau bia lại ghi chùa Cam Lộ thuộc xã Đào Xá (nay thuộc xã Hoàng Long, Phú Xuyên – Hà Nội) như sau:
“Ôi, chùa Cam Lộ xã Đào Xá vốn là am cũ: Bên trái có sông Tô Lịch bao quanh, bên phải có gò cao uốn lượn; quán chợ la liệt ở trước, nhà cửa đông đúc phía sau. Thật là nơi đất linh, sản sinh hào kiệt. Vào triều vua Trần Minh Tông thuở trước có Nghiêm Trúc Linh thiền sư bỏ công xây dựng tượng Hộ pháp đặt ở hàng trước đã hoàn hảo như hiện tại. Sớm tối thắp hương chúc Thánh, hương thôn khang thịnh thái hòa. Nhưng bỗng gặp buổi binh đao, điện thờ hư hỏng, tượng Phật đỗ nát (…). Nay thái ông lão bà đứng ra dựng chùa (…)”.
Văn bia ghi danh ông Dương Văn Huy góp phần công đức với nhà chùa.
Nguồn: V8, tr.318-322; V11, tr.466-471.
TRONG NĂM
359. Thơ vịnh của Nguyễn Duy Tường, Dương Trực Nguyên được tuyển vào Khiếu Vịnh thi tập
Khiếu Vịnh thi tập do Thượng thư Lễ bộ nhà Mạc Hà Nhậm Đại sưu tầm và biên soạn – trong đó có bài Hý tường thi của Nguyễn Duy Tường như sau:
“Khoa đệ trùng đăng tứ hải văn
Quyên sinh nghĩa khẳng phụ vi thần
Tử tôn tích thế đăng nho tuyển
Thiên lý chiêu chiêu hiển tại nhân”
(Khoa bảng hai lần danh bốn biển,
Sống vì nghĩa chẳng ngại trung thần.
Con cháu đời đời khoa giáp bảng,
Lẽ trời rực rỡ tại hiền nhân).
Về Dương Trực Nguyên, Hà Nhậm Đại ghi: ông người xã Thượng Phúc huyện Thượng Phúc, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490), làm quan tới chức Ngự sử đài Đô Ngự sử. Niên hiệu Đoan Khánh, ông cùng với Nguyễn Văn Lang cầm quân trấn thủ địa phận Sơn Nam. Trực Nguyên chiến đấu ở vùng Châu Cầu. Ở đây ông đã tử trận cùng với Phạm Thịnh, Trần Năng.
Con ông là Dương Đính, đỗ Tiến sĩ dưới triều Mạc [trong danh sách các nhà khoa bảng lại ghi là Dương Hạng].
Sau khi Trực Nguyên mất, rất linh ứng nên được lập đền thờ như thần. Có thơ vịnh rằng:
“Lang tử Văn Lang nhất thú cầm
Ô Đài đài trưởng báo ân thâm
Châu Kiều kiều thượng hành nhân quá
Thùy thức đương niên tiết nghĩa tâm”.
(Chồn xứ Văn Lang loài thú cầm,
Chốn Ô Đài biết báo thâm ân.
Cầu Châu Kiều mấy người qua lại,
Ai biết nay người tiết nghĩa tâm).
Nguồn: T14, tr.358-361.
NĂM 1591 (TÂN MÃO)
Tháng 9 (tháng Tám – Tân Dậu)
360. Vợ chồng bà Dương Thị Yên và gia đình cung tiến ruộng đất để mở hội
Nghênh Phúc bi ký dựng tại đình xã Lam Cầu, tổng Tông Đức, huyện Gia Lộc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Phạm Trấn, Gia Lộc – Hải Dương) ghi:
Vào những năm Hoàng triều Cảnh Lịch (1548 – 1553) thôn Đông Tây, ấp Lam tạm mở hội tiệc xuân ở xứ Ngõ La, chưa được ổn định.
Nay quan viên Nguyễn Văn Cự có ruộng mới đổi và ruộng mới mua gồm 10 sào 10 thước; đông giáp đường nhỏ, tây gần ruộng xã, nam gần ruộng chùa, bắc giáp đường lớn. Ông ủy thác cho gia đình cúng ruộng đó làm nền cầu đình Nghênh Phúc. Những mong lưu truyền muôn kiếp để cùng hưởng theo.
Hễ ai trí trá, quên báo đáp, cậy trông Thiên thần, Thỏ địa chiếu xét. Nay nhân đó khắc bia ghi lại đầy đủ nguyên do để truyền về sau.
Toàn gia tín chủ cùng chức danh kê ra sau đây:
Trí sĩ Nguyễn Văn Cự, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1577) chức Gia hạnh đại phu, Thừa tuyên sứ Thừa tuyên sứ ty đạo Kinh Bắc.
Cha là Tham Nghị, hiệu Đạo Long, được phong là Hiển cung Đại phu. Mẹ hiệu Từ Giáo, phong là Thận Nhân. Vợ cả Phạm Thị Ngọc Viên, phong là Nghi Nhân, vợ lẽ Dương Thị Yên. Con trai cả Nguyễn Văn Hưng. Con gái cả Nguyễn Thị Ngọc Lễ. Con trai thứ Nguyễn Văn Khoa và Nguyễn Thị Huệ.
Nguồn: V11, tr.480-481.
Tháng 10 (tháng Chín – Tân Mão)
361. Tín thí Dương Bá Lai cung tiến trùng tu chùa Trịnh
Trịnh tự bi ký do Tiến sĩ Trần Đình Tuyên soạn, dựng tại chùa Trịnh Quang, xã Đồng Quỹ, tổng Bái Dương, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Nam Tiến, Nam Trực – Nam Định) ghi rằng:
“Trước ngày ở hương Đồng Quỹ, lí Tây Chân, lộ Thiên Trường có chùa Trịnh đã là cổ tích. Chùa ở giữa ranh giới dân cư hai thôn, đường thông bốn ngả. Phía trước có dòng chảy quanh co, phía sau là hoa cỏ tốt tươi, giếng nước xanh ngọt, thật là thắng cảnh chốn tùng lâm vậy. Trải qua nạn binh hỏa, pháp luân vẫn luôn chuyển, nhưng chỉ còn nền cũ. Một thời thái hòa bị ngưng trệ, tất sẽ được hưng khởi. Muốn sửa sang, làm mới, muốn phần hư hại được khôi phục lại, thì hẳn phải chờ có cơ hội trung hưng.
Nay gặp Thánh Thiên tử mong mỏi giang sơn được khôi phục, đất nước thêm mới tươi, phế lại hưng, chấn chỉnh tệ đoan, ban phúc cho dân. Có phúc lớn đó, cùng lực lượng lớn đó thì ích lợi lớn lao, gặp thời vận lớn lao vậy.
Nhân đó ở thôn Đại xã Đồng Quỹ huyện Tây Chân có Khang Phủ bá Đỗ Bá Lịch là tín sãi có phúc lớn, được nhờ phúc lớn của dân, được vui hưởng ân huệ của trời. Lại có lòng Bồ đề, đã quyên góp gia tài, thu tập đàn na, mời thợ về xây dựng. Thợ vung dùi phạt mộc, nhờ thần trợ giúp mà chẳng mấy đã thành. Từ không thành có, từ không thành sắc, mà lâu đài tráng lệ, tượng pháp bảo tòa nguy nga. Ông cúng đồng tốt phúc đáp khí để thức tỉnh lệ tục, giải thoát tâm cơ. Lại làm trụ cầu đá giúp xe cộ đi lại thuận lợi. Công việc viên thành chở che quả phúc Niết bàn, cứu độ từ hàng. Như vậy thì ngày ngày vi ca bố thí mà gieo thành nền thiện Bát nhã để lấy thiện duyên này mà khôi phục ngôi chùa cổ tích từng rất linh ứng này”.
Tham gia vào việc công đức còn có hàng trăm dân làng, trong đó có Tín thí Dương Bá Lai.
Nguồn: V11, tr.556-562.
NĂM 1597 (ĐINH DẬU)
Tháng 9 (tháng Tám – Đinh Dậu)
362. Dương Văn Cán và các tướng thổ trước cũ của nhà Mạc chống lại triều Lê Trung hưng
Năm 1592, sau khi mở cuộc tấn công quyết định vào Thăng Long, đánh tan quân Mạc, về cơ bản kết thúc cục diện Nam – Bắc triều, Trịnh Tùng xưng chúa, xây dựng Vương phủ, thâu tóm trong tay mọi quyền hành và biến vua Lê thành bù nhìn. Thời gian này, Nguyễn Hoàng đem tướng sĩ ra yết kiến vua Lê, được sai đi đánh dẹp các dư đảng của nhà Mạc ở các vùng Sơn Nam, Hải Dương, Sơn Tây, Thái Nguyên… và lập được nhiều chiến công. Sự biến đổi của tình thế và vai trò nổi trội của Nguyễn Hoàng ở khắp cả trong Nam, ngoài Bắc đã làm cho mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Trịnh – Nguyễn phát triển đến mức không thể dung hòa được nữa.
Mặc dù phạm vi kiểm soát của nhà Mạc bị đẩy lùi ở vùng đồng bằng nhiều vùng thuộc Kinh Bắc, các thế lực địa phương vẫn ngả theo vương triều cũ. Vào tháng 9-1597, tướng thổ trước huyện Đông Ngàn là Thuần Quận công Trần Đức Huệ và con là Trần Đức Trạch tự xưng là Sầm Quận công kêu gọi đứng dậy, cùng với tướng thổ trước huyện Yên Thế là cha con Thế Quận công Dương Văn Cán, đều đem con em đêm trốn đi theo cha con họ Trần Tiết chế Trịnh Tùng chia quân sai con là chưởng Cẩm y vệ Hùng Lương hầu Trịnh Đào đi đánh, khiến cho Trần Đức Trạch, Dương Văn Cán phải đem con em chạy xa.
Bấy giờ nhân dân tứ chiếng bị làm phiền về việc cắt cỏ voi, lại bị người sở quản quấy nhiễu, dân khổ không chịu nổi, nhiều người đi theo tướng cũ của nhà Mạc.
Tháng 11-1597, tướng thổ trước ở Hải Dương là Thúy Quận công (không rõ tên) người huyện Thủy Đường, Lễ Quận công (không rõ tên) người huyện Nghi Dương, đều đem quân bắt người cướp bóc ở các huyện xứ Hải Dương, đánh úp giết chết tướng Tuần thủ là Huê Kiều hầu (không rõ tên) và huyện quan bản huyện. Lại có anh em Quỳnh Quận công và Thụy Quận công (đều không rõ tên) ở huyện Tân Minh tụ họp cùng liên kết với Thủy Quận công, Lễ Quận Công, có đến vài nghìn quân. Nhân dân các huyện xứ Hải Dương sợ tàn ngược đều phải thuận theo. Tháng 12-1957, Tiết chế Trịnh Tùng sai Đô đốc đồng tri Hào Quận công Nguyễn Miện, Mỹ Quận công Bùi Văn Khuê, Kế Quận công Phan Ngạn đem thủy binh với 50 chiếc thuyền đến Hải Dương đánh phá. Nguyễn Miện một mình tự kiêu khinh địch, cho là bọn giặc tàn không đáng lo, không bàn kế với các tướng, thân đem 4 chiếc binh thuyền bản bộ, khinh suất xông thẳng vào trong trận. Hào Quận công sai bắn súng lớn vào. Lễ Quận công bị đạn chết ở trong thuyền. Lính ở trong thuyền ấy mặc áo của Lễ Quận công thúc quân đánh bừa, lại đâm chết được Hào Quận công ở trong trận. Hai quân đánh giết lẫn nhau, quan quân bị chết cũng đến hơn 80 người, quân lính đều chạy. Gặp quân của Bùi Văn Khuê tiếp đến, lực lượng nổi dậy bỏ thuyền lên bờ chạy tan. Văn Khuê lấy được thủ cấp của Nguyễn Miện rồi về. Sau Văn Khuê lại đem quân đi tìm, lấy được thủ cấp của Lễ Quận công đem về Kinh nộp, sai đem bêu 3 ngày. Tiết chế Trịnh Tùng thưởng cho Văn Khuê 10 cân vàng, thăng Thiếu bảo.
Nguồn: Đ4, tr.903.
NĂM 1598 (MẬU TUẤT)
Ngày 5 tháng 10 (6 tháng Chín – Mậu Tuất)
363. Dương Văn Cán cho vợ mang lễ vật về Đông Đô xin quy phục
Tháng 1-1598, Trần Đức Trạch chết trận ở Đại Từ (Thái Nguyên), tàn quân cũ của nhà Mạc bị đánh tan tác khắp Hải Dương, Sơn Tây, Yên Quảng và Kinh Bắc. Trong hoàn cảnh thế cô, lại bị bao vây tứ phía, lương thực và thuốc men thiếu thốn, đầu tháng Chín – Bính Tuất, Dương Văn Cán mới từ Tam Đảo – Đại Từ (Thái Nguyên) trở về Yên Thế đã sai vợ mang hai con voi bắt được của quân triều đình hồi tháng Chạp – Đinh Dậu (101598) cùng 2 con trâu về tận Đông Đô xin hàng phục. Vua y cho, sai về gọi chồng ra thú thì được tha tội.
Nguồn: Đ4, tr.904-906.
Ngày 15 tháng 11 (17 tháng Mười – Mậu Tuất)
364. Dương Văn Cán chính thức đầu hàng tại Đông Đô, tàn quân Mạc bị đẩy lùi ở nhiều nơi
Dù đã sai vợ về Đông Đô và được chấp nhận cho quy thuận nhưng đã quá thời hạn hàng tháng mà Dương Văn Cán chưa có động tĩnh gì, ngày 11-11-1598 Tiết chế Trịnh Tùng dâng biểu tâu sai Hữu tướng Hoàng Đình Ái thống lĩnh quân và voi cùng với Thái bảo Trịnh Đồng, Thiếu bảo Trịnh Bách, Đô đốc Lê Văn Hoan, Chỉ huy sứ Trần Tộ đem hơn 1 vạn quân đi đánh dẹp ở Lạng Sơn; Hữu thị lang Binh bộ là Nguyễn Vĩ làm quan Đốc thị; Thái phó Trịnh Đỗ thống lĩnh quân và voi cùng với Thạch Quận công Vương Trân, Thao Quận công Trần Chân, Tổng binh Thái Nguyên là Đức Trạch hầu Lại Thế Quý, đem quân đi đánh dẹp ở Thái Nguyên; Thanh Quận công Đặng Kính, Giao Quận công Nguyễn Hữu Giai đi đánh dẹp ở các huyện Sơn Dương, Đương Đạo; Bạt Quận công Phạm Doãn Sinh trấn giữ các nơi quan yếu ở phủ Lâm Thao để yên dân hạt Hưng Hóa.
Trước sức ép đó, ngày 15-11-1598, cha con Thế Quận công Dương Văn Cán tự về Đông Đô hàng phục. Ngay sau đó châu Định Hóa ở Thái Nguyên được Tổng binh đồng tri Dũng Quận công Hà Ích đem quân chiếm lại. Ngày 3-12-1598 (6 tháng Một – Mậu Tuất), Hoàng Đình Ái đến thành Lạng Sơn, sai Đô đốc Lâm Quận công Trần Phúc đem hơn 1.000 quân đánh phá châu Thoát Lãng. Bấy giờ quân của Mạc Kính Cung rải từ Long Châu đến Thất Tuyền, chống đánh. Trần Phúc tung quân ra đánh, chém được con của Vạn Quốc công, bắt được vợ con và đồ đảng, đốt dinh trại, thừa thắng đuổi dài thẳng đến dinh của Kính Cung. Kính Cung sai Phúc Vương đem vợ con lương thực chạy trước vào giữ Long Châu, đến nửa đường gặp phục quân của con trưởng Trần Phúc là Tráng Nghĩa hầu Trần Thiết nổi dậy đánh. Phúc vương và quân lính tranh nhau cướp đường chạy vào Long Châu. Trần Phúc sai thu quân về Lạng Sơn, cùng với Hữu tướng Thái úy Vinh Quốc công bàn trở về Kinh, đem con trai của Kính Cung dâng nộp.
Lợi dụng tình thế Trịnh Tùng lấn bấn, tháng 11-1600, nhân việc được điều đi đánh Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê ở cửa biển Đại An (Nam Định), Nguyễn Hoàng lại “đem cả tướng sĩ, thuyền ghe bản bộ, đi đường biển thẳng về Thuận Hóa, để Hoàng tử thứ năm là Hải và Hoàng tôn là Hắc ở lại làm con tin”.
Trở lại Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng quyết định dời dinh về Dinh Cát, đẩy mạnh việc xây dựng chính quyền riêng, chỉ nghĩ đến việc vừa lo phát triển kinh tế vừa lo củng cố quyền thống trị để thoát ly sự lệ thuộc vào họ Trịnh. Dần dần khu vực Thuận – Quảng trở thành vùng đất cát cứ của họ Nguyễn.
Nguồn: Đ4, tr.907-908.
NĂM 1601 (TÂN SỬU)
Trong năm
365. Dương Lễ thi đậu Giải nguyên
Ông còn có tên là Dương Cẩn hoặc Dương Định, con trai của Dương Bảng, người làng Quỳnh Đôi, tổng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn Châu, trấn Nghệ An, đỗ đầu kỳ thi Hương khoa Tân Sửu nhưng dự 3 kỳ thi Hội chỉ trúng Tam trường. Không làm quan, ở lại quê dạy học.
Nguồn: H3
NĂM 1606 (BÍNH NGỌ)
Ngày 25 tháng 3 (17 tháng Hai – Bính Ngọ)
366. Dương Nhân Lực, Dương Văn Luyện công đức trùng tu chùa Phúc Nương
Hưng công / Trùng tu Phúc Nương tự bi do Tiến sĩ Nguyễn Thạc Đức soạn, tạo năm Hoằng Định 7, dựng tại chùa Yên Thị, xã Yên Thường huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn đạo Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội), ghi: văn bia ghi:
Các vị quan viên, trưởng làng cùng toàn thể nhân dân thôn Yên Thị trộm thấy, Phúc Nương tự là nơi thắng địa của đất Đông Ngàn, có núi non tạo vật bất biến, hình thế giống như hổ ngồi, thế nước hữu tình uốn lượn xung quanh như mình rồng bao bọc, phía nam có dải châu ngọc hội về, phía bắc, ngắm nhìn kỹ đều là khí chung anh hun đúc, người thiêng vật lạ, chư phật báo ứng, phúc ở nơi tụ họp, lộc ở chốn đạo pháp, cúng dàng có 5 mẫu đất ao đã được ghi chép trước đây. Nước Việt ta trải qua nhiều triều đại, sử sách và nền móng cũ vẫn y nhiên tồn tại, người lương thiện sao có thể bỏ được công việc đang làm? Như Tán trị Khai quốc công thần Thái sư Lương Quốc công Trung Dũng Vương Lê Thạch là tín thí, tích phúc nhiều như hằng hà sa số. Bảo Chính Suy trung Đoan nhã Tán Trị khai quốc công thần Thái úy Tán Quốc công Mục Chiêu Trưng Vương Lê Khôi trùng tu, tích phúc lớn lao như ngọn núi cao vời. Đến Thiếu bảo Vạn Quốc công Lê Quốc Trinh thi hành đại pháp, phát tâm khởi dấy lòng thiện, lập ranh giới ở bốn phía xa gần, dâng ruộng làm hương hỏa, cúng hoa quả, dâng hương…, cái thiện tỏa đến muôn đời con cháu, gìn giữ điều phúc lộc đến vô cùng, thọ khảo vô cương. Lại thấy Tiền Thiếu úy Bản quận công cũng tuân theo giáo pháp giữ nguyên mức thuế ruộng, tín cẩn tuân theo người trên thì cớ sao người dân ở dưới không thể hâm mộ và noi theo?
Nay trưởng thôn Yên Thị xã Yên Thường là Bùi Kim Lũ cảm thấy lo lắng rằng tai nghe không bằng mắt thấy, chiếu cáo chẳng bằng có phương cách. Bèn cho khắc vào bia đá để lưu truyền lại cho các thế hệ tương lai”.
Bia đã ghi danh hai ông Dương Nhân Lực, Dương Văn Luyện cùng hàng trăm người phát tâm hưng công.
Nguồn: T12, tập 3, N02514-15; T21, tr.91-98.
NĂM 1611 (TÂN HỢI)
Ngày 2 tháng 5 (20 tháng Ba – Tân Hợi)
367. Nghĩa Khê hầu Dương Thúc soạn Trùng tu tạo tác/ Thánh thượng tiền triều/ Lê Đại Hành Hoàng đế/ Bi ký tịnh minh
Bia được tạo vào năm Hoằng Định 12 (1611) đặt tại đền thờ Lê Đại Hành ở Trường Yên (Hoa Lư – Ninh Bình) nhằm hết sức đề cao thánh tích và ca ngợi công đức của Lê Đại Hành Hoàng đế, Bảo Quan Hoàng Thái hậu và Ngọa Triều Hoàng đế. Nay chúa Bình An Vương nghĩ rằng xã Trường An Hạ là đất hưng vương của triều Tiền Lê, tưởng nhớ công đức của người xưa đã lệnh cho tu tạo điện vũ để phụng thờ. Tháng Sáu năm Tân Hợi (1611) hưng công làm các pho tượng vua Lê Đại Hành. Nay làm bài ký ghi lại việc này, ghi họ và tên chư vị thiện tín đã cúng tiến tiền của để trùng tu điện thờ và tạc tượng, gồm có các quan như Đặc tiến Phụ quốc Tướng quân Phong Quận công Bùi Thời Trung.
Nguồn: T12, tập 16, N015859-62; V12, tr.672-674.
NĂM 1617 (ĐINH TỴ)
Ngày 18 tháng 6 (16 tháng Năm – Đinh Tỵ)
368. Con cháu Đô đốc Dương Giám dựng bia về việc dân làng Đồng Khê bầu ông làm Hậu thần
Đồng Khê xã đình bi được tạo dựng ngày 16 tháng Năm – Đinh Tỵ, niên hiệu Hoằng Định 18 (1617) cho biết, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Bắc quân Đô đốc phủ Tổng binh sứ Bái Dương hầu Trụ quốc Dương Giám ban 2 sào đất tư ở cửa đình cho dân làm đình và làm chợ. Quan viên, dân làng tôn bầu ông làm Hậu thần. Hàng năm các lễ nhập tịch cầu phúc ông đều được phụ tế tại đình, lễ xong đều có kính biếu. Khoán ước đã lập nhưng chưa kịp dựng bia, nay con cháu là Dương Tranh, Dương Thị Thạc đã thuê thợ khắc bia để lưu truyền cho hậu thế.
Nguồn: T12, tập 13, N012305-06; V12, tr.124.
NĂM 1618 (MẬU NGỌ)
Ngày 5 tháng 10 (17 tháng Tám – Mậu Ngọ)
369. Sinh đồ Dương Minh Đạo soạn Thí điền thị bi ký
Bia dựng tại đình xã Vĩnh Duệ, tổng Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Đồng Quang, Gia Lộc – Hải Dương) ghi nhận Trùm lão Đặng Viết Hiền người bản thôn và vợ là Đào Thị Khuy đã cúng 4 mẫu ruộng cho thôn để làm chợ. Dân thôn cam kết sẽ cúng giỗ vợ chồng ông mãi mãi. Bia ghi vị trí diện tích ruộng. Có bài minh, họ tên những người ký nhận.
Nguồn: T12, tập 6, N05134-35.
NĂM 1619 (KỶ MÙI)
Ngày 14 tháng 4 (1 tháng Ba -Kỷ Mùi)
370. Dương Trí Trạch thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Niên hiệu Hoằng Định thứ 20 (1619), Bộ Lễ theo điển cũ, tâu xin thi Hội sĩ nhân trong nước. Đặc sai Đề điệu là Tả đô đốc Lễ Quận công Trịnh Sâm, Tri Cống cử là Hình bộ Thượng thư kiêm Đông các Học sĩ Phương Lan hầu Nguyễn Thực, Giám thí là Ngự sử đài Đô Ngự sử Thụy Dương bá Nguyễn Danh Thế, Hộ bộ Tả Thị lang Lương Xuyên bá Phạm Hồng Nho đứng ra trông nom cùng trăm quan chia giữ các việc. Lúc bấy giờ sĩ tử đến Kinh ứng thí đông đến vài nghìn, chọn hạng xuất sắc được 7 người.
Đến khi cào Điện thí, đặc cách ban cho Nguyễn Lại một người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Bùi Cầu 6 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Tất cả 7 người đều được ban áo mũ cân đai, yến tiệc theo y phép cũ, ơn vinh theo thứ bậc, thảy đều theo quy chế, ân điển rất mực trọng hậu. Khoa mục từ đó thành việc thường xuyên, nhân tài theo con đường đó tiến thân, triều Lê ở thời kỳ này lựa chọn được nhiều người nhất. Nhưng lễ trọng dựng bia đá để tên tuổi vẻ vang thì chưa kịp cử hành. Làm việc đó cho rạng rỡ người trước, phấn chấn người sau chính còn chờ ngày nay vậy…
Dương Trí Trạch, người xã Bạt Trạc, tổng Nga Khê, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Nhân Lộc, Can Lộc – Hà Tĩnh), cháu nội của Dương Trí Dụng. Ông làm quan trải qua Bồi tụng, Tham tụng, Thượng thư bộ Lễ, Chưởng Hàn lâm viện sự, Thượng thư bộ Hộ hàm Thiếu bảo, Thượng thư bộ Lại, Quốc lão, Thái bảo, tước Bạt Quận công, từng đi sứ. Khi mất được tặng hàm Thái tể.
Theo Công dư tiệp ký, tại khoa thi này, một người ở xã Đông Khê, huyện Thanh Lâm nằm mơ thấy yết bảng ở đình làng ấy và có hai người trúng cách, đầu bảng là người làng. Người thứ nhất là Huấn đạo Dương Mô, người thứ hai là Giám sinh Nguyễn Tôn Cổ. Người ấy tỉnh dậy đem việc nói cho mọi người biết. Mọi người đều tin chắc khoa ấy Dương Mô và Tôn Cổ thế nào cũng đỗ. Đến khi yết bảng, hai ông ấy đều hỏng. Mọi người lấy làm ngờ, nhưng còn hy vọng sẽ đỗ khoa khác.
Được ít lâu, vùng ấy loạn lạc. Trong số 10 viên Cống sĩ ở trong làng chỉ có hai ông sống sót. Than ôi! Trong khi loạn lạc, mười người còn hai, việc đó đã có tiền định.
Nguồn: V2, tr.245-250; C1, tr.529-530; C6, tr.288.
NĂM 1620 (CANH THÂN)
Ngày 31 tháng 3 (28 tháng Hai – Canh Thân)
371. Dương Bá Hữu viết chữ cho bia bản xã Phượng Dực
Thích Ca tự tu tạo thiết chuyên bi/ Hưng công cập tín thí bi ký do Tiến sĩ Bùi Văn Bưu soạn, dựng tại chùa bản xã, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Phượng Dực, Phú Xuyên – Hà Nội) ghi rằng: các Quan viên, Hương lão và Thiện nam, Tín nữ xã Phượng Dực cùng khách thập phương đã phát tâm công đức tiến cúng tiền bạc để xây bậc thềm đá cho chùa Thích Ca. Ghi họ và tên các vị hưng công, hội chủ và những người đã cúng tiến tiền bạc tu sửa chùa.
Nguồn: T12, tập 6, N011366-67.
NĂM 1622 (NHÂM TUẤT)
Ngày 22 tháng 3 (11 tháng Hai – Nhâm Tuất)
372. Hương trưởng Dương Văn Cơ được ghi danh trong việc hưng công tu tạo chùa Phổ Linh
Phổ Linh tự bi do Tiến sĩ Nguyễn Lai soạn, dựng tại chùa Phổ Linh, phường Tây Hồ, huyện Quảng Đức (nay là làng Tây Hồ, phường Quảng Bá, Tây Hồ – Hà Nội) ghi rằng:
Phật là bậc thánh nhân ở nước Thiên trúc từ xưa chưa từng có. Đến đời Hán Minh đế rước vào Trung Quốc, vẽ tượng Phật ở dài Thanh Lương, lăng Hiển Tiết mà từ đó giáo lý của Phật mới bắt đầu. Trải đến triều Lý – Trần [], lệnh trên ban tín chiếu khắp thiên hạ các nơi danh thắng lập đền dựng chùa. Nhân thế, ở phường Tây Hồ huyện Quảng Đức có danh thắng tên chùa Phổ Linh. Ngắm coi đất ấy Chu Tước phía trước có hồ lớn, Huyền Vũ phía sau có dòng Nhị Hà uốn quanh; tả Thanh Long có đền Đại Bi chống phía nam Nghi Tàm, hữu Bạch Hổ có am Long Ân trấn ở phía bắc Quảng Bố. thế là khí anh linh thuần túy hội tụ vận hành khắp đất trời. Nhỏ thì ở khắp muôn vật, lớn thì hiểu rõ ở nhân tài, quả thật là danh lam đệ nhất trong thiên hạ. Quy mô thì đài vàng nhà báu, lầu các chênh vênh, lương đống điêu khắc tinh xảo huy hoàng. Tượng Phật thì Tam thế Di Đà tòa báu nguy nga ngời sáng. Sừng sững lâu đài uy nghi muôn vạn trượng, ba nghìn thế giới xa hẳn cõi trần. Phàm những điều đảo cầu đều hiển rõ linh ứng. Tuy là chùa cổ ở Quỳnh Lâm, danh lam ở Phả Lại cũng sao hơn được. Trải thời gian binh lửa chiến tranh, rường cột bị gió mưa vùi dập, tượng báu bị dầm nước bi thương. Người người trông thấy cảnh ấy, ai mà không dấy lòng hương hỏa xót xa.
Mừng thay, bản phường ta quan viên hương ấp lớn nhỏ, răn rè nhàn cư, cảm phát thiện tâm. Nên ngày 16 tháng Mười năm Mậu Ngọ (1618), chi tiền của, cầu thợ hay, chọn đất để dựng Phạn cung, điểm tô tượng Phật, bài trí phòng tăng. Chế độ quy mô còn hơn cả thời trước.
Lại ngày 13 tháng Một năm Canh Thân (1620), đại khai một đàn pháp hội lớn. Công ấy đức ấy, khắp dân ấp đâu đâu cũng có. Đúng là âm công đã tích dương báo ắt về. Dưới cội Bồ đề lại rạng ngời hào quang, rừng công đức thấm nhuần ơn huệ. Mừng năm năm thêm phú quý, ngày ngày đón vinh hoa. Lắm phúc như cát sông, khánh thiện lưu dành con cháu.
Hương trưởng Dương Văn Cơ được ghi danh trên tấm bia trên.
Nguồn: T21, tr.116-122.
Trong năm
373. Nho sinh Dương Hiến Đạo soạn Tạo Sâm Hạnh tự bi
Bia tạo năm Vĩnh Tộ 4, dựng tại chùa Hạnh Sâm, xã Đông Mô, tổng Nãi Sơn, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc Kiến Thụy – Hải Phòng) ghi việc sai vãi, thiện nam, tín nữ bản xã xây Thượng điện vào năm Đinh Mùi (1607), nhà Thiêu hương vào năm Mậu Thân (1608), mua 1 sào ruộng Tam bảo năm Kỷ Dậu (1609), làm Tam quan năm Canh Tuất (1610), làm Tiền đường năm Bính Thân (1616).
Nguồn: T12, tập 11, N010463.
NĂM 1623 (QUÝ HỢI)
Ngày 2 tháng 6 (5 tháng Năm – Quý Hợi)
374. Nhiều người họ Dương được ghi danh trong việc hưng công dựng đền Mục Thận
Thần tự phụng sự điền bi do Huấn đạo phủ Quốc Oai là Hoàng Du soạn văn bia ghi rõ, trong số các hương trưởng phường Trích Sài, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Bưởi, Tây Hồ – Hà Nội) có các vị Dương Văn Vận, Dương Tất Thành, Dương Đình Thúc, Dương Văn Nguyên, Dương Tất Đình, Dương Thế Khanh, Dương Thế Khoa.
Nguồn: T21, tr.140-142.
NĂM 1625 (ẤT SỬU)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Ất Sửu)
375. Trạng nguyên Dương Liên qua đời tại Trung Quốc
Ông hiệu là Đại Hồng, tự Văn Nho, nguyên quán xã Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), rời Đại Việt sang Đại Minh khi cuộc chiến Nam – Bắc triều tuy bước vào giai đoạn cuối nhưng khốc liệt, cư ngụ tại vùng Ứng Sơn. Không rõ ông theo học ở đâu và dự thi khoa nào, chỉ biết sau khi đỗ Trạng nguyên triều Minh Thần Tông, niên hiệu Vạn Lịch (1573-1620), ông làm đến Cấp sự trung rồi thăng Tả phó Đô ngự sử trong thời Minh Quang Tông (1620-1621). Tháng Sáu năm Giáp Tý, niên hiệu Thiên Khải 4 thời Minh Hy Tông (1624) ông dâng sớ Ngụy Trung Hiền – viên hoạn quan gian hiểm, lộng quyền với 24 tội lớn nhưng lại bị nhà vua quở trách và truất chức. Tháng Bẩy – Ất Sửu (8-1625) ông qua đời. Khi Minh Tư Tông lên ngôi, niên hiệu Sùng Trinh 1 (1628), ông được phục chức, truy tặng Binh bộ Thượng thư. Ban thụy là Trung Liệt.
Năm 1718, Chánh sứ Nguyễn Công Hãng khi qua Ứng Sơn được dân bản địa kể nhiều về ông. Năm 1848, sứ thần Bùi Quỹ cũng ghi chép thêm sự tích về vị Trung Liệt, họ Dương ở Đại Việt sang, con cháu đông đúc, phần đông xuất thân văn võ, không ai sống thấp hèn.
Nguồn: H4, tr.42.
NĂM 1627 (ĐINH MÃO)
Ngày 25 tháng 11 (18 tháng Mười – Đinh Mão)
376. Ghi danh bà Dương Thị Thu tại bia chùa Hưng Phúc
Hưng Giáo xã Hưng Phúc tự cổ tích danh lam tu tạo thạch bi dựng tại chùa Hưng Phúc, cho biết xã Hưng Giáo, tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Tam Hưng, Thanh Oai – Hà Nội) có các giáp Khang Tính, Đông Lộc, Đông Truyền, Tây Truyền, Đông Đô, Tây Đô, Tây Tính, Tây Lộc đều có người hưng công đóng góp tu tạo. Lại có rất nhiều hương sĩ, hội chủ góp tiền ruộng, trong đó có bà Dương Thị Thu, người xã Ma Nê, huyện Võ Nhai, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên bỏ tiền mua 1 sào ruộng cúng vào chùa.
Nguồn: V3, tr.40-46.
Trong năm
377. Nhiều người họ Dương tham gia hưng công làm cầu, dựng chợ phủ Hà Trung
Bia Trùng tu Phượng Hoàng thị vi kiều, thí Bản Phủ thị, Ngưu thị Vi Tam bảo thị (Sửa chợ Phượng Hoàng thành cầu, chợ Bản Phủ và chợ Trần thành chợ Tam bảo) dựng tại chùa Sùng Nghiêm, xã Duy Tinh, tổng Du Tràng, huyện Phong Lộc, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay thuộc thôn Duy Tịnh, xã Văn Lộc, Hậu Lộc – Thanh Hóa) ghi rằng:
Cầu bắc trên nước là để giúp người dân qua lại, chợ họp giữa ban ngày là để lưu thông của cải trong thiên hạ. Cầu Phượng Hoàng và chợ Bản Phủ giáp ranh ở khu đất cao giữa 2 thôn Vĩnh Phúc và Thuần Hựu, đất cao rộng thoáng, bằng phẳng, là nơi hành khách qua lại, hàng hóa bán buôn, thật là ấp Thang mộc. Từ thời trung đại đến nay thật là chốn đô hội lớn vậy. Cảnh đẹp tinh khôi, phong cảnh có nhiều đặc biệt, giờ sao con người không thể không nảy sinh cảm xúc cho được?
Kính nghĩ! Lão Hoàng Hoàng Thái Hậu, mẹ của Thế Tông Nghị Hoàng đế, là bậc mẫu nghi thiên hạ, cũng là người có tâm Thánh nhân trong giới Phật giáo, bèn từ nơi phúc địa này, phát vô lượng tâm, gieo trồng quả phúc cho tương lai. Lúc bấy giờ, (bà) gặp mặt quan viên và toàn thể nhân dân, cùng đồng lòng trợ giúp chi phí, tiền tích góp bao lâu quyên lại, mua gỗ lạt gạch ngói đủ đầy. Đến ngày 12 tháng Bẩy năm Hoằng Định thứ 15 (1614) thì quyên đủ, mới cùng hợp sức khởi công, dốc sức kỳ công tinh xảo, kiên trì bền bỉ xây dựng, làm nên cây cầu bắc ngang qua sông phía trên dòng nước.
Cầu được dựng trên nước là do người qua lại làm nên, vốn là chợ Bản Phủ đem cúng dàng làm chợ Tam bảo, để làm nơi mọi người trong thiên hạ tụ họp, hàng hóa trong thiên hạ buôn bán được giá cao, người ở người đi đều thuận tiện, hàng hóa mậu dịch mua bán trao đổi đều được thông suốt, thật vui vẻ thay, thật rộng lớn thay! Đối với ngày của Đế thì khắp nơi tốt đẹp, cao quý; với đạo của Vua thì con đường ấy là nơi tụ hội, là chốn tìm về. Vì thế mà nghiệp của Vua nhà ta muôn năm kéo dài mãi, công lao tích phúc to lớn là đây!
Do vậy, công đức của việc xây cây cầu đó, thí cái chợ đó há có thể đo lường được ư? Tấm lòng thiện nguyện nhiều như cát ngoài sông, trăm phúc nghìn lộc sẽ tìm đến với bản thân, đến với con cháu, sâu xa đều đặn, kéo dài mãi mãi, con cháu mãi nối dài, cơ đồ được củng cố, cho đến muôn vạn năm sau không dứt.
Các ông bà Dương Thị Tiệp, Dương Thị Ninh, Dương Thị Chính, Dương Thị Thày, Dương Viết Tống, Dương Đình Xuân cùng hàng trăm người có tên trên bia.
Nguồn: T16, tr.113-128.
NĂM 1628 (MẬU THÌN)
Ngày 13 tháng 5 (10 tháng Tư – Mậu Thìn)
378. Dương Cảo thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ
Tháng Hai – Mậu Thìn, triều đình tổ chức thi Hội sĩ nhân trong cả nước, lấy đỗ Giang Văn Minh 18 người. Tháng Tư – Mậu Thìn, thi Đình. Vua thân ra đầu đề văn sách hỏi về việc thiên hạ và chính sách của triều đình. Theo mô tả, các sĩ đại phu tập trung từ ngày hôm trước. Ngày hôm sau, Hoàng thượng lâm ngự Điện thí, hỏi về phép trị đạo xưa nay. Sai Đề điệu là Thái bảo Quỳnh Quận công Trịnh Đệ, Tri Cống cử là Binh bộ Thượng thư kiêm Ngự sử đài Đô Ngự sử, Thiếu phó Đường Quận công Nguyễn Danh Thế, Giám thí là Lại bộ Hữu Thị lang Lai Phong bá Nguyễn Tuấn cùng các quan hữu ti chia giữ các việc.
Đến khi dâng quyển đọc, Hoàng thượng sáng suốt ngự lãm, xét định thứ tự cao thấp. Ban cho Giang Văn Minh, đỗ Tiến sĩ cập đệ, Dương Cảo 3 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Đặng Phi Hiển 14 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Về danh hiệu Cập đệ thì từ khi khôi phục mới bắt đầu thấy có ở khoa này. Còn việc ban cấp áo mũ cho dự yến tiệc đều theo lệ cũ, tước trật chức vị nhất nhất đều theo quy chế đã lập thành. Chỉ còn việc dựng bia đề danh hồi đó chưa kịp làm. Cử hành việc ấy chính là ngày hôm nay vậy…
Đến nay Thánh thượng chạnh nghĩ các khoa thi Chế khoa, thi Tiến sĩ của bản triều được người rất hiền, nếu không dựng bia đề danh thì làm sao có thể nêu cao thịnh sự của Nho khoa, để người đời nay lớn lao trông vào. Bèn sai Bộ Công khắc đá, theo thứ tự đề họ tên từng người, dựng ở cửa nhà Thái học để tỏ ý ngợi khen khích lệ, giúp cho hậu thế có chỗ chiêm ngưỡng mà thấy được sự vẻ vang, để mà cố rèn mài danh tiết, gắng lên kính giúp hoàng gia, há chỉ để làm hư văn mà thôi đâu!
Ôi! Sự tôn trọng ngợi khen của triều đình thật đã là rất mực, kẻ sĩ sinh ở đời này mới thật vinh hạnh làm sao! Vả lại về khoa này trong số những người được dự đề danh trên bia đá này, đến một nửa đã qua đời. Nhưng con người của họ trung chính hay gian tà, người hiền hay kẻ xấu thì có chỗ không thể che giấu được. Đến nay hiện làm quan tại chức thì quả thật phải giữ một tấm lòng sắt đá trung thành, dân lời nói thuốc đắng kim châm để giúp vua giữ gìn quy củ; mưu lo ích nước, thi triển yên dân, làm rường cột quốc gia, làm bậc đại thần trụ dá miếu đường, giúp vua được như vua Nghiêu Thuấn, giúp đời được như đời Đường Ngu.
Dương Cảo, người xã Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội), làm quan đến Quốc tử Giám Tế tửu.
Nguồn: Đ4, tr.930; V2, tr.256-261.
NĂM 1629 (KỶ TỴ)
Trong năm
379. Dương Phúc Toàn thi đậu Cử nhân
Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), thi đậu năm 18 tuổi. Về sau có dự các kỳ thi Hội vào các năm Nhâm Thìn (1651), Giáp Thìn (1664) nhưng chỉ qua Tam trường.
Nguồn: D7.
NĂM 1630 (CANH NGỌ)
Ngày 20 tháng 10 (15 tháng Chín – Canh Ngọ)
380. Huyện sĩ Dương Hồng công đức tu tạo chùa An Tất
Tạo An Tất tự bi/ Phật tăng pháp dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc An Lão – Hải Phòng) ghi:
Huyện sĩ Mỹ Lộc hầu Dương Hồng tự Huyền Nghiêm và các vợ là Kỳ Khâu ny tự phu nhân Bùi Thị Tố hiệu Từ Nhân, Bùi Thị Tế hiệu Từ Duyên và 4 người thiếp khác đã phát tâm công đức tạo tượng Phật, trùng tu lại 5 gian Hậu đường, 2 gian cầu, hành lang chùa. Sau các tín chủ còn tiến cúng 6 mẫu ruộng vào chùa làm ruộng Tam bảo. Nay lập bia ghi việc làm công đức của toàn thể gia đình, ghi rõ số thước sào, vị trí của từng thửa ruộng tiến cúng.
Nguồn: T12, tập 12, No11116-17.
Tháng 12 (tháng Một – Canh Ngọ)
381. Dương Trí Trạch được cử làm Chánh sứ sang nhà Minh
Cùng đi sang Minh còn có Chánh sứ Trần Hữu Lễ, các Phó sứ Nguyễn Kinh Tế, Bùi Bỉnh Quân, Nguyễn Nghi, Hoàng Công Phu chia làm hai đoàn khác nhau.
Nguồn: Đ4, tr.932.
NĂM 1631 (CANH NGỌ – TÂN MÙI)
Ngày 16 tháng 1 (15 tháng Chạp – Canh Ngọ)
382. Họ Dương làm Hội chủ, Hưng công tu tạo chùa Sùng Quang
Trùng tu Sùng Quang tự bi do Tiến sĩ Nguyễn Thực soạn văn bia đặt tại chùa Sùng Quang, xã Phúc Long, tổng Phúc Tằng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tăng Tiến, Việt Yên – Bắc Giang) là nơi cổ tích danh lam, vào ngày 15 tháng Chạp năm Canh Ngọ, cưu công tu tạo Thượng điện, Thiêu hương, Tiền đường, Hậu đường, tả hữu Hành lang, Tam quan, tường vây. Đến ngày 11 tháng Bẩy năm Tân Mùi (8-8-1631) thì công việc xong xuôi. Việc tu tạo được vẹn toàn như vậy là nhờ quan Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến kim sử vinh lộc Đại phu, Nội phủ giám, Tổng thái giám, Chưởng giám sự, Dương Nghĩa hầu Thân Thạc Vọng chủ trì. Vì vậy, bản xã cho tiên tổ ông được gửi giỗ tại chùa. Lại lập một ngôi Sinh từ bên cạnh để cúng thờ khi ông qua đời, truyền mãi đến vạn đời.
Kê Hội chủ, Hưng công, công đức.
Hội chủ: Chánh phu nhân của quan Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Nội phủ giám Thân Thạc Vọng Dương Thị Ngọc Yến.
Hưng công: Sư phụ Đại nguyên súy Thống quốc chính, Thanh Vương Trịnh Tráng Phủ sĩ Dương Kim Chi.
Nguồn: T12, tập 22, N031222-23; Đ12, tr.615-616
Ngày 17 tháng 3 (15 tháng Hai – Tân Mùi)
383. Vợ chồng bà Dương Thị Ý gửi Hậu tại đình Kim Sơn
Cung ứng điền thổ vi bi/ Bản xã đẳng sự cộng ký dựng tại đình xã Kim Sơn, tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội) ghi:
Vợ chồng ông Nguyễn Liễu và bà Dương Thị Ý đã nhiều tuổi mà không có con, nên mua 4 mẫu 4 sào 8 thước ruộng để xin gửi nhờ dân làng cúng giỗ về sau tại đền làng. Dân làng đồng ý và định lệ cúng giỗ ông bà hàng năm sau khi ông bà trăm tuổi.
Nguồn: T12, tập 4, N03982-83.
Tháng 3 (tháng Hai – Tân Mùi)
384. Bà Dương Thị Ngọc Kinh hưng công tu tạo chùa Long Đẩu
Trùng tu Long Đẩu tự/ Sơn thạch bi do Vương tử Nguyễn Tuấn Tài soạn, khắc vào mặt trước bia đá tháng Chạp – Canh Ngọ (1-1631) và mặt sau bia đá tháng Hai – Tân Mùi (3-1631) đặt tại chùa Long Đẩu, xã Đa Phúc, tổng Lật Sài, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Sài Sơn, Quốc Oai – Hà Nội) ghi rằng:
Chùa núi Long Đầu là một danh lam. Bên trái có hồ sen, trăng soi ánh vàng rất đẹp, bên phải có núi Đẩu cao vút tới trời sao. Sông núi thanh kỳ, địa linh nhân kiệt. Cảnh vật hữu tình, công đức vô biên. Có vãi Dương Thị Ngọc Kính, quán xã An Cương, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách xuất gia trụ trì chùa Thiên Phúc. Năm Canh Ngọ, tháng Hai vâng mệnh thánh chúa, phát ngân tiền, tập hợp quý quan bố thí tài vật, đứng ra hưng công sửa lại thượng điện, làm mới Tiền đường, Hậu đường, Thiêu hương, Tam quan và các tượng Phật, trang kim hết thảy, làm cho quy mô to lớn, phong quang hơn hẳn so với trước đây. Sau lại khắc bia lưu truyền công đức đến muôn đời con cháu.
Nguồn: T12, tập 2, N01229-31.
NĂM 1633 (QUÝ DẬU)
Mùa xuân
385. Dương Hưng thi đậu Hương cống
Ông người xã Lạc Đạo, tổng Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), hiệu Nghĩa Am công, làm quan đến chức Giảng dụ.
Lần lượt các năm tiếp theo dưới triều Lê, họ Dương Lạc Đạo còn có các Hương cống sau đây không rõ năm thi đỗ:
Dương Tuân (không rõ năm) em Tứ trường Dương Duệ và Dương Tống; anh tứ trường Dương Trình; cha các Hương cống Dương Triện và Dương Khuông (Dương Vịnh), ông nội các Tứ trường Dương Đình Trạch, Dương Công Cán và Dương Công Cổn; 26 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội trúng cách nhưng gặp sự cố, từ đó bỏ không dự thi. Làm quan đến chức Huấn đạo phủ Thượng Hồng, Tri huyện huyện Nam Chân. Từ quan về nghỉ, sau lại ra làm quan đến Thiêm Tri lại phiên, Công bộ Lang trung. Tước Huệ Địch bá. Thọ 77 tuổi. Sau khi mất được tặng Tự khanh, Thiếu bảo. Lúc nhỏ tên Quýnh, hiệu Đạo Thuần tiên sinh và Lỗ Hiên tiên sinh. Dương Trừng, cha Tứ trường Dương Tranh, anh trai Tứ trường Dương Quỹ, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, hiệu Tráng Am tiên sinh. Dương Vịnh, em Tứ trường Dương Triện, cha các Tứ trường Dương Đình Trạch, Dương Công Cán và Dương Công Cổn; ông nội các Tứ trường Dương Thiều, Dương Công Hiển và Dương Đình Thực; 15 tuổi đỗ Sinh đồ, 20 tuổi đỗ Hương cống, thi Hội 7 khoa đỗ Tam trường; làm quan đến chức Tri huyện các huyện Việt Yên, Đông Triều; thăng Tri phủ phủ Quốc Oai, Hiến phó sứ Sơn Tây, Tham nghị Hải Dương. Sau vì xử án chậm trễ nên phải chuyển sang làm Hiến sát phó sứ An – Quảng. Tước Bính Gia nam. Thọ 72 tuổi; hiệu Thọ Hiền tiên sinh; Dương Tranh, con thứ Nho sinh trúng thức Dương Trừng, cháu nội Tứ trường Dương Huệ, 30 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội nhiều lần đỗ Tam trường; làm quan đến chức Tri huyện huyện Tiên Minh; thọ 51 tuổi, hiệu Đạo Uyên tiên sinh. Dương Đình Miên, con thứ Tiến sĩ Dương Hồ, 39 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội đỗ Tam trường; lúc đầu nhận chức Tư nghiệp, dần thăng đến Tri phủ 2 phủ Thái Bình và Nam Sách, thọ 56 tuổi; giỏi văn thơ, dịch các sách lễ nghi, văn tế ra chữ Nôm lưu truyền trong dân. Dương Đình Trạch, con cả Hương cống Dương Khuông (Dương Vịnh); cháu nội Tứ trường Dương Tuân; anh các Tứ trường Dương Công Cán và Dương Công Cổn, 30 tuổi đỗ Tứ trường triều Lê; làm quan đến chức Điền bạ, Tri châu, Tri huyện huyện Chương Đức, thọ 71 tuổi (nhỏ tên Tiềm, hiệu Thọ Khoan Tiên sinh). Dương Công Cốn, con út Hương cống Dương Khuông (Dương Vịnh), cháu nội Tứ trường Dương Tuân, em các Tứ trường Dương Đình Trạch và Dương Công Cán, cha Tứ trường Dương Đình Thực; 33 tuổi đỗ Tứ trường khoa thi Hương triều Lê; làm quan đến chức Phụng thị Văn chức, Tri châu châu Động Cao, thọ 79 tuổi, hiệu Thọ Đoan Tiên sinh. Dương Doãn, con út Tiến sĩ Dương Hạo, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, hiệu Cương Đạt tiên sinh. Dương Thiếp, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, hiệu Khoát Đạt tiên sinh. Dương Tuy, con thứ 2 Nho sinh Dương Đình Chuẩn, em Giám sinh Dương Đình Quận, Giám sinh Quốc tử Giám. Dương Đình Chuẩn Giám sinh Quốc tử Giám. Dương Thiều, anh Tứ trường Dương Công Hiền, cháu nội Tứ trường Dương Khuông (Dương Vịnh), 23 tuổi đỗ Nho sinh trúng thức, hiệu Thanh Cần Tiên sinh. Dương Công Hiền, con thứ Tứ trường Dương Công Cán (Dương Đăng Cán), em Tứ trường Dương Thiều, anh Tam trường Dương Điền; cháu nội Tứ trường Dương Khuông (Dương Vịnh); 22 tuổi đỗ Tứ trường khoa thi Hương triều Lê, thi Hội 4 lần đỗ Tam trường, làm quan đến chức Huấn đạo, Tri huyện, Tri phủ phủ Lâm Thao, thọ 41 tuổi, húy Triệu, hiệu Chất Trực Tiên sinh. Dương Trị, con út Dương Cẩn, em Tứ trường Dương Đình Hiển, 22 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội 5 khoa đỗ Tam trường, làm quan trải các chức Huấn đạo phủ Từ Sơn, Tri huyện huyện Lập Thạch, thăng Tri phủ phủ Quốc Oai, dự kỳ khảo quan loại thượng khảo nên thăng Hiến phó xứ Sơn Nam, dần thăng đến Tham nghị xứ Sơn Nam, thọ 64 tuổi. Hiệu Hòa Hậu tiên sinh. Dương Xuyên, đỗ Tứ trường, hiệu Thọ Cách tiên sinh. Dương Tri, đỗ Tứ Trường, thi Hội nhiều lần đỗ Tam trường, làm quan đến chức Huấn đạo phủ Bắc Hà, thăng Tri huyện huyện Từ Liêm. Dương An, trú tại xã Hữu Lễ, tổng Cấp Dẫn, huyện Kỳ Hoa, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc Kỳ Anh – Hà Tĩnh), gốc người Lạc Đạo (Gia Lâm), đỗ Hương cử. Dương Công Cán, con thứ Tứ trường Dương Khuông; cha các Hương cống Dương Thiều, Dương Công Hiển và các Tứ trường Dương Điền và Dương Tuần; cháu nội Tứ trường Dương Tuân; em Tứ trường Dương Đình Trạch; anh Tứ trường Dương Công Cổn; 21 tuổi đỗ Tứ trường, 2 lần thi Hội đỗ Tam trường, làm quan trải các chức Tri huyện các huyện Gia Phúc, Nghi Dương; dự kỳ khảo quan đỗ loại Thượng khảo nên thăng Tri phủ 2 phủ Thiên Trường, Trà Lân, thọ 72 tuổi, sau khi mất được tặng chức Tự khanh, tước Dung Thông tử, gia tặng Tham chính, gia phong Thừa chỉ, bao phong Bình cách linh cảm Hoằng tế diên lộc phù hưu cương đoán công minh địch cát, gia ấm Khoan dung Đạt đức đại vương, lúc nhỏ tên quang. Dương Đình Thực, con Tứ trường Dương Công Cổn, cháu nội Hương cống Dương Khuông (Dương Vịnh), 40 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội 6 lần đỗ Tam trường, làm quan đến chức Tri huyện huyện Siêu Loại, thọ 70 tuổi, hiệu Đạo Trực tiên sinh. Dương Đình Doanh, con Nho sinh Dương Đình Kỳ, đỗ Giải nguyên triều Lê. Dương Đình Hiến, con thứ tư Dương Cẩn, anh Tứ trường Dương Trị, cha các Tứ trường Dương Đình Hán và Dương Dục, 19 tuổi thi một lần đỗ Tứ trường, 3 khoa thi Hội đỗ Tam trường, làm quan trải các chức Điển bạ, Tri huyện, Tự thừa, Tri phủ, Hiến phó sứ xứ Tuyên Quang. Dương Đình Lam, con Nho sinh Dương Đình Hoa, 24 tuổi đỗ Tứ trường triều Lê, thi Hội đỗ Tam trường, làm quan đến chức Tri huyện huyện Tiên Minh, Tham nghị xứ Sơn Tây. Dương Đình Quân, con trưởng Giám sinh Đình Chuẩn, Giám sinh Quốc tử Giám. Dương Duệ, anh các Tứ trường Dương Tốn, Dương Tuân và Dương Trình, cha Tứ Trường Dương Trừng và Nho sinh trúng thức Dương Quỹ; ông nội Tứ trường Dương Tranh, 23 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội đỗ Tam trường, làm quan đến chức Tri huyện huyện Yên Dũng, thăng Viên ngoại lang bộ Lại, tước Trung Thuận tử, hiệu Tuất Triết tiên sinh. Dương Đình Hán, con thứ Tứ trường Dương Đình Hiến, em Tứ trường Dương Dục, đỗ Tứ trường, thi Hội trúng Tam trường, làm quan đến chức Huấn đạo phủ Quốc Oai. Dương Đình Hoằng, đỗ Tứ trường triều Lê, làm quan đến chức Lang trung bộ Hình. Dương Duyên, con trưởng Tứ trường Dương Tuân, anh Tứ trường Dương Khuông (Dương Vịnh), đỗ Nho sinh trúng thức, hiệu Chuyết Hiên Tiên sinh. Dương Thiêm, con trưởng Tiến sĩ Dương Hạo, anh Nho sinh trúng thức Dương Y, đỗ Nho sinh trúng thức, hiệu Thiệu Hiền Tiên sinh. Dương Y, con thứ Tiến sĩ Dương Hạo, em Nho sinh trúng thức Dương Thiêm, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, hiệu Cương Đạt Tiên sinh. Dương Trình, em các Tứ trường Dương Duệ, Dương Tốn và Dương Tuân, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, được làm Quan viên phụ, thọ 60 tuổi, lúc nhỏ tên là Đạt, hiệu Lãn Hiên Tiên sinh. Dương Tốn, em Tứ trường Dương Duệ, anh Tứ trường Dương Tuân và Dương Trình, đỗ Nho sinh trúng thức. Dương Dục, cháu nội Dương Cẩn, con thứ Hiến phó sứ Dương Đình Hiến, anh Tứ trường Dương Đình Hán, đỗ Nho sinh trúng thức. Dương Quỹ, con thứ Hương cống Dương Duệ, em Tứ trường Dương Trừng, đỗ Nho sinh trúng thức, hiệu Yên Sơn Tiên sinh.
Nguồn: K6, tr.396-402.
Ngày 27 tháng 4 (20 tháng Ba – Quý Dậu)
386. Dương Trí Trạch đi sứ về đến Đông Đô
Từ giữa tháng Ba – Quý Dậu, nhà vua đã sai Trần Vĩ, Nguyễn Tiến Dụng, Nguyễn Thọ Xuân, Thân Khuê lên tận ải Nam Quan đợi mệnh, đón tiếp sứ thần về nước. Thái bảo Quảng Quận công Trịnh Hàng được lệnh đem voi ngựa và binh lính các cơ đi hộ vệ.
Cả hai đoàn do Dương Trí Trạch, Trần Hữu Lễ về đến Đông Đô đã vào lạy chào nhà vua. Lần đi này, Phó sứ Bùi Bỉnh Quân chết trên đường trở về.
Nguồn: Đ4, tr.936.
NĂM 1635 (ẤT HỢI)
Tháng 11 (tháng Mười – Ất Hợi)
387. Bà Dương Thị Thu công đức đúc chuông, sửa sang chùa Thiền Viện
Trùng tu Thiền Viện tự bi do Lê Phú Vinh soạn văn bia, dựng tại chùa Nhân Hiền, tổng Cổ Hiền, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Hiền Giang, Thường Tín – Hà Nội) ghi rằng:
Vương phi cung tần Nguyễn Thị Ngọc Liêu cúng cho bản xã là quê hương của bà tiền và ruộng để đúc chuông, sửa sang xây thêm lầu gác ở chùa Thiền Viện. Dân cảm ơn công đức ấy nên thờ bà như một vị sư tổ. Cha mẹ và em trai bà được phối hưởng. Bia còn ghi tên một số hội chủ có công đóng góp vào chùa như sư trụ trì Tống Thị Ngọc Chi, bà Dương Thị Thu ở đạo Kinh Bắc.
Nguồn: T12, tập 9, N08184-85.
Tháng 12 (tháng Một – Ất Hợi)
388. Thái bảo, Sùng Thiện bá Dương quý công được thờ phối hưởng tại đình Đồng Khê
Đồng Khê xã đình bi thuộc đình bản xã, tổng An Lương, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc thị trấn Nam Sách – Hải Dương) ghi rằng dân xã vốn sống ân tình. Những người có công với làng xóm như ông xã Lương, ông xã Võ, ông Lang tướng họ Nguyễn, Thái bảo Sùng Thiện bá Dương quý công, Trang nguyên Thượng thư bộ Hộ Trần tướng công… đều được phối hưởng tại đình của xã.
Nguồn: T12, tập 13, N012310.
NĂM 1636 (BÍNH TÝ)
Mùa xuân
389. Hội chủ xã Thổ Hà Dương Đức Oanh tham gia tân tạo, cung tiến huệ điền chùa Bà Già
Bia Cung phụng tiến huệ điền Bà Già tự tâm tạo bi ký dựng tại chùa Bà Già xã Phú Gia, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Phú Thượng, Tây Hồ – Hà Nội) ghi rằng, dựng bia để ca ngợi công đức, việc ấy đã có từ xưa. Chùa này dựng bia ghi việc cúng ruộng là để chúc hoàng đồ củng cố, mà tường sự thiện thánh của con người, làm nét đẹp cho muôn đời.
Nay Hội chủ của các xã Phú Gia, Thổ Hà gồm: Nguyễn Văn Lâm tên tự Phúc Thành; Dương Đức Oanh tên tự Huệ Đạo, tuyên pháp hiệu là Huyền Thông. Các ông cùng nhau phát tâm Bồ đề, trồng quả thiện, phàm khao đường quán cứu người công lao còn đọng mãi, tính toán để cứu được nhiều người.
Nay lại bỏ tiền nhà công đức cung tiến trên điện, ngoài thì mua đặt ruộng đất tại xứ Đồng Viên hiến làm. Ngày 20 tháng Mười hàng năm dâng oản, lưu lại muôn đời. Nhân duyên tố hảo, công đức tố hảo, nhân duyên như thế, thuê thợ khắc đá, nhờ ta làm bài văn bia, truyền lại muôn đời, ta nhân đó khen rằng:
Người có nhiều phúc, ắt nhận được nhiều phúc, đó là công danh rực rỡ vậy. Ghi chép về sự nghiệp vẻ vang, các đời công đức còn vọng mãi, có thể lượng được chăng? Nhân tố đó khắc vào đá để truyền lại mãi.
Nguồn: T21, tr.169-170.
Trong năm
390. Dương Văn Lý thi đậu Hương cống
Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), Tú tài khoa Kỷ Tỵ niên hiệu Đức Long 1 (1629).
Nguồn: D7
NĂM 1637 (ĐINH SỬU)
Ngày 16 tháng 12 (1 tháng Một – Đinh Sửu)
391. Dương Hoảng thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Mùa đông, tháng Mười – Đinh Sửu, thi Hội cho các sĩ nhân trong nước, lấy đỗ Nguyễn Xuân Chính 20 người. Đến khi thi Đình, vua thân ra đầu đề văn sách, cho Nguyễn Xuân Chính, Nguyễn Nghi, Nguyễn Thế Khanh đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Nguyễn Hữu Thường 2 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Cẩn 15 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Tiến sĩ Đề danh ghi về khoa thi này cho biết, năm Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa thứ 3 lại theo thành lệ mở khoa thi Hội các sĩ nhân trong nước, đăng tên dự thi đông lên mấy nghìn, chọn hạng Trúng cách chỉ được 20 người. Ngày hôm sau vào Điện thí, Hoàng thượng thân ra đề thi văn sách, hỏi về đạo trị nước. Bấy giờ Đề điệu là Thái bảo Kiên Quận công Trịnh Quân, Tri Cống cử là Binh bộ Thượng thư kiêm Quốc tử Giám Tế tửu Thiếu phó Tuyền Quận công Nguyễn Duy Thì, Giám thí là Hộ bộ Tả Thị lang Mai Quận công Nguyễn Tiến Dụng, Lễ bộ Hữu Thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ vâng mệnh dâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng sáng suốt xem xét, định thứ bậc cao thấp. Sai xướng danh treo bảng để tỏ sự vinh quang cho các sĩ tử, ban cho tước trật để tỏ lòng ưu ái, ban áo mũ yến tiệc để tỏ hậu lễ. Bấy giờ sĩ tử và dân chúng trầm trồ ngợi khen, nối nhau kéo đến chật cả hai bên đường để đón xem, cho Bắc đẩu khôi tinh lại hiện ra ngày nay, ý nói thánh triều tôn Nho hơn cả thời xưa.
Dương Hoảng người Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), cháu nội của Trạng nguyên Dương Phúc Tư, sau đổi là Dương Hồ, làm đến Tả thị lang bộ Công, tước Thọ Lâm hầu, khi mất được thăng Thượng thư.
Nguồn: Đ4, tr.937; V2, tr.268-273.
NĂM 1638 (ĐINH SỬU – MẬU DẦN)
Ngày 13 tháng 2 (30 tháng Chạp – Đinh Sửu)
392. Dương Trí Trạch cùng một số quan viên lên ải Nam Quan đợi mệnh
Ngày hôm đó, nhà vua cho Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu, Giang Văn Minh và các Phó sứ Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê dẫn đầu hai sứ bộ sang nhà Minh. Dương Trí Trạch, Trần Hữu Lễ, Nguyễn Thọ Xuân, Phạm Phúc Khánh, Nguyễn Quang Nhạc cùng lên ải Nam Quan đợi mệnh.
Nguồn: Đ4, tr.938.
NĂM 1639 (KỶ MÃO)
Ngày 23 tháng 8 (25 tháng Bẩy – Kỷ Mão)
393. Các quan viên họ Dương phường An Hoa được ghi danh về việc hưng công tu tạo chùa Trấn Quốc.
Trần Quốc tự bi ký do Tiến sĩ Nguyễn Xuân Chính soạn, dựng tại chùa Trấn Quốc, phường An Hoa, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Yên Phụ, Tây Hồ – Hà Nội) ghi rằng:
Ôi! Việc làm văn khắc vào bia đá, sở dĩ là để ghi công đức lớn, sự nghiệp cao cho muôn đời, từ xưa đến nay đời nào cũng có. Nay xét thấy, chùa Trấn Quốc là cảnh đẹp phủ Phụng Thiên, danh lam đất Kinh kỳ, thường gọi là An Hoa, huyện tên là Quảng Đức, thật là một trong bốn thắng cảnh của trời Nam. Từ xưa dấu cũ vốn dựng ngoài bãi sông, chùa Phật sát với sông nước. Dân phường ấy vốn tâm sùng đạo huyền diệu, chí hâm mộ cảnh thiền lâm. Vào khoảng năm Hoằng Định thứ 16 (1615), mới chuyển vào phía sau trong đê, chọn đảo Kim Ngư bên hồ, là nơi cảnh đẹp. Năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624), xây dựng từ đê trở ra, làm thành đất làng, dựng nhà để ở, trồng trọt, bốn phía khơi rộng kênh mương, bên trong mở đường nhỏ để đi lại. Phường ta học tập theo việc thiện của người xưa mà vốn cũng là làng nhân nghĩa. Thế nên vun đắp nền tảng, mở rộng quy mô, tạo mới thượng điện, thiêu hương, tiền đường, cửa sau các tòa.
Đến năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) sửa sang thêm, (lúc bấy giờ có tám giáp nơi gần chợ, ba giáp có tiếng là làm việc thiện cùng tham gia). Năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ý trên đã thuận, lòng dưới hòa theo. Dân làng bàn bạc, chiếu tên tuổi phân suất, tùy theo nhân số ít nhiều trong hộ tịch, định ra hai giáp Đông, Tây quan viên bản phường là: Bế Hữu Tài, Nguyễn Thế Hựu, Dương Tuấn Đức, Dương Tuấn Lộc, Dương Tuấn Giám, Lê Văn Trụ, Đoàn Văn Tài […] cùng toàn phường mở rộng tâm vô lượng, vun trồng cây phúc cho tương lai. Xuất của cải ủng hộ kêu gọi tu tạo chùa.
Đến năm Dương Hòa thứ 5 (1639), cùng hưng công tu tạo Hậu đường, cửa gác ở phía trước, lại sửa sang Hành lang tả hữu, lẫn phía sau, phân định các dãy, các tòa. Đúng là đại quy mô, rất to lớn, sáng gấp trăm lần công đức của tiền nhân. Chế độ đổi mới, công phu viên mãn. Sắc vàng sặc sỡ, kèo cột tô chạm huy hoàng, xán lạn chiếu cả ngoài tòa đan song biếc. Bắc gần Nhị thủy, nam sát Đế thành, cảnh vật anh linh, người sinh ra hào kiệt. Thành chốn thế giới riêng biệt, thắng cảnh Kinh kỳ, thế nên nổi tiếng lúc bấy giờ. Việc ghi chép để truyền lại mai sau không thể không nhờ ở văn chương. Nay bản phường các quan viên trên dưới, ngày 25 tháng Bẩy năm Kỷ Mão (1639), thuê thợ khắc thành văn bia. Đại lược để hình dung công đức cao dày như thế vậy.
Nguồn: T12, tập 1, Ni245-46; T21, tr.182-189.
NĂM 1640 (CANH THÌN)
Khoảng cuối tháng 3 (đầu tháng Hai – Canh Thìn)
394. Dương Hạo thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Tháng Giêng nhuận – Canh Thìn, triều đình mở khoa thi Hội cho các sĩ nhân trong nước. Đến đầu tháng Hai thi Đình, vua thân ra đề văn sách, làm lễ xướng danh. Theo mô tả của bia Tiến sĩ Đề danh, khi bước vào khoa thi Hội, kẻ sĩ văn học bốn phương hát thơ Lộc minh mà đến, cùng nhau tranh đua tài nghệ ở chốn xuân vi đông đến trên 6.000 người. Quan Hữu ty chọn được hạng trúng cách 22 người ghi tên tâu lên.
Dương Hòa lục niên Canh Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Canh Thìn, năm Dương Hòa 6-1640) do Dương Trí Trạch nhuận sắc, Nguyễn Văn Lễ soạn, cho biết:
Hôm sau vào Điện thí, Hoàng thượng ngự ở hiên điện đích thân ra bài văn sách. Sai Đề điệu là Thiếu bảo Lan Quận công Hoàng Nghĩa Phì, Tri Cống cử là lại bộ Tả thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ, hai viên Giám thí là Lễ bộ Hữu Thị lang Cẩm Lộc tử Nguyễn Bình, Ngự sử đài Thiêm Đô Ngự sử Phúc Xuyên nam Nguyễn Thọ Quyến chia giữ các việc.
Đến khi dâng quyển lên đọc, Hoàng thượng xét duyệt và định thứ bậc. Cho Phí Văn Thuật 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Hoàng Vinh 20 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Ngày hôm đó, Bộ Lễ đem Bảng Vàng treo trước cửa nhà Thái học. Sĩ tử và dân chúng trong nước xúm đến xem bảng, đều vui vừng cho là văn vận hanh thông, chân Nho nối nhau xuất hiện thật là sự kiện lớn lao trong đời thái bình. Việc ban ơn theo thứ bậc đều theo lệ cũ.
Vả lại khoa này, những người có tài văn võ ra giúp thời thịnh sáng, cả trong triều ngoài phủ, trên bước đường làm quan trải thăang trầm thay đổi đều thận trọng giữ gìn chức vụ, luận bàn khoáng đạt đúng đắn, công danh sự nghiệp càng lâu càng rạng rỡ. Còn những kẻ trước sau sai khác, ngoài ngọc trong đá, ngoài cứng trong mềm, trước hay sau đở, thì về sau những người tới xem bia nàyy sẽ chỉ vào tên mà nói: người này là bậc quân tử chính trực, người kia là kẻ tiểu nhân gian tà, công luận rõ ràng, danh tiết nghiêm buốt, há chẳng nên thận trọng sao!
Thế thì bia đá này là cột trụ của danh giáo, nền tảng của cương thường, hễ ai nhìn vào sẽ thấy rõ chuẩn đích, trong lòng nảy ý tự răn đe, càng có ích cho cuộc thái bình thịnh trị ức muôn năm của nước nhà vững như Thái Sơn vậy”.
Dương Hạo, người Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), con trai Tiến sĩ Dương Thuần, làm quan đến Ngự sử đài Đô ngự sử, sứ thần sang nhà Minh.
Nguồn: Đ4, tr.938; V2, tr.275-280.
Trong năm
395. Dương Lễ thi đậu Hương cống
Ông người Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), đỗ Tứ trường, khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa 6 (1640) thi Hội bị hỏng. Làm quan đến chức Tri huyện huyện Văn Giang, hiệu Giản Đường Tiên sinh.
Trong danh sách các Hương cống đỗ vào thời Lê không xác định được thời điểm thi đỗ và không phải là người Lạc Đạo còn có:
Người xã Hương Canh (Kẻ Canh, Chợ Canh), tổng Hương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc phường Phương Canh, Nam Từ Liêm – Hà Nội) gồm có: Lương Đức Điền, làm đến Huyện thừa huyện Trung Sơn (?); người xã Ỷ La, tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc phường Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội) gồm có Dương Đức Viên, Dương Đăng Khôi, Dương Nguyên Huống; người xã Thụy Hà, tổng Đông Đồ, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Bắc Hồng, Đông Anh – Hà Nội) có Dương Danh, Giám sinh Quốc tử giám; người xã Vĩnh Phúc (sau chia làm hai xã Vĩnh Minh, Phúc Bồi tổng Tang Thác, huyện Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam – nay thuộc xã Quỳnh Hưng, Quỳnh Phụ – Thái Bình) là Dương Trinh Tín, Giám sinh Quốc tử giám, làm đến chức Tiền công lang Giảng dụ; người thôn Cẩm La xã Phong Lưu, tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, trấn An Quảng (nay là xã Cẩm La, Quang Yên – Quảng Ninh) là Dương Đình Sách, Dương Bách Tải đều là Giám sinh Quốc tử giám; người xã Đồng Tâm, tổng Đồng xá, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay là phường Đồng Tâm, Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc) là Dương Thế Huy, Giám sinh Quốc tử giám; người xã Cảo Thượng, tổng Cảo Thượng, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Phụng Thượng, Phúc Thọ – Hà Nội) là Dương Đình Tướng, Giám sinh Quốc tử giám.
Nguồn: K6, tr.397-586.
NĂM 1642 (TÂN TỴ – NHÂM NGỌ
Tháng 1 (tháng Chạp – Tân Tỵ)
396. Dương Khánh Côn khắc bia Hưng Khánh tự [lưu] truyền/ Hoàng thượng vạn vạn niên
Dương Khánh Côn, người xã Gia Đức, tổng Dưỡng Động, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc Thủy Nguyên – Hải Phòng) được giao khắc tấm bia trên do Thân lộc Đại phu Tăng Đình Liêu soạn. Bia được dựng tại chùa Phúc Khánh, xã An Khê, tổng Trung Hành, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc Hải An, Hải Phòng) nói rằng: Chùa Hưng Khánh là một danh lam cổ tích trải qua mưa gió đã bị hư hỏng dột nát. Nay các xã Tây Khê, Lực Hành, Đông An, Thư Trung thuộc huyện An Dương hưng công để xây dựng lại thượng điện, hậu đường, hành lang tả hữu và tô sắc lại các pho tượng Phật, ghi họ và tên người đóng góp tiền của để trùng tu chùa Hưng Khánh.
Nguồn: T12, tập 12, N011042-43.
NĂM 1643 (QUÝ MÙI)
Ngày 9 tháng 3 (20 tháng Giêng – Quý Mùi)
397. Hai bà Dương Thị Liễu, Dương Thị Ngọc Phú được ghi danh về việc công đức đất Tam bảo làm chợ.
Bia Tam bảo thổ thị bi tín thí ghi lại rằng:
Chùa Hưng Văn vốn là chốn cổ tích danh lam của triều trước, bên ngoài có đất Tam bảo để làm chợ. Các quan viên, hương lão, văn thuộc, tướng thần các xã thôn trưởng cùng mọi người trên dưới thôn Triền, xã Xuân Hy, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc (nay thuộc xã Xuân Phương, Sóc Sơn – Hà Nội) cùng nhau lập bia ghi về việc làm chợ.
Từng nghe: Tạc bia là để lấy dấu vết của tạo hóa, làm chợ là để lưu thông buôn bán, cho nên các đế vương xưa dựng nước, vua tôi ắt lấy nhân đức làm đầu. Chùa Hưng Vân vốn là chốn cổ tích danh lam từ triều trước, sau linh ứng mà có miếu đường, được phong Thượng đẳng. Bản xã cùng các vùng phụ cận cầu đảo đều được ứng nghiệm. Nay quan trên cho nhập ruộng công làm Tam bảo, cấp thêm ruộng để tăng trong chùa cùng các quan lại và nhân dân công đức ruộng tư làm chợ Tam bảo, đó là mọi người trong thiên hạ cùng làm điều phúc, dựng bia truyền lại mãi.
Nguồn: T21, tr.217-223.
NĂM 1644 (GIÁP THÂN)
Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Thân)
398. Cống sĩ Dương Tự Cường vượt qua kỳ khảo hạch Sĩ vọng, đậu Đệ tam Tiến sĩ
Dương Tự Cường người xã Cáo Đỉnh, tổng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay là Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm – Hà Nội), đỗ Cống sĩ khoa thi Quý Dậu (1633). Do việc triều đình nghĩ đến việc nhiều người tài bị bỏ sót, nên sai mở Kỳ khảo hạch Sĩ vọng các Cống sĩ trong nước, người nào có đức vọng cho đỗ thứ hạng cao hơn rồi bổ quan chức ở các phủ huyện nên Dương Tự Cường được nhận học vị mới. Ông làm quan tới chức Tri phủ Hà Hoa.
Nguồn: Đ4, tr.940; T28, tr.97.
NĂM 1645 (Giáp Thân – Ất Dậu
Tháng 1 (tháng Chạp – Giáp Thân
399. Đốc thị Dương Trí Trạch được cử đi đánh dẹp ở Cao Bằng
Tháng 6-1625, Mạc Kính Cung bị bắt, Mạc Kính Khoan xin đầu hàng nhà Lê, được cho làm phiên trấn giúp sức triều đình. Tháng 5-1638, Mạc Kính Khoan mất, Mạc Kính Vũ bỏ việc dâng nộp theo chức phận, đặt ra niên hiệu Thuận Đức dấy quân khắp nơi. Trịnh Tráng cho quân lên Cao Bằng bị thua liền mấy trận, lại gặp tiết trời oi nóng, lam chướng nhiều nên phải lui quân.
Tháng 4-1643 (tháng Ba – Quý Mùi) Trịnh Tráng thấy Thụy Quận công Nguyễn Phúc Nguyên ở Thuận Quảng chống mệnh triều đình, nên Chúa lại tâu xin vua thân đem lực lượng lớn đi đánh.
Từ sau khi đại quân rút về, Mạc Kính Vụ lại ra chiếm cứ sào huyệt cũ, nghe tin xe vua đi xa, lại chia quân làm 3 đường cướp vùng Tây Cạn ở Thái Nguyên. Viên Phụ đạo ở đó cáo cấp, lúc này Liêm Quận công, Hoa Quận công Nguyễn Danh Thế vâng mệnh lưu thủ kinh thành, trấn giữ từ chính, khống chế các nơi. Nhân tiện bèn sai Đồng Trụ bá Trịnh Nhân Liên làm giám quân, Phúc Ngạn tử Lưu Khanh làm Tham lý Quân vụ tiến lên Tây Cạn, chỉ huy các tướng biên giới chia làm 3 đường tiến đánh, phá được giặc ở núi Ngân Trường [Mỏ bạc], quân Mạc rút về, dân địa phương được yên ỏn.
Năm Giáp Thân, Phúc Thái thứ 2 đời vua Chân Tông [1644] tức là năm Sùng Trinh thứ 17 nhà Minh, Lý Tự Thành chiến được Bắc Kinh, vua Trang Liệt đế nhà Minh mất. Viên Trấn thủ xứ Liêu Đông là Ngô Tam Quế mời quân nhà Thanh vào. Quân Mãn Thanh kéo vào Trung Quốc, đánh đuổi quân Lý Tự Thành, rồi lên làm vua ở Yên Kinh. Đó là năm Thuận Trị thứ nhất [1644] đời vua Thanh Thế Tổ Chương hoàng. Năm ấy, Trịnh Tráng sai con thứ là Thái bảo Tây Quận công Trịnh Tạc làm Thống binh, Dương Trí Trạch làm Đốc thị, Phạm Công Trứ làm Tán lý, đi đánh Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng, giết được một viên Tỳ tướng của chúng, bắt được nhiều đồ đảng rồi về.
Nguồn: Đ7, tr.396-397; Đ4, tr.940; K3, tr.255.
Trong năm
400. Dương Oánh thi đậu Hương cống
Ông người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), thi đỗ Tú tài khoa Kỷ Mão (1639), dự 2 kỳ thi tiếp theo chỉ trúng Tam trường. Làm đến Tri huyện Thanh Chương.
Nguồn: D7.
NĂM 1648 (MẬU TÝ)
Ngày 7 tháng 2 (23 tháng Mười – Mậu Tý)
401. Vợ chồng Đô đốc Trung quân Dương Bá Hợp cung tiến đúc chuông chùa Diên Phúc
Tân tạo chú Hồng chung Diên Phúc tự trên chuông chùa Diên Phúc xã Khúc Toại, tổng Chám Khê, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh) ghi rằng vào năm đó, nhà sư Minh Trực thấy nhà chùa chưa có chuông nên muốn làm phúc tạo chuông. Việc làm ấy liền nhận được sự công đức của vợ chồng Đô đốc trung quân Dương Bá Hợp và quý khách thập phương. Ngày 23 tháng Mười – Mậu Tý chuông đúc xong, khắc bài minh ghi danh những người đóng góp.
Nguồn: D3, tr.82.
NĂM 1651 (TÂN MÃO)
Trong năm
402. Dương Minh Hiền thi đậu Hương cống
Ông là người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), làm quan đến Huấn đạo Nam An (?)
Nguồn: D7.
NĂM 1653
Tháng 12 (tháng Một – Quý Tỵ)
403. Thụy Lĩnh tử Dương Đình Tuấn soạn văn bia Phụng lệnh dụ cung cấp Tam bảo tạo lệ bi ký
Bia tạo năm Thịnh Đức 1, dựng tại chùa Tư Phúc, còn gọi là chùa Côn Sơn, xã Chi Ngãi, tổng Chi Ngãi, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Chúc Thôn, phường Cộng Hòa, thành phố Chí Linh – Hải Dương) cho biết, theo Lệnh của “Thanh Vương (Trịnh Tráng) sức cho dân xã Chi Ngãi, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc ngay lập tức phải cung cấp nhân công thờ phụng Tam bảo cho chùa Tư Phúc ở Côn Sơn. Trong Lệnh nêu rõ chùa Tư Phúc cùng với động Thanh Hư là danh lam cổ tích của nước ta, là nơi các vị tổ Trúc Lâm như Điều Ngự Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang tôn giả đã từng đến thuyết pháp, trụ trì. Phần cuối bia ghi công đức của vị Nội phủ giám Đô thái giám, Chưởng giám Đề đốc Ninh quận công đã bỏ của nhà mua gỗ thuê thợ tu sửa chùa trong năm Thịnh Đức 1 (1653); sửa chữa Thượng điện, Tiền đường, đài Cữu phẩm liên hoa, nhà Thiêu hương.
Nguồn: T12, tập 19, N018797-98.
NĂM 1654 (QUÝ TỴ – GIÁP NGỌ)
Ngày 4 tháng 1 (16 tháng Một – Quý Tỵ)
404. Dương Trí Trạch được ghi tên trong bia Đề danh Tiến sĩ do chính mình nhuận sắc
Hoằng Định nhị thập niên Kỷ Mùi khoa Tiến sĩ đề danh bi ký [Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi năm Hoằng Định 20 (1619)] do Mậu Lâm lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Lê Đình Lại soạn, Dương Trí Trạch – người đỗ Đệ tam Tiến sĩ khoa đó, nhuận sắc. Ở phần cuối bia, Dương Trí Trạch và Lê Đình Lại cho rằng:
“Vả lại xem khoa này được người như thế, phần nhiều là bậc đại tài kinh luân trị nước, là bậc thạc đức giúp đời chăn dân. Có người là bậc chân Nho thiên hạ không ai sánh nổi, có người là bậc thế thần nước nhà được cậy nhờ, có người vâng mệnh đi sứ lập công đối đáp bốn phương, người giữ việc hầu cận bàn mưu thì trù tính mưu kế chu toàn khiến cho thiên hạ được hưởng phúc yên vui, nước nhà được vững như bàn thạch. Lúc ấy người thiên hạ đi đường đều bảo nhau rằng: Triều ta lựa chọn được rất nhiều người thực tài.
Vả lại các vị ấy có nhiều cách cứu đời giúp vua, đâu phải đợi ai khuyên bảo! Thế mà vẫn luận bàn đúng đắn, cầm cân công bằng, vì vua vì dân, chẳng xiên chẳng lệch; không mưu ơn riêng, có tiết tháo như tùng bách chịu rét; một niềm quân thần, trung hiếu vẹn toàn; tiếng trung nghĩa vang dậy triều đình, công danh rạng ngời thiên hạ, sự nghiệp trải khắp biên cương. Như thế trên không phụ ơn thánh thiên tử ngợi khen, dưới không phụ công cả đời học tập mà sự nghiệp vang lừng tiếng thơm lưu truyền muôn thuở.
Nếu không được thế thì hành tích là trung chính hay gian tà, phân minh phải trái, dẫu một chút tì vết cũng không thể che giấu được, mười mắt nghiêm nghị xét xem, mười ngón tay cùng lúc chỉ vào, công luận thực nghiêm khắc, há chẳng nên thận trọng tự răn sao?
Thế thì việc Đề danh vào bia đá này, chẳng những là sự tốt muôn đời của nước nhà mà còn bổ ích cho con thần cháu thánh của hoàng gia lâu dài ức vạn năm hưởng phúc đến vô cùng”.
Nguồn: V2, tr.245-250.
405. Dương Trí Trạch hoàn tất việc Nhuận sắc 25 tấm bia Đề danh Tiến sĩ dựng tại Quốc tử giám
Với tư cách là Dực vân Tán trị công thần, Lễ bộ Thượng thư, Hàn lâm viện Thị giảng, Tham chưởng Hàn lâm viện sự, Bạt Quận công, ông đã được giao trách nhiệm nặng nề nhuận sắc 25 tấm bia Đề danh Tiến sĩ dưới đây:
– Thuận Bình lục niên Giáp Dần (1554) Chế khoa Đề danh ký.
– Chính trị bát niên Ất Sửu khoa (1565) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Gia Thái ngũ niên Đinh Sửu khoa (1577) Chế khoa Đề danh ký.
– Quang Hưng tam niên Canh Thìn khoa (1580) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Quang Hưng lục niên Quý Mùi khoa (1583) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Quang Hưng thập nhị niên Kỷ Sửu khoa (1589) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Quang Hưng thập ngũ niên Nhâm Thìn khoa (1592) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Quang Hưng thập bát niên Ất Mùi khoa (1595) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Quang Hưng nhị thập nhất niên Mậu Tuất khoa (1598) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Hoằng Định tam niên Nhâm Dần khoa (1602) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Hoằng Định ngũ niên Giáp Thìn khoa (1604) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Hoằng Định bát niên Đinh Mùi khoa (1607) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Hoằng định thập nhất niên Canh Tuất khoa (1610) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Hoằng Định thập tứ niên Quý Sửu khoa (1613) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Hoằng Định thập thất niên Bính Thìn khoa (1616) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Hoằng Định nhị thập niên Kỷ Mùi khoa (1619) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Vĩnh Tộ ngũ niên Quý Hợi khoa (1623) Hội thí Đề danh ký.
– Vĩnh Tộ thập niên Mậu Thìn khoa (1628) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Đức Long tam niên Tân Mùi khoa (1631) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Dương Hòa tam niên Đinh Sửu khoa (1637) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Dương Hòa lục niên Canh Thìn khoa (1640) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Phúc Thái nguyên niên Quý Mùi khoa (1643) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Phúc Thái tứ niên Bính Tuất khoa (1646) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Quang Hưng thập nhị niên Kỷ Sửu khoa (1649) Tiến sĩ Đề danh ký.
– Khánh Đức nhị niên Canh Dần khoa (1650) Tiến sĩ Đề danh ký.
Nguồn: V12, tr.841-854; V2, tr.166-300.
NĂM 1655 (ẤT MÙI)
Tháng 3 (tháng 2 – Ất Mùi)
406. Dương Cảo soạn văn bia Vân La tự
Dương Cảo, người Hà Lỗ – Đông Ngàn, đỗ Đệ nhị Tiến sĩ năm 1628, Quốc tử giám Tế tửu. Văn bia do ông soạn được khắc bia dựng tại chùa Vân La, thôn Phù Lưu, xã Tiên Trà, tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Trung Nghĩa, Yên Phong – Bắc Ninh), ghi việc Thị nội giám, Trà lân hầu Trần Văn Lương được tôn phong là Phổ Huệ Bồ Tát đã cùng với vợ và con trai mua 2 mẫu 2 sào ruộng ở xứ Chùa cúng vào chùa nên được khắc bia thờ phụng, ghi vị trí diện tích số ruộng và cam kết thờ phụng của xã.
Nguồn: T12, tập 4, N03663; T9, 1997, tr.688-704.
Tháng 6 (tháng Năm – Ất Mùi)
407. Đĩnh Quận công Dương Công Mỹ đổi sang thành Ngô Công Mỹ được ghi nhận công lao tại Thái Thọ
Thụ am kiên đường lưu điền cung tự bi do Thượng thư bộ Lại Nguyễn Nghi soạn văn bia, dựng tại miếu Thái Thọ, tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Thái Sơn, Hiệp Hòa – Bắc Giang) cho biết:
Đĩnh quận công Ngô Công Mỹ, tặng Đô đốc Đồng tri, người xã Quế Trạo, huyện Hiệp Hoà, phủ Bắc Hà là người tuấn tú, có công giúp nhà Chúa, từng nhiều lần được thăng thưởng. Tuy vậy, ông vẫn nghĩ, vinh hiển ở đương thời không bằng lưu danh muôn thủa. Do vậy, ông đã đem bạc tinh, ruộng tốt biếu cho 3 xã: Quế Trạo, Đức Thắng và Thù Sơn, để dựng 2 ngôi am thờ, 1 bằng đá, 1 bằng gạch ngói, gồm 3 dãy, mỗi dãy 5 gian. Cho nên, quan viên, hương lão, cùng mọi người lớn nhỏ của 3 xã thuận lòng bầu cha mẹ và vợ chồng ông làm Hậu thần. Quan đân 3 xã dem số ruộng của ông tiến cúng là 44 mẫu chia nhau cày cấy, chỉ để lại 4 mẫu giao cho người trông nom quét dọn am làm ruộng hương hỏa.
Bia Hiển Khánh am ký vẫn do Nguyễn Nghi soạn cùng thời điểm, đặt tại lăng Chúa Đôi, cạnh miếu trên, lại cho biết thêm:
Nay xã Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà phụng thờ Thánh Vương phủ, Phó Vương phủ, lưỡng Triều Chưởng giám Tổng quản các xứ Kinh Bắc, Hiệp Hoà, Thái Nguyên, Kiêm tri Thị nội Thư tả nha môn Đĩnh quận công Ngô Công Mỹ, tặng Đô đốc đồng tri. Đĩnh quận công thể mạo đường đường, phong nghi lẫm lẫm… Hiển khảo được tặng Thái bảo An Hoà hầu, Dương quý công, tự Phúc Tâm phủ quân. Hiển tỷ tặng Chánh phu nhân, Ngô thị hiệu Từ Chính. Ông bà trộm nghĩ, hiển danh ở đời không bằng để tiếng lại cho đời sau, bèn tại bản quán, xã Quế Trạo, xứ Ngoài Làng dựng một am đá, đặt tên Hiển Khánh. Lại đem bạc vàng và ruộng tốt giao cho 3 xã Quế Trạo, Đức Thắng, Thù Sơn chia nhau cày cấy.
Nguồn: T12, tập 9, N08573-76; Đ12, tr.440-441
Tháng 11 (tháng Mười)
408. Các tướng Đàng Ngoài là Dương Hồ, Dương Quỳnh tham gia cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh lần thứ 5
Năm 1515, sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua Lê đưa lên thay thế, chỉ huy mọi việc. Để giữ vững quyền hành của minh, Trịnh Kiểm tìm cách loại trừ phe cánh của Nguyễn Kim mà trước hết là các con trai của ông. Người con đầu là Nguyễn Uông bị ám hại. Người con thứ là Nguyễn Hoàng lo lắng, tìm cách thoát khỏi mối đe dọa đó. Được sự gợi ý của Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hoàng nhờ chị (vợ của Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn đất Thuận Hóa. Nhận thấy Thuận Hóa đang gặp nhiều khó khăn, Trịnh Kiểm đã chấp thuận.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều anh em, bà con người Tống Sơn (Thanh Hóa – quê của ông) cùng các quan lại cũ của Nguyễn Kim; các nghĩa dũng Thanh, Nghệ vào trấn thủ Thuận Hóa. Năm 1570, Nguyễn Hoàng được giao cai quản luôn đất Quảng Nam. Sau khi ổn định tình hình ở đây, năm 1593, Nguyễn Hoàng đem quân ra Thăng Long giúp Trịnh Tùng trần áp các tàn quân của nhà Mạc và sau đó, năm 1600, vượt biển trở về Thuận Hóa.
Năm 1613, trước khi chết, Nguyễn Hoàng dặn lại con là Nguyễn Phúc Nguyên cố gắng bảo vệ dòng họ của mình.
Lên nối nghiệp cha, Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức lại chính quyền, tách khỏi sự phụ thuộc vào họ Trịnh, chỉ nộp thuế theo lệ. Năm 1620, họ Trịnh đem quân vào. Phúc Nguyên không chịu nộp thuế nữa. Năm 1627, lấy cớ đó, họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa. Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bắt đầu.
Sau 4 cuộc chiến xảy ra vào các năm 1627, 1630, 1643, 1648 cuộc chiến lần thứ 5 nổ ra vào tháng 3-1655 khi chúa Nguyễn Phúc Tần sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật mang quân chặn đánh quân Trịnh từ Bắc Bố Chính xâm lấn cướp bóc, tiến ra tận 7 huyện phía nam Nghệ An. Tháng 11-1655, sau khi tung nhiều cánh quân vào trận, sai Tả đô đốc Lungỹ Quận công Vũ Văn Thiêm đốc xuất thủy quân, chúa Trịnh cử Lại bộ Hữu thị lang Thọ Lâm nam Dương Hồ làm Đốc thị đem quân trợ chiến, đóng giữ vùng Chân Phúc.
Tháng 6-1656, quân Nguyễn đánh úp cửa biển Nam Giới, tiến vào Đan Nhai, bao vây Đại Nải. Trịnh Toàn đốc các tướng tiến đến, bày trận ra sức đánh. Đốc thị Dương Hồ khí trung nghĩa phát ra hăng hái, cưỡi voi lên trước, chỉ huy các quân tiến thẳng lên. Sau trận này, Dương Hồ được thăng Công bộ Tả thị lang Thọ Lâm bá; Dương Quỳnh làm Thự vệ sự.
Nguồn: Đ4, tr.947-949; K3, tập 2, tr.266-267.
NĂM 1556 (BÍNH THÂN)
Tháng 5 (tháng Tư – Bính Thân)
409. Xã trưởng Dương Tướng Thần tổ chức lập bia Hậu thần cho người công đức
Bia được dựng tại đình Phú Kê, tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc thị trấn Tiên Lãng – Hải Phòng) ghi việc bà họ Nguyễn, hiệu Diệu Dung đã công đức 15 quan giao cho xã làm của Tam bảo.
Nguồn: V6, tr.92.
Ngày 7 tháng 6 (15 tháng Năm – Bính Thân)
410. Dương Trí Trạch soạn Chiêu Thiền tự tạo lệ bi
Bia tạo năm Thịnh Đức 4, đặt tại chùa Chiêu Thiền, xã Yên Lãng, tổng Yên Hạ, huyện Hoàn Long, phủ Phụng Thiên (nay thuộc quận Hai Bà Trưng – Hà Nội) cho biết về sự tích và phong cảnh chùa Chiêu Thiền, một danh lam thắng tích hạng nhất và là nơi sinh ra thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa được người đời ngưỡng mộ, xây dựng khang trang, nhiều lần trùng tu, trở thành nơi cầu chúc cho quốc thái dân an. Ngày 15 tháng Năm năm Thịnh Đức thứ 4 (1656), Hoàng thượng ban lệnh dụ cho phép dân xã Yên Lãng được làm tạo lệ phụng sự bản chùa, được miễn phu phen, dùng phúc lợi ruộng công và thuế dùng vào việc tu bổ chùa và sắm đồ tế lễ.
Nguồn: T12, tập 1, N0432-33.
Tháng 6 (tháng Năm – Bính Thân)
411. Tướng Đàng Trong Dương Trí tham gia vào cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh lần thứ 5
Sau khi Trịnh Toàn đến Quân thứ, đốc suất các quân tiến đến Thạch Hà, Đào Quang Nhiêu và Dương Hồ quản lĩnh quân bộ đóng ở Hương Bộc và Đại Nại, Xuân Quận công Lê Sĩ Hậu và Bùi Sĩ Lương quản lĩnh quân thuỷ đóng ở cửa biển Nam Giới, Vũ Văn Thiêm làm đốc suất đóng ở Đan Nhai, Nguyễn Hữu Tiến họp các tướng ở Na Khố, sai Dương Trí và Nguyễn Văn Kiều quản lĩnh quân thuỷ, Tống Phúc Khang và Phù Dương quản lĩnh quân bộ, chia đường tiến đánh.
Dương Trí tiến đánh ở cửa biển Nam Giới, Hữu Dật đốc suất quân bộ đánh tiếp, bắt được Xuân Quận công và 30 chiếc thuyền chiến. Dương Trí bèn tiến quân đến sông Lam, Phó tướng Văn Kiều đem quân thuỷ thẳng đến Đan Nhai, lại đánh phá tan được quân thuỷ của họ Trịnh, Văn Thiêm bỏ thuyền chạy, Trịnh Toàn hay tin, cả sợ, lui quân đóng ở Hoạt Độ. Ngay lúc ấy Phúc Khang và Phù Dương dẫn quân bộ bất thình lình kéo đến Hương Bộc bao vây toán quân của Đào Quang Nhiêu, Trịnh Toàn đốc thúc các quân đến cứu viện, Dương Hồ chỉ huy quân tiến lên phía trước. Quang Nhiêu có được quân cứu viện, bèn mở cửa thành ra đón đánh, hai cánh quân đánh khép quân của Phúc Khang.
Nguồn: K3, tập 2, tr.270.
Tháng 11 (tháng Mười – Bính Thân)
412. Bia Thụ Đức Quang từ bi ghi nhận Ngô Công Mỹ gốc họ Dương
Văn bia do Hương Lĩnh nam Vũ Trúc Am soạn, tạo năm Thịnh Đức 4 đặt tại Từ đường Đức Quang thờ Ngô Tướng công tại xã Như Nguyệt, tổng Hương La, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tam Giang, Yên Phong – Bắc Ninh) ghi rõ: Ngô Tướng công, húy Công Mỹ vốn họ Dương, làm quan tới chức Đặc tiến kim tử Vinh lốc Đại phu, Chưởng thái giám kiêm Tri thị nội thư tả, tước Đĩnh Quận công. Tiên tổ khảo được tặng phong Thái bảo Vĩnh Phúc hầu, Hiển khảo được tặng Thái bảo An Hòa hầu. Hiển tỉ được phong là An Hòa hầu chính phu nhân. Ông là người văn võ toàn tài, rất khiêm tốn, đức độ. Ngày lành tháng 10 năm Bính Thân, ông cho chọn đất tốt ở xứ Cửa Đình lập đền gọi là Đức Quang từ, lại cấp tiền bạc, ruộng thừa tự, hàng năm tổ chức cúng giỗ tiên tổ tại đền. Có cả ruộng ở xã An Vĩ (7 thửa), xã Hương La (8 thửa).
Nguồn: T12, tập 4, N03924-25.
NĂM 1660 (CANH TÝ)
Tháng 6 (tháng Năm – Canh Tý)
413. Dương Trí Trạch tâu bày về việc thuế khóa, thi cử và trị nước
Về việc này, sử cũ chép rằng:
Tham tụng Dương Trí Trạch, Phạm Công Trứ đăng sở nói về việc thuê khoán làm trường và cung đốn các thứ cho trường thi Hương, nên đơn giản kiệm ước để bớt phí tốn cho dân. Lại dâng sớ nói về phép trị nước phải dùng cả văn lẫn võ “Đường lối trí trị là thưởng phạt cho đúng. Võ tướng thì chống ngăn quân giặc để bảo vệ nhà nước, biết ước thúc nghiêm minh, theo mệnh ra sức, để nên công việc, thì tùy thao công lao mà ban thưởng: hoặc người nào dùng dằng nhát sợ, hành quân trái luật, thì lấy quân luật trị tội. Đó là phép thường dùng để khuyên răn rất là nghiêm ngặt. Văn thần thì nên giúp vua thương dân, để tô điểm thái bình, nếu biết giữ thanh liêm, chăm việc, ngay thẳng, để xứng chức vụ, thì tùy theo chính tích mà khen thưởng, hoặc người nào thừa hành công việc, cùng là xét hỏi kiện tụng, nếu không đổi lỗi trước mà cứ uốn phép hối lộ, để chậm quá kỳ, xét xử không đúng, câu kết bè đảng, vì ân nghĩa riêng mà nhận lời thỉnh thác, làm nhiều nhũng tệ, đến nỗi nát chính hại dân, tội nhẹ thì xử giáng bãi, tội nặng thì xử theo quân luật, để bỏ hết thói tệ, cho nghiêm phép nước”. Vương nghe theo.
Nguồn: Đ4, tr.954.
NĂM 1661 (TÂN SỬU)
Mùa hè
414. Hương lão Dương Chi, Sinh đồ Dương Nhữ, Dương Giáp Úy tổ chức bầu Hậu phật chùa Kim Cương
Nhà chùa thuộc xã An Cương, tổng Ninh Duy, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Khởi Nghĩa, Tiên Lãng – Hải Phòng) được Tín vãi Phạm Thị Ân góp 20 quan tiền, xã bầu làm hậu phật và khắc bia ghi nhận.
Nguồn: V6, tr.161-163.
NĂM 1663 (QUÝ MÃO)
Ngày 23 tháng 12 (25 tháng Một – Quý Mão)
415. Ông bà Dương Văn Tại, Dương Thị Ngu công đức tu sửa chùa Chúc Thánh
Vĩnh lưu truyền Hậu thần Hậu phật tượng bi ký/ Nguyên cổ tích Chúc Thánh tự dựng tại chùa Chúc Thánh, xã Bồ Sao, tổng Mộ Chu, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc), mặt trước khắc ngày 25 tháng Một – Quý Mùi (23-12-1663), mặt sau khắc ngày 11 tháng Tư năm Bính Ngọ (14-5-1666) cho biết khi đó chùa tiến hành xây điện thờ và tượng Phật. Bia ghi danh sách những người đóng góp vào việc tu sửa chùa được bầu làm Hậu, trong đó một người được bầu Hậu thần (ông Dương Văn Tại, cúng 5 dật bạc và ruộng), 4 người được bầu Hậu phật (bà Dương Thị Ngu, Nguyễn Thị Liêu. Nguyễn, Thị Ngũ, Chu Thị Điêu, mỗi người cúng 3 dật bạc và ruộng).
Nguồn: T12, tập 5, N04971-72.
Trong năm
416. Dương Thời Cử, Dương Hữu Hưng, Dương Ngô thi đậu Hương cống
Các ông đều là người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An). Dương Thời Cử, Dương Hữu Hưng sau đều là Huấn đạo.
Nguồn: D7.
NĂM 1666 (ẤT TỴ – BÍNH NGỌ)
Ngày 5 tháng 1 (1 tháng Chạp – Ất Tỵ)
417. Giám sinh Quốc tử giám họ Dương soạn văn bia Văn chỉ Gia Viễn
Giám sinh người xã Phú Gia, tổng Đa Giá, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, đạo Thanh Bình (nay thuộc Ninh Khánh, Hoa Lư – Ninh Bình). Văn bia được Đại lý tự khanh, Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1640) Hoàng Vinh, người xã Đại Hoàng, tổng Đại Hoàng, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Tây Lương, Tiền Hải – Thái Bình) nhuận sắc.
Bia mang tên Tạo tác Từ vũ thụ lập thạch bi ký được tạo vào năm Cảnh Trị 3, dựng tại Từ chỉ xã Điềm Xá, tổng Đại Hoàng, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên (nay thuộc Gia Khánh – Ninh Bình), ghi lại rằng, nhân thời thái bình, các vị chức sắc trong Hội Tư văn huyện Gia Viễn quyên góp tiên của để xây dựng văn chỉ tại xã Điềm Xá là nơi phát cả văn lẫn võ trong huyện, đồng thời xin được miễn trừ các khoản phu dịch của xã này để tổ chức tế lễ hàng năm, ghi tên người có đóng góp tiền của vào công việc này.
Nguồn: T12, tập 6, N05768-69.
NĂM 1667 (ĐINH MÙI)
Tháng 10 (tháng 9 – Đinh Mùi)
418. Dương Hạo tham gia đánh dẹp Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng
Bấy giờ địa phương Cao Bằng còn bị Mạc Kính Vũ chiếm cứ, chống lại triều đình không chịu làm tôi, dân châu khổ sở. Chúa Trịnh Tạc bèn thân đem đại binh tiến theo đường Lạng Sơn, ủy cho Tiết chế phủ Thái úy Nghi Quốc công Trịnh Căn thống đốc các tướng tiến theo đường Thái Nguyên, Thái phó Lý Quốc công Trịnh Đống, Thiếu úy Vân Quận công Trịnh Kiều, Thiếu úy Hào Quận công Lê Thì Hiến, Thiếu phó Điện Quận công Trịnh Ốc, Đô đốc đồng tri Lộc Quận công Đinh Văn Tả, Lập Quận công Lê Châu làm Thống lĩnh các đốc suất; Tả thị lang Lễ bộ Dương Quận công Nguyễn Năng Thiệu, Tả thị lang Hình bộ Quế Hải hầu Lê Sĩ Triệt, Tả thị lang Công bộ Diên Lộc bá Dương Hạo, Hữu thị lang Binh bộ Nhuận Duệ bá Hồ Sĩ Dương, Hồng lô tự khanh Hải Sơn nam Nguyễn Danh Thực, Giám sát ngự sử Trương Luận Đạo làm Đốc thị, chia đường đều tiến thẳng đến Cao Bằng. Mạc Kính Vũ nghe tin đại binh đến, cùng với bè lũ chạy sang châu Trấn Yên nước Thanh. Quân các đạo đuổi theo để bắt, bắt sống được tộc thuộc trai gái của họ Mạc và đồ đảng cùng là người và súc vật, khí giới, tài vật không xiết kể. Những người đầu hàng trước sau rất nhiều. Đinh Tạc thể đức lớn hiếu sinh, đối với những người đầu hàng đều gia ơn, những người bị bắt hiếp đi theo đều khoan tha. Lại tuyên bố hiểu dụ rõ ràng, chiêu tập yên ủi nhân dân trong châu trở lại nghiệp cũ, tuân theo giáo hóa của triều đình.
Nguồn: Đ4, tr.975-976; K3, tập 2, tr.318.
NĂM 1670 (KỶ DẬU – CANH TUẤT)
Ngày 9 tháng 1 (18 tháng Chạp – Kỷ Dậu)
419. Nho sinh Dương Đắc Nhuận soạn văn bia ghi việc đúc chuông chùa A Linh
An Linh tự/ Tạo chú hồng chung bi đặt tại chùa thôn Đông, xã Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Bắc Ninh (nay là chùa Hà Hương, thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội) giành để ghi tên những người tham gia đúc chuông chùa vào năm Mậu Thân (1668).
Nguồn: T12, tập 3, N03201-02.
NĂM 1672 (TÂN HỢI – NHÂM TÝ)
Tháng 1 (tháng Chạp – Tân Hợi)
420. Tiến sĩ Dương Hạo soạn khoán ước, tôn Hậu thần
Tự sự bi ký/ Lập khoán ước tạo vào tháng Quý đông năm Cảnh Trị 9, dựng tại đình xã Gia Quất, tổng Gia Thụy, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc phường Thượng Thanh, Gia Lâm – Hà Nội) ghi rằng, ông Trần Văn Huệ, thụy là Chân Phúc, người Minh (Trung Quốc), sang ta ngụ cư ở Phương Thành du ngoạn đến xã Gia Quất huyện Gia Lâm. Ông gặp người con gái nhà danh gia là Hoàng Thị Huấn và đã cưới làm vợ. Sống ở địa phương, hai vợ chồng đã xuất ra 38 dật bạc để quan viên hương lão chuộc lại 12 mẫu 5 sào quan điền (mỗi dật bạc trị giá 8 quan tiền sử). Dân làng đội ơn và cam kết tôn bầu họ là Hậu thần cúng giỗ mãi mãi.
Nguồn: T12, tập 4, N03411-12.
Tháng 4 (tháng Ba – Nhâm Tý)
421. Dương Hạo được cử làm Đô ngự sử Ngự sử đài
Cùng được tin dùng còn có Nguyễn Văn Lê (người xã Dương Trai, tổng Đỗ Xá, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An) làm Lại bộ Tả thị lang; Nguyễn Mậu Tài (người xã Kim Sơn, tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc) làm Phó đô ngự sử; Lê Đắc Toàn (người xã Bình Hồ, tổng An Hồ, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An) làm Thiêm đô ngự sử.
Nguồn: L5, tập 1, tr.20-21; Đ4, tr.984.
NĂM 1674 (GIÁP DẦN)
Tháng 12 (tháng Một – Giáp Dần)
422. Các Hương lão họ Dương tổ chức bầu Hậu thần
Tôn Hậu thần bi ký ghi rõ, bà Phạm Thị Khương người xã Cựu Đôi, tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc Tiên Lãng – Hải phòng), sau khi chồng quá cố, do gia cảnh dư giả sung túc nên đã bỏ ra 70 quan tiền sử giúp dân làng nộp thuế. Để đền đáp hậu ân, các Hương lão Dương Viết Tài, Dương Viết Chính, Dương Hữu Tài, Dương Văn Đệ cùng chức sắc và dân làng đã dựng bia, khắc bài minh ghi nhớ và suy tôn bà làm Hậu thần.
Nguồn: V6, tr.287-291.
Tháng 12 (tháng Một – Giáp Dần)
423. Quan viên, chức sắc toàn huyện Đông Ngàn dựng bia mừng hai con trai bà Dương Thị Cẩn thi đỗ Tiến sĩ đồng khoa
Đông Ngàn huyện hạ Vân Điềm Tán trị Công thần Nguyễn hầu do Tiến sĩ Vũ Duy Hài soạn, tạo tháng Trọng đông – Giáp Dần cho biết:
Bia này do quan viên chức sắc toàn huyện Đông Ngàn soạn lập để chúc mừng nhà họ Nguyễn nhân dịp Tán trị công thần Xuân Lĩnh tử Nguyễn Sùng và bà Dương Thị Cẩn có hai con là Nguyễn Khuê và Nguyễn Sĩ cùng thi đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670) niên hiệu Cảnh Trị 8. Một nhà anh em đỗ đại khoa chung một bảng, cha con làm quan đồng triều, đó là một vinh dự hiếm có. Ngoài lời chúc mừng đã ghi rõ làm thành tên bia, văn bia nhân dịp này lược kê gia thế các dời của nhà họ Nguyễn xã Vân Điềm: Tằng tổ của Nguyễn Sùng (tự Đạo Nguyên) là Nguyễn Bôn, được tặng tước Giáo Nghĩa hầu. Ông nội của Nguyễn Sùng là Lan Quận công Nguyễn Thực, Hoàng giáp khoa Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng 18 (1595). Cha của Nguyễn Sùng là Nguyễn Nghi, Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi niên hiệu Hoằng Định 20 (1619), tước Thọ Lĩnh hầu. Mẹ là Quận phu nhân Nguyễn Thị Du. Năm Quý Hợi (1623), Nguyễn Sùng mới 16 tuổi, theo ông và cha đi đánh Đàng Trong, có công, được bổ dụng vượt cấp, khi xét công được xếp hạng Tán trị Công thần, thăng chức đến Hình bộ Tư vụ. Năm Kỷ Dậu (1669) thăng chức Giám sát Ngự sử đạo Thái Nguyên, tước Xuân Lĩnh tử.
Nguồn: T12, tập 4, N03208-11.
Trong năm
424. Dương Thời Nghi thi đậu Hương cống
Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), từng đỗ Tú tài năm Canh Tuất (1670). Về sau, vào năm Bính Tuất (1706) dự kỳ thi Hội chỉ trúng Tam trường.
Nguồn: D7.
NĂM 1675 (ẤT MÃO)
Ngày 4 tháng 5 (10 tháng Tư – Ất Mão)
425. Giám sinh Dương Tiến Hiền soạn văn bia Diễn tự bi ký
Bia tạo năm Đức Nguyên 2, đặt tại đình Văn Giáo, xã Bá Hạ, tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên, đạo Ninh Sóc (nay thuộc xã Bá Hiến, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi việc: bà Dương Thị Liễu hiệu Từ Đức cúng 50 quan tiền và 1 thửa ruộng cho xã chi dùng vào quan dịch, lại cúng 1 thửa ruộng để lo việc hương khói sau này. Quan viên và dân làng thuận bầu bà làm Hậu thần và ghi lệ cúng giỗ Hậu thần hàng năm.
Một tấm bia khác đặt bên cạnh cũng có tiêu đề Diễn tự bi ký, tạo lập cùng thời ghi ông Dương Văn Quảng cùng vợ bà Đỗ Thị Vịnh đã cúng 10 quan tiền và một số mảnh ruộng cho xã, bản xã bầu ông bà làm Hậu thần. Có ghi lệ cúng tế Hậu thần hàng năm.
Nguồn: T12, tập 16, N015227-28.
NĂM 1677 (ĐINH TỴ)
Tháng 7 (tháng Sáu – Đinh Tỵ)
426. Hàng trăm người họ Dương hưng công tu tạo chùa Phúc Hưng
Trùng tu Hưng Phúc tự tạo năm Vĩnh Trị 2, do Tiến sĩ Lê Vinh Chuyết soạn, dựng tại chùa Hưng Phúc, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thuận Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Thiệu Dương – thành phố Thanh Hóa), ghi lại rằng: đất xã Dương Xá, huyện Đông Sơn nối liền với chùa Vương phủ, hưng lên điều phúc tốt lành. Nước chảy hội về ở phía trước, sông lớn bao bọc đằng sau, Ngũ Nhạc chầu ở phía nam, Tứ Sơn trấn ở phương bắc, muôn rồng tụ hội, vạn ngựa đến chầu, thật là cảnh đẹp đệ nhất, di tích linh thiêng đệ nhất vậy! Đời trước có ông tên Cự, đã nhiều lần tu sửa chùa nhưng các đồ vật còn khá đơn sơ, quy mô thì nhỏ hẹp, còn như muốn làm cho nó rộng rãi hơn thì phải hưng khởi đức ý lên, việc đại sự cần lắm một bàn tay vĩ đại, huy động toàn bộ lực lượng thì mới có thể thực hiện được.
Nay có các quan viên: Quản Thị hầu Kiên Tả đội Chánh đội trưởng Chỉ huy sứ ty Chỉ huy sứ Hữu thoa điểm Điều dương hầu Dương Đình Khoa, Đô chỉ huy Thiêm sự Linh Dương hầu Dương Cảnh Thọ, Chánh đội trưởng Khánh Dương hầu Dương Đình Thái, Đội trưởng Toàn Nghĩa bá Dương Đình Khôi, Dương Văn Dung, Dương Phú Thịnh, Dương Trục, Dương Khiết, Dương Tiến Bút, Dương Kính, Dương Văn Tiến, Dương Văn Tu, Dương Lương Phụ, Dương Thiệu Vệ, Dương Văn Chúng ứng hội phong vân, phù giúp Vương vận, chí công danh đã thỏa, đều từng hưởng ân quốc ban thưởng, tâm tư lương thiện, tự thấy ái mộ.
Các quan viên hương lão: Dương Cảnh Thọ, Hương lão Dương Phong, Dương Phú Cường, Dương Viên, Dương Yếu, Dương Phú Thọ, Dương Phan, Dương Tiến Dụng, Dương Nho, Dương Văn Thạch, Dương Đình Túc, Dương Đình Chính, Dương Tất Tố, Dương Thực; tín văn Dương Thị Yêu.
Giáp Hoàng Thượng: Dương Văn Vịnh, Dương Phê, Dương Học, Dương Bạt Khoa, Dương Thọ, Dương Tú, Dương Đình Phúc, Dương Tích Tương, Dương Văn Bản, Dương Đình Vinh, Dương Đình Tiến, Dương Thử.
Giáp Hoàng Hạ: Dương Đắc Toàn, Dương Bảo, Dương Thiêm, Dương Biện, Dương Bỉnh, Dương Văn Mỹ, Dương Đình Ý, Dương Tiến Chuyết, Dương Đình Lợi, Dương Văn Ấu, Dương Đắc Hậu, Dương Đình Luận, Dương Đình Diên.
Giáp Lan Thượng (…)
Giáp Lan Trung: Dương Hữu Quí, Dương Tất Đãi, Dương Mại, Dương Văn Lại, Dương Quân, Dương Thực, Dương Hữu Nhạn, Dương Bảo, Dương Bính, Dương Văn Tường, Dương Tất Nhậm, Dương Biên, Dương Đặc, Dương Tất Giai, Dương Thiện.
Giáp Kim Thổ: Dương Nghiễm, Dương Tính.
Giáp Kim Thượng: Dương Vinh, Dương Văn Túc, Dương Chức, Dương Khắc Khâm, Dương Văn Thông, Dương Đắc Thọ, Dương Đình Trúc.
Giáp Kim Hạ: Dương Thế Phủ, Dương Kim Ánh, Dương Đình Thân, Dương Văn Bưu, Dương Thế Hiền, Dương Thế Lộc, Dương Xuân Tiến, Dương Trí Hòa, Dương Đề, Dương Văn Tạo, Dương Nho Thuật, Dương Thuật.
Giáp Lỗii Thượng: Dương Quy, Dương Cơ, Dương Khắc Trung, Dương Đồ, Dương Nhân Thành, Dương Huy, Dương Bốn.
Giáp Lỗi Đông: Dương Tình, Dương Phú Đa, Dương Nhân Nhương, Dương Tiến Hiền, Dương Phú Mãn, Dương Đức, Dương Đống, Dương Khả Tri, Dương Phú Lộc, Dương Tiến Tích, Dương Phú Điền, Dương Nhân An, Dương Nhân Hải, Dương Thận, Dương Văn Giáo, Dương Tính, Dương Nhuệ, Dương Văn Hấp, Dương Chấn, Dương Phú Vệ.
Mọi người lớn bé già trẻ trong xã, cùng xuất của nhà không ai là không hoạn hỷ. Có người lấy tiền vàng, có người lấy châu ngọc, thi nhau được nộp trước; có người phát thóc lúa, có người phát tiền tài, lần lượt mang đến sau. […], vào ngày tốt lại quyên góp tiếp. Đến năm Bính Thìn (1676), lệnh cho thợ khởi công xây dựng. Vào ngày tốt, năm Đinh Tị (1677) lợp ngói xong xuôi, chế độ thay đổi, qui mô đẹp đẽ. 12 tòa lâu đài tựa ngọc, bốn mùa hoa cỏ tươi tốt, gió xuân thổi man mác, thắng cảnh thật vô cùng đặc biệt vậy.
Hưng công: Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Công bộ công trình Thanh Lại ti Lang trung kiêm Thủ hợp tướng thần lại Cẩm Dương tử Lê Công Thọ cùng vợ là Dương Thị Văn phát của cải cùng với 2 sào ruộng.
Người của bản xã công đức: Chánh đội trưởng An Khê hầu Lê Văn Quản cùng vợ là Ngô Thị Căng, Dương Thị Đoạt 1 quan tiền và 1 sào ruộng. Dương Văn Dung cùng vợ Lê Thị Trực, mẹ ruột là Lê Thị Lộc 3 mạch tiền. Dương Thị Cảnh 5 mạch tiền.
Chánh đội trưởng Điều Dương hầu Dương Đình Khoa cùng vợ Cao Thị Lĩnh, Quan viên tử Dương Tiến Dụng cùng vợ Dương Thị Thiệu 5 mạch tiền. Nho sinh Dương Viên cùng con gái là Dương Thị Phú, cháu là Dương Thị Khiêm 2 quan tiền. Dương Thị Liêm tên hiệu Diệu An 5 mạch tiền. Xã quan Dương Văn Thạch cùng vợ Nguyễn Thị Long 5 mạch tiền, Dương Thị Dự 5 mạch tiền.
Xã sử Nguyễn Văn Học cùng vợ là Dương Thị Nghiễm 5 mạch tiền. Con trai Chánh đội trưởng Dương Đình Thái cùng vợ là Trần Thị Tuyên 1 quan tiền.
Xã trưởng Dương Quang Trẫm cùng vợ và vợ chồng con trai là Dương Nho Vệ và vợ Dương Thị Lĩnh […].
[…] Tướng thần lại Khâm Bật nam Nguyễn Đình Úy cùng vợ là Dương Thị Thư người xã Bá Dương 6 mạch tiền. Chu Thị Điều cùng con trai là Dương [ ] và vợ Nguyễn Thị […].
Dương Đình Thân cùng con trai là Dương Đình Sách, Dương Đình Viện, Dương Đình Tiến, Dương Thị Chúng, Đội trưởng Toàn Nghĩa hầu Dương Đình Khôi cùng vợ Chu Thị Lí, Dương Đình Luận cùng vợ Dương Thị Cẩn, Kim Thế Vọng cùng vợ Lê Thị Nhũ tổng cộng là 5 mạch tiền. Lê Hữu Ngoan cùng vợ Dương Thị Thám 1 mạch tiền.
Trịnh Vi cùng vợ Dương Thị Hảo 2 mạch tiền. Dương Khắc Mi cùng vợ họ Dương 1 mạch tiền.
Cụ Hiển khảo Binh bộ Thanh Lại ti Lang trung Văn Lương tử Dương Trinh, vợ Dương Thị Liễn nguyên cúng một sào ruộng tại xứ Khả Như cúng làm của Tam bảo tại chùa Phúc Hưng.
Tiền Cai hợp Hợp sử Văn Duệ tử, Dương Công Khanh cùng vợ là Chu Thị Dụng cúng ruộng Tam bảo ở xứ [ ] Chùa, gồm 5 mảnh.
Nguồn: T16, tập 1, tr.167-188; T9, tr.370-380.
NĂM 1680 (CANH THÂN)
Tháng 3 (tháng Hai – Canh Thân)
427. Dương Khoan Nghị cung tiến ruộng đất, tiền của cho chùa Khánh Vân
Tôn sư Hậu thần bi/ Lưu truyền bản thôn ước dựng tại chùa Khánh Vân tổng Hà Liễu, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Khánh Hòa, Thường Tín – Hà Nội) ghi việc ông họ Dương, tự Khoan Nghị người bản xã cùng vợ họ Nguyễn, hiệu Từ Hiếu, người làng Nhị Khê, tổng Cổ Hiền, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là xã Nhị Khê, Thường Tín – Hà Nội) có con trai thi đỗ Tiến sĩ, đã cúng vào chùa Khánh Vân 3 sào 3 thước đất, 1 mẫu ruộng, xuất 100 quan tiền sử để đúc chuông, lại xây 3 gian nhà gỗ lim lợp ngói cho miếu thờ Đại vương và 3 gian từ vũ xây gạch. Dân xã tôn bầu cha mẹ họ làm Hậu thần. Có quy định các thể thức cúng giỗ, mẫu văn khấn và ghi lại vị trí, diện tích các thửa ruộng.
Hiện, chưa tra cứu được tên tuổi, khoa thi của vị Tiến sĩ kể trên.
Nguồn: T12, tập 3 N02729-32.
Tháng 6 (tháng Năm – Canh Thân)
428. Lão nhiêu Dương Văn Dĩnh được bầu Hậu thần làng Cung Kiệm
Bia Sáng lập Hậu thần bi/ Hương hỏa lưu truyền dựng tại chùa Thượng Phúc, xã Cung Kiệm, tổng Bất Phí, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Nhân Hòa, Quế Võ – Bắc Ninh) ghi việc, vào năm Vĩnh Trị 5, Lão nhiêu Dương Văn Dĩnh bỏ ra 32 quan tiền để xây tòa Thiêu hương của chùa và cúng 2 thửa ruộng làm ruộng tam bảo nên được bầu làm Hậu phật. Bia có ghi họ tên những người khác cùng tham gia đóng góp tiền để sửa chùa nên cũng được bầu làm Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 5, N05362-63.
NĂM 1681 (TÂN DẬU)
Tháng 3 (tháng Hai – Tân Dậu)
429. Vợ chồng bà Dương Thị Ban cung tiến sửa chữa chùa Nam Bảo
Hưng công Hậu phật bi ký tạo năm Chính Hòa 2, dựng tại chùa Nam Bảo, xã Du Lâm Ngoại, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Mai Lâm, Đông Anh – Hà Nội) ghi rằng, bà Dương Thị Ban, hiệu Từ Thành cùng chồng là ông họ Ngô, tự Phúc Tín xuất 100 quan tiền để làng tu sửa 4 dãy nhà chùa và gian Chính điện, được dân làng khắc bia ghi công và bầu làm Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 3, N02979.
NĂM 1682 (NHÂM TUẤT)
Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Tuất)
430. Ông Dương Quang Phục tổ chức bầu Hậu thần làng Lai Hoa Thượng
Làng thuộc tổng Hà Đới, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Lai Phương, xã Tiên Thanh, Tiên Lãng – Hải Phòng) vào lúc có việc quan không tìm được nguồn tài chính thì được bà Phạm Thị Liệu, vốn lòng chất phác, luôn cảm điều nghĩa, đau đáu lòng nhân, không tiếc tiền của, luôn nghĩ việc dân đã cung tiến cho làng xã 45 quan tiền trang trải. Nhân đó, ông Dương Quang Phục cùng các bậc quan viên hương lão trong làng đã tổ chức bầu bà làm Hậu thần, khắc bia đá lưu lại muôn thuở.
Nguồn: V6, tr.359-362.
NĂM 1684 (GIÁP TÝ)
Ngày 29 tháng 2 (15 tháng Giêng – Giáp Tý)
431. Dương Công Độ thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Khoa thi Hội được mở từ tháng Mười – Quý Hợi (11-1683 – theo Lịch triều tạp ký); tháng Một – Kỷ Hợi (12-1683 – theo Đại Việt sử ký tục biên); mùa đông năm Quý Hợi (theo Chính Hòa tứ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ Đề danh ký do Nguyễn Kiều soạn văn bia) cho các cống sĩ trong nước. Đặc sai Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Thiếu phó Lộc Quận công Đinh Văn Tả làm Đề điệu, Bồi tụng Ngự sử đài Đô Ngự sử Hải Sơn tử Nguyễn Danh Thực làm Tri Cống cử, Bồi tụng Tả Thị lang Nhập thị Kinh diên Vĩnh Ngạn tử Nguyễn Công Vọng, Bồi tụng Hữu Thị lang Bộ Lại Nguyễn Viết Đương làm Giám thí, cùng các quan hữu ty chia giữ các việc.
Vâng mạng lấy những quyển hợp cách được đỗ là Phạm Quang Trạch 18 người. Ngày 1 tháng 2-1684 (16 tháng Chạp – Quý Hợi) chúa Trịnh cho phủ liêu truyền bảo các cống sĩ trong nước: nếu ai có tài học và danh vọng thì cho đến hạ tuần tháng Giêng năm sau, nộp quyển đi thi, ai đỗ thì được tùy tài bổ dụng, để mở rộng đường lối cầu hiền.
Chính Hòa tứ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ Đề danh ký, cho biết:
Chiếu trên ban xuống, kẻ sĩ trong nước náo nức chiếm tên bảng vàng, hát thơ Lộc minh đến ứng thí tất cả đến 3.000 người. Qua trường bốn, lấy hạng trúng cách được 18 người. Bảng mực nhạt vừa mới treo lên thì năm cũ cũng vừa sắp hết. Đến ngày tháng Giêng năm Giáp Tý (1684) vào sân lớn làm bài đối sách, Hoàng thượng định thứ bậc cao thấp. ban cho Nguyễn Đăng Đạo 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Nguyễn Đương Hồ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Trần Thiện Thuật 14 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Loa truyền xướng danh, treo bảng đề tên ở nhà Quốc học. Được ban áo xanh đai mũ, yến Quỳnh hoa bạc, sự đãi ngộ ân sủng chẳng kém gì các khoa trước.
Trời sinh hiền tài là muốn để dùng cho đời, bậc nhân quân trị nước điều cốt yếu cần rộng chọn hiền tài. Bởi vì hiền tài là khí dụng của quốc gia, khí dụng đủ thì điều khiển giao phó chẳng việc gì không được, chính sự không việc gì không làm nổi, mà cơ đồ không thể không vững chắc, thế đạo không thể không thịnh sáng vậy. Cho nên đời xưa trị nước, không gì gấp bằng cầu tìm hiền tài để tin giao công việc.
Hãy nói về khoa này, những người đỗ đạt bước chân vào đường sĩ hoạn, việc trong việc ngoài bao lần thay đổi, vất vả lo toan việc nước nhà, công lao nhiều ít đại khái đã thấy rõ. Nhưng bấm đốt ngón tay đếm lại, sau ba thập kỷ, tại chức chỉ còn một người, lên hàng Quốc lão một người, làm quan ở Ngự sử đài hai người, những người khác cũng từng được đeo đai đại thần của các triều. Đó là chỉ kể các vị đỗ thứ nhất, thứ ba, thứ tư và vị trưởng khoa, số còn lại đã cưỡi sao Cơ về trời, hồng bay mất dấu, thành người thiên cổ cả rồi, không còn nói gì được nữa. Nhưng những người hiện đang được tiều nay trọng dụng há không nhớ ơn lựa chọn của Tiên vương, cảm nghĩ sự biểu dương ngày nay mà cẩn thận bước đường về sau, mỗi ngày một tiến để khỏi hổ thẹn với khoa danh sao? Thảng hoặc không được như thế, chỉ nặng nghĩ lo riêng cho mình mà nhẹ lòng vì việc nước, cầu may cho được chu toàn, thích xu nịnh, né tránh việc mất lòng, ắt không tránh khỏi công luận mai sau, há chẳng đáng sợ hay sao?”.
Dương Công Độ, người xã Nhị Khê, tổng Cổ Hiền, huyện Thương Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là xã Nhị Khê, Thường Tín – Hà Nội), làm quan đến Quyền Tham chính.
Nguồn: L5, tr.94-96; Đ6, tr.26; V2, tr.361-367.
Ngày 18 tháng 4 (4 tháng Ba – Giáp Tý)
432. Xã trưởng Dương Đắc Danh cùng các Hương trưởng bầu Hậu thần làng Cựu Đôi
Làng Cựu Đôi, tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Tiên Thanh, Tiên Lãng – Hải Phòng) lập Phong Hậu thần bi để ghi danh xã quan cũ là Nguyễn công tự Phúc Tài cùng vợ là Phạm Thị Duệ rộng lòng nhân ái, khí chất tốt lành, đã đem 300 quan chia cho người trong xóm ấp. Do đó ông bà được tôn phong làm Hậu thần.
Nguồn: V6, tr.398-401.
Tháng 4 (tháng Ba – Giáp Tý)
433. Dương Tự Lệ dự kỳ thi Sĩ vọng, đậu Đệ tam Tiến sĩ
Căn cứ vào chiếu lệnh do chúa Trịnh ban ngày16 tháng Chạp – Quý Hợi, đến tháng Ba – Giáp Tý (4-1684), kỳ thi Sĩ vọng được tổ chức, lấy Hà Tông Mục 26 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.
Dương Tự Lệ, người xã Cảo Đỉnh, tổng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay là phường Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm – Hà Nội), cùng quê với Dương Tự Cường. Sau khi đỗ Hương cống, ông lần lượt làm Tri huyện, Tri phủ, Hiến sát Phó sứ Kinh Bắc.
Nguồn: L5, tr.96; Đ6, tr.26; T28, tr.97.
Tháng 12 (tháng Một – Giáp Tý)
434. Các quan viên Dương Bá Thi, Dương Văn Khô lập bia Hậu phật cho người có công với làng Lật Dương
Hậu phật được dựng vào tháng Bính Tý năm Giáp Tý tại chùa Bà Trà, xã Lật Dương, tổng Kỳ Vĩ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Quang Phục, Tiên Lãng – Hải Phòng) ghi nhận 2 người họ Nguyễn có công với làng xã.
Nguồn: V6, tr.393-398.
Trong năm
435. Dương Công Giản, Dương Công Chưởng thi đậu Hương cống
Hai ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), có dự mấy kỳ thi Hội, chỉ trúng Tam trường.
Nguồn: D7.
NĂM 1686 (BÍNH DẦN)
Tháng 3 (tháng Hai – Bính Dần)
436. Bà Dương Thị Phương được bầu làm Hậu thần xã Khắc Niệm Hạ
Hậu thần bi ký/ Phụng sự ước ký tạo năm Chính Hòa 7, dựng tại đình Khắc Niệm Hạ, tổng Khắc Niệm, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc thành phố Bắc Ninh) ghi việc quan viên hương lão xã Khắc Niệm Hạ bầu Hậu thần cho bà Dương Thị Phương người bản xã, vì bà là người nhân đức, thường bố thí cho người nghèo, bà lại đã cúng250 quan tiền, 2 mẫu ruộng cho làng. Bia khắc nguyên văn đơn bầu Hậu lập vào năm Ất Sửu (1685) ghi cam kết về nghi thức cúng giỗ hàng năm và họ tên những người ký bầu Hậu.
Nguồn: T12, tập 6, N05175-76.
Tháng 11 (tháng Mười – Bính Dần)
437. Hiệu sinh Dương Viết Giáo, Dương Viết Trí công đức xây đền Thánh hiền tại xã Ninh Duy
Thánh hiền từ bi ký do Giám sinh Quốc tử Giám Đỗ Tán soạn, cho biết trước đây hàng năm Hội Tư văn huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là Tiên Lãng – Hải Phòng) thường tổ chức tế lễ Thánh hiền nhưng chưa có Bái đường, chỉ lặng lẽ cảm công đức. Nhận thấy phải mở ra từ miếu để chấn hưng nếp Tư văn làm sáng ngời kim cổ rồi dựng bia cao ngất đẽo gọt chạm khắc để cho vạn đời được thấy, muôn thuở không dời. Để làm được là nhờ sự hưng công của các hiệu sinh – trong đó có Dương Viết Giáo, Dương Viết Trí.
Nguồn: V6, tr.442-651.
NĂM 1687 (ĐINH MÃO)
Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Mão)
438. Bà họ Dương, hiệu Từ Hiếu cấp ruộng cho giáp Đông phường Thụy Chương
Nghĩa điền bi ký dựng năm Chính Hòa 8 dựng tại phường Thụy Chương, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc quận Tây Hồ – Hà Nội), bà là phu nhân của vị Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thiếu úy Phó tướng Tông Quận công, là người nhân hậu. Bà đã cấp cho giáp Đông phường Thụy Chương 3 mẫu, 1 sào, 2 khẩu ruộng và 1 cái ao để giáp cày cấy. Bản giáp nhớ ơn bà, định lệ cúng giỗ sau ngày bà trăm tuổi. Lễ vật gồm 1 con bò, 4 mâm xôi, rượu và cau trầu đủ dùng.
Nguồn: T12, tập 1, N030-3.
Trong năm
439. Dương Minh Thời thi đậu Hương cống
Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An)
Nguồn: D7.
NĂM 1688 (MẬU THÌN)
Ngày 4 tháng 10 (11 tháng Chín – Mậu Thìn)
440. Ông Dương Hữu Đạo được ghi nhận công đức với xã Thạch Lựu
Theo tấm bia tạo năm Chính Hòa 9 dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu, tôntr Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) thì người bản xã là Dương Hữu Đạo bỏ ra 450 quan sử tiền để xã xây đình, dựng cầu với mong muốn báo đáp ơn sinh thành của cha mẹ, ông lại cúng 5 sào ruộng vào chùa làm ruộng Tam bảo. Toàn xã nhất trí bầu cha mẹ ông là Hậu phật, hàng năm vào ngày 15 tháng 11 và ngày giỗ kỵ làng sẽ sắm lễ vật đến cúng giỗ Hậu phật tại chùa.
Nguồn: T12, tập 12, N011132-34.
NĂM 1689 (KỶ TỴ)
Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Tỵ)
441. Văn thuộc Dương Văn Tuyên công đức xây dựng chợ Gió (Lương Phong)
Tạo cấu tác thạch nhất hưng công quán thương gian Tam bảo lập bi dựng năm Vĩnh Thịnh 2 (Bính Thân – 1716) tại thôn Chợ, xã Lương Phong, tổng Đông Lỗ (Hiệp Hòa – Bắc Giang) cho biết, vào tháng Giêng – Kỷ Tỵ (2-1689) bản xã làm một khu chợ, chi phí rất tốn kém nhưng may nhờ các tín thí ở địa phương nhiệt tâm công đức nên việc xuôn xẻ. Mãi tới thời điểm này xã mới làm bia khắc ghi tên họ hơn 500 tín thí, trong đó có Văn thuộc Dương Văn Tuyên.
Nguồn: Đ12, tr.429.
NĂM 1690 (CANH NGỌ)
Tháng 3 (tháng Hai – Canh Ngọ)
442. Tiến sĩ Dương Công Độ được vinh danh tại làng Nhị Khê
Lịch đại khoa danh bi ký được dân làng Nhị Khê tạo dựng vào tháng Trọng xuân niên hiệu Chính Hòa 11, đặt tại Văn chỉ bản xã, đề danh 7 vị – trong đó tiền triều 6 vị: Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi (khoa Canh Thìn), Nguyễn Tố Giám (Thừa chính sứ xứ An Bang – theo Tộc biên), Ứng Ngạn Lương (khoa Ất Mùi), Nguyễn Trung Lượng (khoa Bính Thìn), Ngô Hồn (Hoàng giáp triều Trần) và đương đại 1 vị: Dương Công Độ (khoa Quý Hợi); đồng thời khắc tên 19 người từng dự Hội thí, trong đó có một số người con cháu của Nguyễn Trãi.
Nguồn: T12, tập 3, N02684-85.
Tháng 9 (tháng Tám – Canh Ngọ)
443. Dương Quang Lộc soạn văn bia cho Văn chỉ xã Trung Mầu
Bản hội Tư văn bi truyền/ Đệ niên xuân tiết tựu tế do ông soạn, tạo năm Chính Hòa 11, đặt tại Văn chỉ xã Trung Mầu, tổng Dũng Vi, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội) ấn định tiết xuân hàng năm cùng nhau hội họp tế lễ. Ngoại các vị đỗ đạt đã chép vào bia lưu truyền như Dương quý công tự Phúc Thịnh, Phủ sinh Dương quý công tự Phúc Hiền, Tiền thập lý hầu Dương quý công tự Phúc Thiện, nay giáp Tư văn Trung Mầu dựng bia ghi danh sách các vị Hậu hiền để lưu truyền phụng thờ – trong số này có các vị Dương Hữu Luận, Dương Hữu Di, Dương Hữu Tín.
Nguồn: T12, tập 8, N07110-11; T21, tr.488-493.
NĂM 1691 (TÂN MÙI)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Tân Mùi)
444. Bà Dương Thị Chính cùng chồng cung tiến tu tạo chùa Bảo Quang
Hậu thần hậu phật bi/ Công đức hồng chung bi ký do Sinh đồ Trịnh Tài Kham soạn, dựng tại chùa Bảo Quang, xã Diện Xuyên, tổng Phong Xá, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Phong Xá, Yên Phong – Bắc Ninh), ghi việc, Cai huyện Phượng Lộc hầu kiêm Kỳ Anh đại sĩ Nguyễn Như Cao người xã Thổ Hà và vợ là Dương Thị Chính đã cúng cho bản xã tiền để tu sửa điện thiêu hương, hành lang, tiền đường, hậu đường, tạo tượng Phật chùa Bảo Quang. Xã nhớ ơn bầu vợ chồng ông là Hậu thần Hậu phật. Ghi tên các hội chủ trong xã và các Hội chủ ở xã huyện khác đã đóng góp tiền của tu sửa chùa.
Nguồn: T12, tập 4, N03978-79.
NĂM 1692 (NHÂM THÂN)
Tháng 4 (tháng Ba – Nhâm Thân)
445. Bà Dương Thị Trường cung tiến tu sửa đình vũ thôn Hương Giao
Dương gia tạo bia/ Bản thôn ưng bảo/ Thượng hạ cộng ký/ Vạn đại tuân tự là tấm bia 4 mặt, tạo năm Chính Hòa 13, dựng tại đình xã Hương Thịnh, tổng Gia Cát, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Quang Minh, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi việc bà Dương Thị Trường hiệu là Từ Thuận, ở thôn Hương Giao xã Gia Định huyện Hiệp Hòa phủ Bắc Hà, vợ cả ông Thập lý hầu là người khoan hòa, đức hạnh. Năm Kỷ Tỵ (1689) thấy đình làng vì lâu ngày bị hư hỏng dột nát, bản xã phải tu tạo bà đã cúng cho làng 200 quan tiền sử, 3 thửa ruộng sản lượng 20 gánh thóc để tu sửa đình. Quan viên, dân thôn tôn bầu bà làm Hậu thần và ghi lệ cúng giỗ hàng năm và vị trí, diện tích các thửa ruộng tiến cúng.
Nguồn: T12, tập 8, N07036-39; tập 10, N09068-71.
Ngày 1 tháng 5 (16 tháng Ba – Nhâm Thân)
446. Các xã quan họ Dương họp bầu Hậu thần làng Thạch Lựu
Bia Hậu thần nhị vị tạo năm Chính Hòa 13 dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Dương) ghi việc các xã quan Dương Văn Thuần, Dương Văn Thành, Dương Hữu Lễ, Dương Hữu Phỉ, Dương Tá Thoát, Dương Thế Triều, Dương Nhân Hậu, Dương Tiến Quý, Dương Hữu Tín, Dương Văn Áo, Dương Văn Định đã họp tại đình làng để bầu vợ chồng ông Lưu Văn Trữ làm Hậu thần vì ông bà đã cung tiến cho xã 60 quan tiền sử và 5 sào ruộng để chi dùng.
Nguồn: T12, tập 12, N011120-21.
Tháng 9 (tháng Tám – Nhâm Thân)
447. Ông Dương Tiến Tài cung tiến cột Thiên đài cho đình Đặc Mai (Đức Mại)
Dòng chữ Tạo/ lập/ Thiện/ đài hiện còn trên cột đá trước đình xã Đức Mại (văn bia ghi là Đặc Mai), tổng Mỹ Thái, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang (nay thuộc Lạng Giang – Bắc Giang) ghi lại sự việc trên cùng câu khấn cầu bình an.
Nguồn: T12, tập 7, N06073-76.
Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Thân)
448. Sinh đồ Dương Thế Thái, Dương Song Phong soạn văn bia cho chùa Lỗ Khê
Ân lưu vạn đại bi do hai ông soạn, tạo vào tháng Trọng Đông năm Chính Hòa 13 dựng tại chùa thôn Đông, xã Lỗ Khê, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội) ghi việc, Ông Thượng thọ Kỳ Anh, kiêm Tri phủ sĩ, Trùm trưởng Trịnh Đăng Tiên cúng cho làng 20 quan tiền sử và 1 mẫu ruộng để xin dựng tượng Hậu phật. Dân làng đồng ý và định lệ cúng giỗ hàng năm. Ngoài ra, bia ghi họ tên người cúng tiến tiền của xây dựng một chiếc cầu ở trong thôn.
Nguồn: T12, tập 4, N03193-94.
449. Ông họ Dương tự Phúc Định cùng vợ giúp xã Lai Hoa Thượng có tiền trả nợ
Hậu thần bi ký/ Bản xã bi ký tạo năm Chính Hòa 13 dựng tại đình xã Lai Hoa Thượng – còn gọi là Lai Phương, tổng Hà Đới, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (Tiên Lãng – Hải Phòng) ghi việc ông và vợ là bà Phạm Thị Hạnh hiệu là Diệu Ngân ở xã Lai Hoa Thượng huyện Tiên Minh phủ Nam Sách đã cúng cho xã 77 quan tiền sử để xã trả nợ. Quan viên, hương lão bản xã tôn bầu ông bà làm Hậu thần. Có ghi lệ cúng tế hàng năm và bài minh 28 câu ca ngợi cảnh đẹp của làng và công đức của Hậu thần.
Nguồn: T12, tập 10, N09359-60.
NĂM 1693 (QUÝ DẬU)
Tháng 6 (tháng Năm – Quý Dậu)
450. Họ Dương thôn Khê Khẩu đóng góp với làng xóm
Sáp lập Hậu thần bi ký tạo năm Chính Hòa 14 dựng tại đình thôn Khê Khẩu, xã Lam Sơn, tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay gọi là thôn Chản Làng, xã Yên Sơn, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi nhận rằng, các vị hương lão ở hai giáp Đông và Tây thuộc thôn Khê Khâu xã Lan Sơn, như Dương Vĩnh Trường, Dương Hữu Tài, Dương Ngọc Dung, Dương Mậu Nhân, Dương Ức, Dương Mậu Tiến, Dương Phú Tài, v.v… đã họp bàn và ra kính cáo với toàn thôn rằng: vì gặp phải việc kiện tụng, không có tiền chi tiêu, ai đóng góp tiền của cho bản thôn sẽ được lập Hậu và khắc vào bia đá để lưu truyền về sau. Ghi họ và tên, tự hiệu của một số hương lão, Sinh đồ cúng tiền, ruộng vào mục đích trên như: Thập Lý hầu Dương Ý tự là Huyền Đan góp 100 quan tiền và 2 thửa 2 khóm cộng 16 sào ruộng; ông Dương Mậu Tiến tự là Phúc Tiên góp 100 quan tiền và 1 thuở 2 khóm cộng 4 sào ruộng, v.v… Có ghi những người chứng kiến ký tên.
Nguồn: T12, tập 9, N08032-35.
NĂM 1694 (GIÁP TUẤT)
Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Tuất)
451. Các sãi vãi họ Dương đóng góp xây quán ngói chợ An Tất
An Tất thị/ Hoàng đồ hữu vĩnh phật đạo vô cùng tạo năm Chính Hòa 15, dựng tại chợ An Tất, xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi danh các sãi vãi Dương Thị Lâm, Dương Thị Lãng, Dương Thị Vinh, Dương Thị Chén và Dương Văn Tích đã đóng góp tiền của hưng công xây dựng 5 gian quán ngói chợ An Tất.
Nguồn: T12, tập 12, N011149-50.
Tháng 8 (tháng Bẩy – Giáp Tuất)
452. Dương Công Đương được Nguyễn Danh Nho, Ngô Sách Tuân lạm bổ vào chức Tự ban
Ông người phường Thái Cực, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên. Sở dĩ xảy ra một số rắc rối quanh con đường hoan lộ của ông vì Tả thị lang Lại bộ Nguyễn Danh Nho và Hữu thị lang Lại bộ Ngô Sách Tuân được giao trách nhiệm thuyên chuyển các chức quan, bị tố cáo là tư vị, nên nhiều người bị coi là lạm bổ.
Sau việc này, Dương Công Đương trở về chức vị cũ.
Nguồn: L5, tr.139-141; Đ6, tr.39.
NĂM 1695 (ẤT HỢI)
Tháng 12 (tháng Một – Ất Hợi)
453. Tiến sĩ Dương Công Độ soạn văn bia Văn chỉ huyện Thượng Phúc
Thượng Phúc huyện khoa danh ký đặt tại Văn chỉ hàng huyện thuộc xã Văn Hội, tổng Thượng Hồng, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Văn Bình, Thường Tín – Hà Nội) ghi lại rằng:
Đất Thượng Phúc là nơi có truyền thống khoa bảng. Cha con anh em nối bước nhau. Trong sách ghi toàn huyện có 75 người đỗ đạt. Song khảo ở bia Văn Miếu (Hà Nội) và Đăng khoa lục chỉ thấy có 44 người. Nay Tư văn hàng huyện dựng bia, đặt ở xã Văn Hội, ghi họ tên chức tước các vị được thờ như: Bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh, làm chức Tư nghiệp, người xã Nhị Khê. Con là Bình Ngô khai quốc công thần Nguyễn Trãi cũng được thờ. Còn có Nguyễn Đình Tích làm Thị lang thừa chỉ v.v.. Hàng năm xuân thu nhị kỳ các quan viên áo mũ chỉnh tề ra tế. Xã An Duyên được giao trông nom văn chỉ, sinh đồ Trương Công Khuê quét dọn. Đến năm Bính Thân, Câu đương giám sinh Đinh Tông Thuyên, Tri huyện Hoài An Đinh Bá Thường cùng các quan viên, bỏ ra 300 quan để sửa tiền đường và nội đường văn chỉ. Công việc xong xuôi chiếu bổ các xã trong huyện phải nộp. Xã An Duyên vì trông coi văn chỉ nên được miễn đắp đê quan và công dịch khác. Nay xã lại đóng 50 quan vào việc tu sửa văn miếu, nên được miễn lệ nộp lễ mỗi năm 10 quan.
Ngoài ra, bia còn liệt kê một số nhân vật họ Dương – có người làm đến Nhập hội Hành khiển đời Trần, Dương Công Nguyên giữ chức Đô ngự sử, Dương Kỳ làm đến Lại bộ Hữu thị lang… cũng như việc cung tiến cho việc dựng bia này có Dương Công Độ góp 40 quan tiền cổ, Dương Công Tiến ở Quất Động, Dương Khuê ở Bãi Lăng.
Nguồn: T12, tập 9, N08196-97; V12, tr.831-832; T9/2009.
NĂM 1696 (BÍNH TÝ)
Trong năm
454. Các bà Dương Thị Đạm, Dương Thị Vạn được tôn Hậu phật xã Tam Trạch
Đại Bi tự/ Hậu phật bi tạo năm Chính Hòa 17 dựng tại chùa Đại Bi, bản xã, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Trung Hòa, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi, chùa Đại Bi ở bản xã là một danh lam cổ tích, nhưng vì lâu ngày bị hư nát. Nay các ông bà Dương Thị Đạm, Nguyễn Thị Nghĩa, Dương Thị Vạn ở hai thon Phùng, Cảo thuộc bản xã đã cúng 30 quan tiền sử, một số ruộng cho làng tu sửa chùa, được tôn bầu làm Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 7, N06925-28.
NĂM 1698 (ĐINH SỬU – CANH DẦN)
Tháng 1 (tháng Chạp – Đinh Sửu)
455. Bà Dương Thị Nông được bầu Hậu thần xã An Liệt
Hậu thần bi ký tạo tháng Quý đông năm Chính Hòa 18, dựng tại miếu xã An Liệt, tổng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là xã Thanh Hải, Thanh Hà – Hải Dương) ghi việc bà cùng bà Vũ Thị Mai, mỗi người cúng cho xã 3 sào ruộng và 30 quan tiền nên được tôn làm Hậu thần và khắc bia ghi lại.
Nguồn: T12, tập 12, N011458.
NĂM 1699 (KỶ MÃO)
Mùa xuân
456. Thư tả họ Dương soạn văn bia ghi nhận được sự đóng góp của nhiều người trong dòng họ ở làng Xuân Lan
Thư tả là người xã Vĩnh Thế (Tư Thế) cùng tổng Khương Tự với xã Văn Lan (Văn Quan), huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay đều trong xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) khi viết Huệ trạch tự/ Tân tạo hồng chung vào năm Chính Hòa 20, ngoài việc ghi lại sự kiện năm Quý Dậu (1693) mẹ con ông Thái bảo Vị Quận công Trịnh Liệu hợp sức cùng dân thôn đúc một chiếc chuông lớn đem từ Kinh thành về treo ở chùa; bia còn ghi những công việc năm Kỷ Mão (1699) thôn xây dựng gác chuông, trước thôn có việc kiện tụng về đường đi rước Phật, nay quan ở Ngự sử đài đã xét cho xã được đi đường thẳng từ xã Trà Lâm đến chùa Từ Kỳ trong ngày hội rước Phật và ca ngợi đây là nơi đất tốt, xuất hiện nhiều anh tài, nhân dân có lòng sùng đạo. Đặc biệt, các ông bà Dương Mán, Dương Văn Học, Dương Văn Chính, Dương Hữu Tốn, Dương Thị Hai, Dương Thị Hương, Dương Thị Cải, Dương Thị Hảo, Dương Thị Thiện, Dương Thị Biển đã phát tâm công đức tiền của cho các viện trên.
Nguồn: T12, tập 4, N03602-04.
Trong năm
457. Dương Công Trình thi đậu Hương cống
Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).
Nguồn: D7.
NĂM 1700 (CANH THÌN)
Ngày 13 tháng 4 (25 tháng Hai – Canh Thìn)
458. Dựng bia ghi nhận công lao của Hội chủ Dương Thế Phúc với chùa Thanh Quất
Đồng Quất xã/ Thanh Quất tự được Tri phủ Đào Danh Tiên soạn, dựng tại chùa bản xã, tổng Thư Xá, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Tam Hồng, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi lại rằng:
Ngày 15 tháng Một năm Kỷ Mão (4-1-1700), Hưng công hội chủ Dương Thế Phúc tự Đạo Tín hiệu Đức An và hội chủ Nguyễn Tiến Phụng tự Minh Đạo hiệu Vạn Thế đã cùng chư vị thiện tín xã Đồng Tâm huyện Yên Lạc đóng góp tiền của tạo cột hương ở chùa Thanh Quất. Ngày 15 tháng Hai năm Canh Thìn (3-4-1700) thì công việc hoàn tất. Nay dựng bia ghi lại việc, ghi họ và tên các vị hưng công hội chủ, các vị thiện nam tín nữ đã công đức vào việc tạo dựng cột hương cho chùa Thanh Quất.
Nguồn: T12, tập 16, N015184-87.
Tháng 9 (tháng Tám – Canh Thìn)
459. Ngô Công Mỹ – gốc họ Dương được Kính sự từ vũ bi ký vinh danh
Bia do Tiến sĩ Nguyễn Công Đổng soạn, tạo năm Chính Hòa thứ 21, dựng tại Từ vũ xã Đồng Tân, tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là Văn chỉ thôn Quế Tân, xã Thái Sơn, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi rằng, xã Quế Trạo và xã Quế Sơn huyện Hiệp Hòa là nơi có nhiều nhân tài, nhiều người đỗ đạt và có thơ văn để lại cho đời, nhưng chưa xây dựng Từ vũ để tôn sùng việc học. Hai hội của hai xã đã chọn thế đất bên phải đình, cho xây dựng Từ vũ, phía trong một gian hai trái, bên ngoài ba gian hai trái theo hình chữ “Công”, trên lợp ngói. Bia cũng ghi một số thửa ruộng của Từ vũ và họ tên các vị Tiên hiền của địa phương gồm:
Nhập nội Thái truyền, Mai Quốc công, Minh Nghĩa công Dương tướng công.
Mậu Tuất khóa (1508) Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh, Đặc tiến kim tử Đại phu/ Lễ bộ Tả thị lang, kiêm Đông các Đại học sĩ Hoằng Phúc hầu, Hoằng tướng công, húy Sầm.
Kỷ Mùi khoa (1619) Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, đi sứ Bắc quốc, Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Hộ bộ Thượng thư, Trụ quốc trí sĩ, Hương Khê hầu, Nguyễn tướng công, húy Kính.
Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, phong tặng Đô đốc đồng tri Đĩnh quận công, Ngô tướng công, húy Công Mỹ.
Phong tặng Hiển cung đại phu, Lạng Sơn xứ Tán trị Thừa chánh sứ ty Tham nghị, Thái Sơn nam, Ngọ quý công, húy Công Tuấn, gia phong tặng Vũ Huân tướng quân Tham đốc Thần vũ tứ vệ quân vụ sự Phúc An hầu.
Phong tặng Hiển cung đại phu Thái Nguyên xứ Tán trị Thừa chánh sứ ty Tham nghị Phúc An tử, Ngọ quý công, húy Công Tuấn, gia phong tặng Vũ Huân tướng quân Tham đốc Thần vũ Tứ vệ quân vụ sự Phúc An hầu.
Phụng sai Thái Nguyên xứ Trấn thủ quan Cai quan, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Ty lễ giám, Tổng thái giám Bắc quân Đô đốc phủ Đô đốc Thiêm sự, gia phong tặng Tả đô đốc Phương quận công Ngọ tướng công huý Quế.
Nguồn: T12, tập 9, N08569-72.
Tháng 11 (tháng Mười – Canh Thìn)
460. Xã quan Dương Thế Đăng cung tiến trả công thợ dựng đình Cổ Mân
Tự sự/ Hậu thần/ Lưu truyền/ Bi ký tạo năm Chính Hòa 21 dựng tại đình xã Cổ Mân, tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Yên Sơn, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi việc xã quan Dương Thế Đăng đã cúng 200 quan tiền, 2 mẫu ruộng để dùng vào việc trả công thợ khi dựng đình nên được bầu làm Hậu thần.
Nguồn: T12, tập 9, N08044-47.
Trong năm
461. Dương Chi viết chữ để khắc bia Bản xã bảo trí
Dương Chi người xã Lương Quán, tổng Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Việt Hùng, Đông Anh – Hà Nội). Bia do ông viết chữ, Nguyễn Thiệu soạn văn, tạo năm Chính Hòa 21, dựng tại chùa xã Đường An, cùng tổng, huyện ghi việc vợ chồng ông Nguyễn Công Minh đã cúng cho làng 100 quan tiền, 1 mẫu 5 sào ruộng, được bầu làm Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 11, N010700.
NĂM 1701 (TÂN TỴ)
Tháng Hai (tháng Giêng – Tân Tỵ)
462. Dương quý thị và chồng được con cái gửi giỗ vào chùa thôn Đãn Chàng
Thiên Đức tự/ Thiên Đài/ Công đức tạo năm Chính Hòa 22, dựng tại chùa Thiên Đức, xã An Xá, huyện Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Đồng Lĩnh, Hưng Hà – Thái Bình) ghi lại sự việc trên.
Nguồn: T12, tập 4, N03038-41.
Trong năm
463. Tri huyện Dương Quảng Hàn đóng góp xây dựng Văn miếu huyện Nghi Dương
Văn miếu/ Hương đăng/ Phụng sự đặt tại Văn từ hàng huyện tại xã Xuân La, tổng Trà Lương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Thanh Sơn, Kiến Thụy – Hải Phòng) ghi rằng:
Năm Chính Hòa 21 (1700) quan viên bản huyện xây dựng Văn miếu huyện gồm hai dãy tả hữu, một gian nghi môn và trồng cây xung quanh. Năm Tân Ty (1701) hoàn thành, dựng bia ghi lại để lưu truyền. Bia có ghi họ và tên, quê quán những người hưng công như: Huyện thừa huyện Nghi Dương Phan Công Nghĩa, Tri huyện Nghi Dương Dương Quảng Hàn, v.v.. Bia còn liệt kê các loại đồ thờ ở Văn miếu.
Nguồn: T12, tập 11, N010039-41.
NĂM 1702 (TÂN TỴ – NHÂM NGỌ)
Ngày 16 tháng 1 (19 tháng Chạp – Tân Tỵ)
464. Bà Dương Thị Quyến công đức đúc khánh chùa Pháp Vân
Tu tạo bảo khánh đúc trên khánh đồng chùa Pháp Vân, xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội) ghi rằng, Hội chủ hưng công và người công đức xã Phù Ninh đã đúc một pho tượng A di đà vào ngày 2 tháng Một năm Kỷ Mão (22-12-1699), lại đúc một khánh lớn vào ngày 19 tháng Chạp năm Tân Tỵ (16-1-1702). Công việc hoàn hảo, liền soạn bài văn ghi khắc lên khánh.
Nay có chùa thiêng ở xã Phù Ninh huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn là một danh lam cổ tích. Ân trạch đem đến mọi điều tốt lành, âm công thì phúc đến dạt dào. Người người noi theo việc thiện, luôn sửa mình góp phúc; coi trọng việc đúc tượng Phật và làm khánh đồng, chẳng tiếc của cải. Cùng làm chùa, dựng cầu, mong được âm báo, cầu mệnh trời yên lành. Cậy nhờ đức Phật chứng minh, soạn bài văn khắc trên khánh để truyền lại đời sau. Kê hết họ tên người hưng công và công đức ra sau đây – trong số đó có bà Dương Thị Quyến.
Nguồn: V4, tr.186-192.
Tháng 1 (tháng Chạp – Tân Tỵ)
465. Bà Dương Thị Đài làm Hội chủ tu sửa chùa Khánh Nguyên
Hậu phật hưng công tạo năm Chính Hòa 22, dựng tại chùa Khánh Nguyên, xã Nghiêm Xá, tổng Triều Đông, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Nghiêm Xuyên, Thường Tín – Hà Nội) ghi rằng:
Bà Dương Thị Đài hiệu là Diệu Nhẫn người bản xã đứng ra làm hội chủ để tu sửa tiền đường ở chùa Khánh Nguyên, xây dựng bảo điện ở chùa An Vực, làm hương án ở chùa Long Hải, và xây dựng ba gian quán ở xứ Lai Tỉnh. Quan viên, dân làng hàm ơn, dựng bia kỉ niệm. Có bài minh 12 câu ca tụng công đức của bà.
Nguồn: T12, tập 9, N08293.
Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Ngọ)
466. Ông bà Dương Thị Bích được làng Vân Cốc bầu làm Ngũ lão, Hậu thần
Ngũ lão bi ký/ Tế văn thể thức do Tiến sĩ Hoàng Công Chí soạn, đặt tại đình xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi rằng:
Trùm quan Thị nội giám, Ty lễ giám, Tả giám thừa Lân Duệ hầu Nguyễn công, húy Thụy, người Bình Hồ, La Sơn, Hoan Châu, lấy bà Dương thị, huý Bích xã Vân Cốc, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, ông làm quan trong triều được Chúa tin dùng. Bà làm hầu vú cho Hoàng tử, Hoàng nữ được mến mộ. Vợ chồng ông là người nhân đức, cả vùng đều biết tiếng. Ông bà thường xuvên giúp dân trong lúc khó khăn, nay lại giúp 5 giáp trong xã 200 quan tiển sứ và 1 số ruộng để dân chỉ dùng vào việc công. Do đó, dân cảm kích, bầu ông bà làm Ngũ Lão, phối hưởng với vị Đại Vương phúc thần ban xã.
Một tấm bia khác là Hậu thần bi ký/ Tế văn điền ký vẫn do Tiến sĩ Hoàng Công Chí soạn cùng thời điểm, dựng lại điếm thôn Lũng, xã Vân Cốc kể trên, lại ghi chép rằng, quan viên, trùm trưởng, hương lão cùng toàn đân thôn Lũng, xã Vân Cốc, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang lập bia Hậu thần. Nguyên vì, bản thôn có trùm quan Ty lễ giám, Tả giám thừa, Lân Duệ hầu Nguyễn công, húy Thụy, quê La Sơn, Hoan Châu, lấy người bản xã Dương thị, húy Bích là người đức hạnh, trung cẩn, nhiều lần được triều đình ban thưởng. Ông bà đã cúng cho bản thôn 100 quan tiền sử và 1 số ruộng dùng làm của công. Do đó, toàn đân thôn bầu ông bà làm Hậu thần, quanh năm hương hỏa.
Nguồn: T12, tập 8, N07024-25; tập 10, N09932-33 ; Đ12, tr.580, 583.
Trong năm
467. Xã trưởng Dương Thịnh tham gia lập Giao ước cho xã Quang Biểu
Bia tạo năm Chính Hòa 23 đặt tại Văn chỉ xã Quang Biểu, tổng Quang Biểu, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Quang Châu, Việt Yên – Bắc Giang) ghi lại rằng:
Quan viên xã Quang Biểu, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà là Hữu Đề điểm Thuần Lộc bá Phạm Công Cửu, Trùm trưởng Nguyễn Đức Lập, Huyện thừa Nguyễn Tuấn Trường, Thái y viện Nguyễn Thế Sĩ, Đội trưởng Nguyễn Quang Tán, Nguyễn Thế Danh, xã thôn trưởng Nguyễn Nhân Cổn, Dương Thịnh, Phạm Như Đổ và 45 người nữa lập lời giao ước. Bản xã trộm thấy, lunh viên Phó tri thuỷ sư Ty lễ giám Thiêm thái giám, Quí Đường hầu Nguyễn công, lập Từ đường tại xứ Viên Trạo đời đời hương hỏa. Ông đã bỏ tiền mua đất ấy để làm Từ đường, và 2 sào ruộng làm ruộng huệ điền. Sau khi làm xong, giao ước với ấp ta, vây tường xung quanh, đến khi tế lễ, bản xã thông báo cho người đương cai đến quét dọn trước, tế xong thì đóng cửa để được nghiêm túc.
Nguồn: T12, tập 22, N031179; Đ12, tr.606.
NĂM 1703 (QUÝ MÙI)
Trong năm
468. Bà Dương Thị Niểu cung tiến sửa chữa chùa Linh Quang
Linh Quang Hậu phật tạo năm Chính Hòa 24 đặt tại nhà chùa xã Nội Hoàng, tổng Phúc Tằng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là xã Nội Hoàng, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi lại rằng, chùa Linh Quang của bản xã là một cổ tích danh lam, nay cần phải sửa chữa. Bà Dương Thị Niểu, hiệu Diệu Kính đã cung tiến tiền giao cho nhà chùa dùng vào việc ấy. Sau bà lại xuất tiền đúc chuông, xuất ruộng cho tiểu tăng cày cấy, chi phí việc đèn nhang. Bởi vậy, bản thôn bầu bà làm Hậu Phật.
Nguồn: T12, tập 22, N035220-21; Đ12, tr.754.
469. Vợ chồng bà Dương Thị Huyền và con trai công đức cây hương đá cho chùa Trù Chúng
Nhà chùa thuộc xã Phúc Chủng, còn gọi là Tân Chung, tổng Hà Châu, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Đồng Tân, Hiệp Hòa – Bắc Giang), có cây hương đá tạo dựng năm Chính Hòa 24 ghi rằng:
Quan viên, hương lão, xã Phúc Chủng, huyện Hiệp Hoà, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc, nước Đại Việt cùng các bậc trên dưới dựng cây Thiên đài. Công việc xong xuôi, kê tên các tín thí lưu truyền vạn đại: Ông (mờ tên), người thôn Xuân, xã Hồng Khê, huyện Duy Tiên, phủ Lỵ Nhận, đạo Sơn Nam, nước Đại Việt. Kiêm Tri phủ sĩ Ngô Công Diện, tự Phúc Tâm, vợ là Dương Thị Huyền, con Nguyễn Văn Anh thôn Lưu Xá, xã Quát Sơn, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên…, tổng cộng trên 200 người, người trong xã và các vùng lân cận.
Nguồn: T12, tập 22, N033297-00; Đ12, tr.410.
470. Nhiều người họ Dương công đức tạo dựng cột đá chùa Trù Chúng
Tại 2 mặt cột đá tạo năm Chính Hòa 24 dựng tại chùa Trù Chúng ghi rằng, Quan viên hương lão 3 xã Bến Chuông, Mai Sơn, Kha Nhi thuộc 2 huyện Hiệp Hoà và Tư Nông của 2 phủ Bắc Hà và Phú Bình, thuộc Kinh Bắc, Thái Nguyên, nguyên vì chùa Trù Chúng, tiền triều cổ tích danh lam, hiện bị đổ nát, nay sửa chữa dùng gỗ tốt và cột đá cho được vững chắc, đã được các vị kê tên sau đây tiến cúng: Dương Thị Bản, Nguyễn Đức Tuấn, Dương Thị Vịnh, Nguyễn Thị Hoàng, Dương Công Khanh, vợ Chu Thị Đổ đều là người thôn Ngọc Đông, xã Kha Sơn cúng 1 đột đá. Dương Thị Hợp, Nguyễn Đình Dự, vợ Dương Thị Phiên cúng 1 cột gỗ.
Nguồn: T12, tập 22, N033301-02; Đ12, tr.411.
NĂM 1704 (QUÝ MÙI – GIÁP THÂN)
Ngày 10 tháng 1 (15 tháng Chạp – Quý Mùi)
471. Nguyễn Quang Luân đỗ đầu hạng Đệ nhị Tiến sĩ
Khoa thi Hội tổ chức vào mùa đông, tháng Mười – Quý Mùi (11-1703).
Triều đình đặc sai quan Đề điệu, Tri Cống cử, Giám thí chia nhau giữ các việc. Sĩ tử hát thơ Lộc minh về kinh dự thi đông đến 3000 người, quan hữu ty chọn được 6 người – đỗ đầu là Nguyễn Tri Cung.
Tháng Chạp – Quý Mùi, các sĩ tử bước vào Điện thí – thi Đình, đầu bài ứng chế là Quân thần tương duyệt lạc (vua tôi vui thích nhau) làm theo thể ngũ ngôn, lấy vần hoan, hạn 25 vần và Kim thanh ngọc chấn (tiếng kim, tiếng ngọc vang lên) theo thể luận.
Nguyễn Quang Luân, sau đổi là Công Luân, cháu 6 đời Tiến sĩ Nguyễn Duy Tường – vốn gốc họ Đào dòng Đào Sư Tích, cháu 5 đời Tiến sĩ Nguyễn Hoằng Xước, cháu tằng tôn Tiến sĩ Nguyễn Thế Thủ, nổi tiếng thần đồng, đứng đầu hạng Đệ nhị Tiến sĩ (Hoàng giáp) lúc mới 21 tuổi.
Nguồn: L5, tập 1, tr.169; Đ6, tr.53; V2, tr.402.
Tháng 3 (tháng Hai – Giáp Thân)
472. Dương Quang Thọ, Dương Đức Nghinh công đức tu tạo chùa Diên Phúc
Cổ tích danh lam Diên Phúc tự/ Tạo tác thạch gia bi dựng tại chùa Diên Phúc, xã Yên Viên, tổng Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang) ghi việc Phổ Minh Thiền sư Nguyễn Pháp Lộc, tự Phúc Đương trụ trì tại chùa đã xuất 20 quan tiền cùng nhiều thiện nam, tín nữ khác, trong đó có 2 ông họ Dương kể trên cùng công đức xây thềm đá cho nhà Tiền đường, làm Tam quan.
Nguồn: T12, tập 7, N06230-31
Ngày 28 tháng 6 (27 tháng Năm – Giáp Thân)
473. Dương Đăng Triều soạn văn bia cho chùa Hoa Long
Tạo lập bi ký/ Nhất công đức được tạo năm Chính Hòa 25, dựng tại nhà chùa thuộc xã Lập Thạch, tổng Yên Xá, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Yên Thạch, Sông Lô – Vĩnh Phúc) ghi việc vào năm này được dân các xã Lập Thạch, Thiều Thạch, Văn Minh góp tiền để làm 3 gian Tiền đường, Thượng điện, Thiên hương – trong số đó có vợ chồng ông Dương Đăng Thiều đóng góp nhiều tiền của.
Nguồn: T12, tập 15, N015646-47.
Trong năm
474. Vợ chồng ông Dương Văn Nho được bầu làm Hậu thần xã Cổ Trai
Hậu thần bi ký tạo năm Chính Hòa 25 dựng tại đình thôn Đại, xã Cổ Trai, tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc Kiến Thụy – Hải Phòng) ghi việc ông bà đã cúng cho làng 80 quan tiền, 1 sào ruộng trị giá 20 quan tiền sử nên được hưởng đặc ân trên.
Nguồn: T12, tập 11, N010111-12.
NĂM 1705 (ẤT DẬU)
Tháng 7 (tháng Sáu – Ất Dậu)
475. Dương Đình Tướng thi đậu Hương cống, Dương Đình Trọng đậu Sinh đồ
Vào tháng này, nhân kỳ thi Hương, triều đình sức răn Hiệu quan ở các huyện khi phúc hạch học trò, người nào thực đỗ thì yết bảng ngay, tránh mơ hồ đỗ hay hỏng phải đua nhau chạy vạy, cầu cạnh, ngõ hầu làm cho phép khảo khóa được công minh.
Dương Đình Tướng, người làng Ngọc Hoạch, tổng Đông Lý, huyện Yên Định, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Định Tăng, Yên Định – Thanh Hóa).
Dương Đình Trọng, người xã Phượng Dực, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội).
Trong Khoa cử Việt Nam – Sinh đồ thời Lê, thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn các tác giả đưa tên 2 Sinh đồ Dương Đình Trọng (N00079 – tr.19 và N03181 – tr.377) cùng quê Phương Dực, thi đỗ cách nhau 30 năm (1705 – 1735) Không rõ có sự nhầm lẫn nào chăng?
Cùng quê ở Phượng Dực, cùng đỗ Sinh đồ còn có Dương Xuân, Dương Kỳ không rõ thời điểm.
Nguồn: N11, tr.67; K7, tr.16, 19, 377; Đ6, tr.55.
NĂM 1706 (BÍNH TUẤT)
Tháng 6 (tháng Năm – Bính Tuất)
476. Các ông Dương Tiến Lộc, Dương Văn Doãn đóng góp cùng xã Mỹ Cầu chuyển vị trí đình làng
Mỹ Cầu xã đình bi tạo năm Vĩnh Thịnh 2 cho biết:
Quan viên, hương lão, xã thôn trưởng cùng toàn dân thôn Thượng, xã Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang lập bia ghi việc. Nguyên do, bản thôn chuyển đình từ xứ Giếng Cầu đến xứ Cửa Nương, chi tiêu tốn kém. Nhân đó, các thiện tín đã công đức tiến cúng tiền của để dân thôn chi dùng, như: Cụ Dương Tiến Lộc, Phạm Thị Viết, Dương Văn Doãn (khoảng 200 vị). Do đó, toàn dân thuận tình cúng tế các vị khi mất.
Nguồn: T12, tập 9, N08241-42.
NĂM 1707 (BÍNH TUẤT – ĐINH HỢI)
Tháng 1 (tháng Chạp – Bính Tuất)
477. Người họ Dương hưng công tân tạo gác chuông chùa An Tất
An Tất tự tạo các chung bi dựng tại chùa xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi tên họ những người hưng công – trong đó có các ông bà Dương Tri Lễ, Dương Hữu Đạo, Dương Thị Mịch, Dương Lê Hương, Dương Nhân Mỹ, Dương Thị Trong, Dương Thị Quyển, Dương Thị Trăn, Dương Thị Thậm, Dương Thị Phùng, Dương Thị Huệ, Dương Văn Vân.
Nguồn: T12, tập 12, N011122-23.
NĂM 1708 (MẬU TÝ)
Tháng 6 (tháng Năm – Mậu Tý)
478. Dựng bia ghi danh nhiều người họ Dương hưng công tu tạo chùa Dương Thiền
Dương Thiền tự bi ký dựng năm Vĩnh Thịnh 4 tại nhà chùa xã Quất Lựu, tổng Quất Lựu, huyện Yên Lãng, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi rằng, chùa trải lâu năm bị đổ nát. Nhà sư tự Như Bi Vô Trụ đến đây trị trì đã cùng Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Đương pháp hiệu Diệu Minh Châu và các thiện nam tín nữ đứng ra hưng công tu sửa phù đồ, đúc chuông, tạo pháp khí. Vào năm Nhâm Thân (1702) công việc trung tu chùa được hoàn thành. Đến tháng Năm năm Mậu Tý (6-1708) dựng bia để ghi tên các thiện tín đã góp công tu tạo – trong đó có các ông bà Dương Văn Khánh, Dương Văn Cung, Dương Văn Thu, Dương Thị Xướng.
Nguồn: T12, tập 16, N015107-08.
TRONG NĂM
479. Dương Như Mai đậu Sinh đồ
Ông người xã Phượng Dực, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội), đỗ Tam trường khoa Mậu Tý đời Lê Dụ Tông.
Nguồn: K7, tr.19.
480. Dương Đình Hiển và anh em Dương Công Viên, Dương Công Thụy thi đậu Hương cống
Dương Đình Hiển người xã Phượng Dực (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội), con trai Hương cống Dương Đình Quý, thi Hương lần đầu đã đậu Giải nguyên. Năm 1748 thi Hội, chỉ trúng Tam trường. Làm đến Huấn đạo phủ Thông Hóa, Tri huyện Trung Sơn, Tri phủ Hà Trung. Tác phẩm để lại có Phượng Dực điểm thi, Phượng Dực phong cảnh phú, Nhập tàng quy mục lục nhị thể, Hưng Long tù bị lục, Văn hội bạ.
Dương Công Viện, Dương Công Thụy người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).
Nguồn: K6, tr.254; D7.
481. Vợ chồng bà Dương Thị Nương hưng công tu tạo chùa Nham Hinh
Tân tạo Nham Hinh tự/ Thiên đài thạch cung tạo năm Vĩnh Thịnh 4, dựng tại chùa Nham Hinh, thôn Lạc Yên, tổng Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hoàng Vân, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi lại rằng, viên Thiện sĩ bản tự, người thôn Lạc Khang, xã Vạn Thạch cùng tổng là Nguyễn Tiến Dụng cùng vợ là Dương Thị Nương và gia quyến vào năm trước đã dâng một pho tượng đồng, cúng thửa ruộng nay lại hưng công dựng cây Thiên đài. Vậy khắc bia để ghi lại.
Nguồn: Đ12, tr.418-419; T12, tập 22, N033337-40.
NĂM 1709 (KỶ SỬU)
Tháng 9 (tháng Tám – Kỷ Sửu)
482. Hiệu sinh Dương Quang Phục soạn văn bia chùa Vĩnh Long
Thiện sĩ tạo san hải hội kinh/ Sáng lập phật tượng bi tạo năm Vĩnh Thịnh 5, dựng tại chùa Vĩnh Long, xã Mai Thự, tổng Song Mai, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc An Dương – Hải Phòng) ghi việc năm Kỷ Sửu, các Thiện sĩ ở hai xã Song Mai và Mai Thự dựng bia, khắc kinh Hải Hội và dựng tượng ở chùa Vĩnh Long, kèm danh sách người hưng công.
Hiệu sinh Dương Quang Phục là Tiền Xã trưởng, Câu đương xã Mai Thự.
Nguồn: T12, tập 8, N07545-46.
NĂM 1710 (CANH DẦN)
Ngày 18 tháng 2 (20 tháng Giêng – Canh Dần)
483. Nhiều quan viên họ Dương ký kết Khoán văn phụng thờ Tướng công Lê Thì Hải
Vạn thế phụng tự bi ký/ Huệ điền tứ tiền đẳng số/ Phụng sự khoán văn do Tiến sĩ Vũ Thạnh soạn năm Vĩnh Thịnh 6, dựng tại Văn chỉ thôn Đông, xã Phú Hào, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Thọ Phú, Thọ Xuân – Thanh Hóa) ghi chép về người bản thôn là Thạc Quận công Tướng quân Lê Thì Hải, có nhiều công lao trong việc đánh dẹp họ Mạc ở Cao Bằng, tâm phúc của triều đình, cấp nhiều ruộng vườn và tiền của cho quê hương. Ân đức được ban quê nội xã Phú Hào, quê ngoại xã Xa Kích, cùng những xã trong tổng như Mỹ Hào, Tịnh Man An Phú. Các xã trong huyện như Kỳ Điện, Cẩm Lý v.v. cùng giáp Bắc, giáp Nam xã Bạc Liễm, giáp Bắc xã Phú Liễm; thôn Cốc Thuận, thôn Phú Thọ, xã Thượng Cốc; thôn Mật, xã An Khoái, thôn Cẩm Lý, thôn A Voi, thôn Thọ Vực, thôn Đa Niên xã Phú Dương ; giáp Bắc, giáp Nam, xã Tam Lư; giáp Bắc, giáp Đông, xã Bất Não; thôn Trung Chính, xã Thanh An quan viên hương sắc trên dưới đều được hứa lời vàng đá ban cho huệ điền và tiền cổ7.800 quan, đất vườn 891 mẫu để làm các khoản chi phí cần thiết, mua sính lễ đầy đủ phụng thờ:
Cha được vâng tặng Đặc tiên Phụ quốc Thượng tướng quân, Đô tổng binh sứ ty, tước bá Dương hầu, Lê Tướng công, tên tự là Phúc Ân, thụy Đức Diệu phủ quân.
Mẹ được vâng phong Chánh phu nhân, Lê quý thị, hiệu Từ Huệ cùng vợ cả trước đây của ngài họ Đào tên hiệu là Từ Thục thụy là Đoan Trực, cộng lại là bốn vị được đặt hai bên tả hữu Từ đường. Bên tả Từ đường phụng thờ cha mẹ, bên hữu Từ đường phụng thờ vợ của ngài, ngày húy nhật cùng đến thờ cúng. Vào các tiết sinh nhật của ngài đều đến chúc mừng. Hàng năm, vào ba ngày Tết Nguyên đán, bốn mùa tế lễ, Tết Đoan ngọ, Trung nguyên, Thường tiên, Lạp nhật, Trừ cứu… lễ bàn đầy đủ y như trong kê khai. Sau khi ngài qui tiên lại chuyển ngày sinh nhật chúc mừng thành ngày kỵ húy, lễ cúng nghìn vạn năm sau không được làm khác.
Các ông Dương Bá Ổ, Dương Bá Hạng, Dương Bá Trạch, Dương Văn Vạn, Dương Bá Tư, Dương Bá Thuần (quan viên giáp Bắc xã Phú Liêm), Dương Văn Ao (xã Thọ Vực) cùng hàng trăm người khác ký kết vào Giao ước này.
Nguồn: T17, tập 3, tr.466-569.
Tháng 3 (tháng Hai – Canh Dần)
484. Ghi nhận đóng góp của họ Dương với việc tu tạo chùa An Nhiên
An Nhiên/ Thiền tư/ Tạo lập/ Thiên đài tấm bia 4 cạnh tạo năm Vĩnh Thịnh 6 dựng tại chùa An Nhiên, xã Bá Hạ, tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Bá Hiển, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi việc, Ông Dương Thế Xứng tự Phúc Hưng và vợ bà Dương Thị Cần hiệu Diệu Kính cùng toàn thể gia quyến họ Dương vào năm Bính Tuất (1706) đúc chuông và khánh cho chùa An Nhiên. Tháng Hai năm Canh Dần (1710) lại cùng ông Dương Văn Giám tự Phúc Sùng và chư vị thập phương xây cột hương ở chùa An Nhiên. Ghi họ và tên các hưng công hội chủ, các thiện nam tín nữ đã cúng tiền xây dựng cột hương và cúng ruộng vào cùa làm ruộng tam bảo.
Nguồn: T12, tập 16, N015234 – 37.
NĂM 1711 (CANH DẦN – TÂN MÃO)
Tháng 1 (tháng Chạp – Canh Dần)
485. Bà Dương Điền, Dương Thị Cẩm hưng công xây dựng cầu đá Tang Đố
Hưng công tạo thạch kiều bi tạo tháng Quý đông – Canh Dần, dựng tại thôn Khánh Nhi, xã Tang Đố, tổng Tang Đố, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Vĩnh Định, Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc), ghi việc quan viên, hương lão, bản xã góp công của xây dựng cầu đá – trong đó có hai bà họ Dương, vợ cả và thiếp của ông Kiều Hữu Phấn và con trai đã đứng ra làm Hưng công Hội chủ.
Nguồn: T12, tập 15, N014407.
Tháng 8 (tháng Bẩy – Tân Mão)
486. Giải nguyên Dương Đình Hiển soạn văn bia Long Hưng tự bi lục
Bia tạo năm Vĩnh Thịnh 7 dựng tại chùa Long Hưng, xã Phượng Dực, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội) cho biết, trước đây tiền nhân đã phát tâm công đức xây dựng Tiền đường, Hậu đường, tả hữu Hành lang nguy nga, tráng lệ. Nay các Quan viên, Hương lão, Sãi vãi, Thiện tín lại hưng công xây 4 bức tường bao quanh. Vậy lập bia để ghi danh những người đóng góp.
Nguồn: T12, tập 12, N011366-67.
Ngày 8 tháng 7 (5 tháng Sáu – Nhâm Thìn)
487. Dương Lệ thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Tháng Ba – Nhâm Thìn, mùa xuân năm Vĩnh Thịnh 3 (4-1712), triều đình tuân theo thành pháp, mở khoa đại tỉ (tức thi Hội). Đặc sai Đề điệu là Thiếu phó Đông Quận công Trịnh Hoàn, Tri Cống cử là Tham tụng Hình bộ Thượng thư Khánh Sơn bá Nguyễn Thế Bá, Giám thí là Bồi tụng Lại bộ Tả Thị lang Nhập thị Kinh diên Nhân Thọ tử Nguyễn Đương Bao và Bồi tụng Công bộ Tả Thị lang Đồng Lĩnh tử Nguyễn Danh Dự cùng chấp sự các ty chia giữ các việc.
Số dự thi đến hơn 2.000 sĩ tử, lựa chọn hạng xuất sắc được 17 người.
Ngày 5 tháng Sáu năm Nhâm Thìn (8-7-1712) Hoàng thượng đích thân xét thi, định thứ tự cao thấp. Ban cho một người là Nguyễn Duy Đôn đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Từ Bá Cơ 16 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Sân rồng xướng tên, Bảng Vàng vinh yết. Ban áo xanh, mũ, đai để được đẹp thân, cho dự yến Quỳnh hoa bạc để tỏ ý hậu đãi. Ơn vinh đãi ngộ đủ sáng tỏ thịnh ý tôn Nho, khắc đá đề danh lại càng muốn nêu cao quy chế tốt đẹp của các triều trước.
Dương Lệ, người Lạc Đạo – Gia Lâm (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), cháu đời xa của Dương Phúc Tư, làm quan đến Tả thị lang bộ Công, khi mất được tặng Thượng thư, tước Hầu.
Nguồn: V2, tr.419-424; L5, tập1, tr.205-207; Đ6, tr.62.
NĂM 1714 (GIÁP NGỌ)
488. Vợ chồng Giám sinh Dương Xuân Hòa – Dương Thị Chân công đức xây dựng Thiên đài thạch trụ tại chùa Phúc Duyên
Tạo tác/ Thiên đài/ Thạch trụ tạo năm Vĩnh Thịnh 10, dựng tại chùa Phúc Duyên, thôn Hóa Long, xã Ngọc Sơn, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Điềm Thụy, Phú Bình – Thái Nguyên), ghi họ và tên những người có công đức trong việc xây dựng Thiên đài thạch trụ trong và ngoài chùa thôn Hóa Long xã Ngọc Sơn huyện Tư Nông tỉnh Thái Nguyên như: Quốc tử Giám Giám sinh Dương Xuân Hòa tự Huyền Tiên hiệu Minh Phúc và vợ bà Dương Thị Chân hiệu Từ Tôn công đức tiền 1 quan 2 mạch, v.v…
Nguồn: T12, tập 11, N010483-85.
NĂM 1715 (ẤT MÙI)
Ngày 12 tháng 7 (12 tháng Sáu – Ất Mùi)
489. Dương Bật Trạc thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Đầu xuân năm Ất Mùi, bộ Lễ chiếu theo điển lệ mở khoa thi Hội cho các cống sĩ trong nước. Bèn sai Trung quân Đô đốc phủ Đô đốc Trạc Quận công Trịnh Thực làm Đề điệu, Bồi tụng Binh bộ Thượng thư Thọ Lâm bá Nguyễn Đăng Liên làm Tri Cống cử, Bồi tụng Lễ bộ Hữu Thị lang Phạm Công Trạch, Bồi tụng Hình bộ Hữu Thị lang Nguyễn Đương Hồ làm Giám thí cùng trăm quan hữu ti chia giữ các việc.
Ngày mồng 10 tháng Ba (năm Ất Mùi, tức 13-4-1715) vào trường nhất. Bấy giờ số dự thi đông đến hơn 2.500 người. Vào đến trường bốn, chọn hạng xuất sắc được 20 người. Hữu ty ghi tên dâng lên. Bèn cho lính đưa voi tới cửa trường chở bảng mực nhạt ra treo ở đình Quảng Vân ngoài cửa Đại Hưng. Sĩ tử bốn phương kéo đến xem như mây tụ, tiếng hò reo như sấm dậy đất bằng, đều ngợi khen khoa thi Tiến sĩ này lại được nhiều người giỏi.
Qua ngày 11 tháng Sáu (năm Ất Mùi, tức 11-7-1715) vào Điện thi. Hoàng thượng đích thân ra đề thi văn sách, hỏi về điều cốt yếu của đạo trị nước.
Ngày hôm sau, quan Độc quyển nâng quyển đọc, Hoàng thượng xếp định thứ bậc cao thấp. Ban cho Bùi Sĩ Tiêm, Nguyễn Quý Ân 2 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; bọn Phùng Bá Kỳ 18 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Loa xướng tên người đỗ, bộ Lễ rước Bảng Vàng ra treo ngoài cửa nhà Quốc học. Kế đó lại ban áo mũ phẩm phục để được vinh hiển, ban yến Quỳnh hoa bạc để tỏ lòng sủng ái, ơn lớn đãi ngộ xem chừng chẳng khác gì thời trước.
Dương Bật Trạc, người xã Cổ Lễ, tổng Trung Lao, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam (nay là thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh – Nam Định), trước mang họ Đào dòng dõi Đào Sư Tích, đến đời ông đổi lại họ Dương gốc cũ.
Nguồn: V2, tr.425-429; L5, tập 1, tr.220-223; Đ6, tr.66.
NĂM 1716 (BÍNH THÂN)
Trong năm
490. Tiến sĩ Dương Lệ soạn văn bia cho Từ đường họ Lê
Hoàng triều Giám sát Lê tiên sinh mộ chí minh tạo năm Vĩnh Thịnh 12 dựng tại từ đường họ Lê thuộc thôn Văn, xã Liêu Xá, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã cùng tên, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi về thân thế sự nghiệp của quan Giám sát Lê tiên sinh. Ông họ Lê húy là Hữu Hỷ người xã Liêu Xá huyện Đường Hào. Cha ông húy là Hữu Danh tự Xuân Am đỗ Hoàng giáp khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670). Mẹ họ Dương người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), từng giữ các chức Giám sát Ngự sử đạo Tuyên Quang. Năm Giáp Thân phụng sai Đốc đồng sứ Sơn Tây. Năm Bính Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706) bị cảm mạo đã từ nhiệm về kinh và mất ngày 5 tháng 10 tại quan xá ở Kinh thành.
Nguồn: T12, tập 11, N010788-91.
491. Dương Tiến Lộc giao lại Từ đường, tiền của cho con cháu
Huệ ái chi bi tạo năm Vĩnh Thịnh 12, đặt tại chùa xã Phụng Pháp, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tân Mỹ – thành phố Bắc Giang) thì vào năm đó, quan viên thôn Khang Cù, xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang là Sinh đồ Hoàng Đình Bách, Sinh đồ Hoàng Danh Bích, Sinh đồ Hoàng Tiến Dưỡng lập bia ghi việc: ông Dương Tiến Lộc thôn Thượng xã Mỹ Cầu xuất ruộng và tiền, thổ trạch, 3 gian Từ đường giao cho các cháu ở thôn Khang Cù trông nom và cầy cấy, sau khi ông trăm tuổi, các cháu sẽ cúng giỗ ông tại Từ đường.
Nguồn: Đ12, tr.765.
492. Nhiều người họ Dương công đức tu tạo chùa Phúc Duyên
Văn bia không có tiêu đề thứ nhất dựng tại nhà chùa thuộc xã Ngọc Sơn, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Điềm Thụy, Phú Bình – Thái Nguyên) cho biết chùa trải lâu ngày đã bị đổ nát. Các thiện nam, tín nữ đã cúng tiền, ruộng, gỗ để trùng tu chùa. Nay việc xong dựng bia ghi họ và tên những người có công đức trong việc tu sửa chùa, như: Thượng sĩ Đỗ Khoa và vợ là Dương Thị Chinh cúng 1 quan, vợ chồng Hương lão Dương Khắc Xuân cúng 1 cây cột, v.v…
Văn bia không có tiêu đề thứ hai cũng dựng tại chùa trên ghi rằng thôn Làng Lộng thuộc xã Nhã Lộng, cùng tổng huyện của trấn Thái Nguyên, được Hương lão Phủ sinh kiêm Trùm trưởng Dương Duy Trình và vợ bà Ngô Thị Khê cúng 1 cột đá, Hương lão Dương Khắc Thiệu và vợ cúng 1 cột đá, v.v…
Văn bia không có tiêu đề thứ ba, dựng cùng địa điểm cho biết, chùa chưa có cột hương, các Thiện sĩ Dương Xuân Huyên, Dương Quang Toàn đã hưng công làm cây cột đá cho chùa. Và ghi thêm họ và tên những người cùng đóng góp tiền của vào việc xây dựng cột hương chùa.
Nguồn: T12, tập 11, N010472-91, 10473-78, 10479-80.
NĂM 1717 (ĐINH DẬU)
Ngày 12 tháng 4 (2 tháng Ba – Đinh Dậu)
493. Dương Bật Trạc được giao soạn thảo văn bia Đề danh Tiến sĩ dựng tại Văn miếu
Sử cũ ghi: “Mồng 2, tháng Ba (năm Đinh Dậu) tấm bia Đề danh các Tiến sĩ đỗ khoa Bính Tuất (1706), niên hiệu Vĩnh Thịnh, đã làm xong, đem dựng ở nhà Quốc học. Bài văn bia này là do Hàn lâm Hiệu thảo Dương Bật Trạc vâng mạng đứng soạn; Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu phó, Liêm Quận công Nguyễn Quý Đức vâng mạng nhuận sắc”.
Đúng ra, ngày hôm đó, hoàn thành việc khắc hai bài văn bia Đề danh Tiến sĩ dựng tại Văn miếu do Dương Bật Trạc nhuận sắc dưới đây:
– Chính Hòa thập nhị niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Tân Mùi năm Chính Hòa 12-1691) nhấn mạnh:
“Khoa mục là cách của quốc gia kén chọn kẻ sĩ, mà khoa Tiến sĩ là quan trọng nhất. Từng khảo cứu thấy tên Tiến sĩ bắt đầu có từ đời Thành Chu, mà khoa thi Tiến sĩ thì bắt đầu mở ra từ đời Tùy, thịnh hành ở đời Đường, Tống. Ơn thưởng đãi ngộ, nghi lễ đủ đầy, thực là vẻ vang hết mức cho hạng khoa giáp. Nhưng để tỏ ý khích lệ ngợi khen, cả lễ văn đều chu đáo thì còn việc khắc bia, truyền lại tiếng thơm cho muôn đời thì quả thật chưa từng thấy vậy.
Kính nghĩ: Quốc triều ta như ngọc sáng giữa ban trưa, được mệnh trời ban ngọc lịch, mở nghiệp lớn giữ gìn thành pháp, kế thừa mưu lược hiển hách của liệt thánh, lấy đức nhân hậu mà vun đắp mệnh mạch quốc gia, lấy học thuật Nho giầm tô điểm nền thái bình. Nuôi dưỡng tác thành nhân tài, kiếm tìm hiền sĩ. Sáu năm mở một khoa bắt đầu từ khoa Đại Bảo (1442) mà việc kén chọn hiền tài có phép cách. Ba năm một khoa thì bắt đầu từ đời Quang Thuận mà nhân tài theo gió đến thêm đông. Đến đời Hồng Đức cho tạc đá khắc bia trước nhà Quốc học, cả nghi thức và lễ văn thật là đầy đủ. Rạng rỡ tinh hoa văn trị, chấn tác chí khí học trò, bồi đắp phong hóa ức muôn năm, còn gì có thể hơn thế nữa!
Từ đời Trung hưng về sau, gói buộc việc võ, mở rộng việc văn, kế thừa quy tắc chế độ cũ, khoa mục công cụ kén chọn hiền tài càng được khuếch trương, lệ khắc đá đề danh càng thêm đầy đủ, quy mô to lớn càng được lưu truyền đến vô cùng.
Nay thánh đế thánh vương tương ngộ, chăm lo trị nước, quý trọng Nho gia, tô điểm nhân văn, chạnh nhớ công lao của bề tôi đời trước, muốn nêu tên họ để biểu dương, bèn sai khắc bia những khoa còn thiếu để rạng tỏ sự tốt đẹp của đời, khuyến khích lớp hậu học hăng hái vươn lên, thật là một sự kiện rất trọng đại.
Từ chỗ hàn vi đạt tới vinh hạnh này, kẻ sĩ phải nên báo đáp thế nào? Hoặc lặng lẽ mà dâng mưu hay như ngọc báu, hoặc khảng khái bày tỏ tâm can; theo hầu trong cung phải giúp đức cho vua, giúp ơn cho dân; trấn nhậm một phương phải làm bình phong phên dậu. Người giữ chức cao phải đem khả năng bàn nói để hết chức phận can gián của mình, ngõ hầu trên không phụ ơn vua, dưới không thẹn với hàng khoa mục mà công danh sự nghiệp đời đời không mất vậy.
Nếu không được thế thì ngọc xước khó mài, vết nhơ không giấu, người đời sau chỉ trích chê cười, há chẳng nên thận trọng sao? Như thế thì bia đá này dựng lên không phải để xem cho đẹp, phô trương thịnh sự mà thôi, mà còn bồi đắp thế đạo đến vô cùng, công dụng há phải nhỏ đâu!”.
– Vĩnh Thịnh nhị niên Bính Tuất khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Bính Tuất năm Vĩnh Thịnh 2 – 1706) có đoạn:
“Ngày nay, Hoàng thượng trùng quang Thái học, lớn nối sự tốt đẹp của Tiên vương, công trị hóa rực rỡ, thịnh ý tôn thánh đạo trọng Nho khoa lại càng rất đặc biệt. Bèn tuân theo lệ cũ sai khắc họ tên các Tiến sĩ lên bia đá dựng ở cửa nhà Thái học, khiến cho việc cũ hơn sáu mươi năm gần đây chưa làm thì đến nay một sớm trở nên hết sức đầy đủ, ý khích lệ khen thưởng thật càng sâu sắc tha thiết.
Nay lấy khoa thi này mà nói: những người có tên trong bảng rồng hổ đều là các nhân tài. Có vị giỏi chính thuật được ủy trông coi chính sự một phương, có vị giàu đảm lược ra giúp trấn giữ nơi phên dậu. Có người tham gia dự bàn mưu lược ở miếu đường, có người giữ việc binh nhung, đều là những chức vị tôn quý mà nặng nề. Vậy thì việc báo đáp phải nên thế nào? Ắt phải gắng rèn mài liêm cần, trau dồi tiết hạnh, cứng rắn như vàng ngọc, chân chất trong sáng như ngọc vàng, làm việc thì phải đồng tâm hiệp lực, thờ vua thì giữ gìn chính đạo, vững như cột đá sừng sững giữa dòng, khác nào Vương Tăng nét mặt trang nghiêm đứng giữa triều đình; lo cho nước nhà yên vững tựa Thái Sơn thì phải được như Hàn Kỳ đức vọng hơn đời, giúp cho vua được như Nghiêu Thuấn, làm cho thế đại được ngang với đời Đường Ngu. Được như thế thì trên không phụ với danh tiếng được triều đình nghe biết, dưới không phụ những điều sở học lúc bình sinh, thế thì sự nghiệp công danh sẽ cùng tấm bia này lưu lại tiếng khen đến vô cùng vậy. Thảng hoặc ngoài vuông trong tròn, trước trinh chính sau hoen ố, danh thực không xứng nhau, lời nói việc làm trái ngược, tức là làm cho bia đá này bị tì vết, công luận nghiêm xét há chẳng đáng sợ sao?
Nguồn: L5, tập 1, tr.238; V2, tr.380-383; 407-411.
494. Nhiều nhà khoa bảng họ Dương được vinh danh trên bia Đề danh Tiến sĩ.
– Dương Công Độ được vinh danh tại Chính Hòa tứ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ Đề danh ký, do Cẩn sự tá lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Nguyễn Kiều soạn, nhấn mạnh trời sinh bậc hiền tài là muốn để dùng cho đời bậc nhân quân trị nước điều cốt yếu cần rộng chọn hiền tài. Bởi vì hiền tài là khí dụng của quốc gia, khí dụng đủ thì điều khiển giao phó chẳng việc gì không được, chính sự không việc gì không làm nổi, mà cơ đồ không thể không vững chắc, thế đạo không thể không thịnh sáng vậy. Cho nên đời xưa trị nước, không gì gấp bằng cầu tìm hiền tài để tin giao công việc.
– Nguyễn Quang Luân được vinh danh Chính Hòa nhị thập tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ Đề danh ký do Cẩn lang sự Hàn lâm viện Hiệu thảo Thị nội Thư tả soạn, khẳng định một cách chắc chắn và rõ ràng về lợi ích của đạo học vì trị nước không gì gấp hơn việc cầu hiền, chọn kẻ sĩ ắt phải do đường khoa mục. Đặt ra khoa mọc vốn đã có từ xưa. Nhớ lại nước Việt ta từ triều Lý, Trần đã bắt đầu lựa chọn những người thông hiểu kinh sách vào hầu vua, vời người có văn học để bổ nhiệm. Đến năm Thiệu Bình thứ 13 mới bắt đầu đặt khoa Tiến sĩ, năm Kiến Trung thứ 8 (1232) mới định ra cấp bậc tam giáp. Nhưng định lệ nhất quán, quy cách chặt chẽ thì phải đến năm Long Hưng thứ 12 về sau mới thật đầy đủ. Thời bấy giờ hiền tài xuất thân từ khoa mục rất nhiều. Có người giúp mưu lược trị nước phò vua, có người đủ tài trừ gian dẹp loạn, giúp nên trị công to lớn, rộng mở cảnh tượng hưng thịnh thái bình. Hiệu quả của khoa mục lựa chọn nhân tài, công lao ích nước lợi dân của nho sĩ thực rất rõ ràng. Dùng khoa mục để chọn nhân tài như thế, há chẳng tốt đẹp hay sao?
– Dương Lệ được vinh danh trong Vĩnh Thịnh bát niên Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh ký vẫn do Cẩn sự tá lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Nguyễn Kiều soạn, trong đó hết sức lưu tâm đến trọng trách của kẻ được tôn sùng, ghi nhận vì kẻ sĩ sinh ở đời, may mắn được đăng tên lên tấm đá này há chẳng vinh hạnh lắm sao? Cho nên phải nên noi theo chính đạo để giữ chính thân tâm, suy cứu học thuật để kinh bang tế thế, để nước nhà có chỗ dựa cậy như nhà Chu có cây cột vững, càng có nhiều hiền tài, nước nhà càng yên vững, như dân đất Bái đất Thương nhuần thấm mưa rào, khiến cho thiên hạ đời sau nhón chân ngưỡng mộ tiếng tăm rực rệt của mình, làm vẻ vang cho hàng ngũ nhân tài, ngõ hầu trên không phụ ơn triều đình khen thưởng, dưới không phụ hoài bão phò vua giúp dân, như thế thì những dòng khắc ghi trên bia đá này chẳng bao giờ mờ mòn. Thảng hoặc có kẻ đạo đức quanh co, co kéo cho bản thân mình, cái người ta thấy không giống như cái người ta nghe, việc làm trái với sở học, thì chẳng những hổ thẹn với mũ áo của người làm quan mà cũng không khỏi bị người đời sau chê cười, người ta sẽ chỉ vào chữ khắc họ tên mà coi như vết nhơ trên bia đá.
Đủ biết bia đá này dựng lên có quan hệ đến thế nào, có tác dụng rèn giũa nhân tâm, ngụ ý khuyên răn thưởng phạt, cổ vũ sĩ khí, theo câu ca đẽo ngọc mài vàng; bồi đắp mệnh mạch tư văn lâu dài như trời đất, giữ cơ đồ đất nước vững yên như Thái Sơn bàn thạch, há chẳng phải là nguồn gốc đoan chính công dụng lớn lao hay sao? Những ai xem đọc bia này nên hiểu ngụ ý sâu xa đó.
– Dương Bật Trạc được vinh danh trong Vĩnh Thịnh thập nhất niên Ất Mùi khoa Tiến sĩ Đề danh ký do Cẩn sự lang Hàn lâm viện Hiệu lý Bùi Sĩ Tiêm soạn cùng vẫn nhắc nhở tất cả kẻ sĩ rằng, phải giữ mình trong sạch liên chính, giữ lòng trong trắng, lấy chính trực trung hậu mà đứng giữa triều đình, lấy đạo đức nhân nghĩa mà giúp chủ, khiến cho thanh danh lừng lẫy, sự nghiệp lỗi lạc, thì người đời sau sẽ chỉ tên mà khen ngợi. Thảng hoặc có người tâm đổi chí dời, lời nói việc làm trái ngược, chỉ nghĩ đến tiền tài quan tước, chỉ mưu đồ toan tính được mất, bên ngoài thì tỏ ra khí khái cương trực mà bên trong thì hèn nhát dua đời, việc làm trái với sở học, mà khi thành đạt thì xa lìa chính đạo, khiến cho danh tiết nhơ bẩn, xú uế sĩ phong. Như thế thì người đời sẽ chỉ tên mà chê cười, công luận nghiêm buốt, ngàn năm sáng rệt, há chẳng đáng thận trọng sao? Ôi! Quy chế khắc bia đặt ra đâu phải chỉ để người đương thời trông vào cho đẹp mắt, mà chính là để gửi gắm khuyên răn đối với hậu thế, sự hữu ích của nó đối với phong hóa thế đạo há phải là nhỏ đâu! Phàm những ai xem bia đều nên hiểu rõ ý nghĩa sâu xa đó.
Nguồn: V2, tr.361-427.
Tháng 7 (tháng Sáu – Đinh Dậu)
495. Hiệu sinh họ Dương soạn văn bia Thạch phụng tự bi
Bia được dựng tại giáp Quy Mỹ, xã Mỹ Phúc, tổng Đào Quán, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Đào Mỹ, Lạng Giang – Bắc Giang) ghi lại rằng:
Bà Mạc Thị Ít là người trong làng đã xuất giá lấy chồng tại thôn Tạ xã Phụng Công huyện Yên Dũng. Nay bà cùng với con trai về quê mua 3 thửa ruộng góp cho làng. Quan viên, dân làng tôn bầu cha mẹ bà làm Hậu. Số ruộng này giao cho bản giáp cày cấy để thờ cúng cha mẹ bà. Ghi ngày giỗ của người được bầu Hậu và nghi lễ cúng tế Hậu hàng năm.
Nguồn: T12, tập 7, N06088; tập 12, N011080.
NĂM 1718 (MẬU TUẤT)
Tháng 7 (tháng Sáu – Mậu Tuất)
496. Dương Quán thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Mùa xuân (Lịch triều tạp kỷ: tháng Giêng; Đại Việt sử ký tiền biên: tháng Hai) – Mậu Tuất triều đình tổ chức khoa thi Hội cho các Cống sĩ trong nước. Sai Tá lý công thần Tiền hòa quân doanh Tây quân Đô đốc phủ Thự Phủ sự Thiếu phó Ứng Quận công Đặng Đình Tướng làm Đề điệu; Bồi tụng Ngự sử đài Đô Ngự sử Nhập thị Kinh diên thự Trung thư giám Cẩm Thượng nam Trương Công Giai làm Tri Cống cử, Bồi tụng Hộ bộ Tả Thị lang Tuần Thành nam Lê Anh Tuấn cùng Bồi tụng Lại bộ Hữu Thị lang Kế Vũ nam Nguyễn Mậu Áng làm Giám thí, cùng các quan hữu ty chia giữ các việc.
Bấy giờ sĩ tử dự thi hơn 3.000 người lựa chọn hạng xuất sắc được 17 người. Ngày tháng Sáu năm Mậu Tuất (7-1718) vào Điện thí, ban cho Vũ Công Tể đỗ Tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Tuyền, Ninh Địch đỗ Tiến sĩ xuất thân, Lê Hữu Kiều 14 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Gọi loa xướng tên người thi đỗ. Quan Bộ Lễ rước Bảng Vàng ra treo ngoài cửa nhà Thái học. Sau đó ban áo mũ cân đai, cho dự yến Quỳnh hoa bạc, cho dựng nhà ở để được vẻ vang về làng. Lại theo lệ được ban chức tước, mưa móc như từ trời cao ban xuống, ơn nhuần rất mực long trọng. Việc khắc đá đề danh thì đã có lệ cũ.
Dương Quán – cháu đời xa của Dương Phúc Tư, tằng tôn của Dương Thuần, em họ Dương Lệ, làm quan đến chức Giám sát.
Nguồn: V2, tr.431-436; L5, tập 1, tr.271, 280-282; Đ6, tr.69-70.
Tháng 12 (tháng Một – Mậu Tuất)
497. Ông Dương Tiến Lộc được bầu Hậu thần làng Mỹ Cầu
Mỹ Cầu xã đình bi tạo năm Vĩnh Thịnh 14 dựng tại đình Mỹ Cầu, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là xã Mỹ Cầu – thành phố Bắc Giang) ghi nhận việc Quan viên, Hương lão hai giáp Đông và Bắc thuộc thôn Thượng xã Mỹ Cầu cùng nhau lập bia đá ghi lại sự việc sau:
Ông Dương Tiến Lộc là người đức hạnh, tử tế với mọi người. Gặp năm mất mùa, thuế má nặng nề, dân không có tiền đóng, ông đã cúng 400 quan sử tiền và 1 thửa ruộng sản lượng 100 gánh, lại 1 thửa ruộng mạ để chi phí. Do đó, toàn dân thuận tình bầu ông bà cha mẹ và vợ chồng ông làm Hậu thần, quanh năm hương hỏa.
Nguồn: T12, tập 9, N08257-60.
NĂM 1719 (KỶ HỢI)
Ngày 5 tháng 3 (15 tháng Giêng – Kỷ Hợi)
498. Sinh đồ Dương Đăng Quỹ viết chữ để khắc bia dựng tại chùa Vĩnh Phúc
Vĩnh Trung giáp tính danh ký/ Vĩnh Tây giáp/ An Vĩnh giáp tính danh ký do Sinh đồ Nguyễn Danh Giáo soạn văn bia; Dương Đăng Quý, người xã Ỷ La, tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây viết chữ vào ngày Vọng, tháng Mạnh xuân năm Vĩnh Thịnh 15. Bia dựng tại chùa Vĩnh Phúc, xã Quế Dương, tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay là xã Cát Quế, Hoài Đức – Hà Nội) ghi rằng:
Ba giáp An Vĩnh, Vĩnh Trung và Vĩnh Tây của xã Quế Dương đóng góp tiền của mua gỗ lim, ngói làm gác chuông, tam quan, điện thiêu hương và nhà trước sau cho chùa Vĩnh Phúc. Ghi tên các vị đóng góp, chia theo từng giáp, trong đó có các cung tần, xã trưởng, hương lão.
Nguồn: T12, tập 2, N01261-64.
Tháng 3 (tháng Hai – Kỷ Hợi)
499. Giám sinh Dương Bỉnh Khu soạn văn bia ghi việc vợ chồng Tín sĩ Dương Nghi cung tiến xây quán đá cho chợ Yên Sơn
Giám sinh là người bản xã soạn Tạo lập/ Thạch quán/ Bi ký vào năm Vĩnh Thịnh 15. Bia được dựng tại đình xã Yên Sơn, tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Yên Sơn, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi lại việc: Tín sĩ Dương Nghi tự là Pháp Trị và vợ Nguyễn Thị Ba hiệu là Diệu Bản người bản thôn cúng cho thôn 20 quan tiền. Sĩ phủ Nguyễn Văn Chiếu người thôn Tỉnh Cách xã Lãng Ngâm huyện Gia Định phủ Thuận An và vợ Đỗ Thị Tự hiệu là Diệu Tân công đức cho thôn 20 quan. cùng các thiện nam tín nữ góp tiền của tạo dựng hai ngôi quán 6 gian cho chợ làng. Nay dựng bia ghi lại làm kỉ niệm.
Nguồn: T12, tập 9, N08053-56.
Trong năm
500. Sinh đồ Dương Khuê tham gia cùng các văn thuộc, quan viên bầu Hậu thánh làng Quang Biểu
Hậu thánh bi ký tạo năm Vĩnh Thịnh 15, dựng tại đình bản xã thuộc tổng cùng tên, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Quang Châu, Việt Yên – Bắc Giang), ghi rằng, Cai quan Tri thị nội Thư tả Lại phiên, Tri công tượng Tiền tượng cơ Phó cai quan Thị nội giám, Ty lễ giám, Tổng thái giám Thự vệ sự Quán Quận công Nguyễn tôn công húy Ôn Hậu là người có công với xã dân nên được các văn thuộc, xã quan họp lại bầu làm Hậu thánh.
Nguồn: Đ12, tr.605-606.
501. Nêu gương đức độ dòng họ Dương làng Hạ Lôi
Lưu truyền bi ký tạo năm Vĩnh Thịnh 15, dựng tại đình xã Hạ Lôi, tổng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Mê Linh, Yên Lãng – Vĩnh Phúc) ghi rằng:
Họ Dương ở xã Hạ Lôi là dòng họ lớn, tổ tông sống đức độ, sinh ra Dương Hữu Sủng, lúc nhỏ nghèo khổ sau làm quan đến Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Ty lễ giám Hữu Đề điểm, tước Bàn Thái hầu. Cha mẹ mất, anh em sống hòa thuận, đùm bọc lẫn nhau. Nay ghi lại việc này để con cháu biết được công đức của tổ tiên và không quên việc cúng giỗ.
Nguồn: T12, tập 11, N010078.
NĂM 1720 (CANH TÝ)
Trong năm
502.
Nhiều gia đình họ Dương công đức tu tạo chùa Trù Chúng
Theo lời văn trên cột đá tạo năm Bảo Thái – Canh Tý để tại chùa Trù Chúng, còn gọi là Bến Chuông, tổng Hà Châu, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Tân Chung, xã Đồng Tân, Hiệp Hòa – Bắc Giang) thì vào năm ấy, Quan viên, Hương lão 3 xã Bến Chuông, Mai Sơn, Kha Nhi thuộc 2 huyện Hiệp Hòa và Tư Nông của 2 phủ Bắc Hà và Phú Bình, thuộc Kinh Bắc, Thái Nguyên nhận thấy rằng nguyên chùa Trù Chúng, tiền triều là một cổ tích danh lam, hiện bị đổ nát, nay sửa chữa dùng gỗ tốt và cột đá cho được vững chắc, đã được các vị kê tên sau đây tiến cúng: Người thôn Ngọ Đông, xã Kha Nhi Dương Tiến Đức, vợ Ngô Thị Tiểu, Dương Thị Cảnh; Dương Tiến Tượng, vợ Nguyễn Thị Thái; Lê Văn Quang, vợ Dương Thị Hiển cúng 1 cột đá 1 cột gỗ. Người thôn Ngô Xá, xã Mai Sơn Ngô Thị Thân, hiệu Điệu Hạnh cúng 1 cột đá 1 cột gỗ.
Nguồn: Đ12, tr.412.
NĂM 1722 (TÂN SỬU – NHÂM DẦN)
Ngày 4 tháng 1 (17 tháng Một – Tân Sửu)
503. Dương Quán được ghi danh trong bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu
Đó là Vĩnh Thịnh thập tứ niên Mậu Tuất khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Tuất năm Vĩnh Thịnh 14 – 1718) do Mậu lâm lang Bồi tụng Hàn lâm viện Thị thư Vũ Công Tể soạn; Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Bồi tụng Đông các Đại học sĩ Trù Phúc hầu Đinh Phụ Ích nhuận sắc, nhấn mạnh:
“Tìm trong khoa mục là con đường bằng phẳng để lựa chọn nhân tài, mà gây dựng tiếng tăm thì cần nhất là ở lệ thường khuyến khích sĩ tử. Vái xem từ đời thánh triều lập quốc tới nay thường lấy khoa cử để khích lệ nho phong, mở mang văn trị. Ngước thấy ngày nay, thể chế quy tắc chặt chẽ, muốn có quả dưa to cũng phải lựa cả dây leo bìm bìm. Nhưng phép xét tuyển rất tinh, ơn đãi ngộ rất hậu, mà việc tạc đá khắc bia thì cốt nhất là để cho thanh danh lưu truyền mãi mãi. Kẻ sĩ được đăng tên vào tấm đá này thật là vinh hạnh biết bao! Vậy phải giữ tiết tháo cứng cỏi, giữ tâm chất thực chắc chắn, lấy chính trực trung hậu mà đứng giữa triều đình, lấy đạo đức nhân nghĩa mà giúp chúa, chẳng gỉ chẳng mòn, sừng sững như cột trụ ở miếu đường, làm nền tảng, làm ánh sáng, giữ yên xã tắc, công lao sự nghiệp không chỉ rạng rỡ ở đương thời mà phúc lộc còn truyền mãi muôn đời. Thế thì danh tiếng ấy cùng bia đá này sẽ lưu truyền hương thơm đến vô cùng vậy. Thảng hoặc có ai đó hành vi và lương tâm trái nhau, danh thực trái ngược, thì ngọc khuê có vết khó mài, tiếng nhơ khó giấu, công luận nghiêm xét, nghìn năm không quên, há chẳng nên cẩn thận ư?”.
Nguồn: V2, tr.431-441.
Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Dần)
504. Ông Dương Đắc Vi hưng công hội chủ cột hương đá chùa Thanh Trù
Thanh Trù tư ký/ Hưng công cấu tác/ Đồng tự công đức/ Công đức tạo năm Bảo Thái 3, dựng tại chùa xã Bắc Kế, tổng Thiện Kế, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Bá Hiến, Bình Xuyên – Thái Nguyên) ghi nhận:
Tháng Một năm Nhâm Dần (1722) các vị hưng công hội chủ ở xã Bắc Kế cùng nhau thiện tín thập phương đã đóng góp tiền của tạo dựng cột hương bằng đá ở chùa Thanh Trù. Ghi họ và tên các hưng công hội chủ các thiện nam tín nữ đã công đức tiến cúng tiền bạc để xây dựng cột hương cho chùa, như: ông Dương Đắc Vị, xã chính Tạ Thế Tuân, ông Tạ Văn Vĩ, v.v…
Nguồn: T12, tập 16, N015306-11; N5, tr.132.
NĂM 1723 (NHÂM THÌN – QUÝ MÃO)
Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Thìn)
505. Vợ chồng bà Dương Thị Điền được bầu làm Hậu phật xã Phương Lan
Bia không có tiêu đề, tạo tháng Quý đông – Nhâm Thìn, dựng tại chùa Trí Quả xã Phương Lan (Phương Quan), tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) cho biết: Quan viên, Hương lão thôn Thượng xã Phương Lan vì có việc kiện tụng với xã Văn Lan nên hao tổn khá nhiều tiền, đã theo lệ hương âm để thu nhưng chưa đủ. Vì thế bầu Hậu phật cho vợ chồng Phạm Văn Toàn, Dương Thị Điền để họ nộp cho thôn 150 quan cổ tiền và l mẫu ruộng. Các giáp thay phiên nhau cày cấy thu hoa lợi để cúng giỗ Hậu. Ghi quy định cúng giỗ.
Nguồn: T12, tập 4, N03605-07
Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Mão)
506. Dương Danh Giám viết chữ cho bia chùa Nam Xương
Nam Xương xã tự bi do Sinh đồ Nguyễn Thanh soạn, tạo năm Bảo Thái 4, dựng tại chùa Huyền Khuê, xã Nam Xương, tổng Thọ Xương, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc phường Thọ Xương – thành phố Bắc Giang) ghi tên họ và số tiền các Tín thí cung tiến dựng cây Thiên đài.
Nguồn: T12, tập 9, N08253 – 56.
Tháng 3 (tháng Hai – Quý Mão)
507. Vợ chồng ông Dương Khuông Liên được bầu làm Hậu thần thôn Văn Giàng
Tạo Hậu thần bi/ Bản thôn cứ y/ Vạn cổ bất di tạo năm Bảo Thái 4, dựng tại đình thôn Văn Giàng – còn gọi là Chản Sông, xã Vu Gián, tổng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tân Tiến – thành phố Bắc Giang) cho biết vợ chồng Dương Khuông Liên là người có lòng nhân hậu, hay cứu giúp người nghèo khó, nay cúng tiền, ruộng cho dân để chi dùng vào việc công. Do đó, quan viên, hương lão cùng toàn dân bầu ông bà làm Hậu Thần quanh năm hương hoả.
Hàng năm, đến ngày giỗ, dân thôn sửa cỗ cúng tế theo nghi lễ. Các tiết xuân thu, dân thôn phụng sự thần thì ông bà đều được phối hưởng…
Nguồn: T12, tập 9, N08164-66.
Trong năm
508. Vợ chồng Giám sinh Dương Chiêu Tuấn cung tiến vào chùa Phúc Linh
Phúc Linh tự tạo năm Bảo Thái 4 dựng tại chùa thôn Hộ Lệnh xã Triều Dương, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Nhã Lộng, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi rằng, do được làm bằng gỗ, nhưng sợ không kiên cố, một số hội chủ góp tiền xây 1 tòa điện đá. Nay công việc hoàn thành, ghi công đức những người đóng góp công của như: Giám sinh Dương Chiêu Tuấn và vợ là Nguyễn Thị Dĩnh cúng 1 cột đá v.v…
Nguồn: T12, tập 11, N010468-71.
509. Vợ chồng Hương lão Dương lệnh công trợ phí sửa đình xã Cổ Dũng
Hậu thần bi kí dựng tại chùa thôn Trại Núi, xã Cổ Dũng, tổng Cổ Dũng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tiến Dũng, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi rằng: Dương lệnh công tự Phúc Du, chính thất Dương thị hiệu Diệu Xuân, tính trời ngay thẳng, tâm địa hiền từ, vào năm quý Mão (1723) bản thôn gặp việc tranh chiếm địa giới, dẫn đến việc chi phí nhiều tiền. Bản thôn đến nhà xin bà cấp tiền trợ phí. Bà đã cấp 100 quan tiển và trên một mẫu ruộng, giúp cho việc ấy. Bởi vậy, bản thôn bầu ông bà làm Hậu Thần. Ông bà lại cấp 30 quan cổ tiền, 1 mẫu 5 sào ruộng, 1 cái ao, 1 cái nồi đồng 20 tuổi để dân dùng vào việc cúng giỗ.
Nguồn: Đ12, tr.776.
560. Bà Dương Thị Tôn xuất tiền, ruộng sửa chữa đình vũ Cổ Dũng
Hậu thần bi ký dựng tại chùa thôn Thượng, xã Cổ Dũng kể trên ghi rằng, các Hương lão danh cụ Lân, danh cụ Vu, danh cụ Chính, danh cụ Thiêm, danh cụ Bát và nhiều người khác thôn Thượng, xã Cổ Dũng, tổng Cổ Dũng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang lập bia ghi việc: bà Dương Thị Tôn bản thôn, xuất 400 quan tiền và 1 mẫu 1 sào ruộng giúp bản thôn dùng vào việc sửa chữa đình vũ, nên được bầu làm Hậu Thần. Bà còn tiến cúng 1 nồi đồng 30 tuổi, để dùng vào việc cúng tế, vì vậy, bà sống biếu, chết giỗ.
Nguồn: Đ12, tr.776.
561. Nhiều cặp vợ chồng họ Dương hưng công tạo dựng Thiên đài, mua Hậu cho người thân ở Ngọc Cụ
Hội Phúc tự phật pháp tăng hung công thạch trụ bi tạo năm Bảo Thái 4, dựng tại chùa Hội Phúc, xã Ngọc Cụ, tổng Ngọc Cục, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Việt Ngọc, Tân Yên – Bắc Giang) ghi, Hương lão Nguyễn Văn Quế, Trương Văn Khang, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Văn Củ, thôn trưởng Trương Văn Ngạn, Nguyễn Hữu Dụng…, cùng các bậc trên dưới hưng công dựng cây Thiên đài.
Kê tên các hưng công hội chủ: Hà Văn Vĩ, vợ Dương Thị Thiện, con trai Hà Văn Cai gửi Hậu cho hiển khảo tự Phúc Tâm, hiển tỉ hiệu Từ Tính bằng 1 quan tiền cổ. Hội chủ hưng công Ninh Viết Thành, vợ Trương Thị Hiển, thân mẫu Vũ Thị Đường, con trai Ninh Văn Kính gửi Hậu cho hiển khảo tự Phúc Lương, vợ trước của hiển khảo hiệu Từ Tín bằng 2 quan tiền cổ, (và 5 gia đình nữa)…
Tùy duyên Hội chủ: Dương Công Toàn, vợ Dương Thị Dật gửi Hậu cho hiển khảo tự Phúc Lương, hiển tỉ hiệu Từ Quảng 7 quan tiền cổ. Tùy duyên: Ninh Văn Y, vợ Dương Thị Cửu công đức 5 mạch.
Nguồn: Đ12, tr.550.
NĂM 1725 (ẤT TỴ)
Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Tỵ)
562. Vợ chồng Dương Tri Lễ được bầu Hậu thần xã Thạch Lựu
Bia không có tiêu đề, tạo năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lan, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng), ghi việc:
Bản xã thiếu tiền chi dùng vào việc quan dịch, vì thế toàn thể quan viên xã thôn trưởng họp tại đình để chọn bầu cho vợ chồng ông Dương Trí Lễ và 2 vợ làm Hậu thần, Hậu phật. Ông bà đã chi ra 220 quan sử tiền cho xã chi dùng vào việc quan dịch. Có ghi họ và tên, ngày giỗ của các Hậu thần, vị trí các thửa ruộng cúng tiến và qui định cúng tế hàng năm. Ông Dương Trí Lễ lại cúng 2 sào l thước ruộng vào chùa làm ruộng Tam bảo. Số ruộng này giao cho nhà chùa canh tác, ngày rằm mùng 1 thắp hương thờ Phật và ngày 15 tháng 12 làm lễ kính tế Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 12, N011127-29.
Tháng 3 (tháng Hai – Ất Tỵ)
563. Họ Dương công đức cột hương tại chùa xã Đào Quán
Thiên đài bảo châu tạo năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa bản xã, tổng cùng tên, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Đào Mỹ, Lạng Giang – Bắc Giang) cho biết, khi dựng cây hương có tới hơn 200 vị hưng công, hội chủ, thiện nam, tín nữ công đức tiền của – trong đó có các ông bà Dương Duy Minh, Dương Quang Trạch, Dương Kim An, Dương Văn Nhã, Dương Thị Thạch, Dương Hội Yến, Dương Thị Ngoạn, Dương Thị Tuyên, Dương Thị Vinh, Dương Đức Sầm, Dương Luật, Dương Luận, Dương Thị Lai, Dương Thị Đài, Dương Thị Hệ.
Nguồn: T12, tập 12, N011072-75
Tháng 5 (tháng Tư – Ất Tỵ)
564. Xã trưởng Dương Trí Danh soạn Lập đoan bi ký/ Cúng điền
Bia tạo năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi việc:
Bản xã thiếu tiền chi vào việc quan dịch để nộp vào vụ hè. Quan viên hương lão xã Thạch Lựu họp tại đình để bầu ông Đào Hưng Long người bản xã và hai vợ: bà Dương Thị Minh, bà Dương Thị Đài làm Hậu thần. Vợ chồng Đào Hưng Long đã nộp cho xã 200 quan sử tiền và 1 mẫu 5 thước ruộng để xã chi vào việc quan dịch. Ghi các qui định cúng giỗ hàng năm. Ông Đào Hưng Long và 2 bà vợ lại cúng vào chùa 3 sào 5 thước ruộng làm ruộng Tam bảo. Hàng năm vào ngày rằm, mùng 1 và ngày kị nhà chùa đều làm lễ cúng giỗ vợ chồng ông Đào Hưng Long.
Nguồn: T12, tập 12, N011124-25.
Tháng 11 (tháng Mười – Ất Tỵ)
565. Xã trưởng Dương Trí Danh soạn Hậu phật bi ký
Bia tạo tháng Mạnh đông, năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng ghi việc bà Đào Thị Dậu, người bản xã cúng 2 sào làm ruộng hương hỏa, được bầu làm Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 12, N011118-19.
Ngày 24 tháng 2 (21 tháng Một – Ất Tỵ)
566. Nhiều quan viên họ Dương xã Vĩnh Thế bầu Hậu thần cho làng
Hậu thần bi ký dựng tại điếm xóm Nam bản xã, tổng Khương tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) ghi nhận các Đô sự Dương Tuyên Chứng, Tri huyện Dương Liên, Huyện thừa Dương Tông, Đạo phó Dương Tất Hiếu, Thôn trưởng Dương Duy Lơng, Dương Duy Thiện, Dương Đắc Phú, Dương Tuyên, Dương Tuấn, Dương Kiều và đại diện cho 9 giáp Hưng Hiền, Văn Thắng, Xuyên Dương, Kim Sơn (Dương Thế Trị), Phú Cốc, Ngọc Tinh (Dương Thế Trung, Dương Hoằng), Kim Cốc, Văn Hưng, Kim Bảng chứng kiến và bầu Tư Lễ giám, Tả Thiếu giám Nguyễn Đình Hiên được tặng Thái giám Hiên Nghĩa hầu – vốn xưa phụng sự trông coi nơi cung cấm, làm Hậu thần, phụng sự tế tự riêng ở miếu cùng giỗ cha mẹ.
Nguồn: T23, tr.225-231.
NĂM 1726 (ẤT TỴ – BÍNH NGỌ)
Tháng 1 (tháng Chạp – Ất Tỵ)
567. Ông Dương Đặng Khanh cùng vợ, con trai, con gái hưng công xây cột Thiên đài chùa thôn Quan Lạng
Bia không tiêu đề, tạo năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa bản thôn, xã Cao Quang, tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Cao Minh, thành phố PhúcYên – Vĩnh Phúc) ghi lại sự việc trên.
Nguồn: T12, tập 7, N06654 – 55.
Tháng 11 (tháng Mười – Bính Ngọ)
568. Dương Đình Nghi [Nghĩa], Dương Công Tể thi đậu Hương cống
Mùa đông, tháng Mười – Bính Ngọ triều đình tổ chức thi Hương, tăng thêm ngạch lấy đỗ ở trường thi Phụng Thiên. Trước lấy 10 người nay lấy 20 người. Ban thành lệ lâu dài.
Dương Đình Nghi [Nghĩa], người xã Dương Xá, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay là xã Thiệu Dương – thành phố Thanh Hóa; Dương Công Tể người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu, Nghệ An) đều thi đậu.
Nhận thấy rằng, nhiều người thi đậu Hương cống là do có người gà văn, không phải học lực thật, lấy đỗ thì quá lạm. Một số con em nhà thế gia có học vị qua kỳ thi Hương không có thực tài. Do đó, Cảo Quận công Nguyễn Công Cơ đã tâu lên phủ chúa. Tháng Một – Bính Ngọ (12-1726) Trịnh Cương ra lệnh thi lại Cống sĩ các xứ ở lầu Ngũ Long. Kết quả là con của Tham tụng Lê Anh Tuấn, Tắc Quận công Phạm Công Trân, Văn Quận công Đỗ Bá Phẩm, Đổng Quận công Đặng Đình Giản đều bị trượt cả, cộng tất cả những người thi hỏng ở các xứ là 28 người đều đưa xuống đình thần xét hỏi.
Nguồn: Đ6, tr.97-98; L5, tập 2, tr.123-126; N11, tr.498; K6, tr.157.
NĂM 1727 (ĐINH MÙI)
Ngày 19 tháng 10 (2 tháng Chín – Đinh Mùi)
569. Xã chính Dương Trí Danh soạn văn bia chùa An Tất
Bia không có tiêu đề, tạo năm Bảo Thái 8, dựng tại chùa xã Thạch Lựu (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi:
Quan viên, Hương lão, Xã trưởng xã Thạch Lựu cùng họp tại đình bàn về việc: Do bản xã có việc kiện tụng ở phủ, lại thêm quan dịch nặng nề mà không có tiền chi trả. Vì thế toàn xã có lời đoan ước: Nếu ai giúp xã có tiền chi vào việc quan dịch thì được tôn bầu làm Hậu thần, xã sẽ cúng giỗ hàng năm. Bản xã chọn vợ chồng ông Nguyễn Hữu Dư là người bản xã là gia đình nhân từ, thấy xã có khó khăn đã tự xuất ra 120 quan sử tiền để giúp xã. Vợ chồng ông được bầu là Hậu thần, Hậu phật hàng năm vào ngày giỗ làng sẽ làm cỗ bàn đem đến trước bia tại chùa cúng lễ và cho cha mẹ ông Dư được phối hưởng. Có quy định lệ cúng ế hàng năm. Ông Dư lại cúng vào chùa 1 sào 9 thước ruộng giao cho thiền tăng canh tác lấy tiền hương khói vào ngày rằm mùng 1 và cúng Hậu phật vào các ngày kị.
Đến ngày 22 tháng 10 (10 tháng Tám – Đinh Mùi) Xã chính Dương Chí Danh lại hoàn thành văn bia Hậu phật nhị vị cho biết bản xã có việc phải vay tiền, nay đến kỳ nhưng không có để trả. Xã bèn họp tại đình quy định: nếu ai giúp xã có tiền chi vào việc trả nợ thì được tôn làm Hậu thàn. Vợ chồng ông Nguyễn Thiện Năng là người bản xã đã xuất ra 120 quan sử tiền nộp cho xã và cúng 2 sào ruộng cho chùa để trở thành Hậu thần, Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 11, N011135-37, 11141-42.
Ngày 21 tháng 11 (9 tháng Mười – Đinh Mùi)
570. Tổng Thái giám Dương Đức Nhuận mất
Tự sư nghiệp bi ghi rằng Dương Đức Nhuận, sau đổi thành Nguyễn Đức Nhuận, người xã Trung Đạo, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, sau chuyển đến xã Đạo Khê cùng tổng huyện (nay thuộc xã Trung Hưng, Yên Mỹ – Hưng Yên). Phụ thân của ông là Điện thiếu khanh Nho Trung tử, mẫu thân là Nguyễn Thị Diệu Bích. Nhờ tổ tiên đắp nền phúc, đời đời để lại lòng nhân nên năm Đinh Mão (1687) ông được vào Vương phủ, tuy thăng đến Phó tri thị nội Thư tả Hộ phiên, Thị cận thị nội giám Tư lễ giám Tổng thái giám, Chuẩn Nghĩa hầu nhưng ông vẫn sống có nghĩa với làng nước. Nhớ công ông đã cúng cho dân 1 vạn 2 ngàn đồng tiền, 240 thước ruộng, dân xã đã bầu ông làm Phúc Thần, 4 mùa cúng tế.
Nguồn: T12, tập 8, N07299-300.
NĂM 1728 (MẬU THÂN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Thân)
571. Vợ chồng ông Dương Đức Vi được tôn Hậu phật xã Hùng Lãm
Hậu/ Phật/ Bi/ Ký tạo năm Bảo Thái Mậu Thân, dựng tại chùa xã, tổng Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hồng Thái, Việt Yên – Bắc Giang) ghi rằng, ông Dương Đức Vi cùng vợ là Thân Thị Bái người bản xã, đã cúng cho xã100 quan tiền và 1 mẫu ruộng. Quan viên, hương lão, dân làng tôn bầu ông bà làm Hậu phật. Ghi một số quy ước về lễ vật dùng vào ngày giỗ của Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 10, N09978-81.
Tháng 10 (tháng 9 – Mậu Thân)
572. Nho sinh Dương Tri Cụ soạn bia Hậu thần cho xã Thiện Mỹ
Đới đức bi ký tinh minh tạo tháng Quý thu năm Bảo Thái 9, dựng tại đình xã Thiện Mỹ, tổng Ngọc Thành, huyện Hiệp Hòa, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Lương Phong, Hiệp Hòa – Bắc Giang), ghi rằng:
Quận công Trần Đình Ngọc có nhiều công đối với dân. Trong mấy năm Quý Tỵ, Tân Sửu ông đã cúng 500 quan tiền cổ, 9000 bát gạo cho dân khi bị lụt hoặc hạn hán và ba mẫu nửa sào ruộng để làm tự điền. Quan viên, dân làng nhớ ơn công đức của ông đã tôn bầu cha mẹ ông làm Hậu thần.
Bia cũng ghi việc vào năm Mậu Tuất (1718) ông còn bỏ tiền dựng lại ngôi chùa bị đổ nát, đúc lại quả chuông. Năm Đinh Mùi (1727) lại cho làm mới ngôi đình 7 gian 2 chái, cấp 3 mẫu ruộng làm tự điền. Dân bầu ông làm Á Phúc thần quanh năm hương hỏa.
Dương Tri Cụ, người thôn Hàn Lạc, tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Phú Thị, Gia Lâm – Hà Nội) là Nho sinh trúng thức.
Nguồn: T12, tập 10, N09203-06.
NĂM 1729 (KỶ DẬU)
Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Dậu)
573. Bà Dương Thị Sô được tôn Hậu phật tại xã Mậu Lương
Hậu phật tượng tạo năm Bảo Thái 10, dựng tại chùa bản xã, tổng Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay thuộc phường Kiến Hưng, Hà Đông – Hà Nội) ghi rằng, năm Kỷ Dậu (1729), bà Dương Thị Sô cúng cho bản xã 25 quan tiền và 2 mẫu ruộng. Quan viên hương lão và dân toàn xã đồng lòng bầu bà làm Hậu phật, hàng năm cúng giỗ theo quy định, lại ghi bản giao ước, họ tên những người ký bầu Hậu và vị trí, diênt các thửa ruộng. Mặt sau tạc tượng Hậu phật. Đến năm Cảnh Hưng thứ 7 (1746), bà Sô lại biện cỗ xôi thịt thết đãi toàn thôn và cúng thêm một thửa ao để thôn cam kết làm lễ cúng bà trước bia vào ngày 2 tháng Chạp hàng năm.
Nguồn: T12, tập 2, N01789-92.
Tháng 12 (tháng Một – Kỷ Dậu)
574. Bà họ Dương được bầu làm Hậu phật thôn Trình Hậu
Hậu phật bi ký tạo năm Vĩnh Khánh 1, dựng tại chùa Tam Giáo bản thôn, xã Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên) ghi việc, bà họ Dương hiệu Từ Chân, xuất gia quy y, đã cúng cho làng 5 sào 10 thước ruộng và một thửa ao nên được bầu làm Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 6, N05260.
Trong năm
575. Dương Công Chính, Dương Chung Tú thi đậu Hương cống
Hai ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).
Nguồn: D7.
NĂM 1731 (TÂN HỢI)
Ngày 29 tháng 12 (1 tháng Chạp – Tân Hợi)
476. Dương Công Thụ (Chú) thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Tháng 10 năm Tân Hợi, chuẩn lời tâu của bộ Lễ xin mở khoa thi Hội. Đặc sai Phó tướng Đề đốc Phương Quận công Trịnh Bật làm Đề điệu, Bồi tụng Lễ bộ Thượng thư Tri Hàn lâm viện sự Thiếu bảo Nông Quận công Nguyễn Hiệu làm Tri Cống cử, Bồi tụng Lễ bộ Tả Thị lang Lại Trạch hầu Phạm Đình Kính, Công bộ Hữu Thị lang Huy Luân bá Ngô Đình Thạc làm Giám thí. Qua bốn trường, lấy trúng cách bọn Nguyễn Bá Lân 12 người.
Qua tháng sau, vào ngày 15 tháng Một – Tân Hợi (13-12-1731) Điện thí. Đến ngày 1 tháng Chạp – Tân Hợi, xướng danh cho Đỗ Huy Kỳ đỗ Cập đệ, Xuất thân có thứ bậc khác nhau. Lại sai khắc đá đề danh để lưu truyền mãi mãi.
Dương Công Thụ (Chú), hậu duệ của Dương Phúc Tư, sau làm đến Tả thị lang bộ Lễ, khi mất tặng Thượng thư, tước Quận công.
Nguồn: V2, tr.457-460; Đ6, tr.128.
NĂM 1732 (NHÂM TÝ)
Tháng 2 (tháng Giêng – Nhâm Tý)
577. Bà Dương Thị Lệnh mua Hậu cho song thân tại đình Liên Xương
Bia tạo năm Vĩnh Khánh 4, dựng tại đình bản xã, tổng Phi Mô, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Xương Lâm, Lạng Giang – Bắc Giang) ghi việc bà Dương Thị Lệnh đã cúng cho thôn Đại Ân bản xã 150 quan tiền sử, 9 thửa ruộng, 1 thửa ao xin Hậu thần cho cha mẹ. Bản thôn dựng bia ghi nhận.
Nguồn: T12, tập 7, 6091-94.
Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Tý)
578. Dương Quốc Bật thi đậu Hương Cống
Từ kỳ thi này, triều đình quy định:
“Văn kinh nghĩa trong kì thi Hương, thi Hội, thay dùng thể thức văn bát cổ, lệnh cho số đông sĩ tử học theo để các khoa thi Hương, thi đội về sau sẽ thi hành.
Bấy giờ Tể thần Nguyễn Công Hãng thích lối văn bát cổ, thường đem khảo hạch nho thần, ai trúng tuyển thì biểu dương, nhưng người học thường ngại vì thể ấy khó. Đến dịp Hãng mất hết chức vị, [việc ấy] chưa kịp thi hành mà bãi đi.
Chúa Trịnh Khương (Giang) ra chỉ dụ tôn sùng học sách kinh điển, cấm sách [chư] tử. Bấy giờ nghị bàn cho rằng: sách vở thánh hiền là ông tổ của văn chương. Gần đây theo lối học thuộc lòng, người đọc sách Kinh, Truyện chỉ sưu tầm tiểu chú mà phần nhiều bỏ sót chính văn. Người đọc sách Sử chỉ thiệp liệp sách ngoài mà bỏ quên sách Cương mục. Học thuật sơ lược, lỗ mỗ, cần phải ra sức chấn chỉnh để thay đổi tập tục của kẻ sĩ. Bèn ra lệnh sức cho người đi học từ nay sách Kinh, Truyện phải thuộc hết chính văn, còn như tập chú, tiểu chú thì chỉ chọn lấy phần tinh túy. Các sách [Tư trị] thông giám cương mục, Tả truyện cần phải đọc kĩ. Bởi thế việc học của nho gia mới bắt đầu có chỗ thống nhất”.
Sở dĩ biết được Dương Quốc Bật thi đỗ Hương cống kỳ thi này do do căn cứ vào Từ vũ bi ký do Giám sinh Nguyễn Duy Mai soạn, tạo năm Cảnh Hưng 6 (1745) dựng tại Văn chỉ xã Yên Viên, tổng Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là xã Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang), cho biết, Hội tư văn của xã Yên Viên huyện Yên Việt khởi công xây dựng Văn chỉ vào năm Canh Tuất (1740) đến năm Ất Sửu (1745) hoàn thành, ghi: lại họ và tên của các vị khoa mục đóng góp tiền, cột gỗ vào việc xây dựng văn chỉ, như các vị: Nguyễn Bá Tuấn, Nguyễn Đăng Đài, Nguyễn Kế Viên, đặc biệt có Hương cống Dương Quốc Bật đỗ khoa Nhâm Tý (1732) và các Hương cống Dương Danh Khuê, Dương Đình Khôi không rõ năm đỗ.
Nguồn: T12, tập 9, N08393-95; Đ6, tr.129.
Tháng 5 (tháng Tư – Nhâm Tý)
579. Các Tổng thái giám Dương Hữu Ân, Dương Công Trạch góp tiền trả nợ giúp dân thôn Khang Cù
Bia không có tiêu đề, dựng năm Vĩnh Khánh Nhâm Tý, đặt tại đình bản thôn, xã Phụng Pháp, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tân Mỹ – thành phố Bắc Giang) ghi rằng, quan viên thôn Khang Cù, xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang là Huyện thừa Dương Viết Tuyển, Phó sứ Dương Viết Tú, nho sinh Dương Bá Nho và những người khác, thấy bản xã thuế nợ đọng với số lượng nhiều, trong thôn người giầu, người nghèo không đồng đều, khó lòng phân bố nên đã cùng những người giầu trong xã bỏ tiền ra giúp dân nộp thuế, bởi vậy, dân xã lập bia ghi tên các vị: Tổng thái giám Hoàng Công Tiến, tự Phúc Nghiêm; Tổng thái giám Dương Hữu Ân, tự Minh Hách; Tổng thái giám Dương Công Tạo, tự Phúc Cương; Đô chỉ huy sứ Dũng Trạch hầu Hoàng Công Phú, tự Phúc Nhân; Nội giám Giám nhưng Hoàng Đạo Hiền, tự Phúc Hậu; Tri huyện Hoàng Luân, tự Phúc Tuy; Huyện thừa Dương Viết Tuyển, tự Phúc Khánh và khoảng 30 người khác đều có chức vị trong xã hội.
Nguồn: T12, tập 9, N08233-36; 35278-81.
NĂM 1733 (NHÂM TÝ)
Ngày 15 tháng 1 (10 tháng Chạp – Nhâm Tý)
580. Xã chính Dương Trí Danh tiếp tục soạn văn bia chùa An Tất
Bia không tiêu đề, tạo năm Long Đức 1 dựng tại chùa xã Thạch Lựu (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng), ghi rằng:
Dân xã làm tờ khải kêu trình về việc quan huyện trước đây bắt phải xây dựng trụ sở cho huyện, dẫn đến hao người tốn của và sức dân không kham nổi lại không có tiền chi nộp. Nay Quan viên, Hương lão họp bàn tại đình qui định: Nếu ai giúp xã có tiền chi vào việc quan dịch thì được tôn bầu làm Hậu thần. Vợ chồng ông Nguyễn Đương Lộc người bản xã là gia đình lương thiện đã xuất 120 quan sử tiền nộp cho xã chi dùng, lại cúng 3 sào 7 thước ruộng vào chùa làm ruộng Tam bảo. Vì thế dân xã bầu vợ chồng ông là Hậu thần, Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 12, N011138-40.
Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Tý)
581. Dương Công Thụ (Chú) được ghi danh trong bia Đề danh Tiến sĩ dựng ở Văn Miếu
Tân Hợi khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Tân Hợi – 1731) do Tham tụng Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu bảo Thuật Quận công Phạm Khiêm Ích soạn, ghi danh toàn bộ 12 người thi đậu tại khoa này – trong đó có Dương Công Thụ.
Nguồn: V2, tr.457-458.
NĂM 1734 (GIÁP DẦN)
Tháng 9 (tháng Tám – Giáp Dần)
582. Vợ chồng bà Dương Thị Chi đóng góp xây dựng Tam quan chùa xã Dương Quan
Bia không tiêu đề, tạo tháng Trọng thu năm Long Đức 3 dựng tại chùa bản xã, tổng Mỹ Thái, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Dương Đức, Lạng Giang – Bắc Giang) ghi danh những người góp tiền, như Nguyễn Tiến Đức và vợ Dương Thị Chi công đức 5 xâu tiền; những người góp cột đá, như Sinh đồ kiêm Xã quan Thân Huy và vợ Bùi Thị Điều, v.v… dùng làm 3 gian tam quan lợp ngói, làm nơi gửi giỗ cho gia tiên. Trong số đó có vợ chồng Nguyễn Văn Thận, người xã Hữu Lân huyện Yên Việt là người địa phương khác.
Nguồn: T12, tập 9, N08296-97.
Tháng 11 (tháng Mười – Giáp Dần)
583. Lập miếu tưởng nhớ công lao vợ chồng nhạc phụ họ Dương
Lập nhạc phụ/ Miếu di hương/ Tạo bi ký tạo năm Đức Long 3 đặt tại chùa xã Nội Hoàng, tổng Phấn Sơn, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là xã Nội Hoàng, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi việc, ngài Thân Thạc Vọng làm quan đến Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Nội phủ giám Tổng thái giám Chưởng giám sự Dương Nghĩa hầu ở phủ Chúa Thanh Vương, sau vào làm hầu ở Nội điện Vương thất. Ông là người có nhiều công lao với nước với dân. Bản xã có chùa Phúc Nghiêm là chốn danh lam cổ tự, ông bèn lập một ngôi miếu ở phía tây chùa để thờ cha mẹ vợ Nghĩa Xuyên bá họ Dương tự Văn Minh và phu nhân Dương thị Ngọc Yến hiệu là Chính Trực. Ông còn cúng cho xã một số ruộng sản lượng 190 gánh để dân cày cấy phụng thờ cha mẹ vợ ông ở miếu.
Nguồn: T12, tập 8, N07008-10.
NĂM 1735 (ẤT MÃO)
Tháng 9 (tháng Tám – Ất Mão)
584. Dương Bưu soạn văn bia chùa xã Hỗ Đông
Thiên Mụ tự bi ký tạo năm Vĩnh Hựu 1, dựng tại chùa Thiên Mụ bản xã, tổng Hà Nhuận, huyện Kim Thành, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Hồng Phong, An Dương – Hải Phòng) ghi nhận, bà Dương Thị Dĩnh cùng một số bà trong xã đóng tiền xây cầu, dựng quán, tạc tượng Phật và Long thần cho nhà chùa.
Nguồn: T12, tập 8, N07631-34.
Trong năm
585. Dương Mại được chuẩn định là người có văn học
Trịnh Khương (Giang) vốn ưa thích văn nghệ, thường những khi ngoài buổi triểu hội, mời các bầy tôi thi tụng vào ăn yến trong lầu gác. Có lúc ở nhà Dưỡng Chinh, đình Bát Giác, Tây Tụng, Phượng Các cho các bầy tôi được xem, bàn bạc sách vở, nghiên cứu đúng rõ nghĩa văn. Hoặc cho xem phép viết chữ chân, thảo, triện. Hoặc hạn vần bảo làm thơ. Hoặc bảo tìm các bức thư, các bài kí, tụng, minh, châm, truyện, dẫn, chiếu, chế triều nay, đề vịnh cảnh vật. Ai thi trúng thì khen thưởng trước mặt. Lại sai biên tập thi văn nước ta, chia ra từng mục từng loại, rõ cả họ tên tác giả để khi xem được đầy đủ. Lúc bấy giờ có văn thần Cao Huy Trạc thù tụng rất hợp ý chúa. Các vị Nguyễn Công Thái, Vũ Công Tể, Nguyễn Trác Luân, Dương Mại, Nguyễn Đức Huy, Nguyễn Kiều cũng vì có văn học được chúa thân yêu. Quản Dĩnh ám tả được toàn bài Bình Ngô đại cáo được bổ làm Đốc đồng Sơn Nam. Như thế nho thần ai cũng được khích lệ.
Nguồn: Đ6, tr.142-143.
Trong năm
586. Dương Thời Nhiếp thi đậu Hương cống
Ông người xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).
Nguồn: D7.
NĂM 1736 (BÍNH THÌN)
Trong năm
587. Vợ chồng Hiệu sinh Dương Sĩ Thạc được tôn làm Hậu thần xã Ngọc Sơn
Bia không có tiêu đề, tạo năm Vĩnh Hựu 2, dựng tại đình bản xã, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Điềm Thụy, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi rằng, do việc bản xã phải chi tiêu quan dịch và kiện tụng tốn phí nhiều nên đặt lệ bầu Hậu thần để lấy tiền trang trải. Hiệu sinh Dương Sĩ Thạc và vợ bà Dương Thị Ấn đã cúng cho làng 170 quan tiền để chi dùng việc công và 1 mẫu ruộng để lo việc hương khói. Quan viên, dân làng tôn bầu ông bà làm Hậu thần.
Nguồn: T12, tập 11, N010486-87.
NĂM 1738 (MẬU NGỌ)
Tháng 6 (tháng Năm – Mậu Ngọ)
588. Vợ chồng bà Dương Thị Hương được tôn làm Hậu phật xã Thường Thắng
Hậu phật bi ký tạo tháng Trọng hạ năm Vĩnh Hựu 4, dựng tại chùa bản xã, tổng Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Thường Thắng, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi rằng, vợ chồng ông Đẩu Thọ bá La Nguyễn Khanh tự là Tính Ninh và bà Dương Thị Hương hiệu là Diệu Thanh, nguyên quán xã Cẩm Xuyên huyện Hiệp Hòa trú tại xã Thường Thắng đã xuất của cúng cho bản thôn 30 quan tiền và 2 mẫu ruộng. Quan viên dân làng tôn bầu ông bà làm Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 9, N08550-51.
Ngày 7 tháng 9 (24 tháng Bẩy – Mậu Ngọ)
589. Những người họ Dương ký kết Khế ước mua bán rừng ở Bình Tuyền
Bia không tiêu đề tạo ngày 1 tháng Hai – Tân Mùi, năm Cảnh Hưng 12 (26-2-1751) đặt tại đình xã Thanh Trí, tổng Thanh Trí, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Minh Phú, Sóc Sơn – Hà Nội) ghi lại Văn bản văn khế bán khu núi đất trồng rừng lấy củi của xã Khang Kiện huyện Bình Tuyền phủ Phú Bình cho xã Thanh Trí lập ngày 24 tháng Bẩy năm Vĩnh Hựu thứ 4 (1738) do quan Thiêm tri Hộ phiên Huân Trung hầu truyền xuống xã vào năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771). Xã Khang Kiện vì chịu tô thuế nặng nề không có tiền nộp nên các quan viên hương lão của xã là Dương Hữu Dụng, Dương Đăng Nho v.v… cùng toàn xã đã bán khu đất có cây để lấy củi cho xã Thanh Trí, với giá 72 quan đề nộp thuế. Có ghi ranh giới khu đất bán và họ tên những người kí vào văn khế. Đại diện cho bên mua là Tri phủ Dương Đăng Khoa.
Nguồn: T12, tập 7, N06993.
Trong năm
590. Bà Dương Thị Huề được tôn Hậu thần thôn Hộ Lệnh
Hậu thần bi ký tạo năm Vĩnh Hưu 4 dựng tại đình bản thôn, xã Triệu Dương, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay là xã Nhã Lộng, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi rõ lý do người được tôn làm Hậu thần vì đã cúng cho thôn một số tiền cùng với 5 sào 5 thước ruộng để chi dùng vào việc công.
Nguồn: T12, tập 11, N010466-67.
591. Dương Khiêm Thuần thi đậu Hương cống
Ông người xã Du Xuyên, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa (nay là Do Xuyên, xã Hải Thanh, Tĩnh Gia – Thanh Hóa).
Nguồn: K6, tr.176.
NĂM 1739 (KỶ MÙI)
Tháng 9 (tháng Tám – Kỷ Mùi)
592. Gia Lạc bá họ Dương soạn văn cho bia Hậu xã Phù Ninh
Phụng sự bi ký/ Vạn đại lưu truyền tạo năm Chính Hòa 6, đặt tại lăng Nguyễn tướng công tại xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm – Hà Nội) ghi lại công đức của vợ chồng ông Nguyễn Thọ Vực, tước Bình Gia tử. Ông bà đã đem tiền của, ruộng vườn tiến cúng cho bản xã để dùng vào việc công. Bản xã đã dựng bia kỷ niệm và bầu ông bà làm Hậu thần, Hậu phật.
Vị Tả đường Công bộ họ Dương đã thuật lại bối cảnh ra đời bài văn bia như sau:
“Mùa thu năm Kỉ Mùi (1739), nhân gặp khi rỗi việc triểu yết, tôi đến bên cửa sổ, tìm hứng thơ. Đang lúc tức cảnh sinh tình, thì bỗng có tám, chín cụ già ở ngoài gõ cửa muốn cầu kiến. Nên mới hỏi cho rõ nguyên do. Các cụ già này nói: lũ tôi bộc chúng con là người thôn Hạ xã Phù Ninh huyện sát cạnh. Trong ấp có Thái bà Thạch Thị Lựu vợ cả ngài Nguyễn Thọ Vực hàm Quang tiến thận lộc đại phu, chức Thiếu khanh ở điện Cổ Pháp, tước Bình Thọ nam. Bà là người luôn có lòng tốt với dân, được dân làng cam kết sẽ phụ thờ với Thần, Phật mai sau. Nay muốn ghi lại sự thực để lưu truyền dài lâu. Được nghe về tài văn chương của ngài, muốn trông cậy nơi ngài bài văn bia này.
Tôi đáp: Lệnh công và phu nhân của các vị đã cùng được phối hưởng ở miếu đình rồi. Nay lại muốn phụng thờ ở chùa Phật; hẳn là đã có quá nhiều công lao, đức lớn sao? Các già đồng thanh đáp: Lệnh công thì hết sức đôn hậu, rộng kết bạn bè; còn lệnh bà thì vô cùng hiền thục, chăm lọ lo moi việc. Chốn khuê phòng mẫu mực, tài hồ thie công thành. Bên ngoài có tài cao sánh với Tô, Lạn (Tô Tần và Lạn Tương Như), bên trong thì giỏi cai quản tựa Cung Hoàng (Cung Toại, Hoàng Bá). Cha con đều hiển đạt mà vẫn giữ được mình, khiêm tốn, giản dị. Anh em cùng nức tiếng thơm mà luôn hoà nhã, dễ dàng với mọi người; lại luôn khinh tài, trọng nghĩa, chặt chẽ đối với mình mà rộng rãi đối với người. Ban ruộng tốt để hậu hĩ dân sinh, cấp đấu to để dân thêm lúa gạo. Dân ấp chúng con được hưởng biết bao ơn huệ. Chỉ có những ai thất đức thì mới không nghĩ việc đền đáp. Còn tệ ấp chúng con vốn có cái tâm, lại trừ được vận hạn, tránh được hoạn nạn. Từ xa xưa dân ấp đã từng tôn gọi những Thần cứu nhân độ thế là Phật vậy. Lệnh công có nhiều công ơn, nay tôn là Thần và sau này sẽ là phúc Thần, còn Lệnh bà đức độ hiền thục, nay tôn là Phật sống và mai sau là thượng Phật. Tôn thờ ở điện Quỳnh Giao, nơi đất lành, vậy há chẳng được sao? Ta hết đỗi mừng vui về những lời vàng ngọc đó và vô cùng tôn quý những tục lệ tốt đẹp này. Nhân đó mà thuật lại sự việc để khắc lên bia đá, lưu truyền mãi mãi”.
Nguồn: T12, tập 3, N02489-92.
Trong năm
593. Dương Lệ soạn văn bia dựng ở Từ đường họ Lê Liêu Xá
Lê triều Lê tướng công mộ chí tạo năm Vĩnh Hựu 5, dựng tại thôn Văn, xã Liêu Xá, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã cùng tên, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi lại sự nghiệp của ông họ Lê húy là Hữu Mưu người thôn Văn Xá xã Liêu Xá huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng xứ Hải Dương. Thân phụ ông là Lê Hữu Danh đỗ Hoàng giáp khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1679). Ông đỗ Tiến sĩ khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710), từng đảm nhiệm các chức vụ: Lễ khoa Cấp sự trung, Quốc tử giám Tư nghiệp, Hàn lâm viện Thừa chỉ. Sơn Tây xứ Thừa Chánh xứ Hữu Thị lang bộ Công. Ông mất vào ngày 9 tháng 5 năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu (1739) thị thọ 55 tuổi.
Nguồn: T12, tập 11, N010792-95.
NĂM 1744 (GIÁP TÝ)
Tháng 12 (tháng Một – Giáp Tý)
594. Nguyễn Danh Phương cử Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng xây dựng ngoại đồn tại Úc Kỳ
Nguyễn Danh Phương quê xã Tiên Sơn, tổng Hội Thượng, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay trong phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc), vốn là nhà nho và mưu sĩ của phong trào Đỗ Tế, sau rời bỏ, lập lực lượng riêng, tự xưng là Ngũ Thập, dân gian gọi là Quận Hẻo, từ năm 1740 lập ra cung điện, bày đặt quan chế tại vùng núi Tam Đảo. Cuối năm 1744, Quận Hẻo mở rộng địa bàn sang vùng Bạch Hạc rồi lui về giữ vùng Thanh Linh (còn gọi là Thanh Lãnh, tổng Thiện Kế, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên – nay thuộc xã Trung Mỹ, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) lập đại đồn tại Độc Tôn – Ngọc Bội, trung đồn ở Hương Canh (nay là thị trấn huyện Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) và giao cho các thủ lĩnh người huyện Tư Nông là Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng về Úc Kỳ (còn gọi là Ức Kỳ, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên – nay là xã cùng tên thuộc Phú Bình – Thái Nguyên) xây dựng ngoại đồn trên một ngọn đồi thấp án ngữ con đường Thái Nguyên – Kinh Bắc, được nhiều sông suối vây bọc làm ngoại hào.
Nguồn: Đ6, tr.192, 214.
Trong năm
595. Dương Tất Thịnh đậu Sinh đồ
Ông người xã Thổ Hà, tổng Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang), hiệu là Viết Pháp, giữ chức Xã chính.
Nguồn: T12, tập 9, N08385.
NĂM 1745 (ẤT SỬU)
Tháng 3 (tháng Hai – Ất Sửu)
596. Dương Công Thụ (Chú) được cử làm Tả Tư giảng cho Thế tử Trịnh Sâm
Con chúa Trịnh Doanh là Trịnh Sâm ra ở ngôi Thế tử. Chúa sai Phủ doãn phủ Phụng Thiên là Dương Công Thụ (Chú) và Cấp sự trung Nguyễn Hoán làm Tả, Hữu Tư giảng cho Thế tử.
Nguồn: Đ6, tr.197.
NĂM 1746 (BÍNH DẦN)
Trong năm
597. Dương Đặng và Phan Linh soạn văn bia cho Hội Tư văn
Bia không có tiêu đề, dựng tại Văn chỉ xã Cảnh Thụy, tổng Tư Mại, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Cảnh Thụy, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi chép về hoạt động cũng như việc ấn định Hội Tư văn của 3 tổng Tư Mại, Cổ Dũng, Hương Cảo thuộc các huyện Yên Dũng, Yên Việt phủ Lạng Giang và Bắc Hà họp bàn hưng công xây dựng Từ chỉ để lấy chỗ thờ cúng các bậc Tiên nho và các vị Tiên hiền; họ và tên, quê quán những người được bầu làm Hậu hiền và Văn trưởng.
Nguồn: T12, tập 11, N010235-38.
598. Dương Thế Khoa thi đậu Hương cống
Ông người xã Cảo Đỉnh, tổng Cổ Nhuế (nay thuộc Bắc Từ Liêm – Hà Nội), đồng tộc với Tiến sĩ khoa Sĩ vọng Dương Tự Lệ, Dương Tự Cường, làm đến Tri huyện các huyện Yên Dũng, Duyên Hà, Bảo Lộc.
Nguồn: T28, tr.110.
599. Dương Bao Lai nổi dậy chống chúa Nguyễn tại Thuận Thành
Ông cùng Diệp Mã Lăng chiêu tập người Chăm trong vùng khiến Lưu thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Cường phải cho đắp lũy Cổ Tinh rồi thừa lúc nghĩa quân không đề phòng tổ chức đánh úp. Cả hai Thủ lĩnh đều bị bắt và giết hại.
Nguồn: Đ8, tập Một, tr.154.
NĂM 1747 (BÍNH DẦN – ĐINH MÃO)
Ngày 15 tháng 1 (5 tháng Chạp – Bính Dần
600. Bà Dương Thị Sô được tạc tượng sau khi trở thành Hậu phật
Hậu phật tượng, mặt trước tạo năm Bảo Thái 10, mặt sau tạc tượng và ghi thêm thể lệ vào năm Cảnh Hưng 7 dựng tại chùa Mậu Lương Hạ xã Trung Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên (nay thuộc Thanh Oai – Hà Nội) ghi, năm Kỷ Dậu (1729), bà Dương Thị Sô cúng cho bản xã 25 quan tiền và 2 mẫu ruộng. Quan viên hương lão và dân toàn xã đồng lòng bầu bà làm Hậu phật, hàng năm cúng giỗ theo quy định. Có ghi bản giao ước, họ tên những người kí bầu Hậu và vị trí, diện tích các thửa ruộng. Mặt sau tạc tượng Hậu phật. Đến năm Cảnh Hưng thứ 7 (1746), bà Sô lại biện cỗ xôi thịt thết đãi toàn thôn và cúng thêm một thửa ao để thôn cam kết làm lễ cúng bà trước bia vào ngày 2 tháng chạp hàng năm.
Nguồn: T12, tập 2, N01789-92.
Ngày 19 tháng 10 (16 tháng Chín – Đinh Mão)
601. Dương Công Thụ được giao soạn văn bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu
Cảnh Hưng thất niên Bính Dần khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Bính Dần năm Cảnh Hưng 7 – 1746) được soạn khi ông đang giữ chức Tả tư giảng Thiêm sai Tri thị nội Thư tả Lại phiên, Hàn lâm viện Thừa chỉ, tước Đạo Phái bá; Nguyễn Công Thái nhuận sắc. Nội dung như sau:
“Sao Khuê mở vận thái, sao Đẩu hiện nhân tài, cầu hiền kén sĩ, khoa cử thịnh hành.
Hoàng thượng bệ hạ kế tục thể chế, giữ pháp độ lập thành, trọng đãi người hiền, chấn hưng trị đạo. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Thượng sư Thượng phụ Minh vương] tạo dựng mọi việc, lựa dùng nhân tài. Mùa xuân năm Bính Dần thi Hội cho các Cống sĩ trong nước. Đặc sai Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Tả hòa quân doanh Đô đốc phủ Đô đốc đồng Trì Thự phủ sự phó tướng Thụy Quận công Trịnh Tân làm Đề điệu, hành Tham tụng Lại bộ Tả Thị lang Nhuyễn Đình hầu Trịnh Ngô Dụng làm Tri Cống cử, Thiêm sai Công bộ Hữu Thị lang hành Phó Đô Ngự sử kiêm Đông các Học sĩ tả chính ngôn Thư Trạch hầu Vũ Công Trấn, Thiêm sai Công bộ Hữu Thị lang Ôn Trạch bá Vũ Khâm Lân làm Giám thí, cùng các quan bách ty trong ngoài chia giữ các việc.
Buổi ấy sĩ tử tới đua tài không dưới 2.000 người, số trúng tuyển là bọn Trần Danh Tố 4 người. Ngày 21 tháng Năm vào Điện thí. Hôm sau quan Độc quyển nâng quyển đọc, Hoàng thượng định thứ bậc cao thấp, cho Đoàn Thụ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, bọn Trần Danh Tố 3 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. Loa truyền gọi tên, Bộ Lễ treo Bảng Vàng ngoài cửa nhà Thái học. Việc ban áo mũ yến tiệc đều y theo lệ cũ.
Mùa thu năm Đinh Mão, quan bộ Công xin dựng bia đá Đề danh, vua y theo lời tâu, bèn sai thần soạn văn bia. Thần kính cẩn cúi đầu rập đầu dâng lời rằng:
Tính danh thêu lên cờ lệnh, khắc vào đỉnh vạc, các bậc tiên vương nêu cao công lao của các cựu thần. Nhưng tạc đá khắc bia, quy chế bản triều tôn Nho thì đời xưa chưa có, mà khoa thi Tiến sĩ thì từ trước đã có tiếng là chọn được nhiều hiền tài. Người thì giúp mưu lược từ thủa đầu sáng nghiệp, người có hoài bão lớn trong buổi thái bình, công kinh lược giúp đời đã thấy rờ rỡ. Cho nên từ xưa đến nay đời nào cũng coi trọng khoa mục. Khi chưa thi thì muốn cất nhắc đồng đều, cúng lễ ở các đến miếu để tỏ lòng chí thành. Khi đã đỗ thì ưu ái trọng hậu, lại khắc tên vào đá cứng để lưu truyền mãi mãi. Kẻ sĩ ở chốn nhà tranh vách đất, một khi được ghi tên ở bảng Long hổ, thân được dự vào hạng khoa danh thì phải làm thế nào để không hổ thẹn với tấm đá này. Bài ký trước có câu: Thuần chính cứng sáng thì bia đá vẻ vang, a dua dựa dẫm thì bia đá hổ thẹn, há chẳng đáng thận trọng lấy làm răn hay sao!
Thần đem điều ấy ghi vào bia này, chẳng những để rạng đời tỏ tới đời sau mà còn gửi ý khuyên răn đối với hàng sĩ phu nữa.
Thần kính cẩn dâng bài ký”.
Nguồn: V2, tr.481-483.
Tháng 11 (thàng 10 – Đinh Mão)
602. Dương Danh Huy thi đậu Hương cống
Kỳ thi Hương năm này, bãi bỏ lệ “tứ trường” khôi phục phép sáo thông khoảng 5 Bảo Thái (1721), bỏ lệ khảo hạch. Huyện lớn lấy 200 người, huyện vừa lấy 150 người, huyện nhỏ lấy 100 người. Người nào thông hiểu luật làm thơ đều được sung tuyển gọi là thứ thông, sau đó chọn lấy những người giỏi hơn kê tên riêng ra một danh sách thí ở hai ty Thừa, Hiến. Hai ty cộng đồng thi khảo hai lượt, ai trúng gọi là sảo thông, những người đã thi kì đệ nhất, đệ nhị, đệ tam được dự thi với hạng thứ thông. Người có học không bị bỏ sót cũng lần lượt được trúng tuyển. Đến năm Tân Dậu (1741) khôi phục lại phép thi tứ trường. Những kẻ nhờ thần thế và tiền tài mà đỗ lạm chiếm quá nửa. Đến nay triều đình ban rằng mở ra phép thi tứ trường thì con em nhà gia thế lấn lướt con em nhà nghèo hèn. Phép sảo thông còn tốt hơn. Sắc chỉ ban ra rồi đổi lại, ra lệnh bãi bỏ việc thi hai ty, theo như lệ từ năm Mậu Ngọ (1738) trở về trước, khảo hạch lấy người sảo thông. Những người có học đều được xét chọn.
Dương Danh Huy, người xã Phùng Cầu, tổng Phùng Cầu, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Thiệu Thịnh, Thiệu Hóa – Thanh Hóa).
Nguồn: Đ6, tr.203; N11, tr.498.
NĂM 1748 (MẬU THÌN)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Mậu Thìn)
603. Dương Công Thụ soạn văn bia Đề danh Tiến sĩ huyện La Sơn
Nguyễn đại danh bi/ Mậu Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh bi ký tạo năm Cảnh Hưng 9, đặt tại xã Lai Thạch, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc Can Lộc – Hà Tĩnh) ghi rằng:
Nước Việt ta, phép chọn kẻ sĩ không gì quan trọng bằng khoa thi Tiến sĩ. Trải các triều, nhiều người có tài năng được tuyển chọn đều thông qua khoa thi này. Bia ghi tên những người đỗ đạt như Nguyễn Hữu Cẩn, 36 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, làm quan Tri phủ La Sơn; Trịnh Xuân Thụ, Võ Miên, Nguyễn Huy Dận, Nguyễn Kỳ, Lê Trọng Tín đều đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Hoàng Phạm Biến, Nguyễn Quốc Khuê, Lê Quang Thân, Phan Văn Nhuệ, Nguyễn Huy Ngạc, Nguyễn Trọng Đột, Trần Tiến đều đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ v.v…
Nguồn: T12, tập 20, N019310.
Ngày 16 tháng 12 (26 tháng Mười – Mậu Thìn)
604. Dương Công Thụ tiếp tục được giao soạn văn bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu
Cảnh Hưng cửu niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Thìn năm Cảnh Hưng 9 – 1748) được soạn và tạo dựng ngay khi kỳ thi kết thúc, nội dung ghi:
“Tiến sĩ được ban thứ bậc, ghi họ tên, khắc hành trạng là để làm sáng rõ quy mô lớn lao khích lệ kẻ sĩ, làm đẹp điển lớn trọng dụng Nho gia.
Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ sắp đặt kỷ cương bốn phương, nêu chuẩn mực cho muôn vật. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Thượng sư Thượng phụ Minh vương] hun đúc thành tựu, sáng suốt kinh luân, lập học hiệu nhà Hạ để trữ nhân tài, mở cung khuyết nhà Ngu mà người tài theo đến. Mùa xuân tháng Ba năm Mậu Thìn thi Hội các cống sĩ. Đặc sai Phó tướng Đô hiệu điểm ty Đô hiệu điểm Khanh Quận công Trịnh Kiều làm Đề điệu, Công bộ Thượng thư Liêu Đình hầu Lê Hữu Kiều làm Tri Cống cử, Hình bộ Hữu Thị lang hành Lễ bộ Tả Thị lang Lâm Xuyên bá Nguyễn Phùng Thì, Công bộ Hữu Thị lang hành Phó Đô Ngự sử kiêm Đông các Học sĩ Tả chính ngôn Thư Trạch hầu Vũ Công Trấn làm Giám thí, cùng các viên hữu ty chia giữ các việc.
Khi ấy người dự thi đông đến 3.000 người, viện quan chọn hạng xuất sắc được Vũ Miên 13 người.
Ngày 25 tháng Năm gọi vào Điện thí, quan Độc quyển dâng quyển lên Hoàng thượng ngự lãm, lấy đỗ hạng Cập đệ, Xuất thân có thứ bậc khác nhau. Bệ son loa truyền, tên yết cửa nhà Quốc học. Theo lệ cũ ban áo xanh đai thơm, yến Quỳnh hoa bạc, lễ nghi ưu đãi long trọng, ân điển chất chồng. Lại sai quan Bộ Công dựng đá đề tên, sai từ thần soạn bài ký.
Trộm nghĩ phép chọn kẻ sĩ ở nước Việt ta không gì trọng bằng khoa thi Tiến sĩ. Các đời đều sùng chuộng khoa cử, Nho sĩ được vẻ vang, các bậc hiển tướng danh thần cũng đều xuất thân từ đó. Nước nhà vì thế mà thu phục được nhân tài, vượt trăm vua mà hơn cả ngàn xưa vậy.
Kẻ sĩ được ghi tên vào bia đá này, ắt nên giữ lòng trong sạch, tiết tháo kiên trinh, giúp đời hành đạo, giúp vua ban ơn cho dân, ngõ hầu công danh sự nghiệp được khắc vào chuông đỉnh, thêu lên cờ hiệu, cùng với bia đá này soi tỏ mới không hổ thẹn với khoa danh. Thảng hoặc có kẻ quỳ gối uốn mình, tô vẽ giả dối, ngọc vết khó giấu, đá vết khó mài, công luận ngàn năm, há chẳng đáng sợ sao!
Thế thì dựng bia đá này chẳng phải riêng để bồi đắp nho phong mà còn để dồi mài sĩ khí, việc đó có quan hệ đến thanh danh giáo hoá thật lớn vậy.
Thần kính cẩn làm bài ký”.
Nguồn: V2, tr.484-487.
NĂM 1749 (KỶ TỴ)
Trong năm
605. Dương Phúc Triệu được ban Tiến sĩ võ (Tạo sĩ)
Ông là con thứ 3 của Dương Quỳnh, quê xã Phong Phú, tổng Hạ Nhi, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Thạch Khê, Thạch Hà – Hà Tĩnh), được ban Tạo sĩ vào năm Cảnh Hưng 10.
Nguồn: H4, tr.97.
NĂM 1750 (CANH NGỌ)
Ngày 17 tháng 12 (19 tháng Một – Canh Ngọ)
606. Các thủ lĩnh Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng rời bỏ hàng ngũ Nguyễn Danh Phương
Sau khi lập ra đồn trại, cung đình, Quận Hẻo tự xưng là Thuận Thiên Khải vận Đại nhân, cho thu thuế má, biến một vùng Tuyên – Thái thành giang sơn một cõi. Ngoài lực lượng mạnh đủ để binh cự với quan quân, những đồn nhánh, kho lương của nghĩa quân lại nhiều gấp bội. Nơi sở tại cày ruộng chứa thóc làm kế tử thủ. Lại khiến các sản vật ở thượng du như chè, sơn, tre, gỗ và trường mỏ ở Tuyên Quang, Hưng Hoá, Lúa thóc của báu tích chứa như núi. Các huyện thuộc Tam Đới, Lâm Thao, Đà Dương đều bị chiếm, đến đâu thắng lợi đến đó. Quan quân từng đánh nhiều năm không thắng nổi. Đến nay chúa tự làm tướng thân chinh.
Ngày 8 tháng Một – Canh Thân [6-12-1750] chúa Trịnh sai đem việc chính phạt tâu cho vua biết. Giờ Dậu xuất quân, đóng ở lầu Ngũ Long, triệu Hoàng Ngũ Phúc đến trước lầu ủy cho quyền Tri quân vụ (Tổng chỉ huy) coi quan binh. Ai dũng cảm, ai nhút nhát, ai có công, ai có lỗi đều được quyền xét xử. Nhân bảo Phúc rằng, sào huyệt của Nguyễn Danh Phương bốn mặt đều là núi, trong ấy có nhiều khe suối. Mặt trước Hương Canh lại bày đồn đài để làm phên che, đánh chưa dễ nhổ được. Đồn Úc Kỳ giáp Thái Nguyên, tướng giỏi của Phương là tên Trì giữ một góc ấy, tự cậy là hiểm, xa, không phòng bị lắm. Ta bất ngờ đánh vào chỗ ấy trước, để chặt tay trái của Nguyễn Danh Phương. Đánh một trận là xong. Úc Kỳ đã nhổ được, đồn giặc khác trông gió mà vỡ. Quan quân thừa thế đánh úp, làm gì chẳng thắng. Binh pháp gọi là Bỏ chỗ rắn đánh chỗ mềm, tránh chỗ thực đánh chỗ hư chính là thế đấy. Ngày mồng 10 chúa vượt sông tiến phát. Mật truyền cho các quân lên đường tiến đến Giang Dã. Ngày l1, đại quân từ xã Lực Canh đi sang Thái Nguyên, gấp đường cùng tiến. Tiến đến trấn sở Giang Dã (vùng Thượng Dã, Trung Dã, Hạ Dã huyện Thiên Phúc, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc) sai lấy thổ binh của phiên thần Thái Nguyên để sẵn sàng điều khiển. Ngày 12, đầu canh tư, tiến đến đồn Úc Kỳ. Chúa cưỡi Long mã chỉ huy tướng sĩ dựng lũy rào dài vây quanh cố thủ. Ngày 17, chúa sai làm thang cao, vọng lâu và chiến cụ. Ngày 18, chúa sai tướng đã quy hàng là Nguyễn Bá Trạc đem lính đội Tứ Thuận đánh áp sát lũy. Ngày 19, các thủ lĩnh Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng ngầm sai người đến cửa quân xin làm nội ứng. Chúa nghe cho. Ngũ Phúc bèn dặn Quế Võ bá Nguyễn Đức Hoành chọn lấy lính cảm tủ nhận buổi chiều lẻn vào góc lũy, dò xem động tĩnh. Lúc này Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng quả nhiên bí mật mở cửa ở góc lũy. Hoành đem quân đột nhập đánh rất dữ, phá được hơn 10 đồn, phóng lửa đốt phá đại đồn Úc Kỳ. Quan quân bốn mặt cùng bắn vào, khiến địch quân phải mở một đường máu ở sau lũy, muốn vượt qua mũi nhọn quan quân mà ra. Hai cánh quân bên hữu và phía sau của bọn Đàm Xuân Vực ra sức chặn đánh. Chúa đứng ở Vọng lâu kíp sai các dũng sĩ thân quân cưỡi voi, cưỡi ngựa tiếp chiến, địch quân bị thương chết nhiều. Quan quân thu được súng đạn, cờ xí, khí giới, thuyền, ngựa, trâu dê thóc gạo nhiều không thể kể xiết. Chúa lập tức tâu báo tin thắng trận, thưởng cho tướng sĩ 1000 lạng bạc, sai Tán lí Nguyễn Nghiễm, hiệp đồng với Đoàn Chú tra hỏi tù binh, cử Thiêm sai Vũ Trần Thiệu (trước có tên là Tự) cùng với Lưu thủ Thái Nguyên là Bùi Thế Đạt khám hỏi nỗi khổ của dân và đem sự thực tâu lên.
Ngày 23 [21 – 12 – 1750] chúa về đến hành tại ở xã Xuân Hi.
Nguồn: Đ6, tr.214-215.
Trong năm
607. Dương Đình Quý thi đậu Hương cống
Ông người giáp Đồng Thượng Tả, xã Phượng Dực (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội), con trai trưởng Giải nguyên Dương Đình Hiển, làm quan tới chức Tự ban, Tri châu Thượng Lang.
Nguồn: T12, tập 12, N0811352-53.
NĂM 1751 (TÂN MÙI)
Tháng 3 (tháng Hai – Tân Mùi)
608. Dương Công Thụ được cử đi Sơn Tây xem xét đời sống dân tình
Các đoàn gồm Văn thần Nguyễn Tông Quai, Dương Công Thụ, Giám quan Nguyễn Bá Khánh, Nguyễn Đình Khôi chia đi các lộ Sơn Tây, Thái Nguyên, Kinh Bắc khám xét tình trạng nhân dân điêu tàn hao tổn và tuyên bố chỉ dụ. Lúc các đoàn từ tạ ra đi, chúa dụ rằng: – Nghịch Phương tàn phá, dân không được yên sống đã lâu rồi. Các khanh đi đến dân cốt trước hết tuyên bố ân đức, đề đạt dân tình, vỗ về cho dân yên nghiệp. Càng nên nghiêm cấm bọn đầy tớ tham lam; những việc ăn uống, đưa đón nhất thiết không được làm phiền dân! Cho các đoàn tiền phí hành trình là 200 quan.
Nguồn: Đ6, tr.219.
Tháng 4 (tháng Ba – Tân Mùi)
609. Triệu Dương Công Thụ về Kinh để khám hỏi các án kiện
Khi đó, Dương Công Thụ đang là Tri lại phiên được thăng Hành bồi tụng Phủ liêu cùng Thừa chính sứ Sơn Nam Trịnh Tuệ, Tham chính Kinh Bắc Lê Sĩ Bàng cùng được triệu về để trực ở điểm cửa tả làm việc trên.
Nguồn: Đ6, tr.220.
Ngày 26 tháng 8 (18 tháng Bẩy – Nhâm Thân)
610. Xã trưởng Dương Công Đương được ghi công xây dựng Văn từ xã Vĩnh Phúc
Tiên hiền bi ký/ Vĩnh Phúc văn giai tạo năm Cảnh Hưng 13, dựng tại Văn từ xã Vĩnh Phúc, huyện Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, lộ Sơn Nam (nay thuộc Quỳnh Phụ – Thái Bình) ghi việc các Hiệu sinh Bùi Đặng Nhậm, Bùi Đăng Trạc đã xây dựng văn chỉ của xã, soạn bài Tán văn, Tế văn nhưng sau đã thất lạc. Năm Đinh Mão (1747) Xã trưởng Dương Công Đương, Xã chánh Bùi Đăng Giai trùng tu Văn chỉ. Nay xã dựng bia khắc tên các vị Tiên hiền, Phủ sinh, Giám sinh của xã, bài văn Tán tiên hiền và các điều khoán ước quy định cho những người đi học được miễn quan dịch, thuế má, phu dịch v.v… Đồng thời dành ra 3 mẫu ruộng dùng để nuôi thày dạy học. Bia có đoạn khắc tiếp nối họ tên các vị Tiên hiền được bổ sung vào các năm Tân Tị và cả thời kì thuộc triều Nguyễn về sau.
Nguồn: T12, tập 5, N04147 – 49.
Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Thân)
611. Dương Công Thụ được cử làm Giám thí kỳ thi Hội
Kỳ thi Hội năm này, triều đình đã cử Đô đốc Thiêm sự trí sĩ khởi phục ngũ lão Vinh Quận công Đặng Đình Trứ làm Đề điệu, Nhập thị Bồi tụng Phó Đô Ngự sử Bảo Lĩnh hầu Trần Danh Ninh làm Quyền Tri Cống cử, Bồi tụng Hàn lâm viện Thừa chỉ Đạo Phái bá Dương Công Thụ làm Giám thí. Qua bốn trường, lấy trúng cách Lê Quý Đôn 6 người.
Nguồn: V2, tr.489.
NĂM 1753 (QUÝ DẬU)
Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Dậu)
612. Dương Danh Giám viết chữ bia chùa Huyền Khuê
Bia không có tiêu đề, tạo năm Bảo Thái 4, dựng tại chùa xã Nam Xương, tổng Thọ Xương, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, lộ Kinh Bắc (nay thuộc phường Trần Nguyên Hãn – thành phố Bắc Giang) ghi danh các vị hưng công, hội chủ ở ba giáp thuộc hai xã Đông Nham, Nam Xương đã đóng góp tiền dựng cây hương cho chùa.
Nguồn: T12, tập 9, N08253-56.
Ngày 13 tháng 6 (12 tháng Năm – Quý Dậu)
613. Dương Công Hồng được triều đình Sắc phong Phấn lực tướng quân
Ông người làng La Cả, tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội) được sắc phong vào năm Cảnh Hưng 14 nhờ có công đánh dẹp nội loạn.
Nguồn: T9, 1996, tr.85-94.
Trong năm
614. Dương Huân đậu Hương cống
Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An). Năm Nhâm Ngọ (1762) thi hộ người khác bị phát giác, truất quan sung làm lính. Sau, đổi tên là Dương Hồng Cách để đi thi. Năm Ất Dậu (1765) đỗ Tú tài. Năm Mậu Tý (1768) đổi là Dương Vân, thi đỗ Giám sinh, làm đến Huấn đạo phủ Thăng Hoa. Tác phẩm có Hữu Liễu thi tập.
Nguồn: D7; K6, tr.389.
615. Dương Đức Hiệp, Dương Tiến Mưu đậu Sinh đồ
Hai ông người thôn Cẩm La, xã Phong Lưu, tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, trấn An Quảng (nay thuộc xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh).
Nguồn: K7, tr.321.
NĂM 1754 (GIÁP TUẤT)
Tháng 4 (tháng Ba – Giáp Tuất)
616. Định lại phép chọn bổ quan chức ở bộ Lại theo lời tâu của Dương Công Thụ, Nguyễn Vĩ
Hai người tâu rằng: – Từ trước tới nay việc chọn bổ, hoặc theo cũ hoặc đổi mới khác nhau! Chúa Trịnh bèn ra lệnh từ nay các ấm tử, con quan nhị phẩm việc sơ thụ đều theo lệ định năm Nhâm Dần niên hiệu Bảo Thái (1722). Các chức Chánh, Tòng chiếu tư cách và quân công xét thực, trao cho chức quan văn trong nội điện hoặc phủ chúa. Ai dự trúng trường mới được thực nhiệm chức ở huyện, còn việc khảo xét công trạng các quan trong ngoài đều lấy thời hạn 6 năm một lần.
Nguồn: Đ6, tr.233.
Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Tuất)
617. Dương Trọng Khiêm, Dương Sử thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Mùa xuân tháng Ba năm Giáp Tuất, chuẩn lời tâu của bộ Lễ xin mở khoa thi Hội. Đặc sai Hậu trung quân doanh Phó tướng Hữu Hiệu điểm Nghiêm Quận công Trịnh Miên làm Đề điệu, Tuyên lực công thần Bồi tụng Binh bộ Thượng thư trí sĩ phục dụng Nhuệ Xuyên hầu Ngô Đình Oánh làm Tri Cống cử, Nhập thị Bồi tụng Công bộ Tả Thị lang Bảo Lĩnh hầu Trần Danh Ninh, Nhập thị Bồi tụng Chính thủ Hiệu dực cơ nghị quan Hình bộ Hữu Thị lang hành Ngự sử đài Phó Đô Ngự sử Xuân Lĩnh hầu Nguyễn Nghiễm làm Giám thí. Qua trường bốn lấy trúng cách được Phan Cận 8 người. Qua tháng sau Điện thí, ban cho Nguyễn Tông Trình đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Dương Trọng Khiêm (sau đổi là Trọng Tế), Dương Sử đều là người xã Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên).
Nguồn: V2, tr.492-493; Đ6. Tr.232.
Trong năm
618. Dương Chi thi đậu Hương cống
Ông người xã Đức Thịnh, tổng An Dương, huyện Hưng Nguyên, phủ Anh Đô, trấn Nghệ An (nay chưa rõ thuộc đâu), làm đến Thị nội văn chức.
Nguồn: T12, tập 8, N07899; K6, tr.547.
NĂM 1755 (GIÁP TUẤT – ẤT HỢI)
Ngày 14 tháng 1 (3 tháng Chạp – Giáp Tuất)
619. Ông bà Dương Kế Hưng được tôn Hậu phật xã Trung Đạo
Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 15, dựng tại chùa Sùng Khánh bản xã, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã Trung Hưng, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi rằng, sau khi ông Dương Kế Hưng và vợ là Nguyễn Thị Lam mất, con dâu của ông bà Dương Thị Việt có người cháu là Dương Thị Ngôn đã cúng cho xã 35 quan và 2 sào ruộng để xin cho hai người làm Hậu thần. Dân xã ưng thuận lập bia kỷ niệm và hàng năm cúng giỗ. Bia ghi họ tên những người ký bầu. Mặt trước là bài vị của hai Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 7, N06908-09.
Trong năm
620. Họ Lê lập bia ghi nhận công sinh thành của bà con gái Thượng thư Dương Hồ
Hoàng giáp Lê công Từ đường ký do Tiến sĩ Lê Hữu Kiều soạn văn bia, Tiến sĩ Lê Trọng Biểu, Bảng nhãn Lê Quý Đôn, Tri phủ Lê Hữu Cẩn hiệu đính, tạo năm Cảnh Hưng 16, dựng tại Từ đường họ Lê, thôn Văn, xã Liêu Xá, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã cùng tên, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi lại thân thế sự nghiệp của Hoàng giáp họ Lê húy Hữu Danh hiệu Xuân Am, đỗ Hoàng giáp Tiến sĩ năm Canh Tuất (1670), khi đó mới 29 tuổi. Ông từng đảm nhiệm các chức Hàn lâm viện Hiệu Lý, Hiến sát xứ Sơn Tây. Ông lấy bà họ Trần người cùng thôn, sau lấy bà họ Dương con gái của Thượng thư Dương Hồ sinh được 10 người con trai, 2 người con gái, các con ông đều đỗ đạt thành danh. Năm 65 tuổi ông xin về hưu được thăng làm Thượng thư Bộ Lễ.
Nguồn: T12, tập 11, N010801-02.
NĂM 1756 (BÍNH TÝ)
Tháng 7 (tháng Sáu – Bính Tý)
621. Dương Trọng Khiêm, Dương Sử được ghi danh trong bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu
Giáp Tuất khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Giáp Tuất – 1754) do Lê Quý Đôn soạn, Nguyễn Công Thái nhuận sắc, ghi danh 2 ông.
Nguồn: V2, tr.492-493.
Trong năm
622. Cựu sinh đồ Dương Như Trác cùng Hội Tư văn xây dựng Văn chỉ tổng Bá Hạ
Tư văn bi ký và Giáp Tuất niên Bá Hạ tổng Tư văn bi ký đều do Sĩ nhân Vũ Văn Trạc soạn, tạo năm Gia Long 13 (1814) dựng tại Văn chỉ xã Bá Hạ, tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Bá Hiển, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi rằng, tổng Bá Hạ là đất học nhiều người đỗ đạt nhưng từ trước đến nay chưa có Văn chỉ, hàng năm cúng tế tiên hiền các văn thân thường nơi đất cao ráo sạch sẽ để làm lễ. Vào năm Bính Tí (1756), Cựu sinh đồ Dương Như Trác cùng hội Tư văn đã chọn được mảnh đất đẹp để xây Văn chỉ bản tổng để làm nơi thờ cúng cố định. Công việc hoàn tất bèn dựng bia ghi lại việc này để lưu truyền hậu thế.
Nguồn: T12, tập 16, N015524-25.
Trong năm
623. Dương Hữu Tông, Dương Tố Pháp đậu Sinh đồ
Hai ông cùng quê ở thôn Cẩm La, xã Phong Lưu, tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, trấn An Quảng (nay là xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh).
Nguồn: K7, tr.325-326.
NĂM 1757 (ĐINH SỬU)
Mùa xuân
624. Bà Dương Thị Liêm được tôn Hậu phật chùa Quỳnh Lâm
Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 18, dựng tại chùa thôn Ngọc Mạch, xã Hương Canh, tổng Hương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc Nam Từ Liêm – Hà Nội) ghi: do bà Dương Thị Liêm xuất của nhà 10 quan tiền cùng 4 sào ruộng cúng cho chùa nên thôn đã tôn làm Hậu phật, lập bia ghi lại nghi thức cúng tế và khắc bài vị cho bà.
Nguồn: T12, tập 2, N01565-66.
NĂM 1758 (MẬU DẦN)
Trong năm
625. Dương Khải công đức xây dựng đình Vĩnh Thế
Ông quê ở bản xã, tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Tư Thế, xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh), làm tới chức Tán trị Lạng Sơn.
Nguồn: T23, tr.212.
626. Dương Thế Cử thi đậu Hương cống
Ông người xã Cáo Đỉnh (nay thuộc Bắc Từ Liêm – Hà Nội), làm đến Án trấn xứ Nghệ An sung Phó sứ Tri hình phiên. Trí sĩ năm 1786, thăng Thái bảo Tri hình phiên, tước Uẩn Trung hầu.
Nguồn: T28, tr.110.
NĂM 1759 (KỶ MÃO)
Ngày 21 tháng 5 (25 tháng Tư – Kỷ Mão)
627. Dương Tướng Kiều soạn văn bia ghi lại công đức của Dương Khải
Hậu thần bi ký/ Bản xã ước lệ tạo năm Cảnh Hưng 20, dựng tại đình xã Vĩnh Thế (nay là thôn Tư Thế, xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) ghi nhận việc Thiếu Thiêm sự Thế Thọ bá Dương Khải và con là Tham nghị Thừa chính sứ ty Dương Khôi được dân làng tôn làm Hậu thần với tấm lòng ái chi như thân, kính chi như thần (yêu Thần như cha mẹ, kính Thần như thánh thần) vì đã giúp dân làm lại đình làng, cúng thêm 100 quan cổ tiền và 3 mẫu ruộng tốt.
Nguồn: T23, tr.219; T12, tập 4, N03588-90.
Ngày 25 tháng 6 (1 tháng Sáu – Kỷ Mão)
628. Vợ chồng bà Dương Thị Chuẩn trở thành Hậu thần xã Thạch Lựu
Tạo Hậu thần bi nhị vị lập năm Cảnh Hưng 20 dựng tại chùa An Tất bản xã (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi việc xã cần tiền nên bán Hậu cho những người nạp cho xã 100 quan sử tiền trở lên. Vợ chồng bà là bậc kỳ lão đã thiên tâm nên trở thành Hậu thần của Thạch Lựu.
Nguồn: T12, tập 12, N011147-48.
Tháng 8 (tháng Bẩy – Kỷ Mão)
629. Hoàn thành Từ đường thờ phụng Tiến sĩ Dương Công Thụ
Thần đạo bi ký do Nguyễn Nghiễm soạn, tạo năm Cảnh Hưng 20, dựng tại đình xã Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên) cho biết
Nay ở bản xã, có ông họ Dương húy là Công Thụ, tự là Nhữ Lâm, hiệu Nhu Thuần, được ban thụy là Ôn Nhã, đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi đời Vĩnh Khánh, làm quan thăng đến Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Nhập thị bồi tụng, Tả tư giảng, Hữu thị lang bộ Lại, kiêm Quốc tử giám tư nghiệp, tước Đạo Phái bá. Ông là người giỏi văn chương, đạo đức siêu phàm, hưởng thọ 58 tuổi, được truy tặng Thượng thư bộ Công, tước Đạo Phái công. Vì ông có công với dân xã, nên khi mất được dân xã chọn đất tốt dựng từ đường, hai người vợ của ông cũng được phối hưởng ở đấy.
Nguồn: T12, tập 6, N05262-63.
NĂM 1762 (NHÂM NGỌ)
Trong năm
630. Nhiều người họ Dương đậu Sinh đồ
Đó là người xã Thổ Hà (nay là xã Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang) Dương Đăng Liên, hiệu Khanh Tương; người thôn Cẩm La (nay là xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh) như Dương Đình Đĩnh, Dương Khiêm Nhu, Dương Doanh Đạt, Dương Hữu Trí, Dương Tăng Thọ.
Nguồn: K7, tr.299, 322-323.
NĂM 1763 (NHÂM NGỌ – QUÝ MÙI)
Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Ngọ)
631. Người họ Dương công đức xây dựng Sinh từ Hoàng Ngũ Phúc – người được Dương Quốc Cơ nuôi dưỡng, rèn cặp
Tân kiến Đại tư đồ Hoàng Thai công Sinh từ bi ký do Nhữ Đình Toản soạn, Nguyễn Nghiễm nhuận sắc, tạo năm Cảnh Hưng 23, ghi rằng:
Mùa đông năm Nhâm Ngọ, tôi rảnh việc công, nghỉ ngơi ở dinh thự riêng. Có khách quan thân cùng một đoàn kỳ mục tới nhà xin yết kiến. Hỏi quê quán thì ra là các vị ở xã Phụng Công huyện Yên Dũng, phủ lộ Lạng Giang. Xem danh thiếp thấy ghi thôn Khang Cù có Dương Hữu Đức, Dương Hữu Tài, Dương Hữu Hoằng, Dương Viết Hán, Dương Bá Nho, Dương Đình Lê, Dương Viết Tiến, Dương Đình Sênh, Dương Công Trực, Dương Viết Bình, Dương Công Quỹ, Dương Hữu Lộc cùng nhiều vị họ Hoàng, Thân, Đào, Nguyễn; thôn Lực Nậu có Dương Huy Tính, Dương Hữu Tự, Dương Viết Tuyền cùng nhiều vị họ Nguyễn, Đào, Ninh; thôn Đông có các vị họ Nguyễn, Lương, Bùi, Đào; thôn Tự có các vị họ Phạm, họ Hoàng, họ Lương, họ Nguyễn; thôn Đống […]. Tóm lại toàn là các vị tai mặt trong xã. Hỏi xem lý do vì sao đến đây thì biết dân bốn thôn trong xã xây dựng Sinh từ thờ Hoàng Thai Công là người của bản xã được Đương triều suy tôn là Suy trung tán trị, Tuyên lực Công thần Trung dũng, Hữu khuông đẳng, Doanh Cơ trưởng Doanh quan, Chưởng phủ sự tham dự triều chính, Đô đốc phủ Tả đô đốc, Đại tư đồ Việp Quận công, nay đến xin văn dựng bia. Tôi vờ ngạc nhiên mà nói rằng: – Có việc đó sao? Các quan Mục thú hiền tài đời xưa làm điều chính sự có lòng nhân huệ mới đủ để được lập sinh từ. Nay dân làng lại làm như vậy là cớ làm sao?
Mọi người vội bước lên chắp tay thưa rằng: – Cây lớn sum xuê thì bóng nó tỏa ra che khắp để mọi người được nhờ. Nay ấp tôi được che chở và mang ơn của Ngài đã từ lâu. Tổ tiên của Ngài đã nhiều đời làm điều nhân đức nổi tiếng trong dân. Đến nay Ngài vẫn dựng nghiệp lớn lao kiệt xuất hơn người, nhờ đức tính diệu kỳ sông núi ban cho mà làm nên công lao vĩ đại, uy thanh tỏa sáng, soi tới xóm làng. Từ năm Giáp Tý lại đây, giặc cỏ, giặc sông giày xéo nơi xóm làng nghèo dân khó như một trận cuồng phong làm cho sẻ đàn tan nghé. Ngài vì thế mà sửa sang rào lũy, tập hợp trai tráng vây quanh ấp, biết nơi hiểm yếu, đủ sức chống giặc mà duy trì sự bình yên. Nhớ khi xưa nhờ có Ngài thống lĩnh ba đạo, xoay chuyển chiến cuộc mà phía Bắc nhổ lũy Xương Hà, triệt đồn Như Thiết rồi dẫn đắt dân lưu vong giúp họ được đoàn tụ. Sau kỳ hoang phế sợi chỉ hết sạch như chùi, mới đầu trở lại nơi ấy dân cư còn ít nhưng định ngạch hàng xã vẫn theo như chế độ thời bình khi trước mà thu thuế theo số nhân khẩu, số lượng lớn không thể kham nổi. Ngài thương dân vai mang mọi việc, tâu xin thiên đình mở lượng ưu ái tới cả chim muông, cho phép sát nhập ấp Lực Nậu bên cạnh lại thành một xã bốn thôn, bớt đi số dân đinh không có thực, tha cho họ những suất không thực đó, Ngài còn tặng biếu nhiều người điêu đứng bệnh tật giúp họ chấm dứt được nỗi khốn cùng, chẳng phải Ông đã che chở cho họ đó sao. Bản ấp ở miền thượng lộ Bắc Giang xưa là nơi trừ mật, bỗng chốc trải qua nhiều sự kiện, của cải nhân lực đã cạn kiệt, quan mục thì như hổ, quan lại như rắn không biết trông cậy vào đâu, Ngài dựa vào công lớn dẹp giặc được thực phong làm thế nghiệp phụ mẫu đã lo lắng cho dân đêm ngày, thu thuế không vượt ngoại lệ, quan lại dịch không phải vất vả vì việc gì khác, lợi thì phát huy, hại thì trừ bỏ. Ngài thường chú tâm tới những nỗi nguy cấp đối với dân. Con đê công quanh tổng trước có cửa cống, lâu ngày đổ nát mà tắc lại, nước to không lối thoát chảy, mảnh đất phì nhiêu sắp thành hoang phế. Ngài đã đề đạt đích thân lãnh nhận việc này, bỏ công xây đắp gâp rút làm ngay, đến nay tiêu thoát tùy thời hạn úng không lo, vạn khoảng đất đã thành ruộng canh tác. Người trồng lúa mùa thu hát ca ngâm vịnh về cây lúa đã là một sự nghiệp hiện thực sung túc. Cái nhân đức của Ngài nổi bật nhất ở chỗ biết cùng vui buồn với dân khi no đói, thăm người đau yếu viếng thăm nhà có tang, thương người cô độc xót người nghèo khổ, ngăn ngừa kẻ kiểu ngạo, răn đe kẻ du tình, cấm uống rượu cờ bạc mà chấm dứt việc tranh giành kiện tụng. Việc giáo huấn đức khiêm nhường truyền đến khắp thôn xóm. Thế rồi Ngài lại tìm nhà nho kỳ cựu mời về mở trường Tây thục, đào tạo nho sinh. Công giáo huấn của Ngài trong từng ngõ xóm không ai không biết rõ, đến nay Nho sinh nhan nhản, tiếng đọc bài râm ran. Trận bút đua tranh, trường thi mở lối lên nho quán mà chấn động biền lâm, thật xứng là một ấp văn hiến. Đều là do công lao hun đúc của Ngài mà nên vậy. Dân về sau tận tâm tận lực với thần. Dựng miếu đình làm nơi cúng tế, tạo xa giá làm nghi thức phụng thờ Thần yên nghỉ ở đó, dân vui với thành quả của mình […].
Ngày khánh thành ai nấy đều nói chung một lời tốt đẹp. Đầu mỗi năm ở đây sẽ là nơi mở lễ chúc phúc sang trọng. Sau khi Ngài mất, ở đây sẽ là nơi mở lễ dâng hương để tỏ lòng thành kính, may ra có thể báo đáp được một hai trong muôn vạn phản đối với Ngài. Hôm nay đến đây định nhờ vào một cây bút để cho con cháu chúng tôi làm theo mãi mãi vẻ sau!
Tôi bước lên nói với các vị ở xã Phụng Công rằng: – Từ xưa có ba thứ bất hủ là lập đức, lập công và lập ngôn. Công và đức của Ngài hẳn là cái được dân ngưỡng mộ mà tôn sùng, tôi đâu có tiếc lời. Tôi vốn biết Ngài là người giữ điều thành thực trong lòng gửi sự trung tín ở nước. Ngài đối với dân làng tôi không biết được, nay theo các vị nói vậy thì ân huệ của Ngài đã xuống tới dân mà dẫn dắt dân theo con đường lễ, chẳng phải là đạo của người quân tử có bốn đó sao”.
Nguồn: T12, tập 9, N08228-29.
Tháng 3 (tháng Hai – Quý Mùi)
632. Quan Thị nội Dương Danh Tiệp được làm Hậu thần xã Khang Cáo
Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 24 dựng tại đình xã Khang Cáo (còn lọi là Cáo Đỉnh, nay thuộc Bắc Từ Liêm – Hà Nội) ghi rằng, Quan Thị nội Thư tả Lại phiên Uẩn Trung hầu Dương Danh Tiệp là người đức độ, thường chu cấp tiền của cho người nghèo. Ông còn cung hiến cho làng 100 quan tiền và 4 mẫu ruộng. Dân làng đã họp bàn bầu cha mẹ và vợ chồng ông làm Hậu thần.
Nguồn: T12, tập 2, N01062-63.
Ngày 10 tháng 10 (4 tháng Chín – Quý Mùi)
633. Dương Thị Ngọc Hoan sinh Trịnh Tông
Dương Thị Ngọc Hoan, người xã Long Phúc, huyện Thạch Hà, có chị làm phi của ân vương Trịnh Doanh, đẻ ra Thụy quận công Trịnh Lộ, được Ân vương rất yêu. Ngọc Hoan do đó mà được vào hầu thế tử Sâm. Từ khi vào phủ, bà ít được tiến ngự. Một đêm mộng thấy thần cho một đoạn vóc hoa thêu hình đầu rồng, liền nói với nội thị là Khê Trung hầu Chu Xuân Hán. Hán cho là điềm sinh quý tử. Ngày hôm sau Sâm cho Hán triệu phi tần tên là Ngọc Khoan, Hán cố ý giả nghe lầm, đưa Ngọc Hoan vào. Sâm thấy đã không thích, nhưng đã gọi đến không nỡ đuổi ra. Lại gọi Hán đến mắng. Hán đập đầu tạ tội nhân đem chuyện nằm mộng của Ngọc Hoan nói với Trịnh Sâm. Sâm lặng im. Ngọc Hoan một lần tiến ngự, có thai, đến đây sinh ra Trịnh Tông. Sâm nghĩ: Rồng dù lạ tượng trưng cho vua nhưng thêu ra, không phải là rồng thực, và lại chỉ có đầu không có đuôi, không phải là điềm hoàn toàn tốt. Lại nhớ lại đời trước có Trịnh Cối và em chúa bấy giờ là Trịnh Lệ cũng đều do phi tần người xã Long Phúc sinh ra, sau đều mưu phản nghịch, nhưng không thành. Ý Sâm càng không thích. Lúc ấy các quan văn võ vào mừng. Sâm chối là không phải vợ đích sinh ra, không nhận lễ mừng.
Nguồn: Đ6, tr.266-267.
NĂM 1764 (GIÁP THÂN)
Mùa hạ
634. Các ông Dương Huy Ánh, Dương Huy Nghi công đức dựng bia làng Trung Nghĩa
Trung nghĩa ký bi do Tiến sĩ Nguyễn Huy Cận soạn, tạo năm Cảnh Hưng 25, dựng tại đình Phú Thị, tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội) cho biết:
“Trung Nghĩa là một cái tên đẹp; ấp ta sao mà có được cái tên như vậy? Từ năm Canh Tuất (1730) đến năm Ất Sửu (1745), quân phỉ thường đến cướp phá làng ta, gây nên khói lửa ngập tràn, tiếng trống mõ trấn động suốt đêm; triêu binh thu lương, tin đồn thất thiệt. Dân địa phương đua nhau chạy giặc, chẳng một ai dám đứng ra đương đầu; đã nhiều lần như vậy. [Nhưng nay đã khác], hôm trước bản ấp tập hợp hương đinh, theo quân binh tiến đánh tiễu trừ bọn cướp; hôm sau lại cùng bản tổng đào hào đắp lũy, giữ vững đồn lũy để phá thế giặc; giữ an ninh làng xóm. Năm Bính Dần (1746) kính phụng Khải chỉ của Vương Thượng, cho quan phủ dụ đem Chỉ chuẩn cho được khen thưởng, gia đặc ân ban cho biển đề 3 chữ “Trung Nghĩa Lý” (làng Trung Nghĩa). Thật vui mừng lắm thay! Ôi, cơ hội mở ra tốt đẹp vậy! Có lẽ mảnh đất giữa ấp ta, vốn là ngôi đất đầu rùa hội tụ, ngưu cước phân anh; chung đúc nên nhiều bậc trượng phu, sinh ra nhiều người trai tài. Chẳng phải là danh thần đầu triều trở lên, thì cũng là những bậc túc nho xuất chúng; họ nêu cao cương thường điển tắc, được cảm hóa bằng Thị, Thư, Lễ, Nhạc; gần gũi với cái đẹp, mà noi theo Nho đạo; coi trọng phép tắc, chuyển hiếu thành trung; vì nghĩa cả mà phấn phát nhân tâm, lũ con em trong làng đều cùng đồng lòng chiến đấu. Thật vậy, một mai có người hỏi rằng: Ai là người chẳng vì nghĩa quên mình, sát cánh bên nhau, cùng giáp binh phu đem cung nỏ, vác câu liêm xông pha nơi trận mạc; hăng hái truy đuổi tàn quân. Phàm là cái gì để có thể giết giặc thù, báo đáp ân vua; thì dù kiếm lớn hay thương dài cũng đều xung trận. Phía trước là lũy cao hào sâu, che chắn mọi bề; cũng không thể ngăn được bước tiến quân đi. Vào đúng thời điểm đó, giữ vững [ ] [ ] để lại tiếng thơm trăm đời. Ô hô! Đương lúc thế trận cam go, các vị quan lớn đương triều trong ấp ta nay đã nghỉ quan, nhưng vẫn hiệp lực cùng nhau với dân làng chống giặc như quan Hiệp thống Đông Dương Tham tụng Tư Mã Nguyễn Huy Nhuận; quan Tham mưu Tây kiểu Thừa chỉ Nguyễn Huy Thuật; quan Hiệp đồng thang ấp Thự Tham chính Nguyễn Huy Dận đã từng tham gia triều chính, xông pha trận mạc; tài năng san núi bạt đồi băng sông, tinh thông võ đạo, khí phách tráng liệt; thấu cả nhật nguyệt, giữ yên sơn hà. Tỏ rõ mưu lược trước công chúng, dẫn dắt mọi người chúng ta. Cũng là để làm rõ những điều tai nghe mắt thấy, phong thái trung nghĩa; mà gia cảnh vẫn chỉ là đạm bạc mà thôi. Chính vì thế, gọi làng ta là Trung Nghĩa, cái tên đó thật xứng danh mà thấu tình. Người xưa có thơ rằng:
Danh tướng mãi còn cùng trời đất,
Tên tuổi ngời sáng cùng trăng sao.
Cái vẻ đẹp đó, ngày nay đã lấy làm Tư văn, ghi chép thành Tư biểu vậy. Chẳng những để tỏ rõ sự khuyến khích của Hoàng Vương, mà còn tỏ rõ sự tôn kính của làng xóm; và cũng là để soi sáng mãi đến vô cùng. Cho nên làm bài minh văn rằng:
Lúc quân phỉ, bức quanh làng,
Sáng khói lửa, chiều tù vang.
Rối như tơ, sôi như canh,
Duy ấp ta, trợ chiến chinh.
Mọi người dân, rào quanh làng,
Tiếng trống báo, tiếng roi ngựa.
Đuổi tướng giặc, giết địch binh,
Tập hợp lính, xếp bày đinh.
Kính vua ta, báo triều đình,
Gió lớn gào, nhuệ khí tranh.
Vàng thua cứng, đá kém trinh
Ai dám cùng dân ấp,
Ai dám quyết giữ thành.
Phẩm trật vua khen thưởng.
Rực sáng biển nêu danh,
Khảng khái triệu anh hào,
Tiếng để đời vang vọng.
Ôi! Cái tên Trung Nghĩa muôn năm còn mãi. Chúng tôi, những người dân lành nhớ mãi câu chuyện này, nên ghi lại vào văn bia”.
Nguồn: T12, tập 4, N03162-3163; T21, tr.767-776.
NĂM 1765 (ẤT DẬU)
Ngày 11 tháng 6 (23 tháng Tư – Ất Dậu)
635. Bà Dương Thị Đôi được tôn làm Hậu phật
Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 26, dựng tại chùa Bảo Sái, xã Vị Trù, tổng Quất Lưu, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay là xã Quất Lưu, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi nhận bà được tôn làm Hậu phật vì đã cùng các bà Phạm Thị Viết, Ngô Thị Lung cúng tiền và 3 sào ruộng để lo việc hương đăng cho nhà chùa.
Nguồn: T12, tập 6, N015114.
Tháng 10 (tháng Chín – Ất Dậu)
636. Vợ chồng Huyện thừa Dương Công Tá được tôn Hậu phật xã Trung Đạo
Hậu phật bi ký (1) do Đồng Tri phủ Dương Khuê soạn, tạo năm Cảnh Hưng 26, dựng tại chùa Sùng Khánh bản xã (nay thuộc Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi rằng, ông Dương Công Tá, Huyện thừa huyện Vĩnh Khang cùng các bà vợ là Dương Thị Diệu, Trần Thị Bính là những người hiếu thảo. Năm Ất Dậu cúng 25 quan tiền giúp sửa đình thờ thần nên cha mẹ ông được bầu làm Hậu phật. Sau đó họ lại cúng 6 sào ruộng làm ruộng hương hỏa. Có ghi thể thức cúng giỗ hàng năm và vị trí diện tích ruộng. Mặt sau là bài vị hai Hậu phật.
Hậu phật bi ký (2), cùng người soạn, tạo cùng thời điểm và dựng cùng địa điểm cho biết thêm, vợ chồng ông bà họ Dương đã kể ở trên lại cúng 25 quan tiền cho làng sửa đình và 1 thửa ruộng làm ruộng hương hỏa. Dân làng nhớ ơn, bầu cha mẹ vợ của ông làm Hậu phật. Có ghi thể thức cúng giỗ hàng năm. Mặt trước là bài vị Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 7, N06910 – 13.
Tháng 12 (tháng Một – Ất Dậu)
637. Sinh đồ xuất thân tiểu tăng họ Dương soạn văn bia Hậu giáp cho xã Yên Viên
Hậu giáp bi ký tạo năm Cảnh Hưng 26 dựng tại điếm Giáp Thượng bản xã (Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang) cho biết bà Nguyễn Thị Phó, hiệu Từ Đoan vợ ông Nguyễn Công, tự Phúc Huệ, là người hiền hạnh, gia đình tuy không giầu, nhưng lại có lòng tốt. Năm Ất Dậu (1745) bà cúng 50 quan tiền sử và 5 sào ruộng cho dân xã, xin được gửi giỗ. Do đó, toàn dân bầu ông bà làm Hậu giáp và cho tổ tiên 2 bên nội, ngoại được phối hưởng.
Nguồn: T12, tập 9, N08391-92.
Trong năm
638. Vợ chồng bà Dương Thị Huân hưng công tạo đúc chuông chùa Thiên Đài
Thiên Đài tự chung khắc trên chuông chùa Thiên Đài, xã Hả Hộ, tổng Hả Hộ, huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hồng Giang, Lục Ngạn – Bắc Giang) cho biết nhà chùa lâu năm vắng tiếng chuông, may nhờ có vợ chồng ông bà người thôn Kép, xã Hả Hộ bỏ tiền của hưng công tạo đức. Việc làm đó lôi cuốn được nhiều nam nữ thiện tín hưởng ứng/
Nguồn: Đ12, tr.535.
Trong năm
639. Dương Thành thi đậu Hương cống
Ông người xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).
Nguồn: D7.
NĂM 1766 (BÍNH TUẤT)
Trong năm
640. Tổng thái giám họ Dương, tự Thế Khanh được tôn làm Hậu thần
Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 27, dựng tại đình thôn Na Mô, xã Úc Sơn, tổng La Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc thị trấn Hương Sơn, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi việc quan Ty Lễ giám Tổng thái giám Đồng Thọ hầu là người tài năng, đức độ, cúng nhiều tiền ruộng cho bản xã, được uan viên và dân chúng yêu quý tôn làm Hậu thần.
Nguồn: T12, tập 11, N010646-47.
NĂM 1767 (ĐINH HỢI)
Tháng 3 (tháng Hai – Đinh Hợi)
641. Tiến sĩ Dương Sử soạn văn bia cho Sinh từ xã Phú Đa
Phúc thần Sinh từ bi ký tạo năm Cảnh Hưng 28 dựng tại Sinh từ xã Phú Đa (Phú Hoa), tổng Tang Đố, huyện Tiên Phong, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay là xã Phú Đa, Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc) ghi về hành trạng và công đức của Lãng Phương hầu Nguyễn Đài công là người chí hiếu với cha mẹ, mẹ ông được phong tặng Quận phu nhân, mẹ bị ốm, hằng đêm ông dâng hương cầu sức khỏe cho mẹ. Khi dân gặp cảnh lưu tán khó khăn, ông cấp ruộng, trâu bò giúp dân qua cơn bĩ cực. Lại mở trường dạy học, cung tiến ruộng học điền 5 mẫu và giúp đỡ địa phương được miễn sưu thuế, binh dịch. Cấp 600 quan cổ tiền làm tiền tuất táng cho các cụ phụ lão, lại cho 2000 quan để xây chùa Phật câu phúc cho dân v.v… Dân nhớ ơn công đức đã tôn bầu ông làm phúc thần, xây sinh từ để đời đời thờ cúng và lập bia ghi lại công trạng của ông lưu lại cho muôn đời.
Nguồn: T12, tập 15, N014533.
642. Thuộc viên Dương Đình Kim được làm Thủ từ xã Phú Đa
Phúc thần điều lệ bi, tạo cùng thời điểm và dựng cùng địa điểm ghi rõ rằng, Bản xã đã xây dựng 1 dãy 5 gian tiền đường của Sinh từ và nghi môn để làm nơi thờ cúng. Giao cho Bá hộ Nguyễn Đình Thước và thuộc viên Dương Đình Kim làm Thủ từ. Bản xã thuận tình miễn trừ sưu sai tạp dịch thuế khóa cho hai vị này để họ lo việc quét dọn và hương khói tại sinh từ. Lại đặt ra các thửa ruộng tự điền của sinh từ, giao cho dân thôn canh tác, lấy tiền hoa lợi lo việc cúng tế hàng năm.
Bên cạnh đó, Từ đường điều lệ bi dựng tại sinh từ vào năm ấy cũng ghi, Bản xã đặt ra các ruộng tự điền giao cho các tộc trưởng lo việc canh tác lấy tiền lo việc hương khói cúng lễ. Các tộc Trưởng không được tự tiện bán các thửa ruộng này.
Nguồn: T12, tập 15, N014531-32.
Ngày 15 tháng 11 (24 tháng Chín nhuận – Đinh Hợi)
643. Dương Trọng Khiêm tố cáo âm mưu phản loạn của Trịnh Lệ.
Thiệu Quận công Trịnh Lệ (em chúa Trịnh Sâm) mưu phản, việc phát giác, sai giam lại. Giết đồ đảng của y là Phạm Huy Cơ (Cơ người xã Đông Bình, huyện Gia Định nay là Gia Bình, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Sửu [1757] đời Cảnh Hưng) và thưởng cho người cáo giác. Trịnh Lệ là người thông tuệ mưu trí. Lúc còn Ân vương, thường có chí cướp ngôi đích. Trước Trịnh Lệ học Phạm Huy Cơ. Cơ có tội bị mất quan, mang lòng oán hận, ngầm xui Lệ làm việc trái phép, dựng bè đảng vây cánh, dẫn Tiến sĩ Dương Trọng Khiêm, Giải nguyên Nguyễn Huy Bá làm gia khách, mưu định đến ngày 24 tháng ấy khởi sự. Khiêm và Bá bèn đến nhà nội giám Thiều Trung hầu Phạm Huy Đĩnh tố cáo. Đĩnh lập tức đến nói với chúa Trịnh Sâm. Chúa sai họp các đại thần hội họp tra tấn. Phạm Huy Cơ biết không thể thoát tội được, thú nhận. Trịnh Lê dâng tờ khai còn che đậy nhưng sự tình làm phản đã bị lộ cả. Trịnh Sâm vốn thương yêu em, làm thư dẫn dụ, lời rất khẩn thiết. Trịnh Lệ thẹn và sợ, xin chịu chết. Đình thần bàn cho Trịnh Lệ chỉ tội chết chém. Cơ phải tội giảo bêu xác. Án đã làm xong, Trịnh Sâm xuống chỉ cho Trịnh Lệ khỏi chết, chỉ giam tù thôi. Phạm Huy Cơ phải tội chém. Dương Trọng Khiêm trước vì khiển trách bị bãi chức, đến nay được thưởng phục chức lại thăng hai cấp. Nguyễn Huy Bá thăng năm cấp.
Đoàn Nguyễn Thục họp các quan ngự sử lại, hặc tội Trọng Khiêm trước đã cùng với Lệ và Cơ tư thông, về sau mới cáo giác, đem công bù tội, không nên thưởng cho thăng cấp. Chúa bèn tước hai cấp thăng của Trọng Khiêm, thưởng cho Thục 30 lạng bạc.
Nguồn: Đ6, tr.302-303.
Trong năm
644. Vợ chồng các ông Dương Nhân Lễ, Dương Thạch Hữu được tôn Hậu thần
Hậu thần bi ký/ Lập đoan ký/ Minh vu hậu tạo năm Cảnh Hưng 28, dựng tại đình thôn Đoài, xã Cổ Trai, tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Ngũ Đoan, Kiến Thụy – Hải Phòng) ghi việc dân thôn Đoài xã Cổ Trai hưng công xây dựng Thiên trụ cần nhiều tiền. Nay các thí chủ (ông Nguyễn Khắc Huy và vợ Vũ Thị Sảo, ông Dương Nhân Lễ và vợ Nguyễn Thị Đàn, ông Nguyễn Công Trọng và vợ Nguyễn Thị Đôi, ông Dương Thạch Hữu và vợ Nguyễn Thị Đan, ông Võ Bách Tuế) mỗi người bỏ ra 50 quan tiền cho làng chi dùng và 2 sào ruộng làm ruộng tế tự cho xã. Quan viên, hương lão, dân xã tôn bầu các ông bà làm Hậu thần. Ghi ngày giỗ của Hậu thần, vị trí, diện tích các thửa ruộng cúng và thể lệ cúng giỗ Hậu thần hàng năm.
Nguồn: T12, tập 11, N010107-10.
NĂM 1768 (MẬU TÝ)
Ngày 13 tháng 4 (27 tháng Hai – Mậu Tý)
645. Vợ chồng Đồng Tri phủ Dương Tá Trung mua Hậu cho người thân tại chùa Sùng Khánh
Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 29, dựng tại chùa Sùng Khánh, xã Trung Đạo, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Trung Hưng, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi rằng, vợ chồng Đồng Tri phủ nghĩ đến cô ruột Dương Thị Thanh chết sớm, không có con cái thờ tự nên đã cúng cho xã 10 quan tiền, 3 sào ruộng để gửi giỗ, được xã chấp nhận, dựng bia ghi lại.
Nguồn: T12, tập 7, N06903-04
Tháng 4 (tháng Ba – Mậu Tý)
646. Người họ Dương xã Bắc Hải viết chữ bia Văn chỉ xã Chương Dương
Văn vận đại hạnh/ Phương danh bất hủ do Tri huyện Gia Viễn Đào Duy Tín soạn văn, tạo năm Cảnh Hưng 29, dựng tại Văn chỉ bản xã, tổng cùng tên (nay là xã Chương Dương, Thường Tín – Hà Nội) ghi, xã Chương Dương hồi trước đã dành 2 sào ruộng và 1 thửa đất dựng thành Văn từ để thờ phụng các vị Tiên hiển. Nay Hội Tư văn cùng các quan viên bản xã hưng công tu sửa lại Văn từ, dựng bia ghi danh sách các vị chức sắc trong Hội Tư văn, họ tên chức tước của các vị Tiên hiền chưa có ở bia cũ và các xứ ruộng của Hội Tư văn bản xã.
Nguồn: T12, tập 8, N07757-58.
Trong năm
647. Dương Truyết, Dương Viên thi đậu Hương cống; Dương Công Văn đậu Sinh đồ
Dương Truyết còn có tên là Dương Tri Trất và Dương Viên đều là người xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An); Dương Công Văn, người thôn Cẩm La (nay là xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh).
Nguồn: D7; K6. Tr.276; K7, tr.323.
NĂM 1769 (KỶ SỬU)
Ngày 26 tháng 4 (21 tháng Ba – Kỷ Sửu)
648. Người họ Dương công đức xây dựng Từ vũ xã Thạch Lựu
Tư văn chức bi ký tạo năm Cảnh Hưng 30 dựng tại văn chỉ bản xã (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi rằng, các ông Dương Công Phiêu, Dương Công Hoán, Dương Văn Trác, Dương Trước Kỳ trong Hội Tư văn nghĩ đến công đức Thánh hiền nên đã quyên góp tiền để xây dựng Từ vũ, lại định ra lệ nhập Hội Tư văn (Người nào đỗ khoa trường phải có lễ vật gồm 1 vò rượu, 1 mâm trầu cau, 1 con gà và l quan tiền đem đến kính yết thì được vào Hội. Người nào chưa thi đỗ nhưng có học vẫn muốn vào Hội thì bản Hội khảo xét thực học rồi đem lễ vật và 6 quan l mạch 40 văn đến kính yết thì được vào Hội).
Hội còn ghi lệ cúng tế hàng năm và một số tự điền để làm cống quỹ.
Nguồn: T12, tập 12, N011151.
Trong năm
649. Dương Đình Giai thi đậu Tiến sĩ võ
Ông quê huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay Yên Dũng thời đó chia ra cho các huyện Tân Yên, Việt Yên và Yên Dũng – Bắc Giang).
Nguồn: H4, tr.97.
NĂM 1770 (CANH DẦN)
Trong năm
650. Các ông họ Dương tham gia việc bầu Hậu thần thôn Đầu Làng
Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 31, dựng tại điếm Chùa, bản thôn thuộc xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) cho biết, các ông Dương Thụ Ngũ, Dương Hữu Dung, Dương Thu Thắng, Dương Hữu Tín, Dương Tông Toàn và một số đại diện các dòng họ khác, nhận thấy bà Nguyễn Thị Cai vốn sống kiệm ước, tính rất khoan hòa, từng cung tiến ruộng và 33 quan tiền cho bản thôn chi dùng việc công nên thuận tình bầu vợ chồng bà làm Hậu thần.
Nguồn: Đ12, tr.678.
NĂM 1771 (TÂN MÃO)
Tháng 11 (tháng Mười – Tân Mão)
651. Dương Huy Diệu thi đậu Hương cống
Lê Hiển Tông xuống chỉ cho mở khoa thi Hương. Năm ấy trường Sơn Nam được lấy đỗ tam trường là Sinh đồ 1000 người, tứ trường là Hương cống 100 người, rồi lại cho các xứ lấy đỗ thêm Sinh đồ: Thanh Hoa 100 người, Yên Quảng, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây đều 80 người; Phủ Phụng Thiên 20 người, Yên Quảng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá và châu Bố Chính cứ 10 người lấy thêm một người.
Khoa thi Hương này, sáu ty ở Thanh Nghệ làm sổ sảo thông bị chậm quá kì hạn, quan chức bị phạt và biếm có thứ bậc. Nghệ An kêu hai ty khảo hạch không công bằng. Tham chính Ngô Thì Sĩ bị đoạt chức đuổi về.
Dương Huy Diệu người xã Phùng Cầu, tổng Phùng Cầu, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Thiệu Thịnh, Thiệu Hóa – Thanh Hóa).
Nguồn: Đ6, tr.333; N11, tr.498.
NĂM 1772 (NHÂM THÌN)
Tháng 2 (tháng Giêng – Nhâm Thìn)
652. Họ Dương công đức tu tạo chùa Pháp Lôi
Hậu/ Phật/ Bi/ Ký tạo năm Cảnh Hưng 33 dựng tại chùa Pháp Lôi, xã Lương Phong, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là xã Lương Phong, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi, xã tu sửa Thượng điện, Tiền đường, Hành lang, Tam quan, tô tượng Phật ở chùa Pháp Lôi. Các ông bà Dương Thế Nhu, Dương Thị Khánh, Dương Thị Đông, Dương Thị Quán thuộc thôn Chấp Pháp (Kẻ Chớp) đã tự nguyện đóng góp cùng một số người dân quyên cúng tổng cộng là 134 quan 8 mạch và 2 mẫu 8 sào ruộng. Quan viên, dân xã đã tôn bầu họ làm Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 10, N09187-90.
653. Hiển Quận công Dương Quốc Cơ được tôn Hậu thần xã Vân Cốc
Hậu thần bi ký do Tiến sĩ Nhữ Công Toản soạn văn bia, tạo năm Cảnh Hưng 33, dựng tại đình xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi, Đô Hiệu điểm ty Tá Hiệu điểm Hiên Quận công Tướng công là người nhân đức. Ông đã xuất tiền của xây 3 gian sau đình và 2 dải vũ trước đình, một khu chùa bốn mặt liền nhau, một gian Tam quan; tất cả đều bằng gỗ lim, lợp ngói, tường đá. Ông lại cúng cho đình một khu đất 4 sào thước, cúng cho 6 giáp một khu ruộng hương hoa gồm 1 mẫu 1 sào 12 thước. Ông được dân xã tôn bầu là Hậu thần.
Dương Quốc Cơ vốn là hậu duệ của Ngô Văn Phòng, Hoàng giáp khoa thi Giáp Thìn (1484), quê ở Phù Vệ, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc Kim Thi – Hưng Yên). Quá trình chuyển từ họ Ngô sang họ Dương hoặc Dương Ngô diễn ra như sau:
Con trai Ngô Văn Phòng là Mậu Đôn, đỗ Tiến sĩ đời Lê Cung hoàng, làm quan cho nhà Lê một thời gian rồi đổi sang họ Nguyễn, phục vụ nhà Mạc, làm đến Binh bộ Thượng thư. Một người con của ông là Nguyễn Thân Bế chuyển cư về Hoa Đường (Đường An – Hải Dương) là cha của Nguyễn Dụng – Hoàng giáp khoa thi Nhâm Thìn (1592) thời Mạc Mậu Hợp, được cử đi sứ, khi trở về theo nhà Lê. Một người con khác của Mậu Đôn là Mậu Du, đậu Tiến sĩ khoa thi Ất Mùi (1565) thời Mạc Mậu Hợp, làm đến Giám sát Ngự sử trở về họ Ngô. Mậu Du có hai con trai. Con trai cả là Ngô Văn Chính, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1647) thời Lê Thần Tông, làm đến Phụng Thiên Phủ doãn. Con trai thứ là Ngô Phúc Lộc, đỗ tứ trường, vợ là Quận chúa Dương Thị Lệ Chi, được các con là Phúc Lan, Phúc Trạch, đổi thành họ Dương Ngô. Sau Phúc Lan sinh Dương Ngô Uyên. Con cả của Dương Ngô Uyên là Dương Đăng Bảo – tức Hoàng Đình Bảo, Hoàng Tổ Lý sau này; còn Phúc Trạch sinh được 6 con trai, trong đó có Dương Quốc Cơ.
Nguồn: T12, tập 8, N07021-23.
Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Thìn)
654. Làng Đồng Khê dựng bia ghi danh Hậu thần họ Dương thời Lê Hồng Đức
Bia không tiêu đề, tạo năm Cảnh Hưng 33, dựng tại đình làng Đồng Khê, tổng An Lương, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay nằm trong thị trấn Nam Sách – Hải Dương) ghi về Nguyễn tướng công Cẩm Y vệ tự Quảng Văn hiệu Đại Khê đỗ Tiến sĩ thời Hồng Đức. Vào năm Ất Dậu (1465) niên hiệu Hồng Đức, Ngài đã cùng với một số vị khác như ông họ Nguyễn vốn là Giám sinh Quốc tử giám và vợ bà họ Dương đã xuất tiền của cho dân chi dùng. Quan viên, dân làng tôn bầu làm Hậu thần.
Nguồn: T12, tập 13, N012303-04.
Ngày 10 tháng 6 (20 tháng Năm – Nhâm Thìn)
655. Bà Dương Thị Hương được tôn Hậu thần xã Cẩm Xuyên
Bia không tiêu đề, tạo năm Cảnh Hưng 33, dựng tại đình bản xã, tổng Cẩm Bào, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay trong xã Xuân Cẩm, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi, vợ Trưởng quan Thị nội giám kiêm Thái giám Đẩu Thọ hầu là bà Dương Thị Hương hiệu Diệu Thanh đã cúng 150 quan tiền sử cho xã Cẩm Xuyên để chỉ dùng vào việc công và 8 sào ruộng để gửi giỗ. Quan viên, dân xã tôn bầu bà làm Hậu thần. Có qui định các thể thức cúng giỗ và ghi lại vị trí, diện tích các thửa ruộng.
Nguồn: T12, tập 9, N08766-68.
Ngày 25 tháng 11 (1 tháng Một – Nhâm Thìn)
656. Dương Nguyễn Huống thi đậu Đệ tam Tiến sĩ
Mùa đông, tháng Mười năm Nhâm Thìn, chuẩn lời tâu của bộ Lễ, sai Phó Đô tướng Quế Quận công Trịnh Bồng làm Đề điệu, Nhập thị Bồi tụng Hộ bộ Tả thị lang Dĩnh Thành hầu Lê Quý Đôn làm Tri Cống cử, Nhập thị Bồi tụng Binh bộ Hữu thị lang Liên Khê hầu Vũ Miên, Hộ bộ Hữu Thị lang Thái Đình bá Vũ Trần Thiệu làm Giám thí, lấy trúng cách 13 người. Qua tháng sau Điện thí, cho 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, 11 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Sử cũ còn chép lại rằng, bấy giờ chúa Tĩnh vương đè nén vua Lê nên không còn sợ gì nữa. Ngay tại trường thi và trước mặt nhà vua vào kỳ thi thứ ba lại ra đề Quân đức nhật tân (Đức của vua ngày càng đổi mới) nhưng chữ tân còn là miếu hiệu của Kính tông Huệ Hoàng đế. Đến kỳ thứ tư, Lê Quý Đôn hầu đề lại có câu Đồ giang dư lương – trong đó chữ giang là tên húy của Dụ tổ Thuận vương. Người đương thời luận rằng đến đây vua chúa không còn kiêng nể lẫn nhau.
Dương Nguyễn Huống là người Ỷ La (nay là phường Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội).
Nguồn: V2, tr.513-515; Đ6, tr.342; T28, tr.92.
NĂM 1773 (NHÂM THÌN – QUÝ TỴ)
Ngày 16 tháng 1 (24 tháng Chạp – Nhâm Thìn)
657. Dương Nguyễn Huống được ghi danh vào bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu
Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh bi ký (Bia Đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn – 1772) do Phan Trọng Phiên soạn, Nhữ Công Toản nhuận sắc, có đoạn:
“Thánh nhân tác thành nhân tài, mà hiền tài làm cho nền trí trị được bền vững lâu dài. Cho nên nuôi dưỡng người tài năng ở trường học, dùng khoa mục để tuyển chọn, là để cho họ làm rạng rỡ pháp độ của vua, làm mưu lược của vua được tốt đẹp, há chỉ cốt làm vẻ hào nhoáng bên ngoài mà thôi đâu! Lớn có thể làm rường cột, nhỏ có thể làm rui mè. Người dũng sĩ, kẻ tâm phúc không ai không được tin dùng, như vậy mới không phụ ý nuôi dưỡng khích lệ nhân tài của nước nhà. Kinh Thi có câu: “Ái ái vương đa cát sĩ, duy quân tử sử” (Lớp lớp triều đình đông đảo hiển tài, do quân tử mà có được như vậy). Khoa này chọn người hiền, ngõ hầu cũng được như thế chăng?
Nguồn: V2, tr.513-515.
Ngày 21 tháng 3 (29 tháng Hai – Quý Tỵ)
658. Con cái các ông bà họ Dương mua Hậu cho cha mẹ tại xã Trung đạo
Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 34, dựng tại chùa Sùng Khánh bản xã, tổng Sài Trang (nay là xã Trung Hưng, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi: Các con của bà Chu Thị Việt là Dương Văn Đội, Nguyễn Đức Mậu và cháu là Dương Thị Ngôn đã cúng cho xã 15 quan tiền, 5 sào 15 thước ruộng. Dân xã tôn bầu cha mẹ họ làm Hậu phật, hàng năm cúng giỗ theo quy định ghi trong bia, lại ghi các xứ ruộng. Mặt trước có bài vị của hai Hậu phật.
Nguồn: T12, tập 7, N06905-07.
Tháng 12 (tháng Một – Quý Tỵ)
659. Dương Quang bày cách cho Tri phủ Ứng Hòa Phan Đức Trạch tổ chức Hương binh bảo vệ xóm làng
Ông người Vân Đình, tổng Phương Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội (nay thuộc Ứng Hòa – Hà Nội), là con Thị giảng Học sĩ Dương Đức Ứng, húy Thụy; phụ thân của Dương Khuê, Dương Lâm, Dương Thị Nhã; lúc trẻ chăm học, có tiếng là hay chữ, đỗ Tường sinh, các quan to đều quý trọng tài, nhưng chật vật mãi về trường ốc, thi luôn hơn 10 khoa. Án sát Hoàng Đình Chuyên dâng sớ cử về học hạnh, được mời nhưng có bệnh xin từ chối. Năm 50 tuổi, con lớn là Dương Khuê đỗ thi Hương, kế đó lại đỗ Tiến sĩ. Từ đó, ông từ tạ từ văn khoa cử, ở ẩn một nơi, lấy kinh sách dạy dỗ con em.
Vốn tính nhân từ, trung hậu, đối với mọi người ôn hòa, chưa từng tỏ vẻ nóng giận, ngày thường, giúp kẻ cùng nghèo cứu người hoạn nạn tất hết lòng, bảo người tất bảo điều thiện; có ai giận, tranh kiện nhau thời lấy lòng thành khẩn hiểu bảo dẫn dụ; cho nên nhiều người được ông cảm hóa. Từng gặp năm đói, ông khuyên dân làng góp của chẩn cấp, do dó làng ông được nêu khen là Nghĩa Hương.
Cuối tháng 11-1873, Garnier đem quân tấn công thành Hà Nội, các phủ thành kế tiếp nhau thất thủ, chỉ có Tri phủ Ứng Hòa Phan Đức Trạch bám lấy phủ thành cố giữ, nhưng trộm giặc nổi to, đánh phá cướp bóc khắp nơi. Đang lúc luống cuống chưa biết xử trí ra sao, Tri phủ Phan Đức Trạch được Dương Quang khuyên làm cái kế đoàn luyện – tức là tổ chức Hương binh. Dương Quang vốn được quý trọng cho nên người ta đều vui lòng hưởng ứng. Ông lại sai con thứ là Cử nhân Dương Lâm giúp đỡ, tổ chức hình, trù hoạch lương, hết sức phòng ngự suốt hơn 2 tháng thì đảng phỉ dần dần giải tán, giữ được vô sự. Sau khi yên rồi, những kẻ bị giặc ép theo, ông lại biện bạch giúp, nhiều kẻ được qua sống, quan Trấn thủ đem sự trạng tâu lệ, được thưởng thụ Hàn lâm viện Cung phụng. Con là Dương Lâm cũng được thưởng hàm ấy. Khi về già, có người con là Dương Khuê lĩnh Định An Tổng đốc sau đó hàm Thượng thư về trí sĩ, còn Dương Lâm qua làm đến Đại thần một địa phương. Các cháu cũng đỗ thi Hương. Nhờ con làm to, ông được phong mãi đến Thiêm sự phủ Thiêm sự. Năm 84 tuổi thời mất, trọng về nết, nhiều người truy mộ.
Nguồn: Đ2, tập 2, tr.703-704.
NĂM 1774 (GIÁP NGỌ)
Tháng 6 (tháng Năm – Giáp Ngọ)
660. Nguyễn Nghiễm soạn văn bia tại đền thờ Dương Quốc Cơ
Tiền chính Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ Hiển Quận công tặng Đô hiệu điểm ty Tả hiệu điểm Dương công Từ vũ ký (Bài ký ở đền thờ ngài Tiền chính Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, Hiển Quận công, Tặng Đô hiệu điểm ty Tả hiệu điểm Dương [Quốc Cơ]), tạo năm Cảnh Hưng 35, dựng tại lăng Quận thuộc xóm Bãi, xã Vân Cốc (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) viết rằng:
“Các ngọn núi ở huyện Yên Việt, liền nối liên hoàn, bắt nguồn từ núi Tiên Lạt nổi lên ở ngọn Thiếu Tổ, chạy đến núi Tam Tầng, vượt qua Trinh Sơn, rồi uốn lượn và hạ xuống đến giáp Bùi ở xã Yên Xá. Tới đây núi bao bọc bốn bề, giữa núi bỗng nhô lên một gò đất cao. Ấy là nơi đặt đền thờ mới của Hiển Quận công vậy. Ông họ Dương, húy Quốc Cơ, người xã Vân Cốc, huyện Yên Dũng. Thuở nhỏ nhậm chức quan, tính tình khẳng khái. Nhờ vang danh tài trí, ông được vua chúa yêu mến: cho vào cung, dần thăng lên quan Võ giai, nắm giữ quân binh, nhận mệnh vua đi sứ phương Bắc, đốc quân binh tuần xét ải Tây, tiếng tăm vang dội một thời, được mọi người kính ngưỡng. Thấy rằng, ông sống hết lòng vì người, tính tình nghiêm nghị trời phú, đam mê thư tịch, yêu thích đạo lý xưa; lấy tính hiếu hữu cư xử trong nhà, đem lòng trung thành thi hành trong nước; tông tộc vui hòa, xóm giềng tốt đẹp. Đức hạnh cao vời của ông lan tỏa muôn nơi, thường yêu dân bằng điều nhân đức.
Chốn sông núi [nơi đặt nhà thờ] này từng được chiêm bói là dầu hiệu của vùng đất kinh dinh, được ông xây dựng thành khuôn viên với quy mô kiểu trùng thiềm điệp ốc, cửa nhà cao ráo sáng sủa, là chốn nhàn hạ lúc nghỉ ngơi. Khi ông [Quốc Cơ] qua đời, vùng đất này tức thì trở nên u tịch. Đến giờ trải hơn 30 năm, quy mô tráng lệ, rực rỡ xưa từ mái hiên đền thờ cho tới cửa nhà thực khó lưu giữ lâu bền được.
Nay, ngôi Từ vũ ấy được người con nuôi của ông là Suy trung Tán trị Tuyên lực Dực vận Đông đức Phụ quốc Tráng liệt Cương chính công thần, Trung dũng – Trung khuông đẳng quân doanh Trưởng doanh quan, quản lãnh Công thần tiền hậu đẳng tích, Chưởng phủ sự, Tham dự triều chính, Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Đại Tư đồ quốc lão trí sĩ Việp công Hoàng thai công [Hoàng Ngũ Phúc] tạo dựng lại vậy. Theo kiến trúc cũ mà chỉnh sửa to lớn hoành tráng thêm. Một gian nhà ngoài, ba gian nhà chính điện được lợp lại với gạch chạm trổ hoa văn mỹ thuật. Bốn phía bao quanh khu này được xây tường vòng cao ráo, dùng truyền lại đến ức muôn đời, được xem là đất nối đời thờ tự.
Tiếp đó, người dân ấp Bùi bố trí ruộng thờ, cấp lệ đinh (trai tráng lo phu dịch), giúp thêm ngân tiền, phẩm vật theo đúng nghi lễ phối hưởng hằng năm. Chép thành điều ước hương hỏa muôn năm, lễ tiết đời đời. Ấy đều xuất phát từ ân tình báo đáp của Quốc lão Việp công đối với ông lớn [Quốc Cơ] chu toàn hết mực vậy. Quốc lão quê ở Phụng Công, với ông lớn đều là người cùng huyện. Hai ông gặp gỡ nhau trong cõi trần ai này là điều mong cầu vô hạn. Lúc sinh thời, ông lớn dạy dỗ Quốc lão nghĩa tình hết mực. Đến như thành tựu vô cùng, công lao vang dội, sự nghiệp lẫy lừng của Việp công phần nhiều đều từ đó mà nên. Hôm nay, Việp công làm việc nghĩa ấy là diều đương nhiên vậy.
Việc trùng kiến đền thờ đã xong, tôi chấp bút trình thuật vài lời vụng về đại khái như thế”.
Nguồn: T12, tập 11, N010722-23.
Trong năm
661. Dựng bia về thân thế, sự nghiệp Dương Tự Minh
Quang Vinh Phúc thần sự lục bi ký tạo năm Cảnh Hưng 35, dựng tại đình xã Quang Minh, tổng Túc Duyên, huyện Động Hỷ, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc thành phố Thái Nguyên) ghi lại rằng, Thần họ Dương húy là Tự Minh là thổ tù ở huyện Phứ Lương làm quan trải qua 3 triều nhà Lý (Nhân Tông, Thần Tông, Anh Tông), được gả công chúa Diên Bình và phong làm Phò mã. Ông có công trong việc đánh dẹp bọn Đàm Hữu Lương nhà Tống sang quấy phá nước ta và trị tội lộng hành của Anh Vũ tư thông với Thái hậu. Về sau ông bị Anh Vũ đầy đi xa rồi chết. Ðời sau ông được vua phong cho làm Phúc thần và lệnh cho dân lập đền thờ cúng.
Nguồn: T12, tập 11, N010668-69.
NĂM 1775 (ẤT MÙI)
Tháng 8 (tháng Bẩy – Ất Mùi)
662. Bà Dương Thị Trang được lập Hậu phật xã Du Lâm
Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 36, dựng tại chùa Nam Bảo, Du Lâm Ngoại, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Mai Lâm, Đông Anh – Hà Nội) ghi rằng bà đã cúng cho xã 18 quan tiền, đặt 5 sào rưỡi ruộng để gửi giỗ cho người chồng quá cố Nguyễn Đốc Thực. Xã nhận tiền và ruộng, lập bia để ghi lời cam kết.
Nguồn: T12, tập 3, N02962-63.
NĂM 1776 (BÍNH THÂN)
Ngày 28 tháng 2 (10 tháng Giêng – Bính Thân)
663. Sơn Nam Đông đạo Tướng quân Dương Quảng Bình viết sự tích Dương Tam Kha theo ghi chép của Tiến sĩ Vũ Huy Trác
Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích còn lại đến ngày nay là nhờ sự ghi chép của ông Nghè khoa Nhâm Thìn Vũ Huy Trác (1772), người xã Lộng Điền, tổng Thượng Kỳ, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Nghĩa Đồng, Nghĩa Hưng – Nam Định) và viên Tả thị lang kiêm Quốc tử Giám Tư nghiệp, Giám quân đạo Sơn Nam, đến thời Tây Sơn về quê dạy học.
Nguồn: C5.
Ngày 6 tháng 4 (18 tháng Hai – Bính Thân)
664. Cử Dương Nguyễn Huống đem cờ ấn tướng quân đến Thuận Hóa
Sau hơn 1 năm chinh chiến ở Đàng Trong, tháng 1-1776 Hoàng Ngũ Phúc rời Phú Xuân để ra Bắc nhưng trong lúc đang nghỉ ngơi trên thuyền đóng ở Vĩnh Dinh (Nghệ An) thì ông đột ngột qua đời. Trước tin dữ ấy, ở Đàng Trong, Nguyễn Phúc Thuần đem quân đóng ở dinh Phiên Trấn mưu khôi phục và chống lại Tây Sơn. Tại Đàng Ngoài, gặp tiết Diên Thọ (9 tháng Hai – Bính Thân, tức 28-3-1776), Trịnh Sâm miễn cho triều thần không phải mừng vì Hoàng Ngũ Phúc chết, bãi chầu nhưng lại bí mật triệu các phụ thần bàn việc Thuận Quảng, sai khoa cấp Sự trung Dương Nguyễn Huống đem cờ ấn tướng quân đến nơi đóng quân để thừa lệnh chúa ban cho Đốc suất Đoan Quận công Bùi Thế Đạt là Đại tướng quân Kiêm trấn phủ Thuận Hóa, được tùy nghi làm việc; Đốc lĩnh Dĩnh Vũ hầu Nguyễn Đình Đống làm Phó tướng quân kiêm Tán lí; Tứ Xuyên bá Phan Trọng Phiên làm Hiệp hành trấn phủ Thuận Hóa. Lại sai Tả thị lang bộ Hộ Dĩnh Thành hầu Lê Quý Đôn làm Tham thị Thuận Hóa, Hiệp trấn phủ, Tham tán quân cơ. Thừa chính sứ Nguyễn Mậu Dĩnh làm Phó đốc thị, Tham hiệp nhung vụ.
Tháng 11-1776, Dương Nguyễn Huống được cử làm Hiến sát sứ Hải Dương.
Nguồn: Đ6, tr.401, 413.
NĂM 1777 (ĐINH DẬU)
Tháng 11 (tháng Mười – Đinh Dậu)
665. Dương Đức Tuyền thi đậu Hương cống
Tháng Chín, thi thư toán ở bãi giữa sông Nhị Hà. Chúa Trịnh Sâm đến cung Vọng Hà xem thi. Từ năm Nhâm Ngọ [1762] đến đấy 16 năm chưa mở khoa thi. Nay Trung thư giám viện xin mở thi, bèn bàn cho thi. Trước sai hai ti các trấn sát hạch làm sổ đệ lên chính đường. Đến bấy giờ mở trường thi chung, trúng tuyển được 1.320 người. Sai Lê Quý Đôn, Phan Trọng Phiên sát hạch lại kĩ càng. Chọn lấy người giỏi bổ làm chức lại ở sáu phiên. Từ đó về sau cứ ba năm lại thi một lần. Đến tháng Mười năm ấy (11-1777) triều đình lại tiếp tục mở trường thi Hương cho sĩ nhân các xứ. Trước đây trường thi, quan sở khảo phúc khảo phần nhiều hợp đảng làm gian. Trước sau tỷ thư đã huấn sức rất là nghiêm ngặt, rốt cuộc không thay đổi được. Chúa biết ý ấy, khoa này hạ lệnh: kì tam trường, tứ trường đổi hết quân sơ khảo, phúc khảo. Quan trường thi Thanh Nghệ và tứ trấn, đổi lẫn cho nhau đi chấm thi. Bởi thế kế gian mất cả.
Dương Đức Tuyền, người Hương Canh – Từ Liêm (nay là phường Phương Canh, Nam Từ Liêm – Hà Nội)
Nguồn: Đ6, tr.432-434; T28, tr.154-155
Trong năm
666. Hai gia đình họ Dương cung tiến tân tạo thạch trụ chùa Vĩnh Ninh
Vĩnh Ninh hưng công tân tạo/ Thiên đài thạch trụ tự ký tạo năm Đinh Dậu, dựng tại chùa thôn Sơn Giao, tổng Sơn Giao, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Ngọc Sơn, Hiệp Hòa – Bắc Giang), ghi tên nhiều thiện tín hưng công – trong đó có Dương Thế Quan – con trai xã trưởng Lương Phong, vợ chồng xã trưởng Ngọc Cục (Yên Thế) Dương Văn Nhật.
Nguồn: Đ12, tr.438.
667. Sĩ tử họ Dương thi đậu Hương cống
Đó là Dương Định Mô – người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), Dương Đức Tuyền, người Hương Canh (Nam Từ Liêm – Hà Nội), Dương Nguyễn Cách, người xã Thụ Ích, tổng Hương Nha, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Liên Châu, Yên Lạc – Vĩnh Phúc).
Nguồn: D7; K6, tr.87, 280.
668. Dương Khải được tôn Hậu phật chùa Hồng Phúc
Hậu phật bi quan tạo năm Cảnh Hưng 40, dựng tại chùa Trang (Hồng Phúc tự), xã Vĩnh Thế, tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) ghi việc Dương Quý hậu – tức Dương Khải công đức tôn tạo lại nhà chùa nên được tôn làm Hậu phật.
Nguồn: T23, tr.239.
NĂM 1780 (CANH TÝ)
Trong năm
669. Hiệu sinh Dương Viết Tu được tôn làm Hậu thần thôn Sơn Linh
Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 41 dựng tại thôn Sơn Linh, xã Úc Sơn, tổng La Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc thị trấn Úc Sơn, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi việc Hiệu sinh là người bản thôn đã cúng cho làng 60 quan tiền, 1 mẫu ruộng để chi vào việc công và gửi giỗ tại đình Quan viên, dân làng tôn ông làm Hậu thần.
Nguồn: T12, tập 11, N010652-53.
670. Dương Bá Đức được tôn là Sinh thần xã Sơn Cốt
Sinh thần bi chí tạo năm Cảnh Hưng 41, dựng tại miếu bản xã, tổng Hoàng Đàm, huyện Phổ Yên, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Đắc Sơn, Phổ Yên – Thái Nguyên) ghi, ông Mậu lâm Tá lang, Tư phủ phủ Trường Khánh Dương Bá Đức là người có hằng tâm. Thấy ngôi Từ vũ sau cơn binh hỏa đổ nát, ông bèn cung tiến hơn 200 cây xoan, l mẫu ruộng tốt, sau lại cúng thêm 30 cây và 3 sào ruộng để tu sửa. Mọi người nhớ ơn bèn bầu là Sinh thần, dựng bia lập đoan ước thờ cúng.
Nguồn: T12, tập 11, N010271-72.
671. Dương Hữu Nguyên đỗ Sinh đồ
Ông người Cẩm La (nay thuộc thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh)
Nguồn: K7, tr.321.
NĂM 1781 (TÂN SỬU)
Tháng 10 (tháng Chín – Tân Sửu)
672. Các bà họ Dương được tôn Hậu phật xã Mộ Chu
Hậu phật bi ý tạo năm Cảnh Hưng 42, dựng tại chùa bản xã, tổng cùng tên, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc thành phố Việt Trì – Phú Thọ) ghi tên các lão bà Dương Thị Huệ, Dương Thị Cự, Dương Thị Chấn… được quan viên, hương lão tôn làm Hậu phật sau khi góp tiền tôn tạo nhà chùa.
Nguồn: T12, tập 14, N013896.
NĂM 1782 (NHÂM DẦN)
Ngày 11 tháng 3 (28 tháng Giêng – Nhâm Dần)
673. Dân thôn Bảo Tháp khắc lại bia ghi danh Thiền sư Dương Giáo Hải
Hoa Sơn tự bi/ Tín thí tạo năm Cảnh Hưng 42 tại chùa bản thôn, xã Chi Đông, tổng Da Thượng, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là thị trấn Chi Đông, Mê Linh, – Hà Nội) ghi, núi Kim Hoa là một danh thắng ghi dấu Xích Tùng Tử ngày xưa từng tới du ngoạn. Chùa ở núi này đã được nhiều bậc thiền sư nổi tiếng như Dương Giáo Hải, Nguyễn Không Lộ, Từ Đạo Hạnh, Đặng Tấn Mại, Ngô Khuông Việt tu hành và đắc đạo. Hàng năm vào ngày 14 tháng Hai tổ chức lễ cầu phúc, các nhà sư nước Phật tới Cầu Ván xã Đông Cao hành lễ để được mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt. Nhưng hiềm vì qui mô chùa chưa được tráng lệ nên trước đây Hoằng Quận công đã tiến hành tu bổ mở mang. Đến nay trải lâu ngày chùa bị hư nát. Quan viên và thiện tín bản xã quyên góp tiền của trùng tu lại. Năm Đinh Sửu (1757) hoàn thành việc xây dựng sửa chữa, năm Mậu Dần (1758) tô 11 pho tượng phật. Văn bia cho biết, nội dung kể trên nguyên là văn bia cũ dựng vào năm Diên Thành thứ 2 (1579), do Phủ sinh Ngô Kim Bảng soạn. Sau đợt trùng tu chùa vào năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716), đến năm Canh Tí, Tân Sửu (1780 – 1781) thì bia cũ bị mẻ vỡ. Nay dân xã cho tu sửa khắc lại để lưu truyền lâu dài.
Nguồn: T12, tập 7, N06394-95.
NĂM 1783 (QUÝ MÃO)
Ngày 5 tháng 3 (3 tháng Hai – Quý Mão)
674. Vợ chồng bà Dương Thị Hạp được tôn Hậu phật thôn Du Lâm Ngoại
Bia không tiêu đề, tạo năm Cảnh Hưng 44, dựng tại chùa Nam Bảo bản thôn (nay thuộc xã Mai Lâm, Đông Anh – Hà Nội) ghi việc ông bà đã cúng 19 quan tiền cổ, 4 sào ruộng để trợ giúp việc tu sửa chùa.
Nguồn: T12, tập 3, N02977.
Tháng 3 (tháng 2 – Quý Mão)
675. Bà Dương Thị Ả cùng chồng được tôn làm Hậu phật chùa Quất Lưu
Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 44, dựng tại chùa bản xã, tổng cùng tên, huyện Yên Lãng, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Quất Lưu, Bình X