Thông báo về việc góp ý dự thảo cuốn “Họ Dương Việt Nam – Biên niên sự kiện và sử liệu”

Ngày 3/3/2020, ông Dương Công Minh – Chủ tịch Hội đồng Họ Dương Việt Nam đã ký thông báo về việc góp ý dự thảo cuốn “Họ Dương Việt Nam – Biên niên sự kiện và sử liệu”. Ban Thông tin truyền thông xin đăng tải thông báo và toàn văn dự thảo này để bà con nghiên cứu và có ý kiến đóng góp.

TOÀN VĂN DỰ THẢO CUỐN HỌ DƯƠNG VIỆT NAM Biên niên sự kiện và sử liệu”

Xem link Drive: Tại đây

TẬP I (40 – 1945)

Khổng Đức Thiêm (Biên soạn)

Bản thảo lần thứ nhất

 

THỂ THỨC BIÊN SOẠN

(thay Lời mở đầu)

Kể từ sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, họ Dương Việt Nam chính thức bước vào những trang sử chống ách đô hộ của ngoại tộc, tuy ngắn nủi nhưng vẫn để lại tiếng vang một thời, tạo tiền đề để nhiều thế kỷ sau đó, họ Dương trở lại với tư cách là chủ thể của cuộc nổi dậy Dương Thanh, của công cuộc xây dựng nền tự chủ Dương Đình Nghệ – Dương Tam Kha, của việc gánh vác cơ đồ Đại Việt kéo dài gần một thế kỷ từ Dương Hoán Lý Thần Tông đến Chiêu Thánh Nữ Hoàng và được nhắc lại một thời vang bóng vào thời Trần với sự xuất hiện của Dương Nhật Lễ, trong thời nhà Minh thống trị với tiểu triều đình của Dương Cung.

Chặng đường lịch sử trải từ thế kỷ XI đến sau này, với sự xuất hiện của những đại thụ – những trụ chống trời Dương Cảnh Thông, Dương Tự Minh, Đào Dương Bật, Đào Sư Tích ở hai thời kỳ Lý – Trần; Dương Chấp Trung, Dương Đức Nhan, Dương Tông Hải, Dương Bang Bản, Dương Trực Nguyên, Dương Phúc Tư, Dương Trí Trạch trong thời Lê – Mạc… chứng tỏ rằng, vào bất cứ thời điểm nào, họ Dương cũng cống hiến cho dân tộc bằng chính những đỉnh cao của một trí tuệ với những bộ óc trác việt.

Lướt qua một vài sự kiện, một số nhân vật tiêu biểu của họ Dương Việt Nam trong một quá khứ không gần để thấy rằng việc tìm tòi sử liệu, biên soạn một bộ lịch sử về dòng họ Dương Việt Nam là hết sức cần thiết. Muốn làm được điều này, trước hết phải phục dựng lại từng chặng đường cống hiến của bao lớp người còn được ghi nhận trong sử sách, bi ký, gia phả, tộc phả và thậm chí còn cả ở các thần phả thông qua phương pháp biên soạn biên niên sự kiện lịch sử.

Biên niên sự kiện và sử liệu – trước hết được xây dựng thông qua các nguồn tư liệu và sử liệu chính thống trong các thư tịch cổ, tài liệu được ghi chép bằng hệ thống bia ký, các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học. Điều này có nghĩa là, ngoài các bộ sử chính thống của nhà nước qua các triều đại còn có các tài liệu lưu trữ rải rác khắp thôn xóm và dòng họ hoặc các cơ quan nhà nước dưới dạng văn bia, gia phả, tộc phả, thi ca, truyện ký. Kể từ khi Hội đồng họ Dương Việt Nam được thành lập, sự xuất hiện các văn kiện, nghị quyết, trang thông tin, kỷ yếu hoạt động, báo cáo của các chi hội hoạt động và sinh hoạt… đã tạo ra một nguồn tư liệu quan trọng để biên soạn biên niên sự kiện và sử liệu của dòng họ.

Để biên soạn công trình này, về cổ sử, tác giả căn cứ chủ yếu vào 4 bộ: Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên Đại Nam thực lục – trong đó, Việt sử lược cung cấp khá trọn vẹn những sự kiện xảy ra từ thời Thần Tông Dương Hoán đến Chiêu Thánh Nữ Hoàng thông qua những ghi chép khá trung thực, khách quan, đủ sức bác bỏ nhiều nhận định mà những bộ sử được ghi chép sau đó về sự nhu nhược, sa đọa của những vị Hoàng đế nhà Lý cuối cùng, xác nhận hiện trạng một cây hai gốc ngay sau sự kiện Thần Tông Dương Hoán phong phụ thân Sùng Hiền hầu là Thái Thượng Hoàng, mẫu thân Đỗ Thị là Hoàng Thái hậu qua hình tượng cây đèn để ở bàn thờ vua Nhân Tông sinh ra 2 ngọn trong khi Đại Việt sử ký toàn thư cũng mượn lời của Sử thần Lê Văn Hưu ví việc làm này chẳng hóa ra hai gốc ư?

Nếu Việt sử lược cho nhiều cứ liệu quan trọng kể từ khi Dương Hoán lên ngôi cho đến thời điểm chuyển giao ngôi báu cho nhà Trần thì Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên ghi nhận nhiều sự kiện liên quan đến dòng họ vào thời Trần, Lê Sơ, Nam – Bắc triều, Trịnh – Nguyễn phân tranh và Lê Trung Hưng. Đại Nam thực lực cung cấp tư liệu, sử liệu tiếp theo cho đến những năm đầu của thế kỷ XX.

Trong 4 bộ sử kể trên, điều đáng lưu ý nhất, những ghi chép về nhà Lý – nhất là nửa cuối Vương triều, sử liệu do Việt sử lược đưa ra đáng tin cậy và khách quan hơn. Ngoài ra, có thể khai thác thêm trong Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử cương mục tiết yếu, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử tiêu án, Đại Việt thông sử, Lịch triều tạp kỷ và nhiều cổ thư khác.

Về tài liệu Hán – Nôm, quan trọng nhất là bộ Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm gồm 22 tập, mỗi tập khoảng 1000 thác bản được chụp theo khuôn khổ 24cm ´ 31,5cm, cung cấp hầu như các bản dập văn khắc do Viện Viễn đông Bác cổ Pháp (EFEO) tiến hành tại hơn 40 tỉnh hồi đầu thế kỷ XX, thu thập được 11.651 đơn vị văn khắc với 20.980 mặt thác bản. Đây là nguồn cứ liệu cơ bản để tác giả xây dựng hệ thống sự kiện và sử liệu về họ Dương Việt Nam ngoài các bộ cổ sử. Tuy được coi là nguồn tư liệu và sử liệu phong phú và đáng tin cậy nhưng trong quá trình khai thác, tác giả nhận thấy một vài thác bản bị ngụy tạo về thời điểm xuất hiện của bia văn (thác bản N02699-2700, thác bản N03569 chẳng hạn, liên quan tới Dương Bá Cung thời Nguyễn nhưng ghi tạo dựng vào năm Lê Hoằng Định 16 – 1615; năm Cảnh Hưng 1 – 1740); nhiều văn bia ghi chép về công lao người họ Dương nhưng không có thời điểm tạo dựng (các thác bản N01064, 1065, 1145, 5185, 7921, 15227, 15315 chẳng hạn). Lại có nhân vật như nhà sư Dương Tâm Viên trụ trì tại chùa Hồng Phúc – nay ở số 19 Hàng Than, Hà Nội có tới 4 thác bản liên quan nhưng thời điểm tạo dựng cách nhau có khi hàng thế kỷ (thác bản N048477-90 do Hà Tông Mục soạn, Dương Tâm Viên tạo khắc vào năm Quý Mùi – 1703; thác bản N013541 do Dương Tâm Viên tạo khắc ghi năm Gia Long 10 – 1811; thác bản N015343 do Dương Tâm Viên soạn ghi năm Giáp Tuất – có khả năng là năm 1874 hoặc 1934 vì trong lời văn đã gọi Hà Nội là Hà Thành, cách gọi phổ biến về Hà Nội hồi đầu thế kỷ XX. Chính vì thế, tác giả tạm gác lại chờ xác tín sau.

Về các bản gia phả, tộc phả hiện lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam, tác giả đặt niềm hy vọng lớn vào Dương tộc kỷ sử (còn có tên gọi khác là Lý tộc, Dương tộc gia phả) được cho là do Dương Hữu Tự Do soạn vào năm Đinh Dậu (1597) nhưng khi bắt tay vào khai thác, tác giả có cảm giác tài liệu được làm mới vào những năm gần đây khi hàng loạt đơn vị hành chính được gọi là tỉnh như Bắc Ninh, Nam Định, Phú Thọ, Ninh Bình – những sản phẩm được tạo ra trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX nhưng đã xuất hiện trong văn bản. Đó là chưa kể lối hành văn có vẻ của người mới học Trung văn sau này. Trên Nghiên cứu Lịch sử (số 4/2011), tác giả Thái Minh, công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã căn cứ vào văn bản trên công bố bài viết Dương Hoán Lý Thần Tông họ Lý hay họ Dương? Có chụp tờ 2b, 5b trong tài liệu để giới thiệu với bạn đọc, nhưng đã 8 năm trôi qua không có phản hồi. Chúng tôi cho rằng bài viết không có sức thuyết phục và tài liệu để làm cơ sở khoa học, nhìn vào là thấy ngay bị người sau thêm bớt.

Như vậy, lẽ ra Dương tộc kỷ sử (Lý tộc, Dương tộc gia phả) mới là văn bản có giá trị và mang tính thuyết phục cao nhất để chứng minh rằng Thần Tông Dương Hoán là ngoại thích của họ Lý, là ông vua đầu tiên của họ Dương vừa có trách nhiệm nối mạch vương triều, vừa có nghĩa vụ bảo toàn một cuộc chuyển giao êm đẹp, kể cả đối nội lẫn đối ngoại. Tiếc thay, không rõ vì lý do nào đó, văn bản tự làm cho mình mất chỗ đứng trong kho tàng văn bản sử liệu của dòng họ. Những tên gọi các nhân vật kể từ thời Hùng Vương tới Lý, những cống hiến của những nhân vật ấy có lẽ cũng bị sửa sang theo, vì vậy cũng chịu số phận cáo chung. May thay, một dòng trong Việt sử lược, một lời bàn của Sử thần Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử ký dù quá cô đọng nhưng trở thành cứu cánh và lời khẳng định rằng, Vương triều Lý kể từ Thần Tông Dương Hoán thực chất là cơ nghiệp họ Dương. Hàng chục sự kiện và sử liệu mà chúng tôi trình bày tiếp theo về một cuộc vật lộn thực sự, một cuộc đấu tranh thực sự để bảo vệ sự sống còn của họ Dương – trong đó có cuộc đòi trả vương triều cho tôn thất nhà Lý mà Thân Lợi – Triệu Trí Chi là đại diện nhưng bất thành đã minh chứng.

Những văn bản còn lại như Chương Xá Dương tộc gia phả, Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Binh Vương sắc phong phúc thần sự tích, Dương Đình tộc phả ký, Dương thị khoa phả, Dương tộc gia phả, Đại tộc khoa hoạn công thần huân nghiệp gia phả chí, Họ Dương trong cộng đồng dân tộc, Họ Dương Quỳnh Đôi, Lạc Đạo Dương tộc phả, Lý lịch đền thờ Bình Vương Dương Tam Kha tại thôn Thành Đạt, Lý lịch họ Đào Đông Trang, Nhị Khê Dương gia thế phả, Tư liệu Hán Nôm về Bình Vương Dương Tam Kha ở đền Cổ Lễ, Tư liệu Hán Nôm về Trạng nguyên Dương Phúc Tư, Tư Thế Dương tộc gia phả, Vài nét về họ Dương khu Nguyễn Xá, Vĩnh Mỗ Dương tộc gia phả… thực sự có giá trị và bổ ích với tác giả.

*

*     *

Thông thường, Biên niên sự kiện và sử liệu được coi là công việc hoặc việc làm đầu tiên, nhất thiết phải có trước khi biên soạn bộ lịch sử chính thức. Chỉ có trên cơ sở bộ sách này hoàn thiện thì những bước đi tiếp theo để biên soạn bộ lịch sử chính thống mới hình thành được các chương mục và các dấu mốc quan trọng mà bộ sử bắt buộc phải có. Hơn thế nữa, nhiều khi Biên niên sự kiện và sử liệu còn tồn tại như một công trình khoa học độc lập bởi không phải bất kỳ sự kiện hoặc sử liệu nào xuất hiện trong bộ sách này cũng có mặt hoặc được thể hiện dưới dạng thông sử. Nói cách khác, mỗi công trình có một phương thức để đến với người đọc và một sự hứng thú riêng khi đọc, khi sử dụng hoặc thưởng thức chúng.

Ở công trình này, mỗi sự kiện và sử liệu được trình bày theo một thể thức thống nhất gồm:

1.

NIÊN ĐẠI: Tuân thủ theo tiến trình thời gian là ngày / tháng / năm dương lịch. Niên đại sẽ được đặt ở mỗi đầu sự kiện. Tập 1 của bộ sách này kéo dài từ năm 40 đến năm 1945 do đó, trong ngoặc kèm theo là ngày / tháng / năm âm lịch ghi theo thứ tự sau đây:

Dòng thứ nhất: năm dương lịch (năm âm lịch)

Dòng thứ hai: ngày, tháng dương lịch (ngày, tháng, năm âm lịch)

hoặc: các mùa, trong năm khi không tìm được ngày, tháng

hoặc tài liệu không ghi theo năm, tháng hoặc theo mùa vụ. Tháng 11 âm lịch được ghi là tháng Một; tháng 12 âm lịch là tháng Chạp; tháng 1 âm lịch là tháng Giêng. Các tháng âm lịch còn lại được ghi bằng chữ (Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bẩy, Tám, Chín, Mười).

2. TÊN SỰ KIỆN: Dựa vào nội dung chính của sự kiện.

3. NỘI DUNG SỰ KIỆN VÀ SỬ LIỆU: Dùng nguyên văn, dùng có sắp xếp câu chữ hoặc cách hành văn để bảo đảm sự mạch lạc, dễ hiểu nhưng vẫn cố gắng giữ lại lối hành văn.

Xin được nói thêm, với quan niệm triều Lý, kể từ khi Dương Hoán lên ngôi cho đến khi Chiêu Thánh Nữ Hoàng nhường ngôi, về thực chất chính quyền của Vương triều Lý do những người họ Dương nắm giữ và quyết định mọi vận mệnh của đất nước, do đó tác giả đã lựa chọn những sự kiện quan trọng đối với đất nước trong suốt gần một thế kỷ đó để đưa vào nội dung sự kiện và coi đó là thành tựu hoặc hệ quả của nền cai trị mà các Hoàng đế triều Lý vốn gốc họ Dương điều hành đất nước.

Hơn thế nữa có một số sự kiện, sự ghi chép giữa Việt sử lượcĐại Việt sử ký có độ vênh về thời gian, tác giả lấy nguyên tắc dựa vào Việt sử lược làm chính để từ đó có những điều chỉnh hợp lý.

Ngoài ra, những văn bản thời Lý có giá trị, các bài minh trên chuông cũng được tác giả triệt để khai thác và có những đóng góp mới về mặt sử liệu cho thời kỳ này.

4. NGUỒN: Dưới mỗi sự kiện đều ghi đầy đủ nguồn để người sử dụng tra cứu, đối chiếu – theo đó chủ yếu là những tài liệu gốc, tài liệu tham khảo đáng tin cậy được xếp lên trước.

Trong sách này, nguồn được ký hiệu theo chữ cái đầu tiên của tài liệu, chủ yếu được sắp xếp theo thứ tự abc, tiếp đó là thứ tự số Ai Cập. Nếu là sách, sau ký hiệu tên sách (gồm chữ cái đầu tiên, số thứ tự sắp xếp theo số Ai Cập), sẽ là thứ tự tập, quyển (Q), trang (tr). Đối với Tạp chí, lần lượt là ký hiệu tạp chí, số tạp chí, năm xuất bản, số trang (tr). Những tài liệu khác về gia phả, tộc phả, thần phả thì chỉ ghi ký hiệu của loại tài liệu đó.

Dưới đây là Ký hiệu tên tài liệu dùng làm nguồn cho mỗi sự kiện hoặc mỗi sử liệu.

A

A1.    An Nam chí lược (2009). Lê Tắc (Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế dịch), Nxb Lao Động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

A2.    An Nam chí nguyên (2017). Cao Hùng Trưng (Hoa Bằng dịch), Nxb ĐHSP.

A3.    An Nam truyện (2018). Châu Hải Đường dịch, Nxb Hội Nhà văn.

B

B1.    Bách thần lục (2018). Nguyễn Văn Tuân dịch chú, Nxb ĐHSP.

B2.    Bản tin họ Dương Việt Nam (http://hoduongvietnam.com).

B3.    Bản triều bạn nghịch liệt truyện (1963). Kiều Oánh Mậu (Trần Khải Văn dịch), Bộ Quốc gia Giáo dục.

B4.    Bảng tra thần tích theo làng xã Việt Nam (2012). Nguyễn Thị Phương (chủ biên), Nxb VHTT.

B5.    Bắc Giang địa chí (1937). Trịnh Như Tấu. Nhật Nham thư quán.

B6.    Biên niên sự kiện lịch sử MTDTTNVN (2004). Trần Hậu (Chủ biên, Nxb CTQG, tập 1 (1930-1954).

B7.    Biên niên lịch sử Văn phòng Chính phủ (2010). Khổng Đức Thiêm (Chủ biên), Nxb. Tư pháp, 3 tập.

C

C1.    Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919 (1993). Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Nxb Văn Học.

C2.    Các thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy (2009). Vũ Thanh Sơn, Nxb VHTT.

C3.    Châu bản triều Tự Đức 1848 – 1883 (2003). Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát dịch, Nxb Văn Học.

C4.    Chương Xá Dương tộc gia phả (2014), Dương Văn Đảm dịch, lưu trữ Văn phòng họ Dương Việt Nam.

C5.    Các tác giả văn chương Việt Nam (2015). Trần Mạnh Thường, Nxb Hồng Đức, tập 1.

C6.    Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích (1776). Vũ Huy Trác soạn. Bản dịch lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

C7.      Công dư tiệp ký (2001). Vũ Phương Đề (Đoàn Thăng dịch), Nxb Văn Hóa.

D

D1.    Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu (1993), 3 tập, Trần Nghĩa – Francois Gros (Chủ biên), Nxb KHXH.

D2.    Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu, Bổ di I (2002), Q. thượng, Q. hạ, Trần Nghĩa (Chủ biên), Nxb KHXH.

D3.    Di tích lịch sử – văn hóa tỉnh Bắc Ninh (2013), Lê Viết Nga (Chủ biên), Bảo tàng Bắc Ninh xuất bản.

D4.    Dương Bá Trạc – con người và thơ văn (2012). Chương Thâu, Nxb VHTT.

D5.    Dương Danh Lập – cuộc đời và sự nghiệp (2013). Dương Xuân Thự, Nxb Văn Học.

D6.    Dương Đình tộc phả ký (2005). Dương Đình Khải ghi chép.

D7.    Dương thị khoa phả.

D8.    Dương tộc gia phả (1916).

D9.    Dương tộc kỷ sử (1597). Dương Hữu Tự Do soạn, Nguyễn Đức Thụ dịch (2019).

Đ

Đ1.    Đại Nam Kinh Bắc trấn Lạc Đạo xã Dương thị thế phả. Dương Chi biên soạn, Dương Doanh chép lại.

Đ2.    Đại Nam liệt truyện (2014). Quốc sử quán triều Nguyễn.
Đỗ Mộng Khương và các bậc túc nho dịch, Nxb Thuận Hóa, 2 tập.

Đ3.    Đại Nam nhất thống chí (2012). Quốc sử quán triều Nguyễn, Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb Lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2 tập.

Đ4.    Đại Việt sử ký toàn thư (2013). Cao Huy Giu dịch, Nxb Thời Đại.

Đ5.    Đại Việt sử ký tiền biên (2018). Dương Thị The, Lê Văn Bảy, Nguyễn Thị Thảo, Phan Thị Thoa dịch, Nxb Hồng Đức.

Đ6.    Đại Việt sử ký tục biên (2012). Ngô Thế Long,Nguyễn Kim Hưng dịch, Nxb Hồng Bàng.

Đ7.    Đại Việt thông sử (1978). Lê Quý Đôn (Ngô Thế Long dịch), Nxb KHXH

Đ8.    Đại Nam thực lục (2007). Quốc sử quán triều Nguyễn. Nguyễn Ngọc Tỉnh và các bậc túc nho dịch, Nxb Giáo Dục, 10 tập.

Đ9.    Đại Nam thực lục – Đệ lục kỷ (2011). Quốc sử quán triều Nguyễn. Cao Tự Thanh dịch, Nxb VHVN.

Đ10.  Đại Nam thực lục – Đệ thất kỷ (2012). Quốc sử quán triều Nguyễn. Cao Tự Thanh dịch, Nxb VHVN.

Đ11.  Đại tộc khoa hoạn công thần huân nghiệp gia phả chí. Dương Văn Tất, Dương Văn Đảm dịch, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

Đ12.  Địa chí Bắc Giang – Di sản Hán Nôm (2013), Lâm Giang – Nguyễn Đình Bưu (Chủ biên), Sở VHTT Bắc Giang.

Đ13.  Địa chí Hải Dương (2009). Tập thể tác giả, Nxb CTQG, 3 tập.

Đ14.  Địa chí Quảng Ninh (2003). Tập thể tác giả, Nxb Thế Giới, 3 tập.

Đ15.  Địa chí Thái Bình (2010). Tập thể tác giả, Nxb VHTT.

Đ16.  Địa chí Thái Nguyên (2009). Tập thể tác giả, Nxb CTQG.

Đ17.  Địa chí Thăng Long – Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm (2007). Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Văn Nguyên (Chủ biên), Nxb Thế Giới.

Đ18.  Địa chí Vĩnh Phúc (2012). Tập thể tác giả, Nxb KHXH.

Đ19.  Địa chí Yên Phong (2002). Tập thể tác giả, Nxb Thanh Niên.

Đ20.  Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán Nôm (2008). Đinh Khắc Thuân (Chủ biên), Nxb KHXH.

Đ21.  Địa phương chí tỉnh Hải Dương qua tư liệu Hán Nôm (2008). Đinh Khắc Thuân (Chủ biên), Nxb KHXH.

Đ22.  Đồng Khánh, Khải Định chính yếu (2010). Quốc sử quán triều Nguyễn, Nguyễn Văn Nguyên dịch, Nxb Thời Đại.

Đ23.  Đời nay cung tiến, đời sau phụng thờ (2015). Vũ Thị Mai Anh, Nxb Thế Giới.

G

G1.     Giải mã kho báu văn chương (2018). Vũ Bình Lục, Nxb Hội Nhà Văn, 5Q.

G2.    Gián nghị Đại phu Lại Linh bậc trung thần triều Lý (2017). Mai Hồng (Chủ biên), Nxb TT&TT.

H

H1.    Hà Nội qua tài liệu và tư liệu lưu trữ 1873 – 1954 (2010). Đào Thị Diến (Chủ biên), Nxb Hà Nội, 2 tập.

H2.    Hải Dương phong vật chí (2009). Trần Công Hiến – Trần Huy Phác, (Nguyễn Thị Lâm dịch), Nxb Lao Động.

H3.    Họ Dương Quỳnh Đôi.

H4.    Họ Dương trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (2008). Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

H5.    Hoàng Hoa Thám 1836 – 1913 (2016). Khổng Đức Thiêm, Nxb Tri Thức.

H6.    Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu (1963). Nguyễn Bá Trác, (Bửu Cầm và nhiều bậc túc nho dịch), Bộ QGGD.

K

K1.    Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (2004). Quốc sử quán triều Nguyễn. Cao Huy Giu dịch, Nxb Giáo Dục.

K2.    Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ nghịch phỉ phương lược chính biên, Tập 1, Q. Thượng, Q. Hạ – Bắc Kỳ; Tập 2 – Nam Kỳ (2009). Cơ mật viện – Nội các triều Nguyễn, Đỗ Mộng Khương – Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Nxb Giáo Dục.

K3.    Khâm định Việt sử thông giám cương mục (2007). Quốc sử quán triều Nguyễn. Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp dịch, Nxb Giáo Dục, 2 tập.

K4.    Khoa bảng Nghệ An 1075 – 1919 (2000). Đào Tam Tỉnh, Nxb Nghệ An.

K5.    Khoa cử Việt Nam. Cử nhân triều Nguyễn (2019). Nguyễn Thúy Nga (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.

K6.    Khoa cử Việt Nam. Hương cống triều Lê (2019). Nguyễn Thúy Nga (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.

K7.    Khoa cử Việt Nam. Sinh đồ triều Lê, thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn (2019). Nguyễn Thúy Nga (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.

K8.    Khoa cử Việt Nam. Tú tài triều Nguyễn (2019). Nguyễn Thúy Nga (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.

K9.    Khởi nghĩa Bãi Sậy (2009). Vũ Thanh Sơn, Nxb VHTT.

K10.  Khởi nghĩa Duy Tân, Thái Phiên – Trần Cao Vân qua các tài liệu mới (2018). Nguyễn Trương Đàn, Nxb Thanh Niên.

K11.  Khởi nghĩa Lam Sơn 1418 – 1427 (2005). Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Nxb QĐND.

L

L1.     La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn trước tác (1998), Tập II, Phần II. Lịch sử, Nxb Giáo Dục.

L2.     Lạc Đạo Dương tộc gia phả (1992). Dương Văn Phiến soạn, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

L3.     Lạc Đạo xã lịch triều đăng khoa khảo. Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

L4.     Lịch sử Việt Nam (2013), Tập thể tác giả (Viện Sử lược), 15 tập, Nxb KHXH.

L5.     Lịch triều tạp kỷ (1975). Ngô Cao Lãng (Hoa Bằng dịch), 2 tập, Nxb KHXH.

L6.     Lịch sử Biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I, 1911-1929 (2007); tập II, 1930-1945 (2008); tập III, 1945-1954 (2009), Trịnh Nhu (Chủ biên), Nxb CTQG.

L7.     Lịch sử Việt Nam, tập 1 và tập 2 (2016). Phan Huy Lê (Chủ biên), Nxb ĐHQGHN.

L8.     Lịch sử Hà Bắc, tập I (1986). Tập thể tác giả, Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc xuất bản.

L9.     Lý lịch đền thờ Bình Vương Dương Tam Kha tại thôn Thành Đạt. Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

L10.   Lý lịch họ Đào Đông Trang (1994). Đào Xuân Quang soạn. Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

L11.   Lịch sử Đảng bộ huyện Từ Liêm (2011). Tập thể tác giả, Nxb CT-HC.

L12.   Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ (2005). Tập thể tác giả, Nxb CTQG.

M

M1.    Minh Mệnh chính yếu (2009). Quốc sử quán triều Nguyễn. Ủy ban dịch thuật Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Nxb Thuận Hóa.

M2.    Minh Mệnh ngự chế văn (2000). Quốc sử quán triều Nguyễn. Trần Văn Quyền dịch, Trung tâm KHXH & NVQG.

M3.    Minh thực lục – Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII (2010). Hồ Bạch Thảo dịch và chú thích, Nxb Hà Nội, 3 tập.

M4.    Một cơn gió bụi (2007). Trần Trọng Kim, Nxb Hội Nhà Văn.

M5.    Một số vấn đề về văn bia Việt Nam (2008). Trịnh Khắc Mạnh, Nxb KHXH.

M6.    1000 nhân vật lịch sử, văn hóa Thăng Long – Hà Nội (2010). Hà Duy Biển, Nxb TT&TT.

M7.    Mục lục phân tích Tạp chí Nam Phong (2002). Nguyễn Khắc Xuyên, Nxb Thuận Hóa – TTVHNN Đông Tây.

N

N1.    Nam Ông mộng lục (2007). Hồ Nguyên Trừng, Nxb Văn Học, in chung với Việt Điện u linh tập (Lý Tế Xuyên), Truyền Kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ).

N2.    Nại Tử xã thần miếu sự tích. Sao lục ngày 6 tháng Sáu năm Bảo Đại 13 (1938), in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Vai trò các anh hùng dân tộc họ Khúc – Dương – Ngô ở thế kỷ X.

N3.    Nghệ An ký (2018). Bùi Dương Lịch (Nguyễn Thị Thảo dịch), Nxb KHXH.

N4.    Nghiencuulichsu.com

N5.    Nghiên cứu văn bia Vĩnh Phúc (2013), Nguyễn Hữu Mùi, Sở VHTT và Du lịch.

N6.    Ngọc phả lưu truyền (1916). Dương Văn Tất dịch, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

N7.    Nguyễn Trãi toàn tập, Tân biên (2001). Tập thể dịch giả Nxb Văn học. 3 tập.

N8.    Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (2015). Pierre Gourou (Nguyễn Khắc Đạm và những người khác dịch), Nxb Trẻ.

N9.    Người Việt ở Pháp 1940 – 1954 (1997). Đăng Văn Long, Tủ sách nghiên cứu.

N10.  Nhị Khê Dương gia thế phả. Lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

N11.  Những nhà khoa bảng xứ Thanh (2011). Hà Đình Đức (Chủ biên), Nxb Thanh Hóa.

N12.  Nội các Trần Trọng Kim (2010). Phạm Hồng Tung. Nxb CTQG.

O

O1.    Ô Châu cận lục (2009). Dương Văn An (Nguyễn Khắc Thuần dịch), Nxb Giáo Dục.

P

P1.     Phong trào kháng thuế ở miền Trung qua các châu bản triều Duy Tân (2008). Nguyễn Thế Anh, Nxb Văn học.

P2.     Phong trào Duy Tân – các khuôn mặt tiêu biểu (2006). Nguyễn Q. Thắng, Nxb VHTT.

P3.     Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX (1986). Nguyễn Phan Quang, Nxb KHXH.

P4.     Phương ngôn xứ Bắc (1994). Khổng Đức Thiêm, Nguyễn Đình Bưu, Sở VHTT Hà Bắc.

P5.     Phong thổ làng Bất Phí (2016). Khổng Đức Thiêm, Tư liệu cá nhân.

Q

Q1.    Quốc học Huế – xưa và nay (2013). Trần Phương Trà (Chủ biên), Nxb VHTT.

Q2.    Quốc sử di biên (2014). Phan Thúc Trực (Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Tô Lan dịch), Nxb KHXH.

Q3.    Quốc triều chính biên toát yếu (2013). Quốc sử quán triều Nguyễn (Quốc sử quán dịch), Nxb Thuận Hóa, tập 1.

Q4.    Quốc triều hương khoa lục (1993). Cao Xuân Dục (Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch), Nxb TPHCM.

R

R1.    Rạng danh người Quỳnh Đôi (2013). Phan Hữu Thịnh, Hồ Sĩ Bằng (Biên soạn), Nxb Đại học Vinh.

T

T1.      Tạp chí Hán Nôm (1984 – 2019). Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

T2.     Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1954 – 2019). Viện Sử học.

T.3.    Tài liệu địa chí Thái Bình (2006 – 2012), Tập I – IV, Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Thanh (Chủ biên) ; Tập V – VIII, Nguyễn Quang Ân, Bùi Công Phượng (Chủ biên).

T.4.    Tên làng xã và địa chí các tỉnh Bắc Kỳ (1999). Ngô Vi Liễn, Nxb VHTT.

T5.     Thăng Long – Hà Nội, Thư mục chọn lọc (2010). Phan Thị Kim Dung, Chu Tuyết Lan (Chủ biên), Thư viện Quốc gia Việt Nam.

T6.     Thăng Long – Hà Nội, Tuyển tập công trình nghiên cứu lịch sử (2010), Nguyễn Quang Ngọc (Chủ trì), Nxb Hà Nội, 2 tập.

T7.     Thi cử, học vị, học hàm dưới các triều đại phong kiến Việt Nam (2014). Đinh Văn Niêm, Nxb Lao Động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.

T8.     Thiền uyển tập anh (1993). Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch, Nxb Văn Học.

T9.     Thông báo Hán Nôm học (1995 – 2018). Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

T10.   Thủy kinh chú sớ (1999). Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thư Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Nguyễn Bá Mão (dịch), Nxb Thuận Hóa.

T11.   Thư tịch báo chí Việt Nam (1998). Tô Huy Rứa (Chủ biên), Nxb CTQG.

T12.   Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm (2005 – 2009). Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (Chỉ đạo công trình), Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 22 tập.

T13.   Tuyển tập Đông Lĩnh Dương Phượng Dực (2008). Nxb Văn Học.

T14.   Tuyển tập thơ phú thời Mạc (2016). Đinh Khắc Thuân (Chủ biên), Nxb KHXH.

T15.   Tuyển tập thơ văn Lý – Trần (2010), Nguyễn Huệ Chi, Nxb Hà Nội.

T16.   Tuyển tập văn bia phật giáo Thanh Hóa (2017), Nguyễn Kim Măng, Phùng Đức Sơn, Lê Văn Dân (Đồng chủ biên), tập 1, Thời Hậu Lê Nguyễn, Nxb Thanh Hóa.

T17.   Tuyển tập văn bia Thanh Hóa, tập 1, (Văn bia thời Lý – Trần, 2012), Phan Bảo (Chủ biên); tập 2 (Văn bia thời Lê sơ, 2013), Lê Văn Toan – Nguyễn Văn Hải (tổ chức bản thảo); tập 3 (Văn bia thời Lê Trung hưng, Q.1, 2016), Đinh Khắc Thuân, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Kim Măng (Đồng chủ biên), Nxb Thanh Hóa.

T18.   Tư liệu Hán Nôm về Bình Vương Dương Tam Kha ở đền Cổ Lễ (2018), lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

T19.   Tư liệu Hán Nôm về Trạng nguyên Dương Phúc Tư (2005), Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tài liệu in vi tính, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

T20.   Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội, Tuyển tập Địa chí (2010). Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Kim Sơn (Đồng chủ trì), Nxb Hà Nội, 3 tập.

T21.   Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội, Tuyển tập văn khắc Hán Nôm (2010). Phạm Thúy Vinh (Chủ biên), Nxb Hà Nội.

T22.   Tư Thế Dương tộc gia phả (2015), Dương Văn Đảm dịch, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

T23.   Tư Thế phong thổ ký (2013). Dương Văn Đảm, Nxb Văn Học.

T24.   Tư trị thông giám, Tập 1 (2017), Tập 2 và Tập 3 (2018). Tư Mã Quang (Bùi Thông dịch), Nxb Văn học, 294Q.

T25.   Từ điển Địa chí Bạc Liêu (2010). Tập thể tác giả, Nxb CTQG.

T26.   Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (2001). Vũ Tuấn Anh – Bích Thu (Chủ biên), Nxb Văn học.

T27.   Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (2006). Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế, Nxb VHTT.

T28.   Từ Liêm huyện đăng khoa lục (2010). Bùi Xuân Nghi (Nguyễn Hữu Mùi, Nguyễn Thúy Nga dịch), Nxb Dân Trí.

T29.   Truyền thống hiếu học và hệ thống văn miếu, văn từ, văn chỉ ở Vĩnh Phúc (2010). Nguyễn Hữu Mùi, Sở VHTTDL Vĩnh Phúc.

V

V1.   Vài nét về họ Dương khu Nguyễn Xá (2016). Dương Minh Hải, viết tay, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

V2.    Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam (2008). Trịnh Khắc Mạnh, Nxb Giáo dục.

V3.    Văn bia Hà Tây (1993). Vũ Tá Nhí (Chủ biên), Sở VHTT Hà Nội.

V4.    Văn bia làng Nành (2003). Đinh Khắc Thuân, Nxb KHXH.

V5.    Văn bia Lê sơ tuyển tập (2014). Phạm Thị Thùy Vinh và nhóm phiên dịch, Nxb KHXH.

V6.    Văn bia Tiên Lãng Hải Phòng (2009). Đỗ Thị Hảo (Chủ biên), Nxb KHXH.

V7.    Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt hàng ngày (2003). Phạm Thị Thùy Vinh, Nxb VHTT.

V8.    Văn bia thời Mạc (1996). Đinh Khắc Thuân, Nxb KHXH.

V9.    Văn bia xứ Lạng (1993). Hoàng Giáp (Chủ biên), UBND thị xã Lạng Sơn.

V10.  Văn khắc Hán Nôm Thăng Long – Hà Nội (2009). Đỗ Thị Hảo (Chủ biên), Nxb Văn Học.

V11.  Văn khắc Hán Nôm thời Mạc (2017). Đinh Khắc Thuân, Nxb KHXH.

V12.  Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (1993). Nguyễn Quang Hồng (Chủ biên), Nxb KHXH.

V13.  Văn nghệ dân gian Bắc Giang.

V14.  Việt Nam cận đại, những sử liệu mới (1995). Nguyễn Phan Quang, Nxb TPHCM, tập I.

V15.  Việt Nam văn học sử yếu (2019). Dương Quảng Hàm, Nxb Văn học.

V16.  Việt Nam Dân quốc Công báo (1945-1950).

V17.  Việt sử lược (2005). Trần Quốc Vượng dịch, Nxb Thuận Hóa.

V18.  Việt sử thông giám cương mục khảo lược (2009). Nguyễn Thông (Đỗ Mộng Khương dịch), Nxb VHTT.

V19.  Việt sử tiêu án (1960). Ngô Thời Sĩ (Hội NCVH Á Châu dịch), VH Á Châu xb.

V20.  Vĩnh Mỗ Dương tộc gia phả (2000). Dương Vĩnh Thuận ghi, lưu tại Văn phòng họ Dương Việt Nam.

V21.  Vua Gia Long và người Pháp (2017). Thụy Khuê biên khảo, Nxb Hồng Đức.

V22.  v.m.wikipedia.org.

Y

Y1.    Ỷ La xã Dương thị gia phả.

 

Các tài liệu được đưa vào nguồn trên đây được coi là 150 tài liệu tham khảo mà tác giả đã dùng để biên soạn công trình này.

Trong quá trình biên soạn, mặc dù đã hết sức cố gắng bao quát nhưng chắc chắn còn bỏ sót không ít sự kiện quan trọng. Hy vọng được bạn đọc góp ý và bổ sung.

              Hà Nội, tháng Tám mùa thu – 2019

                              KHỔNG ĐỨC THIÊM

 

 

 

NĂM 40 (KỶ HỢI – CANH TÝ)

        Ngày 15 tháng 1 (11 tháng Chạp – Kỷ Hợi)

001. Dương Thi Sách bị Thái thú Giao Chỉ là Tô Định sát hại

Ông là con trai Lạc tướng Chu Diên Dương Thái Bình và bà Hồ Thị Nhữ. Vào tuổi trưởng thành, nghe nói con gái Lạc tướng Mê Linh là Ả Lã Nàng Đê nhan sắc kiều diễm mà chưa lấy chồng, bèn nói với cha. Dương Lạc tướng bèn cho người đến Phong Châu hỏi và đón về. Hôm đó là ngày mồng 10 tháng Một năm Kỷ Hợi (15-12-39), cả hai họ đều vui mừng, coi là mối duyên tiền định.

Bấy giờ người phương Bắc là Tô Định giữ chức Thái thú Giao Chỉ là kẻ tham bạo, hà khắc và rất háo sắc, nghe nói Ả Lã Nàng Đê sắc đẹp hơn người bèn đem binh lính đến nhà Trưng Công. Khi hay tin Ả Lã Nang Đê đã về nhà chồng bên đất Chu Diên, Tô Định thu binh mã tới nhà Dương Công. Trong trận chiến không cân sức, Dương Thi Sách bị sát hại trên đất Từ Khê vào ngày 11 tháng Chạp năm Kỷ Hợi (15-1-40).

Nguồn: N2; L7, tập I, tr.357.

        Tháng 3 (tháng Hai – Canh Tý)

002. Ả Lã Nàng Đê Trưng Trắc cùng em gái Ả Lã Rồng Nhị Trưng Nhị khởi nghĩa, nhiều thủ lĩnh người họ Dương đứng dậy hưởng ứng

Sử cũ ều chép rằng, vào năm Kiến Vũ thứ 16 nhà Đông Hán, người huyện Mê Linh là Trưng Trắc, con gái Lạc tướng, lấy chồng người huyện Chu Diên là Thi Sách, tính rất hùng dũng, hành động không theo pháp luật. Thái thú Tô Định lấy pháp luật trói buộc, Trắc giận bèn cùng em gái là Nhị đem binh Phong Châu đánh hãm các quận huyện. Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. [Trắc] lược định được 65 thành ở ngoài phía Nam nhà Hán, tự xưng Vương đóng đô ở Mê Linh.

Tư Mã Quang (1019 – 1086), người tổ chức biên soạn bộ biên niên lịch sử đồ sộ mang tên Tư trị thông giám, bao gồm một khoảng thời gian rất dài từ Chu Uy Liệt thời nhà Chu (402 tr. CN) và kết thúc vào đời Chu Hiến Đức nhà Hậu Chu (959), cộng 1362 năm qua 16 triều đại chính thống với 16 kỷ, 294 quyển không kể 30 quyển mục lục, 30 quyển khảo dị. Tại Q.35 của bộ sách này, ông ghi nhận:

“Con gái Lạc tướng huyện Mê Linh quận Giao Chỉ là Trưng Trắc rất hùng dũng, Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng pháp luật trói buộc, Trưng Trắc oán hận.

Năm Kiến Vũ thứ 16, mùa xuân, tháng Hai, Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị làm phản, người Man quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng họ, đánh chiếm được cả thảy 65 thành, tự lập làm Vương, đóng đô ở Mê Linh. Thứ sử Giao Chỉ và các quan Thái thú chỉ có thể tự giữ”.

Ngay khi cuộc khởi nghĩa được phát động, nhiều Cừ súy, Thủ lĩnh họ Dương như Dương Bốc vùng Cẩm Khê – Phong Châu, Dương Công vùng Thiện Tài – Vũ Ninh, Dương Giã Tiên vùng Yên Thế – Vũ Ninh, Dương Nước và Dương Đình vùng Uy Viễn – Kim Động, Dương Ngọc vùng Kim Thành – Dương Tuyền… đã tham gia hưởng ứng.

Nguồn: T23, tập 3, tr.353; D2; Q. thượng, 440, 638, 803.

        NĂM 43 (QUÝ MÃO)

        Tháng 11 (tháng Mười – Quý Mão)

003. Đô Dương hy sinh tại mặt trận Cửu Chân

Đô Dương, có thể hiểu là đô vật họ Dương, sinh trưởng ở vùng Cửu Chân, cùng Chu Bá nổi lên từ ngày đầu cuộc khởi nghĩa Mê Linh được phát động. Khi Mã Viện đem quân trở lại xâm lược, Đô Lương và Chu Bá đã đem lực lượng quay về vùng Cửu Chân.

Đầu tháng 11-43, Mã Viện chia lực lượng làm hai đạo thủy bộ tiến xuống phía nam, dọc theo sông Đáy ra cửa biển Thần Phù. Để tạo yếu tố bất ngờ, Mã Viện sai đào sông chạy thông qua dải núi đá để hai đạo thủy bộ dễ dàng hợp đồng trong tác chiến. Theo Tư Mã Quang, lực lượng của Đô Dương là dư đảng lớn mạnh nhất của Trưng Vương, do đó toàn bộ lực lượng của đội quân xâm lược đều được điều động vào huyện Cư Phong. Tại mặt trận này, Đô Dương đã ngã xuống. Có tới hàng ngàn nghĩa quân bị sát hại, hơn 300 cừ súy bị bắt và đem đày ở Linh Lăng (Hồ Nam – Trung Quốc).

Nguồn: T23, tập 3, tr.357, L7, tập I, tr.374.

        NĂM 819 (KỶ HỢI)

        Ngày 7 tháng 10 (19 tháng Tám – Kỷ Hợi)

004. Dương Thanh nổi dậy, thu phục La Thành, tiêu diệt Lý Tượng Cổ

Liên tục phải đối phó với các cuộc nổi dậy của người Việt, năm 767 Kinh lược Chiêu thảo sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi cho đắp La Thành dùng làm thủ phủ cho An Nam Đô hộ phủ. Vào năm 808, viên Đô hộ Trương Chu mở rộng và củng cố thêm để tòa thành này cùng lúc có thể chứa được 40 nhà kho cất giữ khí giới, tập kết được 400 chiến thuyền.

Đây là thời điểm họ Dương thuộc quận Giao Chỉ từ địa vị Châu mục, Tù trưởng nối đời thay nhau giữ chức Thứ sử Hoan Châu, tạo thành một thế lực lớn đối với ách thống trị của ngoại bang. Đầu năm 818, một tôn thất của nhà Đường là Lý Tượng Cổ đang từ Thứ sử Hàng Châu được đưa sang làm Đô hộ An Nam. Cảm nhận được sự nguy hại của Dương Thanh – khi đó đang là Thứ sử Hoan Châu, Lý Tượng Cổ lập tức triệu hồi giao làm Nha tướng, quản 3000 lính cho đi đánh dẹp người Choang ở Hoàng Gia Động.

Trước tình thế đó, Dương Thanh đã cùng các con trai là Dương Chí Liệt, Dương Chí Trinh và chiến hữu Đỗ Sĩ Giao quay lại La Thành. Sau mấy ngày bao vây, đêm mồng 10 tháng Tám năm Kỷ Hợi (7-10-819), Dương Thanh chiếm được Đô hộ phủ. An Nam Đô hộ Lý Tượng Cổ, vợ là Vi Thị Kip cùng các con, gia thuộc, bộ khúc đều bị tiêu diệt.

Về sự kiện này, sử cũ chép: “Kỷ Hợi – Đường Nguyên Hòa năm thứ 14 (819), mùa đông, tháng 10, Đô hộ là Lý Tượng Cổ vì tham bạo mà mất lòng dân chúng. Tướng của Tượng Cổ là Dương Thanh đời đời làm Tủ trưởng Man. Khoảng năm Khai Nguyên, nhà Đường, làm Thứ sử Hoan Châu. Tượng Cổ vẫn e dè, gọi cho làm Nha tướng, đến đây sai đi đánh người Man ở Hoàng Động. Thanh nhân thấy lòng người oán hận Tượng Cổ, ban đêm quay về đánh úp lấy châu, giết Tượng Cổ (Thanh là người Giao Châu, Tượng Cổ là người tôn thất nhà Đường)”.

Trong tác phẩm biên niên sử của mình, Tư Mã Quang cũng viết: “Tượng Cổ là anh của Đạo Cổ, do tham lam hà khắc nên để mất lòng người. Thanh nhiều đời làm Tù trưởng người Man, Tượng Cổ gọi về cho làm Nha tướng. Thanh u uất, bất đắc chí. Tượng Cổ sai Thanh dẫn 3000 quân đánh Hoàng Động Man. Thanh nhân lòng phẫn uất, dẫn quân ban đêm tập kích phủ thành, hạ thành”.

Nguồn: T2, số 12.2012, tr.21-36; Đ4, tr.107-108 ; T23, Q.241.

        Ngày 7 tháng 12 (21 tháng Mười – Kỷ Hợi)

005. Quế Trọng Võ nhậm chức An Nam Đô hộ, tìm cách chiêu dụ Dương Thanh

Mãi tới giữa tháng Mười – Kỷ Hợi nhà Đường mới nhận được bản tấu của Kinh lược sứ Quảng Tây tâu bày về việc Dương Thanh nổi dậy nên ngày 21 tháng Mười năm ấy mới lệnh cho Thứ sử Đường Châu là Quế Trọng Võ đeo ấn An Nam Đô hộ sang chiêu dụ Dương Thanh. Trên đường, viên Đô hộ này bị ngăn lại ở biên giới vì Dương Thanh cự tuyệt chiếu dụ của vua Đường xá tội và phong làm Thứ sử Quỳnh Châu.

Sau khi hiểu được nội tình của Dương Thanh, Quế Trọng Võ tìm mọi cách phá vỡ hàng ngũ đối phương, mang tiền của và chức vụ mua chuộc lôi kéo các Cừ súy, Tù hào. Ngày 22 tháng Hai – Canh Tý (4-4-820) Quế quản Quan sát sứ Bùi Hành Lập được cử thay Quế Trọng Võ. Viên Đô hộ họ Bùi này từng đảm nhiệm chức vụ trên từ tháng 9-813 đến cuối năm 817, có nhiều mối quan hệ với các Cừ súy, Tù hào họ Đỗ – như Đỗ Anh Sách, họ Phạm – như Phạm Đình Chi, những thế lực lớn ở Giao Châu. Tuy Bùi Hành Lập đã chết trên đường nhưng những chính sách mà Quế Trọng Võ đã thi hành trước đây đến thời đđiểm này bắt đầu phát huy hiệu quả khi hàng loạt Cừ súy, Tù hào và 7000 thổ quân rời bỏ hàng ngũ Dương Thanh.

Nguồn: T2, số 12.2012, tr.21-36; Đ4, tr.107-108.

        NĂM 920 (CANH TÝ)

        Ngày 10 tháng 5 (29 tháng Ba – Canh Tý)

006. Dương Thanh lui về Tạc Khê – Trường Châu (nay thuộc Ninh Bình)

Do lực lượng ngày càng bị hao hụt, sự bất mãn do chính sách hà khắc mà Dương Thanh đem ra thi hành nên ngày 29 tháng Ba năm Canh Tý (10-5-820) một số Cừ súy, Tù hào ngầm mở cửa La Thành đón quân của Quế Trọng Võ. Trước tình thế ấy, Dương Thanh mang lực lượng còn lại chạy về Tạc Khê ở Trường Châu, vùng quê của Tù hào Đỗ Sĩ Giao.

Từ Tạc Khê, Dương Thanh vẫn phối hợp với Hoàng Động đánh phá La Thành vào tháng Một năm Quý Mão (12-823), cùng người Hoàng Động và binh lực của Hoàn Vương ở Chiêm Thành đánh phá Lục Châu, giết chết Thứ sử Cát Duy vào năm Bính Ngọ (826).

Nguồn: Đ5, tr.162.

        NĂM 828 (MẬU THÂN)

        Trong năm

007. Dương Thanh đánh đuổi Hàn Ước chạy về Quảng Châu

Do cái chết đột ngột của Bùi Hành Lập nên Quế Trọng Võ được giữ lại, không phải đi An Châu nhậm chức Thứ sử, mặc dù vua Đường “chiếu cho Quế Trọng [Vũ] đánh Dương Thanh mà không thắng. Thanh vào trong người Man Lạo làm loạn, cướp phá thành phủ. Đô hộ Lý Nguyên Gia đánh không được, dụ không đến, do đó Hoàng Động Man dẫn Hoàng Vương vào cướp […] Mậu Thân, Đường Văn Tông năm Thái [Đại] Hòa thứ 2, Đô hộ Hàn Ước đánh người Phong Châu là Vương Thăng Triều, thắng được. Sau bị Dương Thanh đuổi về Quảng Châu”.

Kể từ đây về nhà Đường mất kiểm soát ở An Nam. Mãi tới năm 936, đời Đường Văn Tông mới đưa được Mã Thực sang làm Đô hộ theo đúng phương thức dùng văn nhã để tô điểm, chính sự trong sạch, lặng lẽ, không phiền nhiễu.

Sử liệu trên được trích từ sử cũ được viết vào đời Lê, khá phù hợp với An Nam chí lược của Lê Tắc – người thời Trần và An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng – người thời Minh khi viết về Quế Trọng Vũ, Bùi Hành Lập, duy khi viết về Lý Nguyên Gia (Lê Tắc ghi là Lý Nguyên Thiện, Việt sử lượcCựu đường thư ghi là Lý Nguyên Hỷ), Hàn Ước các sách trên chỉ ghi là bị loạn quân đuổi.

Để có cái nhìn đầy đủ về khởi nghĩa Dương Thanh, xin dẫn đầy đủ cứ liệu do Đại Việt sử ký tiền biên được hoàn thành việc khắc in vào năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800).

“Kỷ Hợi [819] (Đường Nguyên Hòa năm thứ 14), mùa đông, tháng Mười. Thứ sử Hoan Châu là Dương Thanh đánh úp phủ thành. Đô hộ là Lý Tượng Cổ bị giết. Tượng Cổ từ Thứ sử Hành Châu được nhắc lên làm An Nam đô hộ. Tượng Cổ người tham lam, bừa bãi không tuân theo pháp luật. Dương Thanh đời đời làm Tù trưởng xứ Man, Tượng ghen ghét với sự giàu có của Thanh bèn gọi Thanh đến cho làm Nha môn tướng. Thanh ấm ức muốn làm loạn. Gặp lúc sai đi đánh bọn Man Hoàng Động, Tượng Cổ trao cho 3000 quân giúp Thanh đi đánh. Thanh và con là Chí Liệt quay về đánh úp và chiếm được phủ thành, giết Tượng Cổ và cả gia đình. Vua Đường lấy Thứ sử Đường Châu là Quế Trọng Vũ thay làm Đô hộ đi đánh Thanh. Trọng Vũ chần chừ không dám tiến. Thanh vào trong xứ Man làm loạn, rồi dẫn người Man Hoàng Động kết hợp với người của Hoàn Vương vào cướp phá (Tượng Cổ là cháu Tào Phục Minh, con Lý Cao thời Đường). Xét thấy người Man Hoàng Động ở phía Nam Quang Châu, Dung Châu, phía Tây Ung Châu, Quế Châu, họ là Hoàng, ở động Hoàng Đăng bị lệ thuộc vào họ Nịnh. Đất đai phía Tây giáp Nam Chiếu, đầu năm Thiên Bảo [742 – 756], họ Hoàng mạnh lên liên kết với các tộc Man nổi loạn, đánh 18 châu của Quế Quản, đến đâu cũng đốt phá cướp bóc. Trải qua các năm Trinh Nguyên [795 – 805], Nguyên Hòa [806 – 821], lúc nổi loạn lúc hàng phục rất thất thường. Biên giới phía Nam khổ về chuyện đó. Đến khi quân An Nam nổi loạn giết đô hộ là Lý Tượng Cổ, nhà Đường sai Trọng Vũ đánh Dương Thanh, không thắng nổi, lại lấy quan sát sứ của Quế Quảng là Bùi Hành Lập sang thay. Ít lâu sau bị gọi về rồi chết. Đầu năm Trường Khánh [821 – 825], lấy Nghiêm Công Tố làm kinh lược sứ, Thôi Kết làm phó sứ. Giặc Hoàng lại nổi lên. Năm Trường Khánh Bảo Lịch [825 – 827], nhiều lần vào cướp phá lại thành mối lo cho An Nam.

Sử thần Ngô Thì Sĩ bàn: Xét Tông tử liệt truyện trong Đường thư: Dương Thanh chiếm An Nam, giết chết Lý Tượng Cổ, vua Đường tha tội cho Thanh, đổi đi làm Thứ sử Quỳnh Châu, lấy Trọng Vũ làm Đô hộ. Thanh chống lại mệnh lệnh, Quế Trọng Vũ chia nhau dụ dỗ bọn Tù trưởng đầu sỏ, quân lính đều theo, phá thành chém Thanh, tru diệt cả họ. Lại theo bản của Triệu Kinh Bang: Tháng 6 năm ấy, tướng sĩ An Nam mở cửa thành, cho Quế Trọng Vũ vào, bắt Thanh chém chết. [Vua Đường] vẫn dùng Trọng Vũ làm đô hộ. Như vậy thì rất khác với sử [của ta chép].

Mậu Thân [828] (Đường Văn Tông, Thái Hòa năm thứ 2), mùa hạ, tháng Sáu, Thứ sử Phong Châu là Vương Thăng Chiêu làm phản, bị Đô hộ Hàn Ước giết. Tháng Chín, quân ở phủ nổi loạn, Ước bị Dương Thanh đánh đuổi, chạy về Quảng Châu. (Xét thấy đoạn này vẫn dựa theo sử cũ và có tham khảo sử nhà Đường. Duy chỉ có một việc Dương Thanh, theo Tôn thất truyện trong Đường thư thì đã bị Trọng Vũ giết, theo Đường thế ký thì năm ấy Thanh còn đuổi Hàn Ước. Vậy thì Dương Thanh sống hay chết, mất hay còn, không khảo cứu vào đâu được. Hãy để tồn nghi).

Sử cũ chép rằng: Dương – Thanh, khoảng năm Khai Nguyên [713 – 742] nhà Đường, làm Thứ sử Châu Hoan. Thế thì từ năm Khai Nguyên [713 – 742] đến năm Nguyên Hòa [806 – 821] qua 5 triều vua gần 100 năm mà Dương Thanh vẫn làm Thứ sử, cho đến đầu niên hiệu Thái Hòa [827 – 836] đời Văn Tông vẫn hãy còn? Trong đó có nhiều chỗ lầm lẫn, có lẽ tổ tiên của Thanh, năm Khai Nguyên làm Thứ sử Hoan Châu thì phải hơn. Điều nữa là người thay Trọng Vũ là Hành Lập, người thay Hành Lập là Nguyên Tố [thế mà trong sử cũ] tự dưng nảy ra một ông đô hộ Nguyên Gia cùng thời với Trọng Vũ. Đây có lẽ là khảo cứu không được kỹ. Cho nên nhất thiết phải cải chính. 

Nguồn: Đ4, tr.107-108; A1, tr.187; A2. Tr.265; Đ5, tr.161-163.

        NĂM 863 (QUÝ MÙI)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Mùi)

008. Thủ lĩnh vùng cao Dương Tự Tấn phối hợp hoạt động với quân Nam Chiếu

Năm 843, binh lính người Việt ở La Thành đã tiến hành một cuộc quân loạn mở đầu bằng việc đốt phá thành lầu, cướp đoạt vũ khí, đánh đuổi viên Đô hộ Vũ Hồn phải bỏ chạy khỏi An Nam về nương nhờ ở Quảng Châu. Trước tình hình nhà Đường ngày càng lâm vào tình thế suy vi, ngoài việc đem quân chiếm châu ki mi Kim Long vào năm 832, Nam Chiếu còn liên tục đưa lực lượng tràn xuống cướp phá La Thành trong suốt 2 năm 862-863. Nhận thấy cơ hội thuận tiện, tháng Giêng năm Quý Mùi (2-863), Dương Tư Tấn đã đem binh dõng cùng đánh phá.

Dương Tự Tấn (hoặc Tiến) được Việt sử lược mô tả là một tướng của người Man đem lực lượng của mình cùng Nam Chiếu tiến đánh phủ thành, lập công lớn trong việc tiêu diệt Ngu hầu Nam Kinh Nguyên Duy Đức cùng 15 vạn quan quân ở phủ đô hộ. Theo An Nam chỉ lược của Lê Tắc, trong trận này chỉ có Mạc phủ là Phàn Xước mang ấn của viên Đô hộ Sái (Thái) Tập qua sông thoát. Như vậy là đã rõ, đây là lần thứ nhất người họ Dương kết hợp với Nam Chiếu chấm dứt chế độ Tiết độ sứ gián tiếp, tự mình cai quản được 3 năm. Mãi tới tháng Tám năm Hàm Thông 6 (8-865), Kiêu vệ Tướng quân Cao Biền mới đánh thắng quân Nam Chiếu ở Gia Bình (Bắc Ninh), sau đó vào tháng 4-866 chiếm lại được La Thành. Tháng 11-866, An Nam Đô hộ phủ đổi thành Tĩnh hải quân Tiết trấn. Bắt đầu từ đây Cao Biền trở thành viên Tiết độ sứ trực tiếp và thực quyền đầu tiên ở xứ Đô hộ An Nam. Ngay lập tức, Cao Biền cho đổi gọi La Thành bằng tên Tống Bình, gia cố về quy mô và tính năng phòng thủ, lập sổ hộ tịch và hộ khẩu, đưa lưu dân và binh sĩ nhà Đường vào khai khẩn, củng cố đường xá, tiến đánh và bắt tới 17 ngàn người ở vùng đất do Dương Tự Tấn trước đây cai quản, định cương giới với Nam Chiếu, đồn trú biên ải, tung tin trấn yểm long mạch ở khắp nơi, nhất là vùng đất vây quanh Tống Bình.

Đề phòng đủ mặt như vậy nhưng Tống Bình vẫn phải chống đỡ với các cuộc quân loạn vào tháng 3-880 và quân Nam Chiếu đánh phá, đến mức phải dàn hòa, hứa gả công chúa để Nam Chiếu rút quân về.

Nguồn: V17, tr.35; A1, tr.189.

        NĂM 925 (ẤT SỬU)

        Tháng 4 (tháng Ba – Ất Sửu)

009. Dương Đình Nghệ tham gia chiếm thành Đại La, xây dựng chính quyền tự chủ do họ Khúc đứng đầu

Vào những năm đầu của thế kỷ X, chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Giao Châu lâm vào bê bối, khủng hoảng, mất khả năng quản lý do ảnh hưởng nghiêm trọng của thời kỳ Năm đời Mười nước (Ngũ đại thập quốc) đang diễn ra tại Trung Quốc. Viên Tiết độ sứ cuối cùng là Độc Cô Tổn được cử sang Giao Châu vào năm 905, thời gian trị nhậm của hắn không được bao lâu thì đã phải biếm chức, đi đầy ở Hải Nam. Trước bối cảnh nhà Đường đang đi vào con đường diệt vong, chính quyền đô hộ tại Giao Châu bất lực, Khúc Thừa Dụ đã nhân cơ hội phát động nhân dân trong vùng nổi dậy chiếm thủ phủ Đại La, lật đổ chính quyền đô hộ của ngoại bang, nắm giữ chức Tiết độ sứ, mở đầu cho giai đoạn người Việt giành lại quyền tự chủ cho dân tộc.

Khi ấy, Dương Đình Nghệ xuất thân trong một dòng họ thuộc làng Giàng, Châu Ái, là một Nha tướng tài ba và tin cậy của Khúc Thừa Dụ cũng có mặt trong cuộc công chiếm Đại La. Sau chiến thắng ông được họ Khúc cắt cử quản lý vùng đất cũ – nơi phên dậu ở phương Nam.

Tương truyền ông tổ dòng họ Dương Đình Nghệ là Đô Dương (ông đô vật họ Dương) – vị lão tướng anh hùng của quân đội Trưng Vương trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mã Viện. Trải nhiều đời sinh cơ lập nghiệp trên miền đất trù phú, trung tâm kinh tế, chính trị và quân sự của cả vùng châu Ái, đầu mối của nhiều đường giao thông thủy bộ thuận tiện, họ Dương ngày càng phát triển và có thế lực.

Nguồn: L7, tập I, tr.460-461.

        NĂM 923 (QUÝ MÙI)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Quý Mùi)

010. Nhà Nam Hán cướp quyền của Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ bí mật xây dựng lực lượng

Lấy cớ Khúc Thừa Mỹ thần phục nhà Hậu Lương và có ý chống mình, vua Nam Hán đã sai Lương Khắc Trinh và Lý Thủ Dung đem quân sang đánh Giao Châu. Khúc Thừa Mỹ bị Lương Khắc Trinh bắt được đem về Quảng Châu. Đất nước lại bị rơi vào tay nhà Nam Hán.

Lê Tung trong Việt giám Thông khảo Tổng luận đã nhận xét rất đúng về sự nghiệp đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc đầu thế kỷ X: “Khúc Tiên chúa [Thừa Dụ] mấy đời là hào tộc, mạnh sáng trí lược, nhân nhà Đường mất, lòng người yêu mến, suy tôn làm chúa, dựng đô La Thành, dân yên nước trị, công đức truyền mãi, nhưng hưởng tuổi không dài. Khúc Trung chúa [Hạo] nối cơ nghiệp nước, khoan hòa có phong thái của ông nội, trù hoạch quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, là bậc chúa hiền của nước Việt, định ra hộ tịch và chức quản giáp, chế độ mới lập ít nhiều, nửa chừng thì mất. Đến đời Hậu chúa [Thừa Mỹ] nhàm can qua, nặng phú dịch, trăm họ oán trách rồi bị Nam Hán đánh diệt”.

Sau khi đánh bại Khúc Thừa Mỹ, Lương Khắc Trinh trở về Trung Quốc và giao quyền cho Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu. Sách Tư trị thông giám ghi rằng, mặc dù biết Dương Đình Nghệ đang chuẩn bị lực lượng lấy lại Giao Châu mà Lý Tiến cũng không dám tâu đầy đủ sự thật lên vua Nam Hán. Chính quyền đô hộ của Nam Hán do Thứ sử Lý Tiến đứng đầu đóng ở thành Đại La, trong thực tế chỉ kiểm soát được một phạm vi rất hạn chế ở Giao Châu.

Các bộ sử cũ chép rằng Dương Đình Nghệ – người đứng đầu dòng họ Dương nuôi 3000 con nuôi (hay 3000 tráng sĩ) để mưu khôi phục. Tất cả những người “con nuôi” này đều mang họ Dương. Đây thực chất là những gia nô, những thuộc hạ thân tín và khi có chiến tranh họ trở thành quân đội riêng của dòng họ Dương. Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ chép rõ ràng hơn: Dương Đình Nghệ “…trước làm tướng cho họ Khúc, đến khi Lý Khắc Chính bắt được Thừa Mỹ, lập cách báo thù cho Khúc bèn đặt ra trường đánh vật chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ, đồng mưu với nhau đánh đuổi tướng Hán là Lý Khắc Chính”. Ở Dương Xá nay vẫn còn cồn đất mang tên Đồng Khổ tương truyền là nơi Dương Đình Nghệ chỉ huy các võ sĩ luyện tập võ nghệ; ngôi đền thờ Dương Đình Nghệ làm trên nền nhà cũ của ông, ngay cạnh đó là các kho lúa, kho tiền, kho bạc mà Dương Đình Nghệ đã dùng vào việc nuôi sĩ tử.

Nguồn: Đ4, tr.34, 117; Đ5, tr.37, 178; T23, Q277; V19, tr.78-79; L, tập 1, tr.460-461.

        NĂM 932 (TÂN MÃO – NHÂM THÌN)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Tân Mão)

011. Dương Đình Nghệ thu phục đất nước, thiết lập chính quyền tự chủ

Lúc này, Dương Đình Nghệ đem quân từ vùng Ái Châu (Thanh Hóa) tiến ra Giao Châu đánh vào trung tâm của chính quyền đô hộ ở thành Đại La. Thứ sử Lý Tiến chống cự không nổi phải co lại cố thủ trong thành và cầu cứu quân tiếp viện từ Quảng Châu sang. Vua Nam Hán sai Thừa chỉ Trần Bảo đem quân sang cứu nguy cho Lý Tiến nhưng quân chưa đến nơi thì thành Đại La đã bị hạ. Lý Tiến trốn chạy về Trung Quốc. Trần Bảo tập trung lực lượng vây đánh nhưng Dương Đình Nghệ đã kịp củng cố thành trì, huy động lực lượng và nhanh chóng đánh tan đoàn quân tiếp viện, giết chết Thừa chỉ Trần Bảo. Đất nước lại được hướng nền độc lập hoàn toàn.

Sử Trung Quốc mặc dù cố tìm cách che giấu sự thật vẫn không thể không thừa nhận thực tế cay đắng này: “Năm Đại Hữu thứ tư (931) Dương Đình Nghệ ở Ái Châu làm phản đem quân đánh Giao Châu. Thứ sử là Lý Tiến trốn về nước. Nghiễm sai Thừa chỉ Trình (Trần) Bảo đánh Đình Nghệ, Trình (Trần) Bảo tử trận”.

Sự nghiệp giải phóng dân tộc đã vượt qua một thử thách hiểm nghèo. Tham vọng bành trướng của nhà Nam Hán đã bị đánh một đòn phủ đầu quyết liệt, nhưng dã tâm xâm lược của chúng không phải vì thế mà con cháu thất lạc. Chúng vẫn tỏ ra tức tối điên cuồng và tìm cơ hội trả thù.

Dẹp xong quân giặc, Dương Đình Nghệ lại tự xưng là Tiết độ sứ để giữ quan hệ hòa hiếu với phong kiến phương Bắc. Ông đóng đô ở thành Đại La, cắt đặt các tướng lĩnh thân tín nắm giữ các vùng trọng yếu (Ngô Quyền làm Thứ sử Ái Châu, Đinh Công Trứ giữ chức Thứ sử Hoan Châu, Kiều Công Tiễn cũng được về Phong Châu cũng với chức Thứ sử), chăm lo củng cố chính quyền vừa mới giành được, phát triển lực lượng dân tộc, tiếp tục công cuộc tự chủ của họ Khúc. Đất nước được hoàn toàn giải phóng đang có điều kiện vươn lên mạnh mẽ.

Nguồn: L7, tập I, tr.462.

        NĂM 937 (ĐINH DẬU)

        Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Dậu)

012. Dương Đình Nghệ (Dương Chính Công) bị Thứ sử Phong Châu Kiều Công Tiễn sát hại

Tiễn vốn là một trong số 3000 con nuôi, theo Dương Đình Nghệ từ hồi còn trong đất Ái Châu, lập được công khi tiến ra Giao Châu, đánh đuổi Nam Hán. Sau khi được cử làm Thứ sử Phong Châu, viên Thứ sử này muốn dựa vào triều đình phương Bắc để chiếm lấy địa vị cao nhất, mặc cho con trai là Kiều Công Chuẩn và cháu nội là Kiều Công Hãn không đồng tình.

Hay tin Dương Chính Công bị sát hại, con rể của ông là Ngô Quyền đã cùng em vợ là Dương Tam Kha và các tù hào như Đỗ Cảnh Thạc, Phạm Bạch Hổ, Lã Minh đã tụ về Ái Châu đồng tâm, hiệp lực chuẩn bị trừng trị kẻ phản bội. Bình luận về sự kiện này, nhà sử học Lê Tung viết:

“Dương Chính Công nghĩ về đất đai nước Việt từ lâu bị quân Nam Hán thôn tính, bèn thu dùng bậc hào kiệt, mộ quân khởi nghĩa lớn, hai lần đánh bại tướng giặc thu lại cả cơ đồ. Nhưng không phòng tai họa rồi bị con nuôi giết chết”.

Nguồn: V17, tr.38; đ4, tr.34, 118; Đ5, tr.34, 180.

        NĂM 939 (MẬU TUẤT – KỶ HỢI)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Mậu Tuất)

013. Nha tướng – con rể của Dương Đình Nghệ trả thù cho nhạc phụ, diệt quân Nam Hán

Ngô Quyền sinh trưởng trong một gia đình nối đời cự tộc ở Đường Lâm – Phong Châu, phụ thân là Ngô Mân (Tiên Phủ) một Tù hào có tiếng trong vùng. Năm 923, Ngô Quyền trở thành Nha tướng của Dương Đình Nghệ. Sau một thời gian, ông được chủ tướng gả con gái và giao việc huấn luyện cho 3000 con nuôi. Năm 931, sau khi cùng nhạc phụ chiếm thành Đại La, đuổi quân Nam Hán, ông trở lại Ái Châu.

Cho tới tháng 11-938 (tháng Mười – Mậu Tuất), Kiều Công Tiễn chỉ còn kiểm soát được quanh vùng Đại La. Nhận thức được tình cảnh thế cô, lực yếu của mình sẽ không chống đỡ nổi thế mạnh Ái Châu, Kiều Công Tiễn đã cho người mang của cải sang cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán nhận lời.

Được tin quân Nam Hán chuẩn bị kéo quân sang xâm lược, Ngô Quyền thấy công việc trước hết cần phải làm là nhanh chóng diệt trừ bọn phản bội ở trong nước, chặt đứt mọi thế lực nội ứng của kẻ thù. Ông nắm vững và phán đoán đúng tình hình quân xâm lược và đặt ra kế hoạch kháng chiến. Ông nói: “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu, bịt sắt đóng ngầm trước ở cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát”.

Kế hoạch của Ngô Quyền là tập trung lực lượng tiêu diệt thật nhanh gọn, triệt để đội quân xâm lược Nam Hán ở ngay địa đầu Tổ quốc bằng một trận quyết chiến chiến lược giành toàn thắng. Ông chọn vùng hạ lưu và cửa biển Bạch Đằng làm vùng trận địa quyết chiến. Tất cả các nguồn thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc đều chép thống nhất với sách Đại Việt sử ký toàn thư là Ngô Quyền “định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển”.

Sau khi tiêu diệt bọn phản động Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền cùng Dương Tam Kha và Bộ tham mưu kéo quân về cửa biển Bạch Đằng chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. Cuối tháng Chạp năm Mậu Tuất (1-1939), binh thuyền Hoằng Tháo rời Quảng Đông, Lưu Cung đem quân tiếp viện áp sát biên giới nước ta và đóng tại trấn Hải Môn. Khi những chiếc thuyền đi đầu của quân Nam Hán vừa tiến đến vùng cửa biển Bạch Đằng thì đội quân khiêu chiến với những chiếc thuyền nhẹ bỗng xuất hiện, chiến đấu quyết liệt vừa cố kìm chân chúng chờ cho nước triều lên thật cao, vừa giữ bí mật trận địa mai phục. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Khi nước triều lên, Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. [Quân Hoằng Tháo] không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi”.

Quân Nam Hán ở trước mặt, sau lưng, dưới nước, trên bờ đều bị đánh quyết liệt. Số lớn thuyền chiến bị cọc sắt đâm thủng, bị va vào nhau mà chìm đắm rất nhiều. Chủ tướng Hoằng Tháo bị bắt sống và giết tại trận.  

Nguồn: Đ4, tr.118-119; Đ5, 180-181.

        Tháng 1 (tháng Chạp – Mậu Tuất)

014. Dương Tam Kha lập công lớn trên sông Bạch Đằng

Thần tích đền Cổ Lễ (Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích) do Tiến sĩ Vũ Huy Trác soạn ngày 10 tháng Giêng năm Bính Thân, niên biểu Cảnh Hưng thứ 37 (28-2-1776) ghi:

“Ông Tùng Khê quê ở Dương Xá, Ái Châu, tên húy là Tam Kha con thứ ba của ông Dương Đình Nghệ. Từ thuở nhỏ tư trời thông tuệ, văn võ đều thông, từng theo cha đánh dẹp có công được nhiều người tin phục. Ông có ba vợ, sinh được mười con trai, chín con gái nhưng các con đều chăm chỉ việc nông cốt lấy ấm no làm đích, mà không nghĩ đến việc tang bồng vùng vẫy. Năm Đinh Dậu (937) người Phong Châu là Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ. Năm sau (938) người ở Đường Lâm con rể của Dương Công là Ngô Quyền từ Ái Châu dẫn quân ra cùng Tam Kha giết Công Tiễn để báo thù. Vua Nam Hán liền phong cho con mình là Hoằng Thao làm Giao Vương dẫn quân tiến vào theo cửa Bạch Đằng. Ông Tam Kha sai Dương Thục Phi, Dương Cát Lợi chặt 3000 cây gỗ đóng xuống lòng sông trên một quãng dài ba dặm. Đợi lúc nước lên đem quân khiêu chiến giặc vượt qua bãi cọc, khi nước xuống Ngô Quyền đem chư tướng từ cửa sông hết sức đánh tập hậu. Ông Tam Kha cho quân bản bộ dùng tên dài ở hai bờ bắn xả vào quân giặc, chém được Hoằng Thao làm cho quân Hán đại bại”.

Ngoài thần tích, đôi câu đối ở đền Cổ Lễ cũng ghi nhận:

            “Khuông phù Ngô chủ, lập Nam bang thiên thu hách trạc

Trảm diệt Hoằng Tháo, bình Bắc khấu lịch đại bao phong”

(Dốc phù Ngô chúa, dựng nước Nam nghìn thu hiển hách

Chém chết Hoằng Tháo, trừ giặc Bắc nối đời bao phong).

Nhà sử học Lê Tung trong bài thơ Quá Bình Vương cựu trạch từ (Qua ngôi đền trên nền cũ nhà Bình Vương) có hai câu mở đầu chỉ rất rõ công lao to lớn của Dương Tam Kha ở Bạch Đằng như sau:

“Thực thung giang khẩu thiết kỳ mưu

            Trảm Hán Hoằng Tháo tuyết phụ cừu”

            (Cửa sông đóng cọc bày mưu lạ

Chém Hán Hoằng Tháo rửa hận cha)

Hình bộ Hữu thị lang Bùi Tân, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) trong bài thơ Vãn Dương công Bạch Đằng giang trận (Thăm lại chiến trận Bạch Đằng của Dương Công) mô tả kỹ càng hơn:

“Bạch Đằng cổn cổn thủy lưu Đông

            Như kiến giang trung mãn huyết hồng

            Bất hứa năng hồi thị Ngô chủ

            Chiết yêu phóng tiễn hữu Dương công

            Hán quân thử nhật giai ngư nhĩ

            Việt cảnh tòng tư thủy trực cung

            Tảo thức phù danh nan cửu thủ

            Đắc thời nhân thí tự thăng long”

(Bạch Đằng cuồn cuộn đổ về Đông

Như thấy lòng sông sắc máu hồng

Chặn cánh quay về, quân Ngô chủ

Bắn tên khúc giữa lính Dương công

Hán binh thuở ấy mồi nuôi cá

Việt cảnh từ đây đứng thẳng lưng

Sớm biết phù danh thì khó giữ

Gặp thời mọi sự ví rồng thăng).

Nguồn: T18, tr.52, 56-57; C5

        NĂM 944 (GIÁP THÂN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Thân)

015. Dương Tam Kha giành lại ngôi vị, được dân chúng đồng thuận

Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền quyết định rời Đại La, đưa đại quân về cố đô Cổ Loa, “bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm Hoàng hậu, định trăm quan, đặt ra triều nghi phẩm phục”. Thời điểm đó rơi vào khoảng mùa xuân năm Kỷ Hợi (từ tháng 2 đến tháng 4-939).

Trải 6 năm cầm giữ vương triều, Ngô Quyền đã khiến cho chính thống của nước Việt ta ngõ hầu đã nối lại được như lời bình của nhà sử học Lê Văn Hưu. Tuy nhiên, khoảng thời gian quá ngắn ngủi đó không đủ để xác lập uy tín và sự thừa nhận của xã hội, vì vậy trước khi mất ông đã di chúc cho Dương Tam Kha – một võ tướng cao cấp và cũng là người trong hoàng tộc giúp rập bầy con và triều đình. Ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thân (9-2-944), Ngô Quyền băng hà, Dương Tam Kha giành lại ngôi vị, xưng là Bình Vương.

Sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Tống sử nhìn nhận sự kiện này khác nhau hoàn toàn.

Tống sử ghi Dương Tam Kha là Dương Thiệu Hồng và coi ông là người tiếp nối Dương Đình Nghệ, không có thời kỳ trung gian Kiều Công Tiễn – Ngô Quyền như sau: “Niên hiệu Trinh Minh nhà Lương, Thổ hào Khúc Thừa Mỹ chuyên giữ đất ấy, nạp khoản quy thuận Mạt đế, nhân đó bèn trao Tiết việt cho Thừa Mỹ. Bấy giờ Lưu Ẩn chuyên quyền ở vùng Lĩnh Biểu, sai tướng Lý Trị Thuận đánh Thừa Mỹ, bắt được, bèn kiêm tính đất ấy. Sau Dương Đình Nghệ, Thiệu Hồng cùng được nhậm chức Quảng Nam thứ, rồi kế làm Giao Chỉ Tiết độ sứ. Thiệu Hồng chết, Châu tướng là Ngô Xương Ngập bèn giữ chức ấy. Xương Ngập chết, em là Xương Văn lại kế tập”.

Việt sử lược chép: “Dương Bình Vương húy là Chủ tướng, họ Dương, là gia thần của Tiền Ngô Vương. Khi Ngô Vương mất, Chủ tướng tự lập làm vương. Con Ngô Vương là Xương Ngập chạy về nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương. Chủ tướng lấy em Xương Ngập là Xương Văn làm con mình. Em Xương Văn là Nam Hưng, Càn Hưng còn nhỏ. Lâu về sau, Chủ tướng sai người đem quân đến nhà Lệnh Công tìm bắt Xương Ngập. Lệnh Công sợ, giấu Xương Ngập vào trong động”.

Đại Việt sử ký toàn thư chép lại các sự kiện trên nhưng nâng từ tự lập làm vương lên tiếm xưng là Bình Vương, cướp ngôi 6 năm mặc dù vẫn phải thừa nhận rằng lúc ấy người trong nước ai cũng xem Tam Kha là vua.

Trong suốt thời gian nhiếp chính, mặc dù luôn trong tình thế bất định nhưng Dương Tam Kha cũng làm được một số việc lớn như cử Dương Tế Mỹ, Dương Thiên Hòa, Nguyễn Vị Bình làm xong việc phân chia địa giới, cắt cử quan lại cai trị ở các địa phương (Ất Tỵ – 945), hoàn thành việc đắp đê ngăn lũ lụt Tường Xà qua địa phận 355 ấp (Bính Ngọ – 946).

Nguồn: C5; A3, tr.21-22; V.17, tr.48; Đ4, tr.121; Đ5, tr.184-185.

        NĂM 950 (CANH TUẤT)

        Trong năm

016. Bình vương Dương Tam Kha bị phế, lui về khai phá Chương Dương

Việt sử lược cho biết vào năm ấy, Dương Chủ Tướng sai Xương Văn, Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đem binh về hai thôn Đường, Nguyễn ở ấp Thái Bình (Phong Châu). Khi hành quân tới đất Từ Liêm, Xương Văn lệnh cho hai Nha tướng quay trở lại Cổ Loa đánh úp, bắt được Dương Chủ Tướng. Nhận thấy Bình Vương vốn có ơn sâu nên giáng làm Chương Dương sứ, ăn lộc ấp ở đó.

Vùng đất mà Dương Tam Kha được ăn lộc nằm kế bên sông Hồng, gọi là Chân Giang, từ đó đổi là Trương Dương hoặc Chương Dương. Theo Chương Dương thần từ ký, đền Chương Dương thờ vị Thượng đẳng tối linh thần Bột Hải Hoàng đế, tương truyền ngài là người Dương Xá, huyện Đông Sơn – Ái Châu, từ xa xưa được hưởng trực tiếp ở đây, đúng như Hà Tôn Quyền đã mô tả qua bài Quá Dương công thực phong ấp trong Sơn Nam phong vật chí (1829) như sau:

“Thoái cứ Chương Dương hữu miếu từ

            Bi đề thực ấp phóng gian khư

            Nhân vô trọng vị xưng điền lão

            Trí bảo hoàng đồ hoạch địa lô

            Nhược đạo sĩ phu công bất quý

            Hoặc ngôn yếm thế tổ hà ngu

            Phù danh thử nhật hà năng bảo

            Di tử an nhàn van thế u”

(Lui ở Chương Dương có miếu thờ

Bia nêu thực ấp để bên bờ

Nhân không cố vị xưng điền lão

Trí giữ hoàng đồ vạch địa lô

Hoặc nói yếu hèn, Ông chẳng thẹn

Hay rằng yếu thế, Cụ không ngu

Phù danh thuở ấy ai mà giữ

Con Cháu an cư nhớ nhớ cho)

Nguồn: V17, tr.48; T18, tr.56-57.

017. Thứ sử Hoan Châu Đinh Bộ Lĩnh mất chức

Đinh Bộ Lĩnh, con trai Đinh Công Trứ, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư – Ninh Bình), sinh năm 924, lớn lên theo cha vào Hoan Châu được làm Ngự Man Đô đốc. Khi Đinh Công Trứ qua đời, ông thay cha làm Thứ sử Hoan Châu, sau đó trở thành con rể của Dương Tam Kha.

Khi nhạc phụ bị lật đổ, Đinh Bộ Lĩnh cũng bị mất chức theo.

Nguồn: T17, tập 1, tr.245.

        NĂM 963 (QUÝ HỢI)

        Ngày 21 tháng 3 (29 tháng Chạp – Quý Hợi)

018. Dương Tam Kha lui về khai khẩn vùng Tùng Khê

Theo Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích do Tiến sĩ Vũ Huy Trác soạn thì:

“Tại nước ta vào thời Phùng Vương (791 – 802) có hai vị tướng tên là Nguyễn Duy Lương và Dương Kế Thành, ban đầu tới chiếm một vùng hữu ngạn sông Nhị thuộc huyện Giao Thủy, chiêu dân tụ hội nhưng ở không được bao lâu lại phải dời về phía đông trang Mậu Lực huyện Đại An cư trú (nay hai ông vẫn còn đền thờ tại thôn Mậu Lực, Yên Cường – Ý Yên). Hai ông đi rồi nhưng ở đó vẫn có vài nhà thuyền chài qua lại. Ban đầu đất này chưa có tên gọi, đến khi Bình Vương phân định lại hương ấp xong, mới cho tùy tướng Dương Thục Phi, Dương Tế Mỹ, Nguyễn Vị Bình, Vũ Đại Hòa chia việc đắp đê ngăn nước biển dàu hơn hai ngàn dặm. Xong việc Vương dùng xe đem các con trai hai nhà nội ngoại được 15 hộ, khơi ngòi, khẩn đất để ở, đặt hiệu là trang Tùng Khê. Nhân thế Vương mới xưng hiệu là Tùng Khê Công. Số ruộng khẩn ra có thể cày cấy được quãng hơn 500 mẫu. Ngòi khơi thành năm dải, dải to gọi là Tùng Khê, hai dải phía bắc gọi là Trúc Khê, Lệ Khê; hai dải phía nam gọi là Lộ Khê, Nga Khê. Nay là năm trang của Tùng Khê vậy”.

Mô tả về Dương công Tùng Khê ấp, Phủ doãn phủ Phụng Thiên là Dương Đức Kỳ viết:

“Văn đạo Tùng Khê hữu ngũ trang

            Khẩn khai sơ khởi tự Bình Vương

            Khê phân cư thổ kim do biện

            Tùng ký trung gian cổ vị tường

            Nội Ngoại tương thân Tam tính thị

            Thuận hòa liên bảo cửu phân phường

            Mục tiền ngõa ốc từ tam trĩ

            Hạ vãn ô đề hoán tịch dương”

(Tùng Khê nghe có năm trang

Bình Vương mới đến mở mang ban đầu

Khe theo nhà ở dài lâu

Nằm giữa tùng mộc thấy đâu nữa mà

Nội, ngoại ba họ thuận hòa

Tích điền liên bảo quê ta một lòng

Ba tòa đền ngói mắt trông

Quạ kêu hè muộn lượn trong trời tà).

Tam Đăng Phạm Văn Nghị đánh giá rất cao sự nghiệp vì dân vì nước qua Đáo Bình Vương cựu ấp:

“Bán vi điền tổ, bán vi vương

            Chí tại gia hưng dữ quốc cường        

            Phú, quý phù vân nan cửu thủ

            Tử tôn giáo hiếu tảo thành phương

            Địa khai tỉnh hoạch cần vô ngã

            Khê tuấn tứ toàn thủy bất cang

            Thập thất tu trì trung tín niệm

            Hảo bình xuất xứ mạc quai trương”

(Nửa đời điền tổ, nửa đời vương

Chỉ nghĩ gia hưng với quốc cường

Phú quý phù vân sao giữ mãi

Cháu con hiếu đễ phải lo lường

Tỉnh điền cày cấy không cơ nhỡ

Dẫn thủy vòng quanh tưới ruộng nương

Xóm nhỏ tín trung đừng biếng nhác

Khéo điều xuất xử chớ coi thường)

Nguồn: C5; T18, tr.58-61.

        NĂM 966 (BÍNH DẦN)

        Trong năm

091. Thứ sử châu Vũ Ninh Dương Huy trở thành thế lực lớn

Tống sử, Q.488 (Ngoại quốc 4) ghi nhận, Xương Văn chết, các thế lực của Tham mưu Ngô Xử Bình, Thứ sử Phong Châu Ngô Trì Hộ, Thứ sử Vũ Ninh Dương Huy, Nha tướng Đỗ Cảnh Thạc tranh nhau tự lập, kéo về Cổ Loa gây loạn.

An Nam chí lược của Lê Tắc cũng ghi như vậy. Nhiều tài liệu khác cho rằng Dương Huy là con của Dương Cát Lợi, còn gọi là Lý Huy hoặc Dương Lý Huy. Sau, Dương Huy bị Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp đánh dẹp.

Nguồn: A3, tr.22, A1, tr.212.

        NĂM 970 (CANH NGỌ)

        Trong năm

020. Con gái Dương Tam Kha trở thành Hoàng thái hậu của nhà Đinh

An Nam chí lược cho biết, người tạo lập ra nhà Đinh là Đinh Bộ Lĩnh, phụ thân của ông là Đinh Công Trứ, Nha tướng của Dương Đình Nghệ. Khi chủ tướng trở thành Tiết độ sứ Giao Châu, lấy Công Trứ quyền Thứ sử Hoan Châu. Đến lúc Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn, Công Trứ vẫn giữ chức vụ cũ. Phụ thân qua đời, Bộ Lĩnh kế tập chức cha. Kịp đến khi Ngô Xương Văn mất, bộ hạ nổi loạn, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đánh dẹp yên hết.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đầu năm 970, Đinh Tiên Hoàng quyết định đặt niên hiệu và lấy năm đó là năm Thái Bình thứ nhất; các bà vợ là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc, Ca Ông được lập làm Hoàng hậu. Trong số 5 bà Hoàng hậu này – có một người là con gái Dương Tam Kha, lâu nay được truyền tụng trong tên gọi là Dương Vân Nga hoặc Dương hậu.

Nguồn: A1, tr.212; Đ4, tr.126-128; Đ5, tr.197-198.

 

NĂM 980 (CANH THÌN)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Canh Thìn)

021. Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn được Dương hậu tôn làm Thiên tử

An Nam chí lược ghi nhận Lê Hoàn người Ái Châu, có chí lược, được lòng quân sĩ. Ông được Đinh Bộ Lĩnh thăng làm Thập đạo Tướng quân vào năm Tân Mùi (971).

Dương hậu sinh hạ với Đinh Tiên Hoàng một công tử là Đinh Toàn vào năm 974. Chỉ mấy năm sau, vào tháng Một năm Kỷ Mão (12-979), cha con Đinh Tiên Hoàng – Đinh Liễn bị sát hại. Trong tình hình ấy, Đinh Quốc công Nguyễn Bặc, Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn tôn phò Đinh Toàn lên ngôi Hoàng đế.

Đinh Toàn chỉ là người ngồi ngai vàng làm vì, còn mọi việc trong triều đều do Lê Hoàn nhiếp chính quyết định, các bậc huân thần khai quốc của triều đình Hoa Lư là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp cho rằng không sớm thì muộn Lê Hoàn cũng sẽ cướp ngôi báu của nhà Đinh nên bí mật họp nhau chia thành hai đường thủy bộ tiến vào kinh thành Hoa Lư định giết chết Lê Hoàn. Âm mưu bị bại lộ, cuộc tiến công bị thất bại, cả Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp đều đã bị Lê Hoàn bắt và giết chết.

Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn sau khi dẹp yên âm mưu chống đối của Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đã nắm trọn quyền bính trong tay, xưng là Phó vương, quyền giữ việc nước.

Khi ấy nhà Tống đã hoàn thành công cuộc thống nhất Trung Quốc, nội bộ bắt đầu ổn định, tình hình miền nam cũng trở lại yên tĩnh, Tống Thái Tông có điều kiện đẩy mạnh mưu đồ bành trướng và xâm lược các nước phương Nam, nhất là với Đại Cồ Việt. Vua Tống tin theo lời bàn của Lư Đa Tốn, tháng 7-980 cho lập Giao Châu hành doanh và lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu lục lộ thủy lộ chuyển vận sứ, cùng Tôn Toàn Hưng, Hác Thủ Tuấn, Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn họp quân cả bốn hướng, hẹn ngày cùng tiến đánh Đại Cồ Việt.

Được tin quân Tống sắp kéo sang xâm lược, Dương Thái hậu “sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân”. Trong khi triều đình đang họp bàn kế hoạch xuất quân thì Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ yêu cầu tôn lập Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn làm Hoàng đế trước khi xuất quân đánh giặc.

Lê Hoàn lúc này là người duy nhất trong triều đình Hoa Lư hội đủ được uy tín và tài năng, tinh thần và lực lượng bảo vệ và gìn giữ nền độc lập dân tộc, nền thống nhất quốc gia trước cuộc tiến công xâm lược của nhà Tống. Hơn ai hết Dương hậu nhận rõ thực tế này và đã phó thác toàn bộ vận mệnh của đất nước và triều đình Hoa Lư vào tay Thập đạo Tướng quân. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế”. Nhà Lê (mà sau này sử sách gọi là Tiền Lê) chính thức được thành lập.

Ngoài Đinh Toàn, Dương hậu còn sinh với Lê Hoàn một con gái là Công chúa Lê Thị Phất Ngân. Sau Công chúa được gả cho Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Công Uẩn. Ngày 26 tháng Sáu năm Canh Tý (23-7-1000), Công chúa hạ sinh Lý Phật Mã, tức Lý Thánh Tông của nhà Lý.

Nguồn: Đ4, tr.134; A1, tr.213-214.

        Ngày 16 tháng 9 (10 tháng Tám – Canh Thìn)

022. Dương Tam Kha rời Tùng Khê về Ái Châu xây dựng hậu cứ chống Tống

Hay tin nhà Tống chính thức phát động cuộc chiến tranh nhằm thôn tính Đại Cồ Việt và Lê Hoàn vừa được con gái của mình là Dương hậu mời lên ngôi Hoàng đế, Dương Tam Kha đã nhanh chóng rời Tùng Khê trở lại Ái Châu – nơi đã gắn bó nhiều đời của dòng họ. Ông đã chọn Lỗ Mau Khu thuộc hương Cửu Chân để lập một phòng tuyến dự bị nếu giặc chiếm được Giao Châu tràn xuống. Lỗ Mau Khu trong tầm nhìn của ông có thể án ngữ mọi ngả đường từ phía Bắc vào Ái Châu, được bao bọc bởi đoạn sông Cầu Chày nối sang sông Mã, sông Chu. Vùng đất được hào lũy tự nhiên vây quanh ấy là nơi xây dựng hệ thống đồn trú cho một lực lượng quân sự lớn, có nơi dựng đặt kho tàng, sản xuất quân lương.

Ngày nay, tuyến phòng thủ này thuộc thôn Thành Đạt (xã Thiệu Long, Thiệu Hóa – Thanh Hóa) vẫn còn lưu lại nhiều địa danh của tuyến phòng thủ Lỗ Mau xưa: Đồng Kho (nơi đặt kho tàng cất giữ quân lương), Đồng Bến (nơi tập kết của thủy binh), Đồng Cầu (nơi bắc cầu để binh lính qua sông Mạo Khê), Đồng Yên (nơi chăn nuôi để cung cấp thực phẩm), Đồng Trại (nơi đại quân đóng giữ).

Tương truyền, công trình này được Dương Tam Kha giao cho con trai là Dương Quý Khách trông nom việc xây dựng. Sau khi Lê Hoàn dẹp xong quân Tống, Lỗ Mau trở thành thực ấp của họ Dương.

Theo Lý lịch đền thờ Bình Vương Dương Tam Kha thuộc thôn Thanh Đạt tại Cồn Nghè cũ bao quanh lũy có một cồn đất lớn không bị xói mòn chính là nơi có mộ chí của Bình Vương, ghi rõ Dương Tam Kha qua đời ngày 15 tháng Giêng năm Tân Tỵ (16-2-981). Ngoài ra còn có mộ chí của Dương Quý Khách tại cồn Cây Đa Si, địa phương gọi là mộ Cố Tể và nhà thờ Dương Mỹ Tố, Vệ úy của Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn.

Căn cứ theo Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích thì vào năm Canh Thìn niên hiệu Thiên Phúc thứ nhất (980), Dương Tam Kha về quê cũ Ái Châu, ở đến ngày mồng 10 tháng Tám thì mất tại nơi giường ngủ. Các con cháu hành lễ an táng trên gò đất hình con voi rộng ước 5 sào, phía trước có giếng nước, sau có hình cái ngai vươn hai tay dài ôm lấy khu mộ, tọa khảm hương ly. Bấy giờ đất Tùng Khê có 5 con trai của ông, ở quê [Ái Châu] có 5 con trai. Đứng đầu ở quê là con trai trưởng Đại Thiệu còn ở Tùng Khê là con trai thứ hai Tiền Du, ngoài ra chưa khảo cứu nước.

Phải chăng, ngày 10 tháng Tám năm Canh Thìn (16-9-980) là ngày Dương Tam Kha rời Ái Châu (hoặc Tùng Khê) về Lỗ Mau bởi ngôi mộ được mô tả ở trên phù hợp với vị trí và địa điểm Lỗ Mau – Thành Đạt, trong khi ở Dương Xá – Giàng không hề có mộ chí và đền thờ của ông. Do vậy, ngày ông qua đời 15 tháng Giêng năm Tân Tỵ (16-2-981) và nơi mất, nơi an nghỉ tại Lỗ Mau – Thành đạt đáng tin cậy hơn.

Nguồn: L9; C5

        NĂM 989 (KỶ SỬU)

        Trong năm

022. Lực lượng ly khai Dương Tiến Lộc bị Lê Đại Hành tiêu diệt

Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, năm 983 Lê Đại Hành rút quân về Hoa Lư, cử Quản giáp Lưu Kế Tông ở lại Đồng Dương quản lý một vùng đất rộng lớn ngày nay thuộc Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam và Bình Định. Vua Chiêm chỉ còn lại vùng Khánh – Thuận. Năm 986, vua Chiêm Thành chết, Lưu Kế Tông tự lập làm vua, cử sứ giả mang phẩm vật triều cống nhà Tống. Lúc này, nhà Tống và Đại Cồ Việt có nhiều sứ đoàn qua lại trao đổi về vụ việc này. Năm 988, người Chiêm Thành nổi dậy, chiếm được vùng Phật Thệ (Chà Bàn – Bình Định), lên ngôi và dựng quốc đô ở đó. Đầu năm 899, Lưu Kế Tông đau ốm rồi qua đời, nhân đó, vua Chiêm tiến ra khôi phục đất đai đến tận châu Đại Lý.

Nhân cơ hội này, một cự tộc người địa phương là Dương Đà Bài cũng nổi lên, âm mưu làm chủ vùng đất cũ Lưu Kế Tông để lại. Hay tin, Dương Tiến Lộc khi đó đang là Quản giáp của Đại Cồ Việt xin triều đình vào Ái, Hoan thu thuế nhưng ngầm mưu đem hai châu ấy quy phụ Dương Đà Bài để chia xẻ quyền lực.

Kết cục của sự kiện này được ghi lại như sau: “Năm Kỷ Sửu, niên hiệu Thiên Phúc thứ 9, Quản giáp Dương Tiến Lộc đem hai châu Hoan Ái xin phụ Chiêm Thành. Vua thân chinh bắt được Tiến Lộc, lấy lại được hai châu” (Việt sử lược). Còn đây là một sự kiện trong chuỗi sự kiện kể từ Lưu Kế Tông trở xuống cũng do sử cũ tổng kết: “Năm Thiên Phúc thứ 6 [985] vua Chiêm Thành là Ngô Nhật Hoan [Indravarman] sang tố cáo với nhà Tống là bị vua ta xâm lược. Nhật Hoan chết. Lưu Kế Tông lên ngôi. Kế Tông chết, Dương Đà Bài lên ngôi. Vua ta lại đến đánh. Đà Bài lại tố cáo với Tống. Vua Tống ban chiếu bảo nước nào giữ lấy bờ cõi nước đó” (Đại Việt sử ký tiền biên) “Năm Thuần Hóa nguyên niên (990), vua mới là Dương Đà Bài tự xưng là mới chiếm giữ nước Phật Thệ. Dương Đà Bài sai sứ là Lý Trăn sang cống tê giác đã thuần và phương vật, cùng dâng biểu tố rằng bị Giao Châu đánh, nhân dân và của cải trong nước đều bị cướp đi. (Hoàng thượng) ban chiếu cho Lê Hoàn, lệnh ai nấy cùng giữ yên bờ cõi” (Tống sử, Q.489).

Nguồn: V17, tr.62 ; Đ4, tr.144 ; Đ5, tr.223 ; A3, tr.290.

        NĂM 1009 (KỶ DẬU)

        Ngày 27 tháng 11 (15 tháng Mười – Kỷ Dậu)

023. Lý Công Uẩn, con rể Lê Hoàn và Dương hậu lên ngôi Hoàng đế, lập nên nhà Lý

Tháng 3-1005, Lê Hoàn qua đời. Thái tử Long Việt cùng Đông Thành Vương Long Tích, Trung Quốc Vương Long Kính, Khai Minh Vương Long Đĩnh “tranh nhau lên ngôi, giằng co 8 tháng, trong nước không có chủ”. Cuối cùng Long Việt (con thứ ba của Lê Hoàn) vẫn thực hiện được di chiếu thay cha trị nước. Thế nhưng Long Việt mới chỉ ở ngôi được 3 ngày thì liền bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết chết cướp đoạt ngôi báu. Long Đĩnh là kẻ “làm việc càn dỡ giết vua cướp ngôi, thích dâm đãng tàn bạo” đến nỗi mắc bệnh trĩ phải nằm mà coi chầu (nên gọi là Ngọa Triều) và mất vào tháng 10-1009, khi mới 24 tuổi).

Ngay từ khi Long Đĩnh còn đương triều, quan lại, sư tăng, quân sĩ và nhân dân cả nước đã quá chán ghét nhà Lê và hướng cả về họ Lý. Khắp nơi xuất hiện bùa sấm dự báo việc nhà Lê mất (hòa, đao, mộc lạc) và họ Lý nổi lên (thập, bát, tử thành) là chuyện đương nhiên và bày tỏ sự tin tưởng, trông mong Thân vệ Lý Công Uẩn sớm lên ngôi. Được sự hậu thuận của giới trí thức, sư tăng, sự ủng hộ nhiệt thành của quân sĩ và nhân dân, dưới sự tổ chức khôn khéo của Chỉ hậu Đào Cam Mộc, ngày 27-11-1009, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế lập ra nhà Lý. Lập sáu Hoàng hậu, duy có đích phu nhân Lê Thị Phất Ngân gọi là Hoàng hậu Lập Giáo, quy chế xe kiệu và y phục khác hẳn với các cung khác. Sách lập con trưởng là Phật Mã làm Hoàng Thái tử, các con khác đều phong tước hầu. Con gái 13 người đều phong Công chúa. Lấy con gái trưởng là Công chúa An Quốc gả cho Đào Cam Mộc, phong Cam Mộc là Nghĩa Tín hầu. Phong Hoàng huynh (anh vua) làm Vũ Uy Vương, Hoàng thúc (chú vua) làm Vũ Đạo Vương, con Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái Úy, con Dực Thánh Vương là Phó làm Tổng quản, Trần Cảo làm Tướng công, Ngô Đinh làm Khu mật sứ, Đào Thạc Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm Thái phó, Phí Xa Lỗi làm Tả kim ngô, Vệ Trúc làm Hữu Kim ngô, Đàm Thản làm Tả vũ vệ, Đỗ Giản làm Hữu vũ vệ: các người khác đều như cũ.

Nguồn: Đ4, tr.149-157.

        NĂM (1014)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Dần)

024. Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí đem Thổ tù và dân binh đánh vào bến Kim Hoa (Cao Bằng)

Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí cho toàn bộ lực lượng Thổ binh dàn bày quân dinh, gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vĩnh đem việc ấy tâu lên. Vua sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém được hơn 1 vạn đầu, bắt sống được quân lính và ngựa không xiết kể. Xuống chiếu cho viên ngoại lang là Phùng Chân và Lý Thạc đem một trăm con ngựa Man bắt được sang biếu nhà Tống. Vua Tống xuống chiếu cho quan sở tại sai sứ thần đón tiếp, cùng đi đến cửa khuyết, đệ trạm và cung đốn phải cho đầy đủ.

Nguồn: Đ4, tr.163-164; V17, tr.76; A2, tr.306.

        NĂM 1024 (MẬU THÌN)

        Ngày 25 tháng 3 (3 tháng Ba – Mậu Thìn )

025. Lý Thái Tổ băng hà, Dương Bình cùng Lê Phụng Hiểu và các cận thần dẹp loạn Tam Vương

Ngay sau khi nhận được tin dữ, vua cha bệnh rất nguy, bề tôi đều đến cung Long Đức xin Thái tử tuân chiếu lên ngôi, Tam Vương là Đông Chinh, Dực Thánh, Vũ Đức bèn bí mật đem quân vào cấm thành, chia ra phục ở Long Thành và cửa Quảng Phúc, đợi Thái tử đến thì đánh úp. Rất may là khi Thái tử từ cửa Tường Phù đi vào, đến điện Càn Nguyên, biết có sự biến, sai quan hoạn đóng các cửa điện và cho các vệ sĩ trong cung phòng giữ, lại gọi Nội thị Lý Nhân Nghĩa cùng bầy tôi Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu đến bày tỏ thiện tâm. Nghe các quan đồng lòng đánh dẹp, Thái tử im lặng hồi lâu rồi bảo Nhân Nghĩa và các quan trong cung là Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu rằng: “Ta chẳng lẽ lại không biết Đường Thái, Chu Công làm như thế sao? Vì ta muốn che giấu tội ác của họ cho tự ý rút quân, để được trọn tình nghĩa máu mủ của ta là hơn thôi”.

Khi ấy phủ binh của Tam Vương đánh càng gấp, Thái tử liệu không thể ngăn được, nói rằng: “Thế đã đến như vậy, thì ta còn mặt mũi nào trông thấy Tam Vương nữa, ta chỉ biết làm lễ thành phục đến hầu Tiên đế, ngoài ra đều ủy thác cho các khanh cả”. Bọn Nhân Nghĩa lạy hai lạy nói: “Chết về hoạn nạn của nhà vua là chức phận của bọn tôi, nay đã được chỗ đáng chết, còn từ chối gì nữa”. Bèn sai vệ sĩ trong cung mở cửa ra đánh, ai cũng vui lòng xông vào nơi hoạn nạn, đều cố sức một người địch trăm người. Khi đã tiếp chiến, hai bên còn cầm cự, Phụng Hiểu tức giận rút kiếm chạy thẳng đến cửa Quảng Phúc thét to lên rằng: “Bọn Vũ Đức Vương nhòm ngó ngôi báu, khinh miệt vua nối ngôi, trên thì quên ơn Tiên đế, dưới thì trái nghĩa tôi con, về việc này Phụng Hiểu tôi chỉ dùng gươm thôi”. Nói đoạn xông thẳng vào ngựa Vũ Đức Vương. Vương quay ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị Phụng Hiểu bắt giết. Quân của Tam Vương thua chạy, quan quân đuổi chém không sót người nào, chỉ còn hai vương Đông Chinh và Dực Thánh thoát được.

Nguồn: V17, tr.78; Đ4, tr.168-169; Đ5, tr.266-267.

        NĂM 1054 (GIÁP NGỌ)

        Trong năm

026. Dương Công Đán được cử làm Đô quản phủ Lỵ Nhân

Ông sinh ngày 12 tháng Ba – Kỷ Tỵ (21-4-1029) tại ấp An Bài – Bình Lục thuộc phủ Lỵ Nhân (nay thuộc xã Đồng Du, Bình Lục – Hà Nam) trong một gia đình làm nghề thuyền chài nhưng được sư thày ở địa phương dạy chữ và võ nghệ từ nhỏ. Do có công tích dẹp loạn tại phủ Lỵ Nhân nên ông được phong làm Đô quản, sau đó là Quản phủ Lỵ Nhân.

Nguồn: H4, tr.36.

        NĂM 1072 (NHÂM TÝ)

        Ngày 7 tháng 2 (22 tháng Giêng – Nhâm Tý)

027. Càn Đức lên ngôi, tôn Thượng Dương làm Hoàng thái hậu

Bà họ Dương, không rõ gia thế và quê quán, ngày vào cung. Do được ở cung Thượng Dương nên có tên gọi như vậy. Bà là chính thất của Lý Thánh Tông và đích mẫu của Lý Nhân Tông.

Liên quan đến sự kiện này, sử cũ cho biết, Càn Đức lên ngôi trước linh cữu, tôn mẹ là Nguyên phi Ỷ Lan làm Thái phi, lấy Thượng DươngThái hậu cùng nghe bàn chính sự, hoặc Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu; đổi niên hiệu làm Thái Ninh năm thứ nhất. Khi ấy vua mới 7 tuổi. Tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan Nguyên phi làm Hoàng thái phi; mẹ đích là Hoàng hậu Thượng Dương Dương thị làm Hoàng Thái hậu, buông rèm cung nghe chính sự, Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công việc.

Nguồn: V17, tr.99; Đ4, tr.198.

        Tháng 5 (tháng Tư – Nhâm Tý)

028. Châu mục Lạng Châu Dương Cảnh Thông được cử làm Thái bảo

Trước khi được cử giữ chức vụ mới, Dương Cảnh Thông đã dâng lên Lý Nhân Tông con hươu trắng. Việc làm này được quần thần cho là điềm báo lành nên đã đến chúc mừng nhà vua.

Nguồn: V17, tr.99.

        Tháng 10 (tháng Chín – Nhâm Tý)

029. Lý Thường Kiệt cử Dương Thọ Văn đánh vào châu Quy Hóa trên đất Tống

Châu Quy Hóa vốn là đất Vật Dương của Đại Việt bị Nùng Tri Hội nộp cho nhà Tống. Khi ấy, Dương Thọ Văn đang giữ chức Châu mục châu Quảng Nguyên (vào khoảng Bắc Cạn ngày nay) được lệnh đem quân tiến công khiến Nùng Tri Hội thua chạy vào Hữu Giang.

Nguồn: L1, tr.458.

        NĂM 1073 (QUÝ SỬU)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Sửu)

030. Giam giữ rồi bức tử Thượng Dương Hoàng Thái hậu

Được tôn làm Linh Nhân Hoàng Thái hậu, vốn có tính đố kỵ nên Ỷ Lan mới kể lể với nhà vua: “Mẹ già khó nhọc để có ngày nay, đến khi phú quý thì người khác lại đến giành mất, thế thì sẽ để mẹ già ở chỗ nào đây”. Vua tuy bé nhưng biết mình không phải là con Thượng Dương Hoàng Thái hậu, bèn sai giam cùng 72 thị nữ ở cung Thượng Dương, bức khiến chết theo vua Thánh Tông.

Nguồn: V17, tr.100; Đ4, tr.199.

        NĂM 1077 (ĐINH TỴ)

        Ngày 25 tháng 9 (12 tháng Tám – Đinh Tỵ)

031. Dương Công Đán hy sinh tại ải Kê Minh

Mặc dù đã từng thảm bại ở Đại Việt dưới thời Tiền Lê nhưng nhà Tống vẫn nuôi chí thôn tính vùng đất phương Nam một lần nữa. Tại vùng giáp ranh biên giới, thành Ung Châu được xây dựng rất kiên cố, có thể chứa được hàng vạn quân chuyên lo việc biên thùy. Với chủ trương ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc, tháng 3-1076, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, thành Ung Châu bị san phẳng. Khi ấy, Dương Công Đán đang giữ chức Đông chấn Tướng quân Thủ ngự Kinh thành sự cũng có mặt trong đạo quân Đại Việt kéo vào đất Tống, lập được nhiều chiến công.

Đầu năm 1077, Dương Công Đán tiếp tục chặn đánh quân xâm lược Tống tại chiến tuyến sông Cầu, góp phần đẩy lùi quân địch tới tận biên giới. Vào một ngày tháng Tám năm đó, trong lúc cùng binh lính đi tuần phòng ở ải Kê Minh, ông bất ngờ rơi vào trận địa mật phục của giặc và đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Hay tin, Phó tướng Dương Kỳ Mưu – em trai ông đến giải nguy nhưng không kịp.

Nguồn: H4, tr.36.

        NĂM 1086 (BÍNH DẦN)

        Ngày 10 tháng 2 (1 tháng Giêng – Bính Dần)

032. Dương Cảnh Thông tạo áp lực với nhà Tống để làm điểm tựa cho nhà ngoại giao Lê Văn Thịnh

Đầu tháng Hai năm Mậu Ngọ (3-1078) Lý Nhân Tông sai Đào Tông Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, cùng những người các châu ấy bị bắt đem đi. Năm 1079, nhà Tống đem Thuận Châu trả lại cho Đại Việt, nhưng chưa trả hết phần đất đai mà các thổ dân từng dâng cho nhà Tống.

Đến tháng Sáu năm Giáp Tý (7-1084), Lê Văn Thịnh lúc đó giữ chức Thị lang bộ Binh được cử đến trại Vĩnh Bình cùng người Tống bàn bạc về đường biên giới và những phần đất còn lại bị nhà Tống chiếm đóng. Nhà Tống viện lý do là vùng đất thuộc hai động Vật Dương và Vật Ác do các thổ dân xin nộp và thần phục, tự ý đem sáp nhập vào nhà Tống nên không chịu trả lại cho Đại Việt. Họ lập luận rằng: “Những đất mà quân ta chiếm thì đáng trả cho Giao Chỉ. Còn những đất mà các người coi giữ đem nộp để theo ta thì khó mà trả lại”. Trước thái độ ngang ngược và lý lẽ bao biện của sứ giả nhà Tống, Lê Văn Thịnh đã cương quyết đòi bằng được vùng đất bị chiếm đóng ấy. Ông trả lời sứ giả nhà Tống là Thành Trạc rằng: “Đất thì có chủ, các viên quan giữ đất ấy đem nộp cho người khác và trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Việc chủ giao cho mà lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép, huống chi nay lại mang đất lấy trộm dâng để làm dơ bẩn sổ sách nhà vua”. Với cách lập luận thuyết phục, lấy luật pháp quy định và lý lẽ chân chính của nho gia mà phản biện, sau hàng tháng trời, cuối cùng phái viên Tống phải trình lên vua Tống giao trả cho nước ta sáu huyện và hai động – trong đó có vùng Quảng Nguyên nổi tiếng là có nhiều mỏ vàng trữ lượng cao, nhưng vẫn giữ lại Vật Dương, Vật Ác.

Vì sự kiện này, người Tống còn có thơ rằng:

“Nhân tham Giao Chí tượng,

          Khước thất Quảng Nguyên kim”.

(Vì tham voi Giao Chỉ

Để mất vàng Quảng Nguyên).

Tháng Tám năm Ất Sửu (9-1085), Lê Văn Thịnh được cử làm Thái sư. Công cuộc đấu tranh đòi lại hai động Vật Dương, Vật Ác vẫn tiếp diễn. Với chủ trương dùng binh lực quấy nhiễu vùng biên giới, nhân vùng đất thuộc Động Nhân của Nùng Thuận Thanh bị thổ quan nhà Tống là Lương Hiền Trí quấy rối, Thái bảo Dương Cảnh Thông, người vừa được nhà Lý cử lên trông coi châu Quảng Nguyên mới thu hồi được, đã cử Đàm An đánh sang đất Tống cướp dân. Ngay ngày hôm sau, mồng 2 tháng Giêng năm Bính Dần (11-2-1086), vua Tống đã hạ chiếu cho Ty Kinh lược Quảng Tây yêu cầu phải phán xét ngay việc ấy rồi gửi thư trách cứ vua Lý.

Nguồn: L1, tr.465-466.

        NĂM 1110 (CANH DẦN)

        Trong năm

033. Dương Cảnh Thông xây dựng chùa Sùng Khánh thuộc châu Tư Lang

Quy mô, cảnh trí và địa điểm chùa Sùng Khánh được Tư Lang châu Sùng Khánh tự chung minh tinh tự ghi lại như sau: “Bèn ở khoảng núi Tư Lẫm, bốn bề chót vót, vây bọc khói lam, khí tốt vật tươi, nguồn thiêng cảnh đẹp, gom chất cỏ hoang, phạt quang gai góc, tính đo dài rộng, thuê mướn thợ lành, đẵn gỗ hạ cây, đặt nơi chính giữa, chọn tinh phương hướng, tựa vách băng khe, kèo cột liền trời, gác hương điện bụt, bắc núi kề non. Hương nhị thắm lẫn sắc gấm phơi, nét đan thanh rối màu mây sớm. Đòn ngà ngậm biếc, ngói ngọc phô tươi, củng vẽ đội mây, đấu son nâng ác, rừng nở bông hoa thất giác, ao tuôn dòng nước bát công. Đẹp đẽ đủ bề, trang nghiêm mọi vẻ, mặt vàng tướng diệu, tựa Như Lai ở Tây Thiên, Nùng Tiên tựa Đông Sóc. Trông ra phủ thư Tư Lang, thuận tiên hộ tri trăm họ, lại được sớm chiều kính lễ, ắt gióng Phạn âm, cảnh tỉnh mê muội”.

Chùa Sùng Khánh đời sau đổi là Sùng Phúc, theo Đại Nam nhất thống chí chùa được xây dựng trên đỉnh Pò Càn thuộc xã Lệnh Cấm, tổng Lệnh Cấm, huyện Hạ Lang – Cao Bằng. Tương truyền, ngôi chùa này vốn có chuông đồng cao bốn thước năm tấc, rộng ba thước, tự nhiên ban đêm rơi xuống đầm ở bên chùa. Nhà sư ở đấy nhìn thấy con thuồng luồng quấn chung quanh quả chuông, lúc chìm lúc nổi, làm cho nước đầm cũng sôi sục lên, một chốc thì chuông lại về nguyên chỗ cũ, cứ đêm nào cũng thế. Sau tám, chín ngày, thì chuông tự nhiên biến mất, cũng từ đó đầm ấy không phải lo nạn thuồng luồng nữa. Nhân đó, gọi là Đầm Chuông. Việc này xảy ra vào năm Vĩnh Tộ (1619-1628) đời Lê Thần Tông. Đến năm Chính Hòa (1681-1704) đời Lê Hi Tông, có người ở châu Thái Bình đến buôn bán ở Cao Bằng, đều nói, trước có quả chuông đồng từ sông Long Châu trôi ngược đến bãi sông Lí Hà thuộc châu Thái Bình, quan châu ở đấy định cho thợ phá chuông, thì thấy chuông ấy chảy mồ hôi ra như tắm, tiếng gầm lên như sấm. Quan châu sợ không dám phá chuông nữa, cho đem treo ra một đền khác, dùng lễ Thái lao (trâu, dê, heo) để tế. Người ở chùa Sùng Khánh nghe nói, đến tận nơi xem, thì chuông ấy đích là chuông ở chùa Sùng Khánh. Đến năm Cảnh Hưng, mới rời chùa về nơi hiện nay, và đổi tên là chùa Sùng Phúc, có Từ thần soạn bài văn bia thuật qua về truyện này. Bia ấy đến nay vẫn còn.

Nguồn: T9, 2012, tr.357-366; Đ3, tập 2, tr.1625-1626.

        NĂM 1113 (QUÝ TỴ)

        Ngày 25 tháng 2 (15 tháng Giêng – Quý Tỵ)

034. Dương Cảnh Thông tổ chức đúc chuông chùa Sùng Khánh

Bài minh và lời tựa trên chuông chùa Sùng Khánh bị lưu lạc ghi lại như sau:

“Phủ trung báo tiết, Tá lý công thần, Thứ sử châu Phú Lương kiêm Tiết độ Quan sát sứ châu Quảng Nguyên – Tư Lang, Kim tử Vĩnh lộc Đại phu – Kiểm hiệu Thái phó kiêm Ngự sử Đại phu, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự Hoằng Nông quận Khai Quốc công, thực ấp vạn hộ, thực phong năm ngàn hộ Dương Cảnh Thông đặc biệt bỏ ra đồng tinh hơn bảy ngàn cân, tạo chuông lớn một quả, lưu lại cúng dường.

Vốn lẽ: thấu suốt âm dương, quản thông động tĩnh. Thấu thịt da đặng nương cốt tủy, len huyết mạch để dấy tinh thần. Trăm quan hài hòa, muôn loài hướng hóa, chẳng lìa gốc diệu, động thường lặng yên. Lớn thay thanh âm, càn khôn lấy Chấn đứng đầu lục tử; thức tỉnh mê man; thánh nhân dùng nhọc điều hòa tứ thời. Si ngốc mừng vui, tiếng chuông phấn chấn, răn đe muôn việc, khai ngộ ác tà. Gồm thâu mười hai khúc hòa, trải khắp ba ngàn thế giới. Sáng soi u tối, chứa đựng phép mầu. Thật tốt đẹp vậy.

Người chủ trương đúc chuông là Phò (mã) lang, người sáng lập nước Quắc vậy. Nhà ông thuộc (châu) Thái Bình, vốn dòng quý hiển, trên tổ có công, rủ lành tích thiện. Hiển (tổ) là Thượng thư Binh bộ đạo vượt quần anh, oai kinh tứ chiếng. Cao tổ chức Thái phó, son sắt cẩn mực, tiết tháo sạch trong, sinh ra Định (tổ), húy là Nhật Đăng thẳng thắn chính trực, mưu tính sâu xa, làm đến Thái bảo. Thái vương phụ húy Khuông, tu tập nhân lành, chức rốt Thái phó. Vương phụ húy Huệ Doanh, văn từ hoa lệ, điển tịch nắm quyền, trước thuật uyên thâm, quét tan a đảng, sinh được ba con. Ông là con út, dáng vẻ kỳ vĩ, dung nghi rạng ngời. Hạnh ngộ tiên vương, tuy có hoàng nữ được ưa chuộng, lễ nên ban gả cho phiên thần, liền triệu ông vào chầu, ngầm được lòng trên, gia ơn quyền cố, đáng làm rể quý, chọn lựa ngày lành, làm lễ gả Công chúa Thọ Dương, tỏ lòng biệt đãi. (Thế là) xóm làng ca ngợi, họ tộc vẻ vang, lại đội ơn đức Kim thượng lễ đãi khác thường, gia phong phẩm trật. Giữ vùng biên ải, mưu lạ chước mầu, muôn việc vẹn toàn, oai rền biên ải. Ngọc quan giữ vững, binh hỏa lặng yên, dân chúng thảnh thơi, công thành trị định, chuông tu quả phúc, trong thấu lẽ mầu, ngoài tô điện phật, nhớ đến bốn ơn, ngầm phát nguyện ớn […].

Ngày 15 tháng Giêng năm thứ 4 niên hiệu Hội trường Đại Khánh chép Hồng Tán đại sư Thích Diên Thọ chùa Quảng Giáo Viên Minh khắc. Thừa vụ lang hiêu thư sinh, thần Dương Văn Đĩnh viết. Viên ngoại lang Hộ bộ sung Học sĩ viên Tập hiền, Tứ tử Kim Ngư đại, thần Tào Lương Phụ soạn”.

Nguồn: T1, số 4 (119) – 2013, tr.23-39; T9, 2012, tr.357-366.

        NĂM 1116 (BÍNH THÂN)

        Tháng 3 (tháng Hai – Bính Thân)

035. Sùng Hiền hầu [Dương Công Khanh] cứu Thiền sư Từ Đạo Hạnh

Thiền sư vốn tên là Từ Lộ, sinh tại Yên Lãng (Đống Đa – Hà Nội ngày nay) có phụ thân là quan Đô sát Từ Vinh bị giết bởi một Pháp sư Đại Điên. Sau Đại Điên tương truyền hóa thân thành đứa trẻ tên Giác Hoàng. Theo Thiền uyển tập anh, bấy giờ Lý Nhân Tông tuổi đã cao mà không có con nối dõi, tháng Hai năm Hội Trường Đại Khánh thứ 3 [sửa lại: năm Hội Trường Đại Khánh thứ 7 – 1116 vì ngay trong Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ đã chỉ ra rằng, việc xảy ra từ năm Nhâm Thìn, Hội trường Đại Khánh thứ 3 đến tạn Hội trường thứ 7 mới đẻ Dương Hoán, Đạo Hạnh mới trút xác là một tồn nghi cần phải sửa lại] ở phủ Thanh Hóa có người tâu: “Vùng bờ biển Sa Đinh có một đứa trẻ con linh dị, mới lên ba tuổi mà nói năng biện giải như người lớn, xưng là con đích của vua, tự đặt hiệu là Giác Hoàng. Phàm mọi việc làm của hoàng thượng, không điều gì đứa bé ấy không biết”. Vua sai trung sứ vào tận nơi xem xét, thấy đúng như lời tâu, bèn cho đón về chùa Báo Thiên ở Kinh đô. Thấy đứa trẻ thông minh dị thường vua có lòng yêu mến, định lập làm Hoàng thái tử. Các quan hết sức can ngăn vua không nên làm như vậy. Các quan lại nói nếu đứa bé ấy quả thực linh dị, tất nên thác sinh vào nội cung rồi sau mới lập làm Thái tử được. Vua nghe theo, bèn cho mở hội lớn bẩy ngày đêm để làm phép thác thai. Sư nghe chuyện, tự nghĩ: “Đứa bé này dùng phép yêu dị để mê hoặc mọi người, ta nỡ nào ngồi nhìn để nó lừa dối, làm loạn chính pháp?”. Sư bèn nhờ người chị gái giả làm người đi xem hội, lén đem chuỗi hạt do sư đã kết ấn, treo lên rèm cửa. Hội đến ngày thứ ba, thì Giác Hoàng bỗng kêu đau, bảo mọi người: “Ta dã đi khắp quanh Hoàng thành, nhưng ở đâu cũng có lưới sắt vây kín. Muốn thác sinh cũng không biết lọt vào bằng cách nào”. Vua ngờ sư làm bùa chú để phá, bèn sai quan xét hỏi thì sư thú nhận. Quan quân bèn bắt sư trói, đem đến lầu Hưng Thánh để triều thần định tội. Lúc ấy gặp Sùng Hiền hầu đi qua, sư thống thiết giãi bày với hầu về chuyện đó. Sư nói:

– Quý hầu gắng giúp cho bần tăng thoát tội. Ngày sau xin đầu thai để đáp ơn tạ đức.

Sùng Hiền hầu nhận lời. Khi vào triều nghị, các quan đều nói:

– Bệ hạ không có nối dõi nên phải cầu Giác Hoàng thác sinh làm con, vậy mà Từ Lộ dùng bùa phép cản trở, xin bệ hạ cho xử chém để thiên hạ hả lòng.

Sùng Hiền hầu từ tốn tâu rằng:

– Giác Hoàng nếu quả có thần lực thì dẫu cả trăm Từ Lộ làm bùa chứ cũng không làm hại được. Đằng này Giác Hoàng lại bị lưới sắt chắn không vào được, thế thì Từ Lộ cao tay pháp hơn Giác Hoàng. Theo ngu ý của thần, bệ hạ nên tha tội cho Từ Lộ và cho Từ Lộ được thác sinh.

Vua thuận theo lời tâu của Sùng Hiền hầu. Sư bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền hầu, vào thẳng nơi phu nhân đang tắm mà nhìn. Phu nhân tức giận nói lại với chồng. Nhưng Sùng Hiền hầu đã biết trước nên không căn vặn gì. Từ đó phu nhân cảm thấy mình có thai.

Nguồn: T8, tr.202-203; Đ5, tr.331.

        Ngày 3 tháng 12 (5 tháng Một – Bính Thân)

036. Dương Hoán sinh

Vẫn theo Thiền uyển tập anh, ngay sau khi vừa rời phòng tắm, Đạo Hạnh đã dặn Sùng Hiền hầu: “Khi nào phu nhân sắp sinh thì báo cho bần tăng biết trước”. Đến lúc phu nhân sắp sinh, Sùng Hiền hầu cho người đến báo. Sư bèn tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi bảo đệ tử:

Nghiệp duyên của ta chưa hết, còn phải thác sinh để tạm giữ ngôi vua. Ngày sau thọ chung sẽ được làm Thiên tử ở cõi trời thư ba mươi ba. Nếu thấy chân thân của ta hư nát thì lúc ấy ta mới thật nhập Niết Bản, không còn phải trụ trong vòng sinh diệt nữa. Các đệ tử nghe nói không cầm được nước mắt. Sư bèn đọc bài kệ rằng:

          Thu lai bất báo nhạn lai quy

          Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi

          Vị báo môn nhân hưu luyến trước

          Cổ sư kỷ độ tác kim sư.

(Thu về chẳng báo nhạn theo bay

Cười nhạt người đời uổng xót vay

Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến

Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay)

Nói xong sư trang nghiêm mà hóa, đến nay hình xác vẫn còn.

Về sự kiện, thời điểm Dương Hoán sinh, Đạo Hạnh hóa các sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên đều ghi giống nhau (tháng Sáu năm Bính Thân, sư Đạo Hạnh hóa, Thần Tông sinh) – trong đó Đại Việt sử ký tiền biên ghi: em vua (không ghi rõ là em trai, em họ hay em vợ) là Sùng Hiền hầu sinh con là Dương Hoán.

Sự ghi chép trên của các bộ sử cũ cũng tự mâu thuẫn khi nói rằng phu nhân của Sùng Hiền hầu vào tháng Sáu năm Bính Thân (7-1116) trở dạ mãi không đẻ, liền sai người phi báo cho nhà sư, Đạo Hạnh hay tin, tức thì thay áo tắm rửa vào trong hang núi trút xác mà đi nhưng lại nói ngày 7 tháng Ba – người đời sau ngoa truyền là ngày kỵ của nhà sư nên trai gái lấy ngày ấy là ngày hội của chùa Thầy.

Như vậy, thời điểm tháng Sáu năm Bính Thân đều không phù hợp với cả hai trường hợp sinh và hóa. Rất có thể, vào đầu tháng Ba năm Bính Thân, Đạo Hạnh đã biết vợ Sùng Hiền hầu có thai và ông đã thanh thản ra đi. Còn nếu không phải là tháng Một của năm ấy.

Nguồn: T8, tr.203-204; Đ4, tr.209; Đ5, tr.330; D9

        NĂM 1117 (ĐINH DẬU)

        Tháng 6 (tháng Năm – Đinh Dậu )

037. Phò mã lang Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng

Ngay trong bài minh và lời tựa trên chuông chùa Sùng Khánh, viên Phò mã lang này đã:

“Nay kính chúc Đương kim Hoàng đế: cơ đồ bền vững, ngôi báu an bình, ơn huệ rải đều, oai quyền nắm mãi. Thứ đến chúc Thánh Thiện Hoàng Thái hậu đạo vượt Ốc Đăng, thọ hơn Phu Bảo. Những mong Công chúa Thọ Dương trên đài hoa máu, mãi chứng quả bồ đề, trong điện pháp lành, cùng lên hàng vương giác Kiêm chúc song thân khảo tỷ cùng các quyến thuộc: gội duyên lành này siêu sinh tịnh độ. Kính cầu cho ngài Thái phó họ Dương chủ xướng việc đúc chuông cho tới lệnh lang nối dõi trở xuống oan khiên rũ sạch, phúc lộc dồi dào.

Chuông đã đúc xong nên làm bài văn nêu cho mai hậu. Tôi tự xét mình kém cỏi, không rõ thể tài, dám xin làm lời minh rằng:

Chùa chiền xây cất đã xong xuôi, Pháp tướng kim dung đẹp tuyệt vời.

Cảnh tỉnh chuông rền vọng khắp nơi, Thấm nhuần sâu rộng lẫn xa xôi.

Thân tâm mỏi mệt thảy vui cười, Trút gánh lo toan đặng nghỉ ngơi

Chủ chuông phúc hưởng mãi không vơi, Sống thọ ngàn năm giữ góc trời”

Nguồn: Đ4, tr.210; T1, số 4 (119) – 2013, tr.23-39.

        Tháng 12 (tháng Một – Đinh Dậu)

038. Lập Dương Hoán làm Thái tử

Về thời điểm, sử cũ ghi lệch nhau 1 tháng (Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên ghi tháng Mười, Việt sử lược ghi tháng Một) nhân việc vua ngự đến hành cung Khải Thụy xem gặt. Đêm ấy mặt trăng có một quầng. Tìm con trai họ tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: “Trẫm trị muôn dân mà đến già vẫn không có con nối, ngôi báu của thiên hạ truyền cho ai được! Nên nuôi con trai của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thiều Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử”. Lúc bấy giờ con Sùng Hiền mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Hoàng Thái tử.

Khác với sử cũ của ta, An Nam chí lược của Lê Tắc, An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng đều ghi Dương Hoán là con Nhân Vương Càn Đức.

Nguồn: V17, tr.115; Đ4, tr.210; Đ5, tr.332; A1, tr.226; A2, tr.315.

        NĂM 1122 (NHÂM DẦN)

        Tháng 3 (tháng 2 – Nhâm Dần)

039. Nhà sư Dương Tu dang một đôi ngọc bích trắng

Đến tháng 5-1124 (tháng Tư – Giáp Thìn), Thủ lĩnh châu Quảng Nguyên là Dương Tự Hưng lại dâng lên nhà vua con hươu trắng; tháng 4-1127 (tháng Ba – Đinh Mùi), Thủ lĩnh châu Tư Nông là Dương Tuệ dâng hai khối vàng sống trường thọ.

Nguồn: Đ4, tr.213-217.

        NĂM 1128 (ĐINH MÙI – MẬU THÂN)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Đinh Mùi)

040. Triều đình gả Công chúa Diên Thành cho Thủ lĩnh phủ Phú Lương Dương Tự Minh

Dương Tự Minh được coi là bậc anh hào trong số các Thổ tù thuộc phủ Phú Lương. Theo Quang Vinh phúc thần sư lục bi ký tạo năm Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (1784), đặt tại xã Quang Vinh, tổng Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, nay thuộc thành phố Thái Nguyên thì ông người xã Quan Triều (xã này thời Lê thuộc tổng Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên, nay thuộc thành phố Thái Nguyên), sinh trưởng trong một gia đình danh gia lệnh tộc, nhiều đời làm Thủ lĩnh, Tù hào. Tuổi ấu thơ, ông thường lên chơi trên núi Cẩm, có người tặng cho chiếc áo tàng hình, nhiều lần có mặt trong các đội quân của địa phương lập được công tích, năm ngoài 20 tuổi thay cha [Dương Tự Hưng] làm Thủ lĩnh phủ Phú Lương.

Nguồn: Đ16, tr.1055-1057; Đ4, tr.217.

        Ngày 22 tháng 1 (26 tháng Chạp – Đinh Mùi)

041. Lý Nhân Tông băng hà, Dương Hoán lên ngôi – bắt đầu thời kỳ họ Dương thay họ Lý điều hành Đại Việt

Mùa đông, tháng Chạp năm Đinh Mùi, Lý Nhân Tông nhận thấy sức khỏe ngày xấu đi, cho Thái úy Lưu Khánh Đàm vào nhận chiếu rằng: “Trẫm nghe phàm giống sinh vật không giống nào là không chết. Chết là số lớn của trời đất, lẽ của vật đều thế. Thế mà người đời không ai không thích sống mà ghét chết. Chôn cất cho hậu để mất sinh nghiệp, trọng để tang đến tổn hại tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi, lại để cho nhân dân mình mặc sô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, tuyệt cúng tế, làm cho lỗi ta nặng thêm, thì thiên hạ bảo ta là người thế nào! Trẫm xót phận tuổi còn nhỏ đã nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi, đến nay đã 56 năm rồi. Nhờ anh linh của tổ tông, được hoàng thiên tin giúp, bốn biển yên lành, biên thùy ít biến, đến chết được dự đứng sau các tiên quân là may lắm rồi, sao còn nên thương khóc? Trẫm từ khi đi xem gặt lúa đến giờ, bỗng nhiên bị ốm, bệnh đã kéo dài, sợ không kịp nói đến việc nối ngôi, mà thái tử Dương Hoán nay đã đủ 12 tuổi, có nhiều đại độ, thông minh thành thực, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo điển cũ của trẫm mà lên ngôi hoàng đế, để cho kẻ thơ ấu chịu mệnh trời mà nối mình truyền nghiệp của ta, làm rộng lớn thêm công nghiệp trước. Nhưng cũng nhờ ở quan dân các ngươi một lòng giúp đỡ mới được. Như Bá Ngọc, ngươi thực là tư cách người tôn trưởng, nên sửa sang giáo mác để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh ta, dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì sau 3 ngày bỏ áo trở đi, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước; không xây lăng mộ riêng, nên chôn ngay bên cạnh Tiên đế. Than ôi! Mặt trời đã xế, tấc bóng khó dừng, một đời từ giã, vĩnh quyết nghìn năm. Các ngươi nên thực lòng kính nghe lời trẫm, bảo rõ cho các vương công, tuyên bố ra ngoài”. Ngày Đinh Mão, vua băng ở điện Vĩnh Quang.

Hoàng Thái tử Dương Hoán lên ngôi ở trước linh cữu. Hạ lệnh cho Vũ vệ Lê Bá Ngọc tuyên bảo các vương hầu và các quan văn võ lui ra ngoài cửa Đại Hưng, sai các thành lại đóng cửa thành canh giữ cẩn mật, không cho ai đi lại ra vào; lại sai cấm quân cầm binh khí đứng ở dưới điện Thiên An, rồi sai mở cửa nách bên hữu, gọi các quan vào Long Trì, sai Bá Ngọc truyền bảo các vương hầu và các quan văn võ rằng: “Không may tiên đế lìa bỏ bầy tôi, ngôi trời không thể bỏ không lâu được, ta còn ít tuổi, cố gượng nối ngôi, các khanh nên bền vững một lòng, giúp đỡ nhà vua, không những là không phụ lòng tiên đế chú ý trông mong, và cũng để con cháu các khanh đời hưởng lộc vị”. Các quan đều lạy mừng và thương khóc. Sai nội nhân Đỗ Thiện, xá nhân Bồ Sùng đem việc ấy báo với Sùng Hiền hầu. Xuống chiếu cho các làng mạc trong nước đều yên nghiệp như cũ, không được chứa giấu giặc cướp trốn tránh và đánh nhau giết người.

Nguồn: Đ4, tr.217-218; Đ5, tr.337-338; V17, tr.118.

        Ngày 24 tháng 2 (30 tháng Giêng – Mậu Thân)

042. Thần Tông Dương Hoán bắt đầu ra nhà giảng học

Ngay sau khi lên ngôi được khoảng 2 tuần, nhà vua đã phải tiến hành dầy đặc các công việc, trong khoảng thời gian từ ngày Nhâm Ngọ (12 tháng Giêng – Mậu Thân, tức 6-2-1128) đến ngày Canh Tý (30 tháng Giêng – Mậu Thân, tức 24-2-1128) như sau:

Ngày Nhâm Ngọ, các quan dâng biểu xin quàn ở điện Hồ Thiên. Ngày Quý Mùi, các quan mặc áo trở ở ngoài gác Vĩnh Bình. Ngày Giáp Thân, các quan dâng biểu xin vua ngự chính điện. Ngày Ất Dậu, vua bắt đầu ngự điện Thiên An coi chầu, xuống chiếu cho các quan bỏ áo trở, ngay trong ngày vua ngự ra Na Ngạn (nay chia làm 2 huyện Lục Nam, Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang) xem các cung nữ lên dàn thiêu để chết theo Đại Hành hoàng đế. Ngày Bính Tuất, đổi niên hiệu là Thiên Thuận năm thứ nhất, tôn mẹ nuôi là Thần Anh phu nhân làm Hoàng Thái hậu, đại xá, xuống chiếu cho dân ruộng đất bị quan tịch thu và những người bị ghi tên vào sổ (điền nhi) để sung vào việc cày ruộng cho nhà nước đều được trả về; các tăng đạo và dân chúng bị tội đồ phải đi đày đều tha cả, lại cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng theo chế độ xưa. Ngày Mậu Tý, tôn thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng đế là Hiếu từ thánh thần văn vũ Hoàng đế, niên hiệu là Nhân Tông. Ngày Kỷ Sửu, biếm Đại liêu ban Lý Sùng Phúc vì khi đi qua cửa thành Tây Dương, người tuần lại hỏi mà không trả lời. Ngày Tân Mão xuống chiếu rằng đang có Quốc tang, nhân dân trong nước không được cưỡi ngựa và đi võng màu lam cùng xe che màn.

Ngày Canh Tý (30 tháng Giêng, tức 24-2-1118), nhà vua bắt đầu ngự Kinh Diên nghe giảng sách.

Nguồn: V17, tr.139; Đ4, tr.218-219; Đ5, tr.338-341.

        Ngày 25 tháng 2 (1 tháng 2 – Mậu Thân)

043. Nội nhân hỏa đầu Dương Anh Nhĩ được làm Thái phó, tước Đại liêu ban

Ngoài ra nhà vua còn cho Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc làm Thái úy, thăng tước hầu, Nội nhân hỏa đầu Lưu Ba làm Thái phó, tước Đại liêu ba, Trung thừa Mâu Du Đô làm Gián nghị Đại phu, thăng trật Chư vệ, Nội nhân hỏa đầu Lý Khánh, Nguyên Phúc, Cao Y làm Thái bảo, tước Nội thượng chế; Nội chi hậu Quản giáp Lý Sơn làm Điện tiền Chỉ huy sứ, tước Đại liêu ban, kép hát Ngô Toái làm Thượng chế, Ngự khố thư gia Từ Đình làm Viên ngoại lang. Lại ban tiền lụa cho Bá Ngọc, Lưu Ba và Du Đô cùng các quan chức theo thứ bậc khác nhau để đền công phò tá khi vua lên ngôi,

Nguồn: V17, tr.139; Đ4, tr.219-220; Đ5, tr.341.

        Ngày 26 tháng 2 (2 tháng Hai – Mậu Thân

044. Thần Tông Dương Hoán sai người mang lễ vật của Nhân Tông trước đây ban cho Sùng Hiền hầu

Đó là Thái phó Lưu Ba và Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô. Tiếp theo nhà vua còn cho người ở Hòa Trại cáo phó với nhà Tống, báo việc mình lên ngôi (lúc này Tống Cao Tông đang lánh người Kim ở phủ Lâm Tây, vùng Hàng Châu – Chiết Giang), xuống chiếu cho Phi kỵ Đỗ Lại sang Chiêm Thành cũng về việc này cho phát vàng và lụa trong kho cho các quan theo thứ bậc khác nhau.

Nguồn: Đ4, tr.220.

        Ngày 4 tháng 3 (9 tháng Hai – Mậu Thân)

045.

Thần Tông Dương Hoán cho nhiều người họ Đào, họ Lý giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình

Về họ Đào có Đào Thuấn làm Thượng thư sảnh Viên ngoại lang Hành tây thượng Cáp môn sứ; Đào Lão làm Thượng thư sảnh Viên ngoại lang; Đào Sâm, Đào Tương làm Trung thư hỏa; Đào Lục làm Chi hậu thư gia. Về họ Lý có Lý Bảo Thần làm Thượng thư sảnh Viên ngoại lang Hành đông thượng Cáp môn sứ; Lý Khái làm Thượng thư sảnh Viên ngoại lang; Lý Ngũ, Lý Cá làm Chi hậu thư gia.

Nguồn: Đ4, tr.220; Đ5, tr.341-342.

        Ngày 18 tháng 3 (23 tháng Hai – Mậu Thân

046. Thần Tông Dương Hoán cử Nhập nội Thái phó Lý Công Bình chặn đánh Chân Lạp ở Nghệ An thắng lợi

Trước đó nhà vua đã cho Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô chọn quân Lang Dực cũ làm các quân tả hữu Ngọc Giai, Hưng Thánh, Quảng Thành, Vũ Đô. Ngày Giáp Dần (14 tháng Hai – Mậu Thân) hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu thuộc châu Nghệ An, nhà vua xuống chiếu cho Nhập nội Thái phó Lý Công Bình đem quan chức và người Nghệ An đi đánh. Ngày Quý Hợi (23 tháng Hai – Mậu Thân), Lý Công Bình đánh thắng, bắt được chủ tướng và nhiều binh lính.

Ngày Đinh Mão (27 tháng Hai – Mậu Thân) thư báo thắng trận về đến Kinh sư. Ngày hôm sau, vua ngự đến hai cung Thái Thanh và Cảnh Linh và các chùa quán trong thành để tạ ơn. Tháng 3 – mậu Thân (4-1128), Lý Công Bình về đến Thăng Long, dâng 169 tù binh.

Nguồn: Đ4, tr.220; Đ5, tr.342; V17, tr.140.

        Ngày 20 tháng 3 (25 tháng Hai – Mậu Thân)

047. Các quan dâng tôn hiệu lên Thần Tông Dương Hoán

Tôn hiệu được dâng lên nhà vua là: Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng đế. Vua bảo các quan rằng: “Trẫm tuổi còn trẻ, nối nghiệp lớn của Tiên thánh, mà thiên hạ yên tĩnh, trong nước đều sợ uy, đó đều là nhờ sức của các khanh, các khanh nên cẩn thận giữ chức vụ của mình, chớ sinh lòng lười biếng để giúp đỡ trẫm những điều còn thiếu sót”.

Lập Lý Thị làm Hoàng hậu. Trước đây sai Viên ngoại lang là Lý Khánh Thần và vợ của ông đi đón con gái của Điện tiền chỉ huy sử là Lý Sơn. Viên ngoại lang là Trần Ngọc Khánh và vợ của ông đi đón con gái của Lê Xương là cháu chú bác của Thái phó là Lê Bá Ngọc, rồi sách lập con gái của Sơn làm Nghiễm Thiên Hoàng hậu, con gái của Lê Xương làm Minh Bảo phu nhân. Thăng Sơn lên trật ký hậu, Trị Lạng Châu quân sự, cho Xương tước Đại liêu ban.

Nguồn: Đ4, tr.220-221; Đ5, tr.342.

        Ngày 25 tháng 3 (30 tháng Hai – Mậu Thân)

048. Thần Tông Dương Hoán dự hội thề ở Long Trì

Nhà vua ngự đến điện Thiên An để xem các quốc nhân – tức đội ngũ quyền cao chức trọng nhất của triều đình thề nguyền, nhân xuống chiếu phát y phục, tiền lụa ở Nội phủ cho các quốc nhân.

Ít ngày sau, vua sai Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô về phủ Thiên Đức chọn đất tốt xây Sơn lăng cho Lý Nhân Tông; cho Hoàng hậu Lệ Thiên và phu nhân Minh Bảo về thăm nhà, xuống chiếu cấm các gia nô và lính lệ của các quan không được lấy con gái lương dân. Ngoài ra nhà vua còn đi xem hội lớn tổ chức ở Linh Quang rồi trai giới cầu đảo vì hạn nặng. Lại cho tha thuế cho trăm người họ của Thái hậu biên vào sổ bộ.

Nguồn: Đ4, tr.221-222; Đ5, tr.343.

        Tháng 7 (tháng 6 – Mậu Thân)

049. Địa táng Lý Nhân Tông tại lăng Thiên Đức

Vì gần đến ngày đưa xương tro Lý Nhân Tông về lăng Thiên Đức nên nhà vua ban chiếu cho quần thần ở ngoài cửa Đại Hưng. Sau lễ tống táng, vua cho lấy ngày sinh làm tiết Thiên Thụy (điềm lành của trời).

Nguồn: Đ4, tr.222; Đ5, tr.344.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Mậu Thân)

050. Thần Tông Dương Hoán ngự điện Thiên An nhân tiết Trung nguyên

Các quan dâng biểu mừng nhưng đúng vào dịp lễ Vu Lan bồn của Lý Nhân Tông nên không đặt lễ yến.

Nguồn: Đ4, tr.222.

        Tháng 9 (tháng Tám – Mậu Thân)

056. Dương Ổ, Nguyễn Hà Viêm đánh bại Chân Lạp ở Nghệ An

Người Chân Lạp mang 700 chiến thuyền vào tận hương Đỗ Gia (sau hương này đổi thành huyện Đỗ Gia, nay là Hương Sơn – Hà Tĩnh) cướp bóc. Lúc đó Dương Ổ (có tài liệu ghi là Dương Đảo, Dương Công Đảo) – viên quan coi châu Nghệ An và Nguyễn Hà Viêm – viên quan coi phủ Thanh Hóa được cử mang quân chặn đánh, thắng lợi. Chân Lạp nhờ Dương Ổ chuyển Quốc thư cho Thần Tông Dương Hoán xin giao hảo nhưng nhà vua không trả lời.

Nhà vua xuống chiếu cho Lưu Khánh Đàm, Mâu Du Đô chọn lựa quan chức, chuyển di chiếu của Lý Nhân Tông tới các quan.

Nguồn: Đ4, tr.222; Đ5, tr.344.

        Tháng 12 (tháng Một – Mậu Thân)

057. Thần Tông Dương Hoán cho Nhạc phụ là Thái úy Lê Bá Ngọc làm Thái sư, đổi sang họ Trương

Nhờ Nghĩa mẫu – người nuôi nấng trong cung là Thần Anh phu nhân, Thái sư Lưu Khánh Đàm – Trung thư thừa Mâu Du Đô và đặc biệt là chỉ huy cấm quân Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc nên việc lên ngôi của Dương Hoán được thuận lợi – vì vậy Lê Bá Ngọc được thăng Thái úy, tước hầu. Ngày Quý Hợi tháng Hai – Mậu Thân (23 tháng Hai – Mậu Thân, 20-3-1128), Lê Bá Ngọc dã sắp xếp con gái của Lê Xương và là cháu của mình làm vợ Thần Tông Dương Hoán, hiệu là Minh Bảo phu nhân, thăng Lê Xương là Sơn Kỳ hầu, tri Lạng Châu quân sư, tước Đại liêu ban. Minh Bảo phu nhân sau trở thành Cảm Thánh Hoàng hậu, mẹ đẻ của Thiên Tộ.

Theo Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi tịnh tự lập năm 1159, Lê Bá Ngọc là cha nuôi của Đỗ Anh Vũ mà Đỗ Anh Vũ lại là em trai của Đỗ Thái hậu, vợ Sùng Hiền hầu, mẹ Dương Hoán.

Như vậy, dưới thời Thần Tông Dương Hoán, thế lực họ Lê và họ Đỗ trong triều là khá lớn.

Nguồn: Đ4, tr.222; Đ5. Tr.344.

        NĂM 1129 (KỶ DẬU)

        Cuối tháng 1 (đầu tháng Giêng – Kỷ Dậu)

058. Thái úy Dương Anh Nhĩ dâng hươu trắng

Trước đó, Nhập nội Điện trung Lý An Dậu cũng dâng hươu trắng, được tước Đại liêu ban và đến tháng sau, Thân vương ban Lý Lộc tâu nói trên núi Tản Viên có hươu trắng, vua sai Thái úy Dương Anh Nhĩ đi bắt và cho Lộc tước Đại liêu ban. Về việc này, sứ thần Ngô Thì Sĩ bàn: “Xét một tập sử đời vua Thần Tông, sử cũ chép 29 điểm tốt (1 lần cờ phướn trong chùa không gió tự bay; 8 lần dâng hươu; 3 lần dâng cục vàng sống; 2 lần dâng ngựa sinh cựa; 4 lần dâng rùa, 1 lần dâng cá diếc vàng, 3 lần có chim sẻ trắng; 1 lần tâu là có thần giáng; 2 lần dâng cá xương công; 2 lần có rồng vàng hiện; 1 lần dâng ngọc thiền; 1 lần chuông lớn cổ hiện lên. Bọn đại thần như Thái úy là Dương Anh Nhĩ dâng hươu trắng; Thiếu sư là Lý Công Tín dâng khối vàng; Cận thần như Nhập nội điện trung là Lý An Dậu dâng hươu trắng; Nhập nội long đồ là Mâu Du Đô dâng ngựa mà hai chân sinh cựa; Ngự tiền chỉ huy sứ là Vương Cát tâu là thần giáng. Ngoài ra như bọn Quản Giáp, Hỏa đầu, Châu mục, Thủ lĩnh, Đào nhân, Tượng công, Hương thị, Tăng nhân, mỗi người đều có dâng, không lần nào vua không nhận […]. Nhưng nhiều như thế dùng để làm gì mà không chán? Có lẽ còn chưa hết tính trẻ con, mà các bề tôi lúc đó xu mị như điên như dại. Nhờ vào đó mà được quan cũng không lấy làm xấu hổ”.

Nguồn: Đ4, tr.222-223; Đ5, tr.346-347.

        Ngày 12 tháng 2 (29 tháng Giêng – Kỷ Dậu)

059. Thần Tông Dương Hoán tôn cha sinh Sùng Hiền hầu làm Thái Thượng hoàng và mẹ là Đỗ Thị làm Hoàng Thái hậu, cho ở cung Đông Nhân

Sử thần Lê Văn Hưu bàn về việc làm này như sau: “Thần Tông là con người tôn thất, Nhân Tông nuôi làm con để nối nghiệp lớn. Đáng lẽ phải coi Nhân Tông là cha, mà gọi cha sinh là Sùng Hiền hầu là Hoàng thúc (chú vua), mẹ thân sinh là Đỗ Thị làm Vương phu nhân như Tống Hiếu Tông đối với Tú An Hy vương và phu nhân Trương Thị, để thống nhất về một gốc là phải. Nay lại tôn Sùng Hiền hầu làm Thái Thượng hoàng, Đỗ Thị làm Hoàng Thái hậu, chẳng hóa ra hai gốc ư? Có lẽ bởi Thần Tông bấy giờ còn trẻ thơ, mà các công khanh trong triều đình như Lê Bá Ngọc, Mâu Du Đô lại không có người nào biết lễ cho nên thế đấy”. Tuy nhiên, sử thần Ngô Thì Sĩ lại cho rằng: “Thần Tông khi ấy đã 14 tuổi, tuy không có tư chất như Hán Chiêu, nhưng cũng không đến nỗi còn thơ trẻ không biết gì. Làm lễ tôn sùng cho người sinh ra mình, tự cho là việc dĩ nhiên, chưa từng có một lần triệu tập quần thần để bàn bạc, sao chẳng nghĩ tới khi được nuôi dưỡng ở trong cung, vốn cùng bọn các con như Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng cùng đều một bực thôi”.

Đây chỉ là cách nhìn của người làm sử đời sau khi vãn quan niệm rằng Sùng Hiền hầu cùng gốc Lý, ruột thịt với Lý Nhân Tông, dù cho như Việt sử lược thừa nhận rằng vào tháng Bẩy – Kỷ Dậu (8-1129) “đèn ở bàn thờ vua Nhân Tông sinh ra hai ngọn”.

Nguồn: V17, tr.140; Đ4, tr.222-223; Đ5, tr.345.

        Tháng 3 (tháng Hai – Kỷ Dậu)

060. Thần Tông Dương Hoán trai giới cầu mưa

Ngoài ra nhà vua còn xuống chiếu xá cho những người có tội trong thiên hạ.

Nguồn: Đ4, tr.223; Đ5, tr.346.

        Tháng 9 (tháng Tám – Kỷ Dậu)

061. Thần Tông Dương Hoán ban hành chính pháp

Trước hết nhà vua cho lập thần chủ rồi rước thần vị Lý Nhân Tông để thờ phụ ở Thái Thất. Sau đó, nhà vua xuống chiếu quy định nô tỳ của vương hầu và các quan không được cậy thế đánh đập quan quân và thường dân, kẻ vi phạm phải làm khổ sai hoặc quan nô.

Nguồn: Đ4, tr.224; Đ5, tr.348.

       

        NĂM 1130 (CANH TUẤT)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Tuất)

062. Thần Tông Dương Hoán ban chiếu cấm con gái nhà quan lấy chồng sớm

Theo chiếu chỉ, con gái nhà quan đợi qua đợt chọn sung vào hậu cung, người nào không trúng tuyển mới được phép lấy chồng.

Trong tháng nhà vua cho Ngọc khố thư gia Lương Cải giữ phủ Thanh Hóa.

Nguồn: Đ4, tr.224; Đ5, tr.349.

        Tháng 6 (tháng Năm – Canh Tuất )

063. Thái Thượng hoàng Sùng Hiền hầu băng, đặt tên thụy là Cung Hoàng.

Theo Dương tộc kỷ sử (Lý tộc Dương tộc gia phả), tương truyền do Dương Hữu Tự Do soạn vào năm Đinh Dậu (1597) thì Sùng Hiền hầu có tên là Dương Công Khanh – con trai của Thừa tướng Quốc công Dương Công Tiến dưới thời Lý Thánh Tông (1054-1072), anh trai của Dương Tam Đảo (Sử cũ ghi là Dương Ổ – có lẽ vì tự dạng của Đảo và Ổ gần như nhau, người vào tháng 9-1128 mang quân đánh dẹp Chân Lạp ở Nghệ An), em trai của Dương Thị Phương Hoài – vợ của Càn Đức Lý Nhân Tông.

Nếu Dương tộc kỷ sử chỉ dừng lại ở đây thì chứng lý và tư liệu đưa ra mang tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, khi đi sâu vào thế hệ con cái của Dương Công Khanh để so sánh với Việt sử lược, Đại Việt sử ký (toàn thưtiền biên) độ vênh bắt đầu xuất hiện:

Dương tộc ký sử cho biết Sùng Hiền hầu sinh được 2 trai, 1 gái là Dương Công Hoán, Dương Tự Minh và Dương Thị Huệ – trong đó Dương Công Hoán sinh ngày 5 tháng Một năm Bính Thân (1116), Dương Tự Minh không rõ năm sinh và không rõ lý do chạy đi Đô Lương (nay là Phú Lương – Thái Nguyên) nhập vào dân tộc nhưng chắc chắn phải sinh từ năm 1117 trở đi. Vậy mà, theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng Chạp năm Đinh Mùi (1-1128), triều đình gả Công chúa Diên Thành cho Thủ lĩnh phủ Phú Lương Dương Tự Minh. Điều này khó xảy ra khi chàng trai mới chừng 10 tuổi đã trở thành Phò mã lang và Thủ lĩnh phủ Phú Lương lớn rộng. Phải chăng sử cũ nhầm Dương Tự Thông với Dương Tự Minh. Tuy nhiên, cũng Đại Việt sử ký toàn thư cho ta biết rằng Dương Hoán có hai Hoàng đệ là [Dương] Tinh và [Dương] Chu Cá chứ không phải Dương Tự Minh.

Cũng Dương tộc kỷ sử ghi rằng Dương Công Khanh mất ngày 10 tháng Ba năm Quý Mão (31-3-1123), chứ không phải tháng Năm năm Canh Tuất (6-1130) như sử sách ghi nhận.

Nguồn: V17, tr.140; Đ4, tr,225; Đ5, trang 350; D9

        Tháng 12 (tháng Một – Canh Tuất)

064. Thần Tông Dương Hoán tiến hành nhiều hoạt động quân sự, ngoại giao

Ngoài những lễ cầu mưa rồi lại cầu tạnh diễn ra từ tháng 7 đến tháng 10-1130, nhà vua còn ngự ra điện Linh Quang xem đua thuyền; xuống chiếu tha tù bị giam ở phủ Đô hộ; ngự điện Thiên Linh duyệt 6 quân, định ra cấp bậc; nhận sắc phong Giao Chỉ Quận Vương của nhà Tống; nhận cống lễ của Chiêm Thành; cho sứ thần Chiêm Thành vào Long Trì xem mình đánh cầu; mở hội khánh thành chùa Quảng Nghiêm Tư Thánh; cử Viên ngoại lang Lý Phụng Ân và Lệnh thư gia Doãn Anh Khải sang nhà Tống đáp lễ.

Nguồn: V17, tr.140; Đ4, tr.225; Đ5, tr.351.

        NĂM 1131 (TÂN HỢI)

        Tháng 3 (tháng Hai – Tân Hợi)

065. Em trai của Thần Tông Dương Hoán qua đời

Hoàng đệ tên là Dương Tinh, thứ nam của Sùng Hiền hầu.

Nguồn: Đ4, tr.225.

        Tháng 5 (tháng Tư – Tân Hợi)

066. Thần Tông Dương Hoán ban một số lệnh cấm

Trong đó có việc xuống chiếu cấm gia nô của vương hầu, công chúa và các quan không được lấy con gái con nhà bách tính cũng như dân thường; cấm con gái dân gian không được bắt chước kiểu vấn tóc như cung nhân.

Nguồn: V17, tr.141; Đ4, tr.226; Đ5, tr.351.

        Tháng 6 (tháng Năm – Tân Hợi)

067. Thần Tông Dương Hoán sai dựng nhà cho Đại sư Minh Không

Đại sư tên húy là Nguyễn Chí Thành, quán làng Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là làng Điềm Xá, xã Gia Thắng, Gia Viễn – Ninh Bình), cha là Nguyễn Sùng, mẹ là Dương Thị Mỹ – quê Phả Lại, tổng Đào Thông, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn (nay là làng Phả Lại, xã Đức Long, Quế Võ – Bắc Ninh). Đại sư sinh năm Bính Ngọ, niên hiệu Long Chương Thiên Tự đời Lý Thánh Tông (1066), lớn lên đã cùng Từ Đạo Hạnh, Giác Hải sang Tây Trúc học đạo, trở về nước tu ở chùa Quốc Thanh. Khi Từ Đạo Hạnh hóa, Minh Không được Thần Tông quý trọng, nhiều lần vời về Thăng Long. Đến đây thì dựng nhà cho Đại sư ở Kinh thành.

Nguồn: Đ4, tr.226; Đ5, tr.351; T4, tr.901.

        Tháng 11 (tháng Mười – Tân Hợi)

068. Lại một em trai của Thần Tông Dương Hoán qua đời

Hoàng đệ tên là Dương Chu Cá, thứ nam của Sùng Hiền hầu. Trước khi Hoàng đệ mất, Ngự tiền chỉ huy sứ Vương Cát tâu việc phát hiện dấu vết thần giáng ở Long Trì, trước lầu chuông bên trái, dấu dài 8 tấc 5 phân, rộng 5 tấc.

Nguồn: Đ4, tr.226.

        NĂM 1132 (NHÂM TÝ)

        Ngày 8 tháng 6 (1 tháng năm – Nhâm Tý)

069. Hoàng tử trưởng là Dương Thiên Lộc sinh

Mặc dù mới 17 tuổi nhưng việc một Cung nữ sinh được con trai cũng khiến nhà vua hết sức vui mừng, liền phong làm Hoàng tử trưởng (tuy nhiên vẫn để mẹ đẻ của Thiên Lộc ở địa vị thấp kém như cũ). Một tháng sau, một Hoàng hậu sinh được Trưởng nữ nhưng không nuôi được, càng khiến cho Thần Tông yêu quý Thiên Lộc hơn.

Nguồn: Đ4, tr.226.

        Tháng 9 (tháng Tám – Nhâm Tý)

070. Thái úy Dương Anh Nhĩ đánh thắng quân Chân Lạp và Chiêm Thành tại châu Nghệ An

Trước đó, Cự Bàn là người Chiêm Thành cùng nhiều tù binh đang bị an tháp ở các châu Nghệ An, Thanh Hóa bỏ trốn, trên đường lẩn tránh bị bắt tại trại Nhật Lệ giải về Kinh sư. Ít lâu sau, Lệnh thư gia Trần Lưu ở Nghệ An bắt được 3 người Chiêm Thành. Những người Chiêm Thành này thường mai phục ở những nơi hiểm yếu bắt cóc người Việt ở châu này đem bán cho người Chân Lạp. Khi được lệnh đánh quân Chân Lạp và Chiêm Thành, Thái úy Dương Anh Nhĩ chỉ mang lực lượng của châu Nghệ An và châu Thanh Hóa đi đánh.

Nguồn: V17, tr.141; Đ4, tr.226-227; Đ5, tr.352.

        NĂM 1133 (NHÂM TÝ – QUÝ SỬU)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Tý)

071. Thần Tông Dương Hoán dự lễ khánh thành điện Cảm Linh

Điện Cảm Linh, gác Phụng Thiên được khởi dựng từ mấy tháng trước, đến đây khánh thành nên nhà vua làm lễ nghênh xuân ở đình Quảng Văn, ban yến cho các quan nhân dịp làm xong việc.

Trong tháng này Thượng thư Lý Nguyên bị tội chết ở trong ngục vì con gái là Thứ phi Chương Anh có lỗi; nhà Tống cử người sang phong nhà vua là Giao Chỉ Quận vương.

Nguồn: Đ4, tr.227; Đ5, tr.353.

        Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Sửu)

072. Ci nguyên niên hiệu thành Thiên Chương Bảo Tự năm đầu

Khi mới lên ngôi, Thần Tông Dương Hoán đổi niên hiệu là Đại Thuận năm đầu (theo Việt sử lược) hoặc Thiên Thuận năm thứ 1 (theo Đại Việt sử ký, toàn thưtiền biên). Về sự kiện này, chỉ có Việt sử lược ghi lại và cho biết tiếp một số hiện tượng khác như đèn Diên Mệnh ở điện Đại Minh có hoa đèn, cây phướn quý múa, ngựa mọc cựa (tháng Hai – Quý Sửu), rồng hiện ở điện Vĩnh Quang (tháng Sáu – Quý Sửu), làm quán Diên Sinh ngũ nhạc (tháng Mười – Quý Sửu).

Nguồn: V17, tr.141.

        NĂM 1134 (GIÁP DẦN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Dần)

073. Thần Tông Dương Hoán ban tước cho Ngụy Quốc Bảo, Mâu Du Đô

Viên ngoại lang Ngụy Quốc Bảo được ban tước Đại liêu ban vào ngày mồng 1 tháng Giêng. Ít lâu sau, Gián nghị Đại phu Mâu Du Đô cũng được ban tước trên. Ngoài ra, nhà vua còn ngự đến xem việc dựng chùa Thiên Ninh, Thiên Thành; tô tượng Đế Thích và dự lễ cầu tạnh mưa dầm.

Nguồn: Đ7, tr.227; Đ5, tr.353.

        Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Dần)

074. Thần Tông Dương Hoán ban lệnh cấm chi hậu, nội nhân ra ngoài nhũng nhiễu

Lệnh cấm bao gồm các viên kể trên, nếu tự tiện ra ngoài, làm trái thì khép vào tội nặng. Nếu có việc phải xin tâu trước.

Nguồn: Đ4, tr.227; Đ5, tr.353.

        NĂM 1135 (ẤT MÃO)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Mão)

075. Thần Tông Dương Hoán cho Ngự khố Thư gia Dương Chưởng giữ phủ Thanh Hóa

Trước đó ít hôm, cây khô ở Cổ Pháp Đường bỗng nở hoa; quả chuông đồng cổ và con rùa ngực có 4 chữ Nhất thiên vĩnh thánh xuất hiện.

Nguồn: Đ4, tr.228; Đ5, tr.354; V17, tr.141.

        Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Mão)

076. Thần Tông Dương Hoán cử Thái úy Đỗ Anh Vũ và Thái phó Lý Công Bình đánh quân Văn Đan tại Nhật Nam

Lực lượng quân đội Đại Việt khi đó lên tới 30 vạn người, tiến theo đường biển đến xứ Âm Dã thuộc quận Nhật Nam, đuổi đánh đối phương đến tận Vụ Ôn. Cũng năm ấy, Đỗ Anh Vũ còn được lệnh đi đánh dẹp ở Sơn Liêu, nơi lực lượng nổi dậy dựa vào núi non hiểm trở cầm cự đã nhiều năm.

Nguồn: T15.

        Tháng 5 (tháng Tư – Ất Mão)

077. Thần Tông Dương Hoán ban chiếu đặc cách

Theo đó, Tả ty Lang trung Lý Công Tín được tự do ra vào nơi cung cấm để tâu việc; Viên ngoại lang Ngụy Quốc Bảo cũng được chức Tả ty Lang trung hưởng đặc quyền trên.

Trong tháng này, nhà vua còn ngự tới lầu Ngũ Nhạc dự lễ khánh thành 3 pho tượng Phật đúc bằng vàng bạc.

Nguồn: Đ4, tr.228; Đ5, tr.354-355.

        NĂM 1136 (BÍNH THÌN)

        Tháng 4 (tháng Ba – Bính Thìn)

078. Thần Tông Dương Hoán bị bệnh nặng, Đại sư Minh Không chữa khỏi

Trước đó, Thái sư Lê Bá Ngọc, Thành Hưng hầu và Thái úy Lưu Khánh Đàm lần lượt qua đời; tháng Hai – Bính Thìn (3-1136), động đất ở châu Nghệ An, nước sông đỏ như máu.

Về việc Thần Tông Dương Hoán ốm nặng, Đại Việt sử ký toàn thư ghi:

“Vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm Quốc sư. Tha phú dịch cho vài trăm hộ. (Tục truyền rằng khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc và thần chú giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh nặng thì đến chữa ngay. Tức là việc này).

Đại Việt sử ký tiền biên dẫn giải kỹ hơn:

“Phong sư Minh Không là Quốc sư. Khi ấy vua bị bệnh nặng, thầy thuốc chữa không hiệu nghiệm, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm Quốc sư, cho hưởng vài trăm hộ (sử cũ chép: tục truyền rằng, khi sư Đạo Hạnh sắp trút xác, đem thuốc về thần chú giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và dặn rằng: “Hai mươi năm sau, nếu thấy Quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa” có lẽ là lượm lặt chuyện chép trong sách Chích quái cho Minh Không là học trò của Đạo Hạnh đấy. Lại xét theo Ngoại truyện: cha Đạo Hạnh là Từ Vinh vì phép thuật bị sư Đại Điên giết chết, Đạo Hạnh nghĩ cách báo thù cho cha và tu đạo ở Tinh Xá chùa Hương Tích, đi đường gặp Nguyễn Minh Không kết bạn cùng đi, đến chùa Vân Mộng, sư chùa ấy dạy cho quyết thần thông, được 3 năm từ giã trở về, Đạo Hạnh muốn thử pháp luật, đùa nấp vào nơi hiểm, hóa làm con Hổ để dọa Minh Không, Minh Không biết, trách là có nết tà và lại có lời thần chú, Đạo Hạnh thẹn và hối hận xin tạ lỗi và nói: “Nghiệp chướng kiếp khác chưa trừ bỏ hết, dám phiền giải thoát cho”. Đạo Hạnh về Sài Am; Minh Không về Giao Thủy. Sau nghe Đạo Hạnh trút xác, cười bảo với học trò rằng: “Vị hòa thượng này, còn mộ giàu sang ở cõi đời chăng?”. Đến khi ấy vua Thần Tông bị đau kêu gầm lên muốn biến thành hổ, thầy thuốc chữa không hiệu nghiệm, bọn trẻ con hát rằng: “Dục y Lý cửu trùng, tu đắc Nguyễn Minh Không” [Muốn chữa bệnh cho vua nhà Lý, phải tìm ông Nguyễn Minh Không]. Thái hậu nghe thấy, sai sứ đón về, Minh Không đến trình bày “nhân quả” kiếp trước cho vua nghe, vua tỉnh ngộ bệnh liền khỏi, thưởng cho vàng lụa, Minh Không từ chối không nhận, nên có câu kệ rằng: “Kỳ lân đồ hậu mạt, nguyệt vọng đáo trung thiên”. Người đời bấy giờ không hiểu câu nói đó, sau vua ở ngôi và tuổi thọ ngầm đúng như lời kệ. Minh Không người làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, đến đời Anh Tông Đại Định năm thứ 2 thì mất, thọ 76 tuổi. Nay ở các chùa Phả Lại, Giao Thủy đều có tượng thờ)”.

Nguồn: V17, tr.142; Đ4, tr.229; Đ5, tr.355-356.

        Ngày 4 tháng 5 (9 tháng Tư – Bính Thìn)

079. Hoàng tử Thiên Tộ sinh

Hoàng tử là con thứ hai của Thần Tông Dương Hoán. Mẫu thân của Hoàng tử là Cảm Thánh phu nhân, còn gọi là Lê Thái hậu, Linh Chiểu Hoàng thái hậu. Cảm Thánh phu nhân là con của Phụ Thiên Đại vương và Thụy Thánh Công chúa, có Tổ phụ là Chân Đăng bảo sở Quan sát sứ họ Lê quê ở hương Tuế Phong (nay thuộc Hương Nộn, Tam Nông – Phú Thọ), hậu duệ xa của Lê Hoàn. Lại có Tổ mẫu là Ngọc Kiều Công chúa, con gái của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung. Cảm Thánh phu nhân nhập cung năm Giáp Dần (1134).

Cảm Thánh phu nhân còn có em gái là Phụng Thánh phu nhân tức Lê Thị Lan Xuân, được Thần Tông Dương Hoán sủng ái vì tính đoan trang hiền thục, ưa nhìn, được sắc phong ngang hàng với chị vào đầu năm Bính Thìn (1136).

Nguồn: V17, tr.142; T15,

        Tháng 10 (tháng Chín – Bính Thìn)

080. Thái phó Lý Công Bình đánh thắng quân Chân Lạp ở châu Nghệ An

Sách Đại Việt sử ký, (toàn thư tiền biên) đều chép sự kiện này xảy ra vào tháng Giêng năm Đinh Tỵ (2-1137) do trước đó bỏ không chép các sự kiện xảy ra vào năm Quý Sửu (1133) vì vậy có một số sự kiện tương đồng trong khoảng thời gian 1133-1139, Đại Việt sử ký chép chậm khoảng 1 năm so với Việt sử lược. Sự kiện này cho biết, tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng cầm đầu đạo quân này, nhanh chóng bị Lý Công Bình đánh bại.

Ngoài sự kiện trên, Đại Việt sử ký (toàn thư tiền biên) cho biết vào tháng Chín – Bính Thìn,Gián nghị Định phu Mâu Du Đô bị bãi chức, Thái úy Dương Anh Nhĩ qua đời.

Nguồn: V17, tr.142; Đ4, tr.229; Đ5, tr.356-357.

        NĂM 1137 (BÍNH THÌN – ĐINH TỴ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Bính Thìn)

081. Cho Dương Chưởng làm Viên ngoại lang

Cùng với sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi vào tháng Tư năm Đinh Tỵ (5-1137) sinh Hoàng tử thứ ba nhưng không rõ tên rồi sau đó sinh Hoàng nữ thứ hai – tức Thụy Thiên Công chúa.

Nguồn: Đ4, tr.230; Đ5, tr.357.

        Ngày 3 tháng 11 (26 tháng Chín – Đinh Tỵ)

082. Thần Tông Dương Hoán băng hà tại điện Vĩnh Quang

Theo Đại Việt sử ký (toàn thư tiền biên) vào tháng Chín năm Đinh Tỵ nhà vua thấy mình không khỏe bèn cho lập Hoàng tử là Thiên Tộ làm Hoàng Thái tử. Trước kia vua đã từng lập Thiên Lộc làm con nối dõi. Đến khi ấy vua nằm bệnh, ba phu nhân là Cảm Thánh, Nhật Phụng, Phụng Thánh muốn đổi lập Thái tử khác, bèn sai người đem nhiều của đút lót cho Tham tri Chính sự là Từ Văn Thông, nói rõ ý muốn thay đổi Thái tử và nhờ giúp việc đó. Văn Thông nhận lời. Đến khi vua bệnh nặng, triệu Văn Thông thảo di chiếu, Văn Thông không dám xin thay đổi, nhưng đã chót nhận hối lộ, nên chỉ cầm bút mà không viết. Một lát sau, ba phu nhân đến, cùng nhau nghẹn ngào trước vua mà rằng: “Bọn thiếp nghe rằng: Từ xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ; Thiên Lộc là con người nàng hầu yêu, nếu cho nối ngôi thì mẹ nó tất lấn át sinh ghen ghét, thế thì mẹ con bọn thiếp biết có khỏi tai nạn được không?”. Vua bèn ban chiếu rằng: “Hoàng tử là Thiên Tộ, tuy tuổi còn thơ ấu, nhưng là con đích, thiên hạ đều biết cả, nên cho nối nghiệp của trẫm, còn Thái tử là Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo vương”. Ngày 26, vua băng ở điện Vĩnh Quang, quản ở thềm bên tây điện ấy. Các quan dâng tôn hiệu là Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ hoàng đế miếu hiệu là Thần Tông.

Vua năm mới lên ngôi, còn trẻ người non dạ, đến khi lớn lên, tư chất thông tuệ, độ lượng rộng rãi, sửa sang chính sự, dùng người hiền tài, thủy chung đều chính, nhiệm nhặt khúc nôi, không gì sai lệch. Tuy thân mang ác tật, nhưng rồi chữa khỏi, cũng là trời để ý đến. Song, quá ưa thích điềm lành vật lạ, sùng thượng đạo Phật; chẳng đáng quý gì.

Lê Tung nói: Vua Thần Tông sử dụng hiền tài, mở khoa thi hành từ, định sắc lệnh binh, nông, về mặt chính sự thì siêng năng đấy. Nhưng quá thích điềm lành, sùng chuộng Phật giáo. Đánh giặc mà quy công cho Phật, dâng hươu mà được nhận quan tước. Sao mà ngu thế.

Thời điểm Thần Tông Dương Hoán qua đời có mấy điểm cần lưu tâm:

– Các tài liệu được biên soạn dưới thời Lý – Trần đều thống nhất vào tháng Chín năm Đinh Tỵ như Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự (1153), Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí (1173), Việt sử lược, An Nam chí lược trong đó Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự viết: “Tháng Chín năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiệu Minh thứ nhất, vua Thần Tông ốm nặng. Nhà vua rửa mặt xong, ngồi tựa vào ghế mà dặn Thái úy rằng: – Chỉ có Thái úy là người có thể gửi gắm họ Lý được thôi! Sau khi vua Thần Tông băng hà, Thái úy cùng Hiến Chi Hoàng Thái hậu rước vua Anh Tông từ nhà Thượng Thanh về cung lên ngôi”.

– Do từ năm 1133 đến 1139 ghi thiếu 1 năm như đã dẫn ở trên nên từ Đại Việt sử ký toàn thư trở đi, các sách đều ghi vào thời điểm Thần Tông Dương Hoán qua đời là vào tháng Chín năm Mậu Ngọ – trong đó có cả Tống sử (4.488 – Ngoại quốc 4. Giao Chỉ).

Sự kiện này dựa vào các tài liệu được biên soạn vào thời Lý – Trần bảo đảm được độ trung thực và chính xác.

Nguồn: V17, tr.142; T15; A1, tr.226; Đ4, tr.230; Đ5, tr.358; A3, tr.42.

        Ngày 8 tháng 11 (1 tháng Mười – Đinh Tỵ)

083. Anh Tông Dương Thiên Tộ lên ngôi

Hoàng Thái tử lên ngôi trước linh cữu, lúc vừa sang tuổi lên 3. Sau khi quần thần dâng tên hiệu, lấy niên hiệu là Thiệu Minh năm đầu, tôn mẹ là phu nhân Cảm Thánh làm Hoàng Thái hậu.

Nguồn: V17, tr.142.

        NĂM 1138 (MẬU NGỌ)

        Tháng 5 (tháng Tư – Mậu Ngọ)

084. Nhân tiết Thọ Ninh, lập Hoàng hậu

Ngày sinh nhật của vua được lấy làm tiết Thọ Ninh.

Nguồn: V17, tr.142.

        Tháng 11 (tháng Mười – Mậu Ngọ)

085. Thân Lợi, tức Lý Trí Tri hoặc Triệu Trí Tri, Thái tử của Lý Nhân Tông bị bỏ rơi, từ Đại Lý về nước đòi lại ngôi vị của họ Lý đang trong tay họ Dương

Các sách cổ sử của ta chỉ ghi Thân Lợi tự xưng là con của Lý Nhân Tông (Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên) nhưng Tống sử ghi rành rẽ hơn: “Trước đây Càn Đức có người con vợ lẽ [tên là Lý Trí Tri] chạy sang Đại Lý đổi tên họ là Triệu Trí Tri, tự xưng Bình Vương. Nghe tin Dương Hoán chết, Đại Lý sai [Trí Tri] về nước tranh ngôi với Thiên Tộ”.

Để trở về, Thân Lợi đã bí mật hành binh men theo đường biển, vào sông Thái Bình rồi ngược sông Cầu, “đem đồ đảng do đường thủy đến châu Thái Nguyên, sang châu Tây Nông, qua châu Lục Lệnh vào chiếm cứ châu Thượng Nguyên và châu Hạ Nông, thu nhặt những kẻ trốn tránh, chiêu mộ thổ binh, có đến hơn 800 người cùng mưu làm loạn”.

Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự lại ghi rằng, “Tháng Chín năm Mậu Ngọ… lúc bấy giờ vùng Khê Động nơi biên tái có một yêu đồng tên là Thượng Suy Vi, xưng là con côi của Nhân Tông, tụ tập đồ đảng và tiếm hiệu là Bình Nguyên Đại tướng”.  

Nguồn: A3, tr.42; V17, tr.143; Đ4, tr.232; Đ5, tr.361; T15.

        NĂM 1139 (KỶ MÙI)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Mùi)

086. Thân Lợi xưng vương, xây dựng lãnh địa riêng tại thượng du sông Cầu

Ngoài việc tự xưng là Bình Vương, Thân Lợi còn lập vợ cả và vợ lẽ làm Hoàng hậu và phu nhân, con làm Vương hầu, cho những người thân tín quan tước theo thứ bậc khác nhau. Lực lượng của Bình Vương lên tới hơn ngàn người, đi đến đâu cũng nói phao là thủ lĩnh giỏi binh thuật để hiếp chế người miền biên giới khiến cho các khe động lo sợ.

Nguồn: Đ4, tr.233; Đ5, tr.361-362.

        Tháng 3 (tháng Hai – Kỷ Mùi)

087. Anh Tông Thiên Tộ cử binh đánh dẹp Thân Lợi bị thất bại

Nhận được thư cáo cấp của quan coi biên giới, Anh Tông xuống chiếu cho Gián nghị Đại phu Lưu Vũ Xứng đem quân do đường bộ tiến đi, Thái phó là Hứa Viêm đem quân do đường thủy tiến ngược lên để đánh. Khi ấy Vũ Xứng sai tướng tiền phong là Thị vệ Tô Tiệm và Chủ đô trại Tuyên Minh là Trần Thiềm đem quân đi trước đóng ở sông Bác Đà, gặp thủy quân của Thân Lợi cùng giao chiến. Sau khi tiêu diệt Tô Tiệm, Thân Lợi trở về giữ châu Thượng Nguyên, đắp đồn ải ở huyện Bác Nhự để chống quan quân. Vũ Xứng đánh lấy được ải Bác Nhự, tiến đến Bồ Đinh, gặp thủy quân của Thân Lợi, tướng sĩ chết đến quá nửa, rồi rút về.

Nguồn: Đ4, tr.233; Đ5, tr.362.

        Tháng 5 (tháng Tư – Kỷ Mùi)

088. Anh Tông Thiên Tộ cử Đỗ Anh Vũ cầm quân đối địch với Thân Lợi

Sau khi đánh thắng quân triều đình, Thân Lợi sai người sang nhà Tống tiến cống với tư cách vua tôi nhà Lý chính tông rồi mượn quân đưa mình về nước nhưng việc không thành. Theo Ngô Thì Sĩ thì “xét niên hiệu Thiệu Hưng thứ 9 thời Tống (1139), quan Súy ty Quảng Tây nói rằng: “Vua Nhân Tông nhà Lý có người con của cung thiếp, không nhận mà lại lập vua Thần Tông. Con người cung thiếp đó chạy sang Đại Lý đổi làm họ Triệu, tên là Trí Chi, tự xưng làm Nam Bình Vương. Thần Tông mất, nước Đại Lý cho Trí Chi về nước, muốn tranh ngôi với vua Anh Tông. Anh Tông cho quân chống lại, Trí Chi nhân thế tiến xin mượn quân nhà Tống. Quan Súy ty nhà Tống an ủi bảo về, rồi đem việc đó tâu lên cho vua Tống biết, vua Tống ban chiếu khước từ. Ý chừng Trí Chi và Thân Lợi khi ấy chỉ là một người, họ tự trần tình với Quảng Tây để xin nhà Tống cho viện binh, lấy tên là Trí Chi, nói dối là con của Nhân Tông để đánh lừa nhà Tống mà thôi. Sử ghi: Tháng giêng, mùa xuân năm sau, Thân Lợi tiếm hiệu Bình Vương; bỏ thiếu chữ Nam có lẽ vì cớ không rõ Thân Lợi đầu cuối ra sao. Lại xét sách Quế Hải chí của Phạm Thành Đại nói: Anh Tông có người anh từng làm Tri châu ở Lạng Châu mưu đoạt ngôi, việc bị phát giác đày ở châu Tuyết Hà, cạo đầu làm sư. Có thể nói người Tống ưu đãi nhà Lý, không muốn gây ra hiềm khích, đã cự tuyệt Trí Chi khiến nó không thể tung hoành được. Còn kẻ cạo đầu làm sư tuy không do người nào, hoặc là Thiên Lộc bị phế, bè đảng của nó chạy sang tố cáo với nhà Tống, người Tống bắt tội nó, có lẽ có sự cảnh giác như việc Nùng Trí Cao”.

Bị nhà Tống khước từ, Thân Lợi đem toàn bộ lực lượng của mình tỏa đi các nơi rồi chiếm cứ châu Tây Nông, sai người ở các châu Thượng Nguyên, Tuyên Hóa, Cảm Hóa, Vĩnh Thông đánh lấy phủ Phú Lương. Thân Lợi chiếm giữ phủ trị, đêm ngày bàn định mưu kế để đánh cướp Kinh sư. Nghe tin, nhà vua sai Thái úy Đỗ Anh Vũ đem quân chờ đánh Thân Lợi.

Nguồn: Đ4, tr.233; Đ5, tr.362.

        Tháng 6 (tháng Năm – Kỷ Mùi)

089. Thủ lĩnh Dương Mục bị bắt ở Kinh sư

Nhằm đánh chiếm Thăng Long, Thân Lợi đem toàn bộ lực lượng về đóng ở Quảng Dịch. Tại đây lực lượng của Thân Lợi gặp quân của Anh Vũ, hai bên đánh nhau to. Quân của Thân Lợi thua chết không xiết kể. Anh Vũ sai chém lấy đầu bêu lên ở cạnh đường suốt từ cửa quan Bình Lỗ đến sông Nam Hán. Các thủ lĩnh châu Vạn Nhai là Dương Mục, thủ lĩnh động Kim Kê là Chu Ái rơi vào tay quân triều đình bị đóng cũi giải về Kinh sư. Thân Lợi chỉ chạy thoát một mình về châu Lục Lệnh. Đỗ Anh Vũ bèn đưa Dương Mục, Chu Ái về trói giam ở huyện phủ. Anh Tông xuống chiếu cho Anh Vũ chiêu tập tàn tốt của Thân Lợi ở cửa quan Bình Lỗ, phát muối kho ngự cho Dương Mục, Chu Ái.

Nguồn: V17, tr.143; Đ4, tr.233 ; Đ5, tr.362.

090. Đỗ Anh Vũ đánh thắng Thân Lợi ở Lục Lệnh

Trong trận quyết định này, quân nổi dậy bị bắt, giết hơn 2000 người, chỉ có Thân Lợi trốn sang Châu Lượng nhưng cũng bị Thái phó Tô Hiến Thành bắt được rồi giao cho Đỗ Anh Vũ đóng cũi giải về Kinh sư. Anh Tông đã sai Lý Nghĩa Lâm vỗ yên lực lượng còn sót của Thân Lợi, xuống chiếu cho quan Đinh úy xét tội Thân Lợi. Án xong, vua ngự điện Thiên Khánh xử Thân Lợi và hơn 20 người đều bị tội trảm. Những người khác thì theo tội nặng nhẹ mà xử, tha cho những kẻ bị hiếp đi theo. Các quan dâng biểu mừng.

Về sự kiện này, xin bổ sung thêm những điều được Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự mô tả:

[Sau khi] Anh Tông từ nhà Thương Thanh về cung lên ngôi, Thái úy [Đỗ Anh Vũ] chấn chỉnh triều cương, trăm quan khép mình mà nghe lệnh, sửa sang chính trị, muôn dân nghển cổ để nhìn trông. Hoàng Thái hậu thấy Thái úy có nhiều công lao, bèn thăng Thái úy lên chức Kiểm hiệu Thái phó. Tháng Chín năm Mậu Ngọ lại được thăng Phụ quốc Thái úy và được ban quốc tính họ Lý. Thái úy được hoàn toàn nắm giữ binh quyền. Lúc bấy giờ vùng Khê Động nơi biên tái, có một yêu đồng tên là Thượng Suy Vi, tự xưng là con côi của Nhân Tông, tụ tập đồ đảng và tiếm hiệu là Bình Nguyên Đại tướng. Vua sai Tả gián nghị Đại phu Lưu Cao Nhĩ đem quân đi dánh nhưng đảng giặc càng quá quắt. Thế là Thái úy ăn không ngon, ngủ không yên bèn tâu vua rằng: – Thần nghe nói vua lo thì tôi chết. Man Di khinh nhờn Trung hạ là tội của hạ thần! Vua chuẩn lời thỉnh cầu của Thái úy. Thái úy lĩnh chức Nguyên soái thống lĩnh sáu quân. Sau khi nhận Tiết việt và tuyên thệ trước quân sĩ, Thái úy đem quân đến bến Nam Khoáng và chia quân ra làm 10 đạo để đề phòng sự không hay. Quân giặc tuy đông nhưng Thái úy mới đánh một trận mà chúng đã tan vỡ. Khi nghịch đảng đã bị bắt, Thái úy đem quân về triều báo tin thắng trận, nhà vua ban thưởng rất hậu, sử sách ghi chép công lao. Vua ban cho mũ áo ba tầng, vỗ về tông thân của Thái úy và làm cho họ hàng được rỡ ràng. Vua lại ban cho Thái úy lụa tốt và ba phủ Nghệ An, Thanh Hóa và Phú Lương làm phong ấp. Thái úy cấm trừ di tục, man dân khoanh tay mà chịu mặc hình; trộm cướp và dân ở biên thùy đều khiếp sợ mà nghe theo sự giáo hóa của nhà vua”.

Để làm rõ hơn sự chênh lệch về thời gian giữa Việt sử lược so với Đại Việt sử ký (toàn thư, tiền biên) xin dẫn chứng chú thích của các dịch giả Đại Việt sử ký toàn thư: “Ngô Thì Sĩ trong sách Việt sử tiêu án nhận xét rằng: “Xét năm Thiệu Hưng thứ 9, Quảng Tây súy ti nhà Tống nói: “Đời Lý Nhân Tôn người cung thiếp sinh đứa con trai, Nhân Tôn không nhận, khi Thần Tôn lập, đứa con ấy chạy sang nước Đại Lý, đổi họ là Triệu, tên là Trí Chi, tự hiệu là Nam Bình Vương. Thần tôn băng thì về nước tranh ngôi với Anh Tôn. Anh Tôn đem binh chống đánh. Trí Chi đem việc ấy tâu lên [xin Tống giúp]. Vua Tống xuống chiếu không cho”. Vậy Trí Chi và Thân Lợi có lẽ là một người. Việc Triệu Trí Chi về nước tranh ngôi, Tống sử, q.488 cũng chép như thế vào năm Thiệu Hưng thứ 9. Nhưng năm ấy là vua Tống hạ chiếu cho Quảng Tây súy ti bảo đừng nhận cho Triệu Trí Chi vào cống; trước đó thì Quảng Tây úy ti đã báo cáo việc Triệu Trí Chi về tranh ngôi nhà Lý sau khi Dương Hoán (Thần Tôn) chết; như vậy thì việc Triệu Trí Chi tranh ngôi phải là bắt đầu từ trước năm ấy. Thế mà Toàn thư lại chép việc Thân Lợi hoạt động vào năm Thiệu Hưng thứ 11”. Chúng tôi thấy Ngô Thì Sĩ cho Triệu Trí Chi là Thân Lợi là đúng. Nhưng tại sao Toàn thư lại chép muộn như thế? Chúng ta hãy xét niên hiệu của Toàn thư và đối chiếu niên hiệu của Toàn thư với niên hiệu của Tống sử xem thế nào. Một điều nên chú ý là Toàn thư bỏ hẳn không chép năm Quí Mão (1133), do đó nên trong mấy năm về sau, có nhiều việc thấy Toàn thư chép chênh lệch với Tống sửViệt sử lược là sách tóm tắt sử cũ. Để đối chiếu niên hiệu của sử ta với niên hiệu của sử Tống, có thể lấy sự thích nghi nhật hiện, sao chổi và tháng nhuận làm căn cứ. Trong đời Khâm Tôn và Cao Tôn nhà Tống tương đương với đời Nhân Tôn và Thần Tôn nhà Lý, sử Tống và sử ta đều chép năm Tĩnh Khang thứ 1, tức năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (1126) có tháng Một nhuận, như thế là niên hiệu hai bên không sai nhau. Nhưng sao chổi xuất hiện Tống sử, q.30 và Tục tư trị thông giám, q.127 đều chép vào tháng Tư năm Thiệu Hưng thứ 15 là năm Ất Sửu thì Toàn thư lại chép vào tháng Tư năm Bính Dần Thiệu Hưng 16. Tục tư trị thông giám chép năm Thiệu Hưng thứ 15 có tháng Một nhuận, Toàn thư lại chép tháng nhuận vào năm Thiệu Hưng 16. Như thế là Toàn thư chép chậm 1 năm so với sử nhà Tống. Tại sao có việc chênh lệch như vậy? Chúng tôi thấy là do việc Toàn thư bỏ không chép năm Quý Sửu nên đã chép sai năm Lý Thần Tôn chết. Việt sử lược chép Lý Thần Tôn chết năm Đinh Tị Thiên Chương Bảo Tự thứ 5, tức năm Thiệu Hưng thứ 7 (1137). So sánh Toàn thư với Việt sử lược, chúng ta thấy từ sau năm Quý Sửu, có nhiều việc Việt sử lược chép vào năm trước mà Toàn thư lại chép vào năm sau, năm chết của Lý Thần Tôn là một lệ. Xét riêng về điểm này, tại sao Toàn thư lại chép việc ấy chậm một năm vào năm Thiệu Hưng thứ 8? Có lẽ là Toàn thư thấy tài liệu nhà Tống nói rằng “năm Thiệu Hưng thứ 9, Quảng Tây súy ty báo cáo về việc Triệu Trí Chi sau khi nghe tin Lý Thần Tôn chết thì về nước tranh ngôi với Anh Tôn, thì cho rằng Thần Tôn chết phải là ở năm trước, tức là năm Thiệu Hưng thứ 8, cho nên chép Thần Tôn chết vào tháng Chín năm Mậu Ngọ Thiệu Hưng thứ 8, chứ không chép vào tháng Chín năm Đinh Tị như Việt sử lược. Chúng tôi cho rằng về điểm này Việt sử lược căn cứ vào tài liệu của sử cũ chép đúng mà Toàn thư chép thế là sai. Do chép sai như thế nên Toàn thư đã kéo dài niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự thêm một năm thứ 6 và do đó đặt năm đầu niên hiệu Thiệu Minh vào phần sau năm ấy là năm Mậu Ngọ. Đúng thì năm đầu Thiệu Minh phải là năm Đinh Tị và năm Mậu Ngọ phải là năm thứ 2 như Việt sử lược chép. Vậy năm Kỷ Mùi phải là năm Thiệu Minh thứ 3 đồng thời là năm Đại Định thứ 1, tương đương với năm Thiệu Hưng thứ 9. Vậy thì năm Đại Định thứ 7 là năm có sao chổi (chép theo sử cũ) phải là năm Ất Sửu Thiệu Hưng thứ 15. Cứ thế thì Thân Lợi khởi sự phải là việc ở năm Thiệu Hưng thứ 7 hay thứ 8, có lẽ là đầu năm thứ 9 (1138). Năm Thiệu Hưng thứ 9 (1939) Thân Lợi còn sống. Theo Toàn thư thì đến tháng Mười năm Đại Định thứ 2 (theo niên hiệu đã điều chỉnh là năm 1140) Lợi mới bị bắt. Toàn thư chép Thân Lợi bị bắt vào năm Đại Định thứ 2 là đúng, mà sai là cho Lợi khởi sự cùng vào năm ấy. Việt sử lược chép Thân Lợi nổi dậy từ đầu năm Kỷ Mùi là đúng, và sai ở chỗ cho cả việc Lợi bị bắt ở tháng Mười cũng vào năm Kỷ Mùi. Sở dĩ có sự chép chênh lệch nhau như thế là bởi chép sai niên hiệu”.

Nguồn: Đ4, tr.234-235; Đ5, tr.362-363.

        NĂM 1140 (CANH THÂN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Thân)

091. Anh Tông Thiên Tộ cải nguyên, tha tù

Nhân việc nhà vua cải nguyên niên hiệu thành Đại Định năm đầu, Thái phó Tô Hiến Thành tâu xin: – Đảng Thân Lợi nổi loạn, giết nhiều quan quân, bệ hạ chỉ hành hình 20 người, thực là có lòng nhân đức. Nhưng xưa kia vua Nghiêu, vua Thuấn truyền nối trong vòng hơn một trăm năm, thế mà số người bị tội chết, bị tội lưu chỉ có 4 tên đầu sỏ gian ác, ngày nay phát lưu đến hơn trăm người, có phải là bản tâm của bệ hạ đâu? Tôi xin tha tội cho chúng để mọi người được nhuần thấm ơn vua, thì lòng nhân đức của bệ hạ không khác ghì Nghiêu Thuấn!

Nhà vua đã y theo lời, xuống chiếu tha tội phóng trục và lưu đày cho hơn 400 người theo Thân Lợi đang bị giam giữ.

Nguồn: V17, tr.143; K7, tập 1, tr.378; Đ4, tr.236; Đ5, tr.363.

        NĂM 1141 (CANH THÂN – TÂN DẬU)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Canh Thân)

092. Anh Tông Thiên Tộ ban chiếu cho chuộc lại ruộng đã cầm bán

Chiếu của nhà vua ấn định, các ruộng cày cấy được bán trong vòng 20 năm thì cho phép chuộc lại còn những ruộng đất tranh chấp đã ngoài 50 năm thì không được thưa kiện nữa. Ruộng đất bán đã có văn khế thì không được chuộc lại.

Nguồn: V17, tr.143.

        NĂM 1142 (NHÂM TUẤT)

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Tuất)

093. Lần thứ hai Dương Tự Minh trở thành Phò mã lang

Ngoài việc triều đình gả Công chúa Thiều Dung, ông còn được yêu cầu rời phủ Phú Lương về hẳn Thăng Long.

Nguồn: V17, tr.144.

        Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Tuất)

094. Phò mã lang Dương Tự Minh được cử đi chiêu tập người dân vùng châu Quảng Nguyên

Sở dĩ có việc này vì tay chân của Đàm Hữu Lượng từ đất Tống thường lẻn sang lôi kéo dân chúng, chuẩn bị cơ sở cho sau này.

Nguồn: Đ4, tr.265; Đ5, tr.363.

        NĂM 1143 (QUÝ HỢI)

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Hợi)

095. Phò mã lang Dương Tự Minh tiến đánh lực lượng của Đàm Hữu Lượng

Nhận được tin người yêu thuật nước Tống là Đàm Hữu Lượng tự xưng là Lữ Tiên sinh (có sách ghi là Triệu Tiên sinh), được lệnh đi sứ sang An Nam dụ Lý Anh Tông, nhà vua đã cử Phò mã sang Dương Tự Minh đi chiêu tập dân chúng, trực tiếp cai quản việc công các khe động dọc biên giới về đường bộ từ cuối năm trước nhưng nhiều người vẫn bị bè đảng của chúng lôi kéo. Đến lúc này nhà vua lại xuống chiếu cho Phò mã lang Dương Tự Minh chuẩn bị truy quét.

Sau khi tràn qua biên giới, lực lượng của Đàm Hữu Lượng tiến vào đánh phá vùng Quảng Nguyên. Tình hình biên giới khá nguy ngập, đến mức Kinh lược Súy ty Quảng Tây nước Tống phải đưa thư nhờ đánh bắt hộ. Đứng trước tình hình ấy, Phò mã lang Dương Tự Minh cùng các văn thần là Nguyễn Nhữ Mai, Lý Nghĩa Vinh đốc quân lên đường, tiếp đó Thái sư Mâu Du Đô chỉ huy lực lượng tại chỗ của các khe động dọc biên giới về đường bộ hỗ trợ. Khi quân của Mâu Du Đô đến nơi thì Tự Mình đã lấy được ải Lũng Đổ châu Thông Nông, bắt được bè đảng của Hữu Lượng là bọn Bá Đại 21 người, duy có Hữu Lượng chạy thoát, trốn vào núi rừng, đầm trạch. Vua ban chiếu cho Quản quân xứ Lý Nghĩa Vinh, áp giải bọn Bá Đại giao trả về nước Tống. Quan Ung Châu nước Tống tạm cấp giấy cáo thân đồng thời với Hữu Lượng và hơn 20 người thủ lĩnh ở châu Quy Thuận. Khi đến trại Dương Sơn (có bản chép là Hoành Sơn), quan Ung Châu nhà Tống là Triệu Nguyện bắt Hữu Lượng giải đến Súy ty, chém chết. Trong đảng của Hữu Lượng có người tên là Dương Ư, ở ngực có thích vân rồng đen, người Tống biết là người nước ta, nhân đấy cùng với các thủ lĩnh đều trả lại cho ta, đều bỏ ngục chết.

Nguồn: V17, tr.144; Đ4, tr.233; D5, tr.364.

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Hợi)

096. Lệnh doãn Dương Hỗ cùng Thái học sinh Hà Văn Chiếu tham gia vào đoàn của Lý Nghĩa Vinh áp giải đồ đảng của Đàm Hữu Lượng sang đất Tống

Theo thần tích lưu tại Nghè Giếng và Nghè Hàn Lâm thuộc xã Nghĩa Phương – Na Ngạn (nay thuộc Lục Nam – Bắc Giang), vào thời ấy, địa phương có Dương Hỗ, tự là An Quý, đỗ Cống cử, được bổ làm Lệnh doãn đã vâng lệnh vua Anh Tông cùng Thái học sinh Hà Văn Chiếu đang là Hàn lâm học sĩ đi cùng sứ bộ Đại Việt nhận việc trao trả đồ đảng Đàm Hữu Lượng. Chẳng may sau khi giải quyết xong công việc ở Hộ Châu và Quảng Nam, Hà Văn Chiếu trên đường trở về bị bệnh, qua đời vào ngày 8 tháng Một năm Quý Hợi. Hà Văn Chiếu được triều đình phong cho là Thắng Địch hầu và thờ ở Nghè Hàn Lâm. Tại đây hiện vẫn còn đôi câu đối.

                      “Học sĩ thanh danh dương Bắc địa

                      Bông lai cũng khuyết đối Nam sơn”

(Đạo học tiếng tăm lừng đất Bắc

Cung trên cao rộng ngút trời Nam)

Riêng với Dương Hỗ, khi về tới quê nhà được một thời gian cũng qua đời vào ngày 12 tháng Mười năm Giáp Tý (1144).

Nguồn: B5, tr.185-187.

        NĂM 1144 (GIÁP TÝ)

097. Thái úy Đỗ Anh Vũ tìm mọi cách giảm thiểu ảnh hưởng của Phò mã lang Dương Tư Minh

Sau khi dẹp xong Thân Lợi, mặc dù được kiêm nhiếp cả phủ Phú Lương nhưng Đỗ Anh Vũ vẫn lo Phò mã lang lấn át, cản trở con đường thăng tiến và vạch tội tư thông với Lê Thái hậu. Do bản tính kiêu căng bừa bãi ở chốn triều đình, quen giơ tay thét lớn, sai khiến quan lại chỉ nhếch mép ra hiệu nên viên Thái úy này bất chấp tất cả. Cuối năm 1143, ngoài việc xin xây cung Quảng Từ cho Lê Thái hậu ra ở, Đỗ Anh Vũ còn tiến hành chuyến khảo sát đám quan liêu, định số mục hộ tịch và cử tay chân là Trung thư hỏa Nguyễn Quyền về cai quản phủ Phú Lương. Trong năm 1144 lấy cớ quân sĩ không luyện tập thì không lấy gì mà dẹp được loạn, dân không dạy chiến đấu thì không lấy gì uy phục tứ di, Đỗ Anh Vũ nắm trọn lực lượng quân đội vào tay mình.

Phò mã lang Dương Tự Minh – một võ tướng và thủ lĩnh nổi tiếng một thời trong việc giữ gìn, bảo vệ biên cảnh hầu như bị vô hiệu hóa.

Nguồn: V17, tr.144-145; T15.

 

        NĂM 1148 (MẬU THÂN)

        Tháng 10 (tháng Chín – Mậu Thìn)

098. Phò mã lang Dương Tự Minh cầm đầu việc lật đổ uy quyền của Thái úy Đỗ Anh Vũ

Tức nước vỡ bờ, Phò mã lang Dương Tự Minh cùng Điện tiền Chỉ huy sứ Vũ Đái huy động lực lượng tới bao vây cửa Việt Thành ở Thăng Long hô to lên rằng: – Anh Vũ ra vào nơi cung cấm, làm nhiều điều ô uế, tiếng lan ra cả bên ngoài. Bọn thần xin trừ khử đi, chớ để lo về sau! Nhà vua bèn chiếu sai cấm quân đến bắt Anh Vũ giam ở chái Tả Hưng thành (Việt sử lược ghi là Hành lang Cụ Thánh), giao cho đình úy xét việc. Thái hậu sai người mang cơm rượu cho Anh Vũ, ngầm để vàng vào trong đồ đựng món ăn, để đút lót cho Vũ Đái và các người canh giữ. Tả hưng Thánh hỏa đầu là Nguyễn Dương nói: “Bọn người tham của đút, ta với ngươi tất không khỏi tay Anh Vũ đâu, chi bằng giết trước đi cho khỏi mối lo về sau”. Bèn cầm giáo định đâm. Tả hưng Thánh đô là Đàm Dĩ Mông ôm Nguyễn Dương cướp lấy cái giáo, ngăn lại và nói rằng: “Điện tiền bảo rằng Anh Vũ tội đáng chết, nhưng phải đợi mệnh lệnh của vua, không nên tự tiện”. Nguyễn Dương giận nói: “Điện tiền Vũ Cát chẳng phải là Đái à! (chữ Cát Đái phương ngôn nói là cứt đái), sao tham của đút mà không tiếc thân mình!”. Nói xong rồi tự biết là không khỏi chết, mới nhảy xuống giếng tự tử.

Bấy giờ vua xử án của Anh Vũ, đày Anh Vũ làm cảo điền nhi (một loại tội đồ khi đó).

Nguồn: V17, tr.145; Đ4, tr.239 ; Đ5, tr.367

        NĂM 1150 (CANH NGỌ)

        Tháng 10 (tháng Chín – Canh Ngọ)

099. Phò mã lang Dương Tự Minh bị lưu đày

Thấy người tình thất thế, lưu đày như một kẻ tội đồ mang trọng tội, Lê Thái hậu lo buồn, cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới nhiều lần mở đại hội để xá cho tội nhân, mong rằng Anh Vũ được dự vào đấy. Anh Vũ được mấy lần xá tội, lại làm Thái úy phụ chính như cũ, càng được yêu tin hơn, do đấy chuyên làm oai làm phúc, việc sống chết ở trong tay, mà lòng báo thù lúc nào cũng tỏ rõ. Mặc dù đã được như vậy, nhưng Đỗ Anh Vũ còn sợ rằng bọn quan lại đi bắt phần nhiều không được như ý mình, mới dâng hơn một trăm người thủ hạ để làm Đô phụng quốc vệ, người nào phạm tội đều giao cho Đô phụng quốc vệ bắt cả. Anh Vũ lại mật tâu với vua rằng: “Trước kia bọn Vũ Đái tự tiện đem cấm quân xông vào cung đình, tội ấy không gì to bằng, nếu không trừng trị sớm đi, sợ một ngày kia sinh biến, không thể tính được”. Vua chẳng biết gì cả, cũng y lời tâu. Anh Vũ sai Đô phụng quốc vệ bắt Vũ Đái giam vào ngục trị tội. Xuống chiếu giáng Trí Minh Vương làm tước hầu, Bảo Minh hầu làm tước Minh tự, Bảo Thắng hầu làm phụng chức; Nội thị Đỗ Ất 5 người phải tội “cưỡi ngựa gỗ”, Hỏa đầu đô Ngọc giao là Đồng Lợi 8 người chém ở chợ Tây Nhai, Điện tiền đô chỉ huy Vũ Đái 20 người chém bêu đầu ở các bến sông, còn Phò mã lang Dương Tự Minh 30 người lưu ở những nơi xa độc; các người dự mưu đều đổ làm điền hoành, khoa giáp, quả như lời nói của Nguyễn Dương.

Ngoài ra, nhà vua còn xuống chiếu cấm hoạn quan không được tự tiện vào trong cung, ai phạm thì tội chết. Nếu không cẩn thận để người khác vào trong cung thì cũng phải tội như thế. Cấm các quan trong triều không được đi lại nhà các vương hầu ở trong cung cấm không được hội họp nhau năm ba người bàn luận chê bai; vi phạm thì có tội. Kẻ nào phạm việc qua lại ngoài địa đầu chái chứa khí giới của Đô phụng quốc vệ thì xử 80 trượng, tội đồ; của đến trong chái ấy thì xử tử. Quân Đô phụng quốc vệ ở trong chái ấy có chiếu chỉ mới được cầm khí giới, nếu không có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới đi ra ngoài địa đầu thì xử tử.

Khi Anh Tông Thiên Tộ bị ốm, Đỗ Anh Vũ bày trò tắm gội trai giới, chọn đất lập đàn, dựng nghi trượng cầm ngọc khuê, cầu xin chịu bệnh thay vua. Khi khỏi bệnh, nhà vua đã ban cho viên Thái úy này một nghìn quan tiền và ba mươi tấm lụa. Anh họ của Đỗ Anh Vũ là quan Thị trung có hai người con gái đều được vua đón về làm phu nhân – trong đó có con gái thứ là Đỗ Thụy Châu, mẫu thân của Hoàng tử Long Cán.

Nguồn: V17, tr.146; Đ4, tr.239-230; Đ5, tr.368; T15.

        Tháng 11 (tháng 10 – Canh Ngọ)

100. Anh Tông Thiên Tộ giao cho Đỗ Anh Vũ tổ chức kỳ thi Điện thí

Không rõ kỳ thi được tổ chức ra sao và danh sách đỗ đạt. Theo Cự Việt quốc Thái úy Lý Công thạch bi minh tự thì ngay khi được phục chức, vua thấy Thái úy: văn đủ sửa sang nhà nước, đức đủ cảm động quỷ thần, chí như nguồn suối, đạo giống ngọc vàng, có thể đủ tư cách làm bậc thầy vậy. Thế là vua bèn sai Thái úy giữ trách nhiệm Sư doãn để luận đạo Kinh bang. Các tấu nghi, can gián của các nho thần đều giao cho Thái úy xem xét, ba trường thi phú khoa cử đều được rõ ràng.

Nguồn: V17, tr.147; T15.

        Trong năm

101. Dương Côn vượt biển đến Pu San (Cao Ly)

Dương Côn là con của Thành Quảng hầu, được Nhân Tông lập làm Thái tử thứ ba, sau Dương Hoán, được phong làm Kiến Hải vương Đại đô đốc. Năm 1138, Thần Tông qua đời, triều đình muốn đưa Dương Côn lên nối ngôi nhưng Cảm thánh Hoàng hậu đã đút lót vàng bạc cho các quan, tư thông với Đỗ Anh Vũ để đưa con trai là Thái tử Thiên Tộ lên nối nghiệp rồi cùng với người tình tự tung tự tác, tàn sát khốc liệt những người không ăn cánh. Trước tình hình ấy, các công thần hợp lại bắt Anh Vũ và đưa vụ án lên tới vua, nhưng nhờ Lê Thái hậu cuối cùng Anh Vũ lại làm Thái úy phụ chính như cũ, khiến cho khắp nơi xẩy ra bắt bớ, máu đổ đầu rơi. Dương Côn khi ấy đang đóng thủy quân ở Đồ Sơn biết mình khó tránh khỏi sự trả thù nên đã vượt biển tỵ nạn tại Cao Ly. Sau một thời gian cư ngụ, con trai Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) đã được đảm trách những chức vụ quan trọng của Vương quốc này. Thời vua Nghị Tông (Ui-Jiong 1146-1170) Lý Nghĩa Mẫn được phong chức Biệt trưởng. Đến đời vua Minh Tông (Mycong 1170-1179) ông được thăng Thượng tướng quân (1174), Tây Bắc Bộ binh Mã sứ (1178) và chức Tể tướng trong suốt 14 năm (1183-1196). Tới năm 1196, tướng Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) làm chính biến đã giết cha con Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn. Sở dĩ dòng họ của Dương Côn còn tồn tại tới nay là nhờ người anh trai của Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn và gia đình nhanh chóng thoát khỏi sự tàn sát kể trên.

Nguồn: V22.

        NĂM 1151 (TÂN MÙI)

        Tháng 12 (tháng 11 – Tân Mùi)

102. Sinh Hoàng tử trưởng Long Xưởng

Hoàng tử trưởng Long Xưởng là con đầu của Anh Tông Thiên Tộ và Chiêu Linh Hoàng hậu Vũ Thị, được phong Hiển Trung vương rồi Đông Cung Thái tử.

Nguồn: Đ4, tr.241; Đ5, tr.371.

        NĂM 1152 (NHÂM THÂN)

        Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Thân)

103. Anh Tông Thiên Tộ cho Lý Mông đưa Ung Đình Tá Điệp trở về Chiêm Thành

Họ Ung là một trong 4 dòng cự tộc của Chiêm Thành khi đó (Ung, Ma, Trà, Chế). Tuy nhiên việc giành giật ngôi báu giữa họ Ung và họ Chế diễn ra rất quyết liệt, rốt cuộc Ung Đình Tá Điệp và Lý Mông đều bị lực lượng của vua Chiêm đương thời là Chế Bì La Bút đánh bại.

Nguồn: V17, tr.147; Đ4, tr.241; V19, tr.150.

        Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Thân)

104. Anh Tông Thiên Tộ cầm quân trấn áp sự nổi dậy của Nông Khả Lai

Nông Khả Lai được ghi nhận là thủ lĩnh của người Sơn Lão vùng Đại Hoàng Giang (sau là phủ Trường Yên – Ninh Bình) nổi dậy từ tháng Tám năm đó. Lần xuất quân này, nhà vua đã giành thắng lợi (ngày Canh Tuất, quân đi từ Kinh sư. Ngày Giáp Dần đánh thắng trận. Ngày Bính Thìn đem quân về. Ngày Kỷ Mùi về đến Kinh).

Nguồn: V17, tr.147; Đ4, tr.241-242.

        NĂM 1157 (Đinh Sửu)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Đinh Sửu)

105. Anh Tông Thiên Tộ xuống chiếu định luật lệ

Theo quy định mới, các Điện tiền sứ và Đô hỏa đầu không được làm công việc phục dịch cho các tư gia, người vi phạm phạt 80 trượng; các hạng dân thường mặc áo đơn xanh đánh 80 trượng và bị đày làm khao giáp; các nhà quyền thế không được tiện thiện thu nạp các hạng bách tính; các vương hầu ban đêm không được tự tiện đi lại trong thành; các gia nô của vương hầu không được thích hình rồng lên ngực.

Nguồn: V17, tr.148-149.

        NĂM 1159 (KỶ MÃO)

        Ngày 9 tháng 2 (20 tháng Giêng – Kỷ Mão)

106. Thái úy Đỗ Anh Vũ qua đời

Theo Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự tạo khoảng năm Mậu Dần – Đại Định (1159) đặt tại đền thờ An Lạc (xã Trưng Trắc, Văn Lâm – Hưng Yên) thì Đỗ Anh Vũ tên chữ là Quán Thế, có tổ bên ngoại là Thái úy Quách công triều Thái Tông, vốn là người Câu Lậu – Tế Giang (nay là Văn Giang – Hưng Yên) , sinh ra Thường Kiệt làm Thái úy triều Nhân Tông, được ban Quốc tính họ Lý. Ông thân sinh ra Thái úy là Đỗ Tướng, cháu gọi Thái úy Lý Thường Kiệt bằng cậu, sinh được hai con. Người con trai chính là Thái úy. Người con gái là Quỳnh Anh.

Từ thuở ấu thơ, Thái úy đã có phong tư thanh khiết, vẻ mặt sáng sủa. Năm Giáp Thìn (1124), Nhân Tông yêu mến đã tuyển vào cung cấm. Khi ấy Thái úy cầm giáo mác mà mùa trên nệm gấm, hát khúc Hồi phong mà lả lướt liễu mềm, người các nước đến thăm không ai là không chú ý ngắm xem.

Năm Đinh Mùi đời vua Thần Tông (1127), Thái úy được tuyển vào ở nơi nội cấm, chức vị bao trùm cả sáu bộ Thượng thư. Các việc chính sự ở trong cung cấm và việc xây dựng của thợ thuyền, vua đều ủy thác cho Thái úy cả. Đến như các phép viết chữ, tính toán, bắn cung, cưỡi ngựa, thuốc men, kinh mạch không nghề nào mà Thái úy không tinh thông; việc bói toán, binh pháp, chơi bài, đánh cờ không việc nào mà Thái úy không nghiên cứu.

Cự Việt quốc Thái úy Lý công thanh bi minh tự sau khi điểm thêm các chiến công đánh dẹp nội loạn của Đỗ Anh Vũ dưới triều Thần Tông, Anh Tông; việc đưa các cháu gái vào làm Hoàng hậu khiến cho địa vị ngày càng cao sang, tước vị đứng đầu trăm quan, cả nước không ai bằng đã ghi lại rằng, tháng Tám năm Mậu Dần (1158) ông bị ốm nằm ở nhà riêng thuộc hương Điền Lệnh, vua và hoàng hậu hàng ngày đều sai ngự y bốc thuốc trung sứ đến trông nom. Ngày Bính Tý, 20 tháng Giêng năm Kỷ Mão, Thái úy qua đời. Tính ra, Thái úy giúp các vua được 22 năm, ra đi vào lúc 46 tuổi.

Nguồn: T15.

        Trong năm

107. Anh Tông Thiên Tộ xuống chiếu định chức quan

Theo đó, các chức Nội minh tự, Đại liên ban được coi là Thái phó; các chức Lang tướng, Thượng chế, Sùng ban, Cung phụng, Thị cấm, Điện trực đổi gọi là Thái bảo; người không chức quan gọi là Quản giáp còn Chi hậu, Hỏa đầu gọi là Phụng ngự; Tảo hoành gọi là Chủ đô.

Nguồn: V17, tr.150.

        NĂM 1160 (CANH THÌN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Thìn)

108. Anh Tông Thiên Tộ cho dựng đền Hai Bà và Xuy Vưu ở phường Bố Cái

Tương truyền, sau khi hy sinh, anh linh Hai Bà kết thành tượng đá theo dòng nước trôi xuôi, mãi tới thời Lý mới đến thành Thăng Long. Một đêm vào đầu tháng Giêng năm Canh Thìn, pho tượng tỏa sáng trên dòng sông Nhị trước bãi Đồng Nhân, dân dùng vải đỏ kéo Lĩnh Nam liệt khái thạch hóa chân dung vào bờ. Anh Tông Thiên Tộ hay tin cho dựng đền thờ ngay tại nơi ấy.

Mãi tới năm 1819 bãi sông bị lở, đền mới chuyển vào thôn Hương Viên, tức đền Đồng Nhân ngày nay.

Xuy Vưu hoặc Xi Vưu là tên một thủ lĩnh thời Hoàng Đế, được hiểu như tên của vị thần chiến tranh.

Nguồn: V17, tr.150; Đ4, tr.244.

        Tháng 3 (tháng Hai – Canh Thìn)

109. Anh Tông Thiên Tộ chú trọng tuyển lựa quân tướng

Nhà vua đã sai Tô Hiến Thành và Phí Công Tín tuyển lựa dân đinh mạnh khỏe sung vào quân ngũ; chọn các tướng hiệu người nào thông hiểu binh pháp, thạo võ nghệ chia cho cai quản.

Nguồn: Đ4, tr.244; Đ5, tr.376.

        NĂM 1161 (TÂN TỴ)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Tân Tỵ)

110. Anh Tông Thiên Tộ cho dựng chùa Pháp Vân ở Cổ Châu

Chùa Pháp Vân còn có các tên tọi khác là Thiền Định, Diên Ứng, Cổ Châu vốn được xây dựng từ năm 187, hoàn thành năm 226 – là một ngôi chùa có mặt sớm nhất ở Luy Lâu – thủ phủ của Giao Châu ngay khi Phật giáo tràn vào mạnh mẽ. Với thời gian kéo dài hàng chục thế kỷ, đến thời Anh Tông Thiên Tộ, chùa này đổ nát, do đó được xây dựng lại và trở thành ngôi chùa đứng đầu hệ thống Tứ Pháp, bao gồm Pháp Vân tự (chủ về mây), Pháp Vũ tự (chủ về mưa), Pháp Lôi tự (chủ về sấm), Pháp Điện tự (chủ về chớp) được dân gian hóa thành các chùa Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn.

Nguồn: V17, tr.150; Đ4, tr.244.

        Tháng 12 (tháng Một – Tân Tỵ)

111. Anh Tông Thiên Tộ tuần thú duyên hải tây nam

Trước hết, nhà vua phong cho Tô Hiến Thành làm Đô tướng, Đỗ An Di làm Phó Đô tướng đem hai vạn quân đi tuần các nơi ven biển miền tây nam để giữ yên bờ cõi. Sau đó, nhà vua đích thân đem quân đến tuần thú miền duyên hải và cửa biển Thần Đầu thuộc huyện Đại An rồi mới trở về.

Nguồn: Đ4, tr.244; Đ5, tr.377.

        NĂM 1162 (NHÂM NGỌ)

        Tháng hai (tháng Giêng – Nhâm Ngọ)

112. Anh Tông Thiên Tộ cho chia thứ hạng dân theo tuổi tác

Theo đó, những người từ 60 tuổi trở lên goi là Lão liệt (già yếu không làm được gì); từ 17 đến 19 tuổi là Đệ nhị đẳng; từ 16 tuổi trở xuống gọi là Hoàng nam.

Ngoài ra, nhà vua còn xuống chiếu bắt những kẻ tự hoạn bị phạt 80 trượng, thích 28 chữ vào bả vai trái, chuyển về thứ hạng cũ.

Nguồn: V17, tr.150; Đ4, tr.244.

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Ngọ)

113. Anh Tông Thiên Tộ tiến hành khảo sát các quan văn võ

Viên quan nào đủ niên hạn mà không mắc tội lỗi gì thì được thăng trật. Kể từ đây phép khảo sát quan lại trở thành thông thường nhưng cứ 9 năm mới tiến hành một kỳ khảo.

Nguồn: Đ4, tr.244; Đ5, tr.377.

        NĂM 1163 (QUÝ MÙI)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Mùi)

114. Anh Tông Thiên Tộ cải nguyên

Niên hiệu Đại Định thứ 24 được thay bằng niên hiệu Chính Long Bảo Ứng năm đầu.

Nguồn: V17, tr.151.

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Mùi)

115. Anh Tông Thiên Tộ cho dẹp loạn quân

Nhà vua sai Phí Công Tín mang tới 10 vạn quân mới dẹp yên được lực lượng lính bỏ trốn tập hợp thành từng bầy cướp của giết người. Đến tháng 4-1164, Tô Hiến Thành lại phải đem quân đánh dẹp cuộc nổi dậy ở Lộng Lạc thuộc Mang Quán Giang (nay thuộc Sơn La).

Nguồn: Đ4, tr.244; V17, tr.151.

        NĂM 1168 (MẬU TÝ)

        Tháng 9 (tháng Tám – Mậu Tý)

116. Anh Tông Thiên Tộ tiếp sứ giả Thát Đát và nhà Tống

Thát Đát có nghĩa là người hoặc đất nước của người Tatar khi ấy đang từ liên minh với Mông Cổ, chuyển sang liên minh với Kim. Trong thực tế, Thát Đát ở ngữ cảnh này phải được hiểu là nhà Kim, triều Kim.

Nhà Kim là một triều đại do người Nữ Chân xây dựng vào năm 1115. Sau khi ra đời, nhà Kim định liên minh với Tống đánh Liêu nhưng thực lực của Tống quá yếu nên năm 1125 mình nhà Kim diệt Liêu, năm 1127 đuổi Tống chạy xuống phía Nam, tạo ra trong lịch sử thời Bắc Tống (960-1127) và Nam Tống (1127-1279).

Năm 1234, trong khi Nam Tống vẫn tồn tại, nhà Kim bị Đại Mông Cổ tiêu diệt, về sau cũng nằm trong lãnh thổ nhà Nguyên, chung số phận với Nam Tống. Về sự kiện này, Đại Việt sử ký tiền biên chép như sau:

“Mậu Tý, năm thứ 6 [1168] (Tống Càn Đạo năm thứ 4), mùa thu, tháng 8, sứ nhà Tống sang, sứ nước Kim cũng sang. Vua sai ngầm tiếp lễ hậu, đừng để họ gặp nhau (xét Càn Đạo là niên hiệu đầu tiên của vua Hiến Tông nhà Tống. Khi ấy nước Kim đang mạnh. Vua Thế Tông nước Kim mới lên ngôi. Nước Mông Cổ mới nổi lên ở mạn Bắc, đang làm thần thuộc của nước Kim. Vả lại nước Kim đang đóng đô ở đất Biện, nhà Tống đóng đô ở Lâm An. Nhà Tống với nhà Nguyên như con ngựa con trâu động hứng đuổi nhau. Có liên quan gì mà người Nguyên dám vượt qua đất Biện, qua Lâm An để gây sự với nước ta? Sử cũ ghi là sứ Thát Đát là không tra cứu rõ. Hoàn Nhan Mông Cổ, danh hiệu khác nhau, người chú cho là sứ nhà Nguyên là lầm, cho nên đính chính lại).

Nguồn: Đ4, tr.246; Đ5, tr.378.

        NĂM 1170 (CANH DẦN)

        Trong năm

117. Anh Tông Thiên Tộ luyện tập quân sự

Nhà vua tập cưỡi ngựa, bắn cung ở Xạ Đình thuộc phía nam thành Thăng Long. Lại sai các quan hàng ngày luyện tập phép đánh giặc phá trận.

Nguồn: Đ4, tr.245; Đ5, tr.378.

        NĂM 1171 (TÂN MÃO)

        Ngày 9 tháng 11 (18 tháng Mười – Tân Mão)

118. Phụng Thánh phu nhân của Thần Tông Dương Hoán qua đời

Theo Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí tạo năm Chính Long Bảo Ứng 9 (1171) tại tiền đường chùa Phúc Thánh (xã Hương Nộn, Tam Nông – Phú Thọ) thì, phu nhân của Thần Tông Nhân hiếu Hoàng đế họ Lê, húy Xuân Lan, con gái út Phụ Thiên Đại vương, mẹ là Công chúa Thụy Thánh – con gái cả của Dự Công chính hoàng. Lớn lên bà làm con gái cả của Thánh Tông Hoàng đế, vẫn gọi là Công chúa Thụy Thánh. Ông nội, Phò ký úy Quan sát sứ ở bảo sơ châu Chân Đăng, tức là cháu gần của Ngự Man Đại vương, là cháu nội của Đại hàng Hoàng đế nhà Lê. Phụ Thiên Đại vương có 20 người con: một Thái hậu, ba Phu nhân, bốn Công chúa, mười hai Thái tử.

Năm Giáp Dần, Thiên Chương Bảo Tự thứ 2 (1134) lúc đầu Hoàng đế lấy con gái của Phụ Thiên Đại vương, bà Cảm Thánh Hoàng thái hậu. Thấy phu nhân có nhan sắc và tứ giáo, Hoàng đế lại đón về làm phi. Mới vào cung đã hiểu rõ đạo lý làm vợ, lên trên tông thất thì giữ bền phong độ nữ lưu. Ăn mặc, điểm trang ắt đúng độ, nói năng cử chỉ ắt đúng phép.

Bính Thìn năm thứ 4 (1136) được tiến phong Phụng Thánh phu nhân. Bấy giờ phu nhân giữ bền tân hạnh, thời thường lại sửa mình theo giáo hóa, bổn phận dâu hiền không hề thiếu sót, ân huệ lễ mọn cũng thấm xuống dưới. Sánh ngang Hoàng Anh vợ Thuấn, dâng lời phò trí giúp mưu, giống như Nhâm Khương giúp Chu, trước hết nêu cao đế đạo.

Đinh Tỵ năm thứ 5 (1137) gào khóc đi theo xe tang, nguyện ở lại trông lăng tẩm. Lòng không trễ biếng mà vẫn rõ ràng, tu đâu Thượng đạo mà giáo hóa hoàn bị. Phu nhân dung nhan đoan chính, tính tình kín đáo; mừng giận không lộ ra hình sắc, dùng người khiến vui mà ở lại, chẳng cần roi vọt bức bách. Đến khi đức Kim thượng lên ngôi, Thái hậu phụ chính, thường sóc vọng đều đến dự chầu. Kim thượng một lòng kính mến, chuyện trò rất mực ân cần mà không điều gì lầm lỗi. Mỗi khi dự tính việc gì, đều yết kiến riêng. Vua và Hoàng thái hậu thường đến tư thất, thấy việc nhà nề nếp, bèn khen phẩm cách và than rằng: – Bậc phu nhân thời thịnh trị ngày trước! Đối với tật riêng từng người, vẫn giữ một lòng cung thuận, hợp lễ; danh vọng sánh ngang các bậc vương công mà nếp nhà vẫn một niềm cung kính. Thường vinh hiển thì không quên tiên tổ, cội nguồn nguyện được mở thắng duyên để đền đáp duyên quyến ngộ của Tiên thánh. Lại mong khi từ giã cõi đời được gần gũi mẹ cha, ấy là lẽ vậy. Thế rồi chọn vùng xóm bãi giữa sông, được hương Tuế Phong là nơi đất đẹp. Núi đồi thanh tú vây quanh; sông hồ biếc trong bao bọc. Được hướng nhìn sông dựa núi, nhờ thế rồng ấp hổ chầu. Đặc ân thánh chỉ cấp nhân công, cho gỗ ngói để dựng bảo sở. Công việc chạm vẽ vừa xong thì khói hương không dứt, thật là ơn cao huệ cả của Chúa thượng.

Tháng Chín năm Chính Long Bảo tháng thứ 9 (1171) phu nhân lâm bệnh. Hoàng thượng thân hành thuốc thang cơm cháo, chạy chữa trăm cách bệnh vẫn không khỏi. Sáng sớm ngày Kỷ Mùi 18 tháng Mười năm ấy, phu nhân tạ thế, thọ 63 tuổi. Kim thượng rất thương xót, bỏ triều giảm ăn. Sắc ban lễ phúng gấp bội lệ thường, có thể gọi là lễ tang rất hậu. Chiếu Đại Thái phó họ Trần, Nội thị sảnh Phụng nghi lang họ Lê trông coi việc tang việc táng, mật dụ theo nghi thức của Nghi Thánh hoàng hậu trước đâu. Sáng sớm ngày Bính Dần, mồng Tám tháng Chạp mùa đông năm thứ 11 (1173) ân chỉ biệt táng tại địa phương, núi Phác Sơn, phía tây chùa Diên Linh Phúc Thánh. Lại sai Quốc sử thuật đạo đức tốt đẹp ấy ghi vào bia mộ”.

Nguồn: T15.

        NĂM 1172 (NHÂM THÌN)

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Thìn)

119. Anh Tông Thiên Tộ chăm lo củng cố quốc phòng

Ngay từ tháng 3-1171, nhà vua đã tiến hành một đợt đi tuần các đảo ngoài biển, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết được sự đau khổ của nhân dân và đường đi xa gần. Đến đây, mới qua tết Nhâm Thìn, nhà vua lại tiếp tục các cuộc tuần du chốn hải đảo, vẽ bản đồ địa giới các phiên bang nam bắc, ghi chép phong cảnh sản vật rồi về. Những điều ghi chép qua hai chuyến tuần du kinh lý ấy được biên chép vào cuốn Nam Bắc phiên giới địa đồ (theo Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, sách này sau bị thất lạc).

Sử thần Ngô Thì Sĩ bàn: “Từ khi Đỗ Anh Vũ chết, Tô Hiến Thành làm Thái úy nắm binh quyền, từ đấy mới tuyển quân chọn tướng, cho quan võ luyện tập đánh giặc phá trận. Vua cũng tự cưỡi ngựa bắn cung ở sân bắn và thân đi tuần các đảo ngoài biển. Việc quân cơ, việc phòng biên giới một phen chấn chỉnh. Chính sự năm Bảo Ứng so với cuối năm Đại Định thời có lúc chăm chỉ, có lúc trễ nải, lúc làm lúc bỏ khác hẳn nhau. Kinh Thi có câu: – Vô cạnh duy nhân (không gì mạnh bằng người). Kinh Dịch có câu: – Sư trinh trọng nhân cát (dùng quân theo chính nghĩa mà có người giỏi là tốt). Hiến Thành là người như vậy”.

Nguồn: Đ4, tr.246; Đ5, tr.378-379; L4, tập 5, tr.123.

        Ngày 10 tháng 6 (25 tháng Năm – Nhâm Thìn)

120. Sinh Hoàng tử Long Cán (Long Trát)

Mẫu thân của Hoàng tử là Hoàng hậu Đỗ Thụy Châu. Theo Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự, trước khi sinh Long Cán, bà đã sinh Hoàng tử Thiên Bảo vào năm Giáp Tuất (1154), Hoàng tử thứ hai vào năm Bính Tý (1156) và Hoàng tử thứ ba vào năm Mậu Dần (1158). Tuy nhiên, các sử cũ đều không ghi nhận các sự việc trên.

Nguồn: Đ4, tr.246; Đ5, tr.379; V17, tr.154.

        NĂM 1174 (GIÁP NGỌ)

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Ngọ)

121. Anh Tông Thiên Tộ lập Long Cán làm Thái tử

Trước đây, Long Xưởng thông dâm với cung phi, vua không nỡ bắt tội chết, bèn cho giam vào ngục. Một hôm gọi Tể tướng bảo rằng: “Thái tử là gốc lớn của nước, Long Xưởng đã trái đạo, trẫm muốn cho Long Cán nối giữ nghiệp lớn, nhưng tuổi nó còn bé, sợ không đương nổi; nếu đợi nó lớn thì trẫm tuổi già suy yếu thì làm thế nào!”. Bấy giờ có nội nhân ẵm Long Cán ra, thấy vua đội mũ, khóc đòi đội, vua chưa kịp tháo mũ đưa cho thì càng khóc thét lên. Vua bèn tháo mũ đội cho, thì Long Cán cả cười. Vua càng lấy làm kỳ, ý lập Long Cán làm Thái tử bèn quyết định. Giáng Long Xưởng xuống làm Bảo Quốc vương.

Nguồn: V17, tr.146; Đ4, tr.246.

        NĂM 1175 (ẤT MÙI)

        Tháng 5 (tháng Tư – Ất Mùi)

122. Anh Tông Thiên Tộ sai Tô Hiến Thành ẵm Thái tử mà quyền nhiếp chính sự

Sau khi sách lập Long Cán làm Hoàng Thái tử, cho ở Đông cung, nhà vua phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự, tước Vương để giúp Đông cung. Cảm thấy sức lực đang suy yếu dần, Anh Tông Thiên Tộ cố gượng dậy sai Tô Hiến Thành ẵm Thái tử mà quyền nhiếp chính sự. Thấy vậy, Hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng, nhà vua nói: – Làm con mà bất hiếu, còn trị dân làm sao? Nhân đấy đưa di chiếu cho Tô Hiến Thành giúp đỡ Thái tử, công việc nhà nước nhất nhất tuân theo phép cũ.

Nguồn: V17, tr.153; Đ4, tr.246; Đ5, tr.381.

        Ngày 20 tháng 8 (10 tháng Bẩy – Ất Mùi)

123. Anh Tông Thiên Tộ căn dặn Thái tử Long Cán

Ngày Giáp Thìn, nhận thấy bệnh nặng thêm, nhà vua nói với Thái tử rằng: “Nước ta non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất thiêng, châu ngọc bảo bối không cái gì không có, nước khác không thể nào ví được. Con hãy nên giữ nước cẩn thận”.

Nguồn: V17, tr.153-154.

        Ngày 21 tháng 8 (11 tháng Bẩy – Ất Mùi)

124. Anh Tông Thiên Tộ băng hà

Nhà vua hưởng dương 40 tuổi, nắm giữ ngôi báu được 37 năm. Tuy nối ngôi khi còn thơ ấu nhưng như lời bàn của Sứ thần Ngô Sĩ Liên, đến khi tuổi ngoại hai mươi, với việc nhà vua sai Tô Hiến Thành đem quân đi tuần nơi biên giới, lại thân đi xem khắp tình thế núi sông để biết sự đau khổ của dân gian và đường đi xa gần, về mặt giữ dân giữ nước, quy mô đã thấy rõ. Lại đặt xạ đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép đánh trận, về mặt sửa binh nhung, giảng võ bị, quy mô đã thấy rõ. Thái tử là Long Xưởng có tội thì phế đi mà lập Long Cán làm Thái tử ở Đông cung để cho lòng người có chỗ hệ thuộc, đến khi ốm nặng, Hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng thì lấy lễ nghĩa mà bẻ vặn, không mê hoặc lời nói của đàn bà; lại cố gượng gọi Hiến Thành vào di chiếu giúp Thái tử, quyền nhiếp chính sự, phó thác được người giỏi, để phòng lo sau, rốt cuộc cái mưu phế lập của Thái hậu không thể làm được, trên yên dưới thuận, không phải là sức của Anh Tông sao?

Sử thần Ngô Thì Sĩ đánh giá, buổi đầu thời vua Anh Tông, bọn gian thần lộng quyền, chính sự không do mình truyền ra, thưởng phạt không đúng, thợ thuyền phu dịch làm việc quá nhiều dẫn đến thù oán, can phạm đến khí hòa âm dương, sao biến lạm ở trên, đất động ở dưới, ngập lụt hạn hán, bệnh tật tai họa xảy ra luôn luôn. Đến cuối năm Đại Định, Anh Vũ đã chết, Hiến Thành được dự chính quyền, giúp đỡ bên trong, chạy vạy bên ngoài, trung thành lo lắng, có cơ cảm phát, vua cũng động tâm nhân tính, suy việc trước giữ việc sau, trí tuệ ngày càng tăng, đức nghiệp ngày càng tiến, như bùn cát lọc hết thì nước trong chảy ra, mây mù tan hết thì mặt trời sáng tỏ. Luyện kinh giảng võ, chọn tướng sai sứ khiến cho Chiêm Thành phải giữ lễ phiên thần, nhà Tống phải phong là nước lớn, triều đình sáng sủa, biên giới yên lành, hầu như đem lại được nền thịnh trị như thời Thái Tông, thời Nhân Tông. Tuổi già gửi đứa trẻ mồ côi, biết rõ Tô Hiến Thành là người tốt, dù khác họ cũng phong tước vương, để cho tựa bình phong nhiếp chính mà không nghi ngờ. Đến khi sắp mất, tinh thần sáng suốt, dặn bảo rõ ràng nghiêm ngặt, trong cung không thể đưa được lời xin bỏ người nọ lập người kia, quan đại thần được làm hết chức trách giúp đỡ, bế vua nhỏ chầu mà xã tắc yên lành, nếu không phải là người rất sáng suốt, rất anh dũng thì không được như vậy. Xa thì ví với Thành Vương nhà Chu, có sự rạng rỡ trên thì xét với tổ tông nhà mình cũng không hổ thẹn. Nhìn lại buổi đầu khác hẳn như một người đó là vì sao? Có lẽ vì vua có tư chất rất cao, cho nên khi tính thời thư thái ổn định thì đức sáng thiên nhiên phát hiện ra. Nếu khi vua tuổi nhỏ mà được mẹ hiền dạy bảo, được người thầy tốt dìu dắt, sẽ làm nên sự nghiệp, chứ không chỉ như thế mà thôi.

Nguồn: V17, tr.154; Đ4, tr.246-247; Đ5, tr.382-383.

125. Thái tử Long Cán nối nghiệp vua cha

Thái tử lên ngôi trước linh cữu, tôn mẹ là Hoàng hậu Thụy Châu làm Chiếu Thiên Chí Lý Thái hậu; quần thần dâng tôn hiệu là Ứng Càn, Ngự Cực, Hoằng Văn, Hiến Võ, Linh Thụy, Chiếm Phù, Chương Đạo, Chí Nhân, Ái Dân, Lý Vật, Duệ Mưu, Thần Vũ, Hóa Cảm, Chính Thuần; Phu Huệ, Thị Từ, Tuy Du, Kiến Mĩ, Công Toàn, Nghiệp Thịnh, Long Hiện, Thần Cư, Thánh Minh, Quang Hiếu Hoàng đế; miếu hiệu là Cao Tông. Vua tuổi non nớt, việc lớn nhỏ đều giao cho Thái phó Tô Hiến Thành. Thái hậu có ý phế lập, rình lúc Hiến Thành ra ngoài, sai người đem vàng lụa hối lộ cho vợ lẽ ông ta là Lã thị, bảo nói với Hiến Thành. Hiến Thành nói rằng: – Ta ở ngôi Tể tướng, chịu lời cố thác của Tiên vương để phò ấu chúa. Nay nhận của đút của người mà mưu phế lập, thiên hạ sẽ nói ta ra sao? Ví thử như mọi người đều là người bưng tai bịt mắt không biết gì, thời ta lấy lời nào, mà bẩm với Tiên vương ở dưới suối vàng được?

Thái hậu biết rằng mưu của mình không thành, song ý vẫn không đổi, bèn vời Hiến Thành đến bảo rằng: – Ông đối với nước đáng gọi là trung đấy. Song tuổi ông cũng đã về chiều, mà lại thờ vua non tuổi, những việc ông làm thì ai biết cho? Chi bằng lập Trưởng quân, thì người đó sẽ mang ơn ông, mà cho ông giàu sang lâu dài, há có phải hay không? Hiến Thành nói rằng: – Bất nghĩa mà được giàu sang, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm. Huống hồ di chúc của Tiên vương, lời nói còn văng vẳng bên tai thì đối với công nghị sẽ ra làm sao? Thần không dám phụng chiếu! Rồi đi nhanh ra. Thái hậu bèn sai người vời gấp Bảo Quốc vương. Bảo Quốc vương nửa mừng nửa sợ liền lấy thuyền nhỏ đi theo sông Tô Lịch mà vào. Hiến Thành bèn vời các quan chức tả hữu dụ bảo rằng: – Tiên vương thấy ta và các ngươi hết sức phò vua, không ở hai lòng nên mới phó thác ấu chúa cho chúng ta. Nay Bảo Quốc vương nghe lời Thái hậu muốn phế Chúa thượng mà tự lập, các người phải hết lòng gắng sức, nghe ta truyền bảo, ai nghe mệnh ta, ta thưởng cho suốt đời, kẻ nào trái mệnh ta, sẽ bị giết ở chợ. Các ngươi nên gắng sức! Các quan chức ai nấy đều nghe mệnh. Lát sau, Bảo Quốc vương đến cửa Ngân Hà. Thái hậu vời càng gấp. Bảo Quốc vương toan vào, các quan chức đều ngăn lại, nói rằng: – Chúng tôi chưa được nghe chiếu chỉ nên không dám phụng mệnh. Nếu vương cứ cố mà vào thì kẻ phạm đến vương không phải là chúng tôi mà là quân lính đấy! Bảo Quốc vương nghe nói thế, sợ thẹn mà lui.

Nguồn: V17, tr.154-155.

        NĂM 1177 (ĐINH DẬU)

        Trong năm

126. Thủ lĩnh châu Thượng Nguyên Dương Ý nổi dậy bất tuân lệnh triều đình

Trước đó, người Chiêm Thành còn cho quân vào quấy rối phía đông châu Nghệ An.

Nguồn: V17, tr.156

        NĂM 1179

        Ngày 17 tháng 7 (12 tháng Sáu – Kỷ Hợi)

127.Thái úy Tô Hiến Thành qua đời

Trong những ngày Tô Hiến Thành ốm, Tham tri Chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm hầu bên cạnh; Gián nghị Đại phu là Trần Trung Tá vì có việc khác không lúc nào rỗi đến thăm. Lúc bệnh nặng Thái hậu tới thăm và hỏi rằng: – Nếu như ông không may thì ai là người có thể thay ông? Hiến Thành trả lời rằng: – Trung Tá có thể thay được. Thái hậu nói: – Tán Đường ngày nào cũng hầu thuốc thang ông lại không nói đến, thế là tại sao? Ông trả lời: – Vì bệ hạ hỏi người nào đáng thay tôi, nên tôi nói là Trung Tá, nếu như bệ hạ hỏi người nào hầu việc ăn uống thì không phải Tán Đường còn ai?. Thái hậu khen là trung, nhưng cũng không dùng lời của ông. Khi ông mất, vua bớt cơm 3 ngày, nghỉ chầu 6 ngày.

Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: Tô Hiến Thành nhận việc ký thác con côi, hết sức trung thành, khéo xử trí khi biến cố. Tuy có lúc bị sóng gió lay động xô đẩy, nhưng vẫn vững như cột đá sừng sững giữa dòng, cuối cùng khiến trên dưới phải thuận, không thẹn với phong độ của bậc đại thần ngày xưa. Huống chi đến khi mất còn vì nước tiến cử người hiền, không vì ơn riêng. Thái hậu không dùng lời của Hiến Thành, đó là điều không may cho họ Lý đấy.

Sử thần Ngô Thì Sĩ bàn: Từ xưa, các bậc đại thần nhận di mệnh giúp chính sự, có thể gửi gắm vua còn nhỏ tuổi, có thể giao cho nắm mệnh lệnh, những địa bàn hàng trăm dặm, không phải là ít. Còn như vua nhỏ mới 3 tuổi côi cút phải ôm ẵm trong lòng, bà nội thì ngầm kiềm chế ở bên trong, hàng ngày tìm cách bỏ vua này lập vua khác, phản phúc hàng trăm kế, lần lữa đến 4 năm, xô đẩy ngờ vực, chưa thời nào có việc như vậy. Thế mà một mình Hiến Thành điều kiện công việc, dùng quyền hạn của người nhiếp chính, chống lại thế lực của người rủ mành. Cuối cùng làm yên được vua nối ngôi, định được xã tắc mà không thấy có sự vận dụng khó nhọc của ông. Nếu không phải là bậc rất trung rất công, được khắp kẻ trên người dưới tin cậy, đức vọng tài trí thấu khắp cả người thấy người nghe, thì sao được như thế? Thật đáng gọi là bầy tôi quan trọng của xã tắc, không thẹn với Y Doãn, Chu Công. Có người hỏi: Đạo Thành và Hiến Thành ai hơn? Trả lời rằng: Hai người ấy đều có tài mà chưa dễ ai có được, để đảm đang nhiệm vụ phi thường. Duy có Đạo Thành ở vào thế dễ, cho nên công trạng của ông khó nhìn thấy. Hiến Thành gặp phải vận hội khó khăn, cho nên công của ông được rạng rỡ. Vả lại Thánh Tông tin dùng Đạo Thành lại không giống Anh Tông tin dùng Hiến Thành. Thánh Tông không giao việc nặng nề phó thác con côi, cho nên Đạo Thành không khỏi phải gìn giữ tiếng tăm; Anh Tông có lòng thành ký thác con côi, cho nên Hiến Thành không thể trốn tránh hiềm nghi.

Nguồn: V17, tr.156-157; Đ4, tr.248-249; Đ5, tr.385-386.

        NĂM 1180 (CANH TÝ)

        Mùa đông

128. Cao Tông Long Cán gả Công chúa Hoa Dương cho thủ lĩnh châu Vị Long Hà Công Phụ

Châu Vị Long ngày xưa, nay tương đương với hai huyện Chiêm Hóa, Na Hang tỉnh Tuyên Quang, xuất hiện như một đơn vị hành chính cấp châu từ thời Lê Đại Hành. Họ Hà ở đây là một cự tộc, nhiều đời cai quản địa phương, trong đó có những nhân vật như Tù trưởng Hà Trắc Tuấn nổi lên bất tuân lệnh triều đình vào các năm 1013-1015; Châu mục châu Vị Long Hà Khánh Di lấy Công chúa Khâm Thánh năm 1074.

Nguồn: V17, tr.157; Đ4, tr.163-164; Đ5, tr.260-261.

        NĂM 1181 (TÂN SỬU)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Tân Sửu)

129. Long Xưởng cho gia thuộc gây rối, mưu cướp ngôi

Cuộc gây rối trên lại rơi vào đúng lúc cả nước mất mùa, dân nhiều người bị chết đói khiến cho triều đình vô cùng lúng túng. Mãi tới đầu năm sau, Cao Tông Long Cán mới giao cho Ngô Lý Tín giữ chức Thượng tướng quân thống lãnh các đạo thủy bộ thường xuyên tuần tiễu diệt trừ trộm cướp. Nhà vua lại cho Lý Kính Tư làm Đế sư có nhiệm vụ trong thì hầu nơi màn trướng, ngoài thì răn dạy người dân trung hiếu. Nhờ vậy Chiêu Linh Thái hậu và Bảo Quốc vương Long Xưởng mới không dám manh tâm mưu đồ gì khác.

Nguồn: Đ4, tr.219; Đ5, tr.386-387.

        NĂM 1185 (ẤT TỴ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Tỵ)

130. Dương Chính thi đậu Đệ Nhị giáp Thái học sinh

Sử cũ gọi đây là kỳ thi kẻ sĩ trong nước, người nào từ 15 tuổi thông thi thư thì vào hầu Ngự điện. Lấy đỗ Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người còn lại phải học tiếp.

Trong số những người thi đỗ kể trên có Dương Chính, người huyện Thượng Phúc (nay thuộc Thường Tín – Hà Nội).

Nguồn: Đ4, tr.250; Đ5, tr.387; T7, tr.40.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Ất Tỵ)

131. Cao Tông Long Cán cử Kiến Khang vương Long Ích đánh dẹp vùng Sách Linh (nay thuộc Thanh Sơn, Thanh Thủy – Phú Thọ)

Năm trước, dân các sách Tư Mông, Trịnh, Ô Mễ nổi dậy. Nhiều trận giao chiến với quân triều đình đã diễn ra ở ải Ông Trọng, Hương Bái, Khả Lão, Đãng Bái, Vạn Mễ, An Côi, La Biền. Đến đây, Long Ích đem hơn vạn quân tiến vào Ka Biều, Đỗ Gia, chiêu dụ được các Quan lang Đinh Vũ, Đinh Sáng.

Nguồn: V17, tr.158-159; Đ4, tr.250; Đ5, tr.387-388.

        NĂM 1188 (MẬU THÂN)

        Tháng 6 (tháng Năm – Mậu Thân)

132. Cao Tông Long Cán về chùa Pháp Vân ở Cổ Châu để cầu mưa

Cổ sử chép chùa Pháp Vân ở Doềnh Bà (trong chữ Hán, hai chữ này bị chép lầm từ chữ Doanh Lâu mà ra. Doanh Lâu hoặc Dinh Lâu chính là Liên Lâu, Luy Lâu – thủ phủ của Giao Châu, nằm trên đất Cổ Châu).

Sau khi đảo vũ ở chùa Pháp Vân, nhà vua cho rước tượng Pháp Vân về chùa Báo Thiên ở thành Thăng Long.

Nguồn: Đ4, tr.251; Đ5, tr.388.

        NĂM 1190 (CANH TUẤT)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Canh Tuất)

133. Thái phó Ngô Lý Tín chết, giao chức này cho Đàm Dĩ Mông

Đàm Dĩ Mông là em trai Đàm Nguyên phi – vợ Cao Tông Long Cán, là người vô học và ngu tối.

Nguồn: Đ4, tr.251; Đ5, tr.389; V17, tr.161.

        NĂM 1192 (NHÂM TÝ)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Nhâm Tý)

134. Người Cổ Hoàng (Thanh Hóa) bị đánh dẹp vì phản ứng việc Đàm Dĩ Mông được cử làm Thái Phó

Nhân điềm trâu trắng leo lên cây muỗm xảy ra từ năm Canh Tuất ứng với việc Đàm Dĩ Mông leo lên bậc cao sang, người giáp Cổ Hoàng (nay thuộc Hoằng Hóa – Thanh Hóa) nổi dậy. Đến đây nhà vua mới cử Đàm Dĩ Mông đem phủ binh Thanh Hóa đi đánh, bắt được người cầm đầu là Lê Vãn.

Ít lâu sau, thủ lĩnh Hồ Đồ ở châu Nghệ An cũng nổi dậy nhưng cuối cùng cũng bị Đàm Dĩ Mông đánh dẹp.

Nguồn: V17, tr.162; Đ4, tr.252; Đ5, tr.390.

        NĂM 1194 (GIÁP DẦN)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Giáp Dần)

135. Hoàng tử Hạo Sảm sinh

Mẹ của Hoàng tử là Đàm Nguyên phi được phong làm An Toàn Hoàng hậu. Nhân dịp này nhà vua cho lấy vàng bạc trong kho để thiếp tượng Phạn Vương, Đế Thích đặt tại một chùa Thiên Phù, Thiên Hựu; cho bày tiệc yến và tổ chức đua thuyền ở hậu cung; đại xá cho thiên hạ; ban cho người già từ 70 tuổi trở lên mỗi người một tấm lụa; mở tiệc rượu lớn ở Thái miếu.

Nguồn: Đ4, tr.252; Đ5, tr.390; V17. Tr.163.

        NĂM 1198 (MẬU NGỌ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Ngọ)

136. Nhà vua nghe lời Đàm Dĩ Mông thải loại nhiều tăng đồ

Đàm Dĩ Mông nói với vua rằng: – Đương nay, số tăng đồ và số dịch phu ngang nhau. Chúng tự kết bè lũ, lập càn người chủ, tụ họp ở từng bọn, làm nhiều điều ô uế. Hoặc ở nơi giới trướng, tính xá mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở chốn tăng phòng tĩnh viện mà riêng tư gian dâm. Ngày ẩn tối ra như đàn cáo chuột. Chúng làm bại tục thương giáo, dần dần thành thói quen, nếu không cấm đi, để lâu tất ngày càng thêm tệ! Vua y lời tâu của Dĩ Mông. Dĩ Mông triệu tập tăng đồ trong xứ lại ở nơi kho thóc, độ vài chục người có danh tiếng làm tăng, số còn lại đánh dấu vào tay bắt hoàn tục.

Ngoài ra, nhà vua còn đến dự nhiều phiên xử án do viên Phu quốc Thái phó này tiến hành tại điện Thiên Khánh (vụ Thượng Lâm viện) hoặc Họa Quan (vụ Đô hộ phủ).

Nguồn: V17, tr.164.

        NĂM 1198 (MẬU NGỌ)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Mậu Ngọ)

137. Người châu Đại Hoàng bắt đầu nổi dậy

Đinh Khả, Bùi Đô ở Đại Hoàng (Gia Viễn – Ninh Bình) xưng là con cháu Đinh Tiên Hoàng phối hợp với Ngô Công Lý – người hương Cao Xá, châu Diễn nổi dậy. Nhà vua sai người đem quân dẹp yên.

Nguồn: Đ4, tr.253; Đ5, tr.392.

        NĂM 1202 (NHÂM TUẤT)

        Tháng 9 (tháng Tám – Nhâm Tuất)

138. Hoàng thái tử Hạo Thầm sinh

Kể từ đây, đêm nào nhà vua cũng ngự ra hành cung Hải Thanh, sai nhạc công gảy đàn Bà Lỗ và hát những khúc khát Chiêm Thành tiếng nghe ai oán thảm thiết, đến nỗi Tăng phó Nguyễn Thường phải tâu bày: – Tôi thấy bài tựa Kinh thi có câu: âm nhạc của nước loạn nghe như oán, như giận vì chính sự của nước ấy là sai trái; âm nhạc của nước mất nghe như thương như nhớ, vì nhân dân nước ấy bị khốn cùng. Nay chúa thượng rong chơi vô độ; chính sự, giáo hóa sai trái lìa tan. Dân đen buồn khổ đến thế là cùng. Mà ngày nay nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng phải là điềm nước loạn, nước mất hay sao? Tôi biết rằng xa giá chuyến này trở về tất không lại ngự ra cung ấy nữa! Sau trong nước đại loạn, quả như lời Tăng phó nói.

Nguồn: V17, tr.163-164; Đ4, tr.253; Đ5, tr.392.

        NĂM 1203 (QUÝ HỢI)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Hợi)

139. Cao Tông Long Cán lệnh cho làm nhiều việc thổ mộc, dựng đặt cung đài

Trong đó có việc xây dựng mới tại phía tây tẩm điện, ở giữa đặt điện Thiên Thụy, bên trái dựng điện Dương Minh, bên phải dựng điện Thiềm Quang, phía trước xây điện Chính Nghi, ở trên xây điện Kính Thiên, thềm gọi là Lệ Giao, ở giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Việt Thành, thềm gọi là Ngân Hồng, phía sau mở điện Thắng Thọ, ở trên xây gác Nguyệt Bảo, chung quanh dựng hành lang, thềm gọi là Kim Tinh. Bên phải gác Nguyệt Bảo đặt tòa Lượng Thạch, phía tây gác xây Dục Đường (nhà tắm), phía sau xây gác Phú Quốc, thềm gọi là Phương Tiêu, phía sau dựng cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư (nuôi cá), trên ao xây đình Ngoạn Ỷ. Ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ, nước ao thông với sông, cách chạm trổ, trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ, xưa chưa từng có vậy. Lúc trước khi gác Kính Thiên mới làm xong, có con chim thước đến làm tổ ở trên đó mà đẻ ra chim con. Quần thần nhân việc đó can vua rằng: – Xưa Ngụy Minh đế mới xây gác Lăng Tiêu, có chim thước đến làm tổ, Cao Đường Long nói rằng: Kinh Thi có nói: – Chim thước làm tổ, chim cưu đến ở. Nay cung thất mới làm xong mà chim thước đã đến làm tổ, thần ngu hèn cho rằng có họ khác đến ở đó. Thần xin bệ hạ xa trông lời nói của Cao Đường Long, trước cốt sửa mình, tu đức, sau hãy khởi công xây dựng mới là phải. Vua nín lặng hồi lâu rồi hỏi hoạn quan là Phạm Bỉnh Di. Phạm Bỉnh Di nói rằng: – Gác mới làm mà chim thước đến làm tổ, đẻ con, đó là điềm trời ban cho bệ hạ được dòng dõi trăm đời. Vua được đẹp lòng, lại càng đốc thúc công việc, trăm họ vì thế càng khốn khó.

Nguồn: V17, tr.166-167; Đ4, tr.253; Đ5, tr.393-394.

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Hợi)

140. Hậu họa do Đàm Dĩ Mông gây ra

Tháng 8-1203, vua Chiêm Thành bị chú truất ngôi, đem 200 thuyền đưa vợ con và gia thuộc vào cửa biển Cơ La (sau đổi là Kỳ La) thuộc châu Nghệ An xin trú ngụ và cầu cứu. Tháng 9-1203, nhà vua sai Phụ quốc Thái phó Đàm Dĩ Mông và Khu mật sứ Đỗ An đi giải quyết công việc. Do ngu tối và thiển cận, lo ngại lỗ kiến soi, tấc khói và dã tâm lang sói của kẻ đến nhờ vả của Đàm – Đỗ nên đã đẩy đám quan lại địa phương manh động, tìm cách đánh úp hàng quân Chiêm Thành để làm kế tự bảo toàn. Kết cục mưu bị lộ, Điện tiền Chỉ huy sứ Đỗ Thanh, Châu mục Phạm Diên bị giết, quân lực của châu Nghệ An tan vỡ, chết không kể xiết. Hàng quân Chiêm Thành thả sức cướp bóc rồi nhổ neo về nước.

Bàn về sự kiện này, Sử thần Ngô Thì Sĩ viết: “Thanh và Diên là bề tôi giữ bờ cõi, không xét rõ tình hình địch, bàn càn công việc biên cương, ương bướng càn rỡ tự chuốc lấy sự chết chóc, dáng làm răn cho những người sinh sự cầu công để đến nỗi gây tai họa đến nhân dân… thì dù chết đến vạn lần cũng không chuộc được tội”.

Nguồn: V17, tr.167-168; Đ4, tr.253-254; Đ5, tr.393

        Tháng 10 (tháng Chín – Quý Hợi)

 141. Cuộc nổi dậy ở Đại Hoàng bùng phát trở lại

Thủ lĩnh cuộc nổi dậy ở Đại Hoàng lần này là Phí Lang. Địa bàn ban đầu là Ấp Lâm và Ấp Đà. Nghe tin Phí Lang nổi dậy, những dân phu là người Đại Hoàng đang xây cửa Đại Thanh ở Kinh thành Thăng Long đã bỏ trốn về quê ứng nghĩa còn Thượng tướng quân Nguyễn Bảo Lương cùng Thượng thư Từ Anh Nhĩ vào triều tâu xin nhà vua trừng phạt Đàm Dĩ Mông, kẻ mọt nước hại dân. Kết cục Đàm Dĩ Mông bị giáng làm Đại liêu ban.

Để đối phó, Cao Tông Long Cán đã cho Chỉ hầu Phụng ngự Trần Hinh làm Nguyên soái phối hợp cùng cánh quân điều từ phủ Thanh Hóa do Từ Anh Nhĩ chỉ huy đồng thời tiến đến Đại Hoàng nhưng cả hai đều bị chết trận tại sông Lộ Bố (có sách chép là Lộ Bái – nay thuộc Ý Yên – Nam Định).

Nguồn: V17, tr.168; Đ4, tr.254; Đ5, tr.394.

        NĂM 1204 (GIÁP TÝ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Tý)

142. Cao Tông Long Cán sai Thái bảo Lý Kính Tu đánh dẹp Đại Hoàng

Tại căn cứ của lực lượng nổi dậy, đứng trước khung cảnh núi rừng hoang sơ, Kính Tu nhát sợ không dám tiến vào sâu, bèn đóng đồn ở vụng Việt chia quân tiến đánh các ngả, còn Kính Tu chỉ lảng vảng ở giữa Chương Sơn (nay thuộc Bình Lục – Hà Nam), An Lão mà thôi, lại dâng thư nói rằng nay đang giữa mùa hè nắng nôi nóng nực, quân mỏi lương hết. Vua bèn vời về triều.

Tháng 6-1204 vua lại sai quan Nội hầu là Đỗ Anh Doãn đi dẹp Đại Hoàng, cũng không thắng, phải lui về.

Để chuẩn bị cho chiến dịch tổng tiến công vào căn cứ của Phí Long, tháng 11-1204 nhà vua tiếp tục cử Đàm Dĩ Mông đem binh lính các đạo đắp lũy đường Bà Câu trở về phía bắc, dọc theo cửa Lộ Giang đến trại Văn Lôi, để phòng ngự và sửa soạn cho việc tấn công người Đại Hoàng.

Nguồn: V17, tr.168-169.

NĂM 1205 (ẤT SỬU)

        Tháng 9 (tháng Tám – Ất Sửu)

143. Đàm Dĩ Mông bị triệu hồi, Thị vệ Đô hỏa đầu Nguyễn Vị chiêu hàng được Phí Long

Sau khi Đàm Dĩ Mông đắp lũy xong, làm vài chục chiếc lâu thuyền, sai những tay bắn cung giỏi ở Phú Lương (nay thuộc Thái Nguyên) ở trên thuyền ấy, lấy dây dài buộc ở đằng sau thuyền rồi hạ lệnh rằng: – Giặc tới thì chèo thuyền qua sông mà bắn, nếu bất lợi thì kéo thuyền về! Rồi Dĩ Mông bị triệu về kinh, người Đại Hoàng đem lực lượng ra đóng ở bên bờ bắc. Quân lính làm như lời Dĩ Mông đã dặn. Người Đại Hoàng đứng trên bờ hò reo. Lính kéo thuyền thấy thế đối địch rất thịnh, ai nấy đều sợ hãi bỏ dây mà chạy. Thuyền dạt vào bờ bên phía địch quân, những tay bắn cung giỏi đều bị giết chết. Quan quân tan vỡ. Phí Lang trên đà chiến thắng, bèn thống suất lực lượng của Quan Sản thuộc man lão Chí Thổ đi đánh chiếm được một dải hương thôn, đốt hành cung ở Ứng Phong (nay thuộc Nam Định) và các kho thóc, nhà cửa của các bộ lạc cháy gần hết. Sau đến Nghiễn Động, Phí Lang bị người động đó đón đánh, phá được.

Mùa thu, tháng Tám (9-1205) vua sai chức Thị vệ đô hỏa đầu là Nguyễn Vi tới chiêu dụ người Đại Hoàng. Kết quả là, Phí Lang chấp thuận hạ vũ khí, đem 170 hào trưởng ra hàng phục triều đình. Tuy nhiên, đến năm 1207, Phí Lang lại đem lực lượng của mình đánh ấp Tập Tư. Trong hoàn cảnh đó, nhà vua phải xuống chiếu cho phép chọn những người khỏe mạnh trong số đinh nam ở các làng xã, cho  quan các lộ thống quản.

Nguồn: V17, tr.169, 172.

        Trong năm 

144. Đất nước rơi vào nhiễu loạn

Ở biên giới, nhà Nam Tống cho binh lính sang cướp bóc, đốt phá khiến biên dân ngày khó nhọc đối phó. Giặc cướp nổi lên khắp nưi. Quan lại phần nhiều bán quan chức, buôn hình ngục còn nhà vua thì thích làm tiền.

Điện Thiên Thụy làm xong, vua ban yến cho quần thần ba ngày để mừng điện đã hoàn thành. Vua rất ham của cải lợi lộc, lấy việc bán quan buôn ngục làm chính sự. Hai người nào mà tranh nhau ruộng đất, sản vật, hễ một người đem dâng nạp rồi thì vua chẳng hỏi tình lý phải trái thế nào đều tịch thu sung công cả; vì thế mà kho đụn của nhà nước của cải chất như núi, còn bách tính thì kêu ca, oán thán. Giặc cướp nổi lên như ong.

Nguồn: Đ4, tr.254; V17. Tr.170.

        NĂM 1206 (BÍNH DẦN)

        Tháng 3 (tháng Hai – Bính Dần)

145. Cao Tông Long Cán khôi phục vị thế cho Đàm Dĩ Mông

Ngoài việc được phong làm Thái bảo, Đàm Dĩ Mông còn được phép đội mũ Củng thần. Đến tháng 5-1207, Đàm Dĩ Mông trở lại chức Phụ chính.

Nguồn: Đ4, tr.254; Đ5, tr.395; V17, tr.172.

        Trong năm

146. Cao Tông Long Cán tiếp diễn chơi bời, buông thả

Mặc dù trong nước đã loạn lạc, mà nhà vua vẫn thích đi rong chơi. Đường sá bị ngãng trở, không đi đâu được, nhà vua bèn sai làm hành cung Ứng Phong, Hải Thanh ở chỗ đầm Ứng Minh, hàng ngày đem bọn cần thần, cung nữ đến chơi bời làm vui. Lại lấy thuyền to làm thuyền ngự, lấy các thuyền bé chia làm hai đội, sai bọn cung nữ, phường tuồng chèo thuyền, vua dẫn bọn tả hữu bắt chước nghi vệ như khi vua ngự đi chơi đâu vậy. Lại lấy sáp ong bọc những tấm lụa và các thứ hải vật thả xuống ao rồi sai người lội xuống mò lên giả làm đồ vật dưới Long Cung đem dâng. Quần thần thấy vua rong chơi vô độ đều sợ hãi không dám nói. Có người phường tuồng là Vũ Cao nói dối Thượng phẩm Phụng ngự là Trịnh Ninh rằng: – Có hôm Cao qua chơi trên bờ ao, thấy một người lạ cầm tay dắt đi vòng bờ ao, đến dưới gốc cây muỗm, bỗng người đó dẫn Cao đi xuống nước. Cao sợ chết đuối không dám tiến. Một lát nước ao bỗng tự rẽ ra. Cao đi xuống, đến một nơi, thấy cung điện nguy nga, thị vệ nghiêm chỉnh. Cao hỏi đó là chỗ ai ở, người đó bảo rằng, đó là chỗ ta ở để cai quản ao này! Người đó bèn sai dọn mâm cỗ, cùng Cao uống rượu. Rượu rồi, Cao tạ ơn xin về. Người đó đưa tặng cau, tiễn ra đến gốc cây muỗm, bỗng không thấy người đó đâu nữa, mà cau cầm ở trong tay đã hóa ra đá, Cao mới biết trong ao có thần! Ninh lấy làm kinh dị, bèn tâu với vua. Vua tuy nghe nói thế nhưng không sợ hãi gì cả, sai lấy sắt để yểm thần.

Đến những tháng đông, nước ao khô cạn. Vua bảo tả hữu rằng: – Ai có thể làm cho nước sông dâng đầy ao được thì ta sẽ hậu thưởng! Có tên nịnh thần là Trần Túc trả lời: – Thần có thể làm được! Vua bằng lòng, sai làm phép thuật của y nhưng không ứng nghiệm.

Một hôm, vua ngự chơi ở ao đó, nghe thấy ở ngoài thành có kẻ bị ăn cướp hô hoán lên, thế mà vua vẫn ham mê chơi bời, giả vờ như không nghe thấy.

Vua tính sợ sấm, mỗi khi sấm động thì sợ hãi. Có tên cận thần là Nguyễn Dư nói rằng có phép giáng sấm. Gặp khi có sấm nổ, vua sai Dư giáng sấm. Dư ngẩng mặt lên trời đọc chú. Tiếng sấm càng lớn hơn. Vua vặn hỏi việc đó, Dư nói rằng: – Thần răn nó đã lâu, nào ngờ nó còn cường bạo như thế đó!

Nguồn: V17, tr.170-171; Đ4, tr.254.

        NĂM 1207 (ĐINH MÃO)

        Tháng 9 (tháng Tám – Đinh Mão)

147. Anh em Đoàn Thượng, Đoàn Chủ nổi dậy ở Hồng Châu

Vào tháng 4-1207, Đoàn Khả Liệt đã cùng Vương Mãng bạo loạn ở châu Quốc Oai. Việc đánh dẹp chưa xong lại đến cuộc này. Vua sai Đàm Dĩ Mông đem đạo Đại Thông, Bảo Trinh hầu đem đạo Nam Sách, Thượng Phẩm phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem đạo Khả Liễu, Chi hậu hỏa đầu Trần Hinh đem đạo Phù Đái định gặp nhau cùng đánh Thượng. Thượng ngầm sai người đến đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, xin đem đảng chúng theo Du. Du vì Thượng mà cố xin với vua. Vua sai người đi triệu bọn Dĩ Mông bảo đem quân về, Thượng bèn thoát được. Từ đó Dĩ Mông, Bỉnh Di có hiềm khích với Du.

Sự kiện này được Đại Việt sử ký (toàn thư, tiền biên) cho rằng xảy ra muộn hơn mấy năm, cụ thể là vào tháng Hai năm Nhâm Thìn (3-1212). Khi đó Huệ Tông Hạo Sảm sai Đoàn Thượng chiêu mộ dân Hồng Châu bắt giặc cướp. Bây giờ thế nước suy yếu, triều đình không có chính sách hay, mất mùa đói kém luôn luôn, nhân dân cùng khổ. Đoàn Thượng cho rằng mình với vua cùng một vú nuôi, thừa thế loạn lạc tự tiện làm oai làm phúc, không một ai dám nói gì. Về sau tội trạng dần dần lộ rõ, bị các quan tâu hạch, phải giam vào ngục để hỏi tội.

Thượng rút kiếm, cởi trần chạy ra Hồng Châu, nhóm họp bè đảng, đắp thành ở, tự xưng vương, cướp bóc nhân dân địa phương, triều đình không ngăn cấm được.

Nguồn: V17, tr.172; Đ4, tr.257-258; Đ5, tr.400.

        Trong năm

148. Cao Tông Long Cán hối lỗi

Vua thấy giặc cướp nổi lên như ong, bèn hối lại lỗi xưa, nhân đó hạ chiếu rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trùng, không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thán thì trẫm còn dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi, cùng dân đổi mới. Ai có ruộng đất sản nghiệp bị sung công sẽ được hoàn lại”.

Nguồn: V17, tr.172.

        NĂM 1208 (MẬU THÌN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Thìn)

149. Cao Tông Long Cán sách lập Hạo Sảm làm Hoàng thái tử

Hạo Sảm là con thứ ba Cao Tông Long Cán và Nguyên phi Đàm Thị. Sau khi được sách phong, Hoàng thái tử được về ở Đông Cung.

Nguồn: Đ4, tr.255; Đ5, tr.396.

 

NĂM 1209 (MẬU THÌN – KỶ TỴ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – MậuThìn)

150. Phạm Du nổi loạn ở châu Nghệ An

Từ cuối năm Mậu Thìn (1208). Đại Việt lâm vào nạn đói nặng nề, những người chết đói nằm chất bên nhau; tiếp đến lại lụt lớn vào mùa đông; Vi Trí Cương từ đất Lộc Châu nhà Tống đem dư đảng sang cướp phá Lạng Châu.

Được triều đình cử vào coi việc quân ở châu Nghệ An, Phạm Du đã bẩm với vua rằng: – Nay thiên hạ rối loạn, bọn gian tặc nổi dậy khắp nơi, hoặc có kẻ ghen ghét với thần mà làm loạn, thì đầu thần còn không giữ nổi, huống chi là ân đức của bệ hạ! Xin bệ hạ để tâm một chút, cho phép thần được tuyển bọn trai tráng để tự đề phòng, ngõ hầu khỏi lo tai vạ. Vua bằng lòng. Do đó Phạm Du đã chiêu tập bọn vong mệnh, tụ tập bọn giặc cướp gọi là hậu nhân (người đi do thám tình hình) ngang nhiên cướp bóc, không sợ hãi gì cả. Giặc cướp vì thế mà nổi dậy như ong. Người Quốc Oai cũng đem đồ đảng đến đóng đồn ở Tây Kết, người trại Văn Lôi cũng đóng đồn ở sông Đà Mục. Từ đó, đường đất bị cắt đứt, thuyền bè không đi lại được. Vua sai Thượng phẩm Phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem người Đằng Châu ra phòng ngự. Phạm Du lại về hương Cổ Miệt cùng người Hồng Châu là Đoàn Thượng, Đoàn Chủ họp nhau đánh Đằng Châu. Người Đằng Châu xin Phạm Bỉnh Di đánh Phạm Du, không được phải trở về.

Tháng 2-1209 (tháng Giêng – Kỷ Tỵ) Phạm Bỉnh Di lại đem người Đằng, người Khoái đi đánh Phạm Du, bị thua liên tục, giận dữ chém những kẻ bỏ chạy để tuyên bố mệnh lệnh. Ngày khác lại ra đánh, thắng được khiến cho Phạm Du phải chạy ra đất Hồng Châu. Phạm Bỉnh Di tịch biên gia sản của Phạm Du rồi đốt hết. Từ đó Phạm Du và Phạm Bỉnh Di càng thêm oán ghét nhau.

Nguồn: V17, tr.173.

        Ngày 16 tháng 4 (28 tháng Ba – Kỷ Tỵ)

161. Phạm Bỉnh Di tiến đánh Đoàn Thượng, Đoàn Chủ

Cuộc chiến diễn ra ác liệt tại cầu Vệ (Vệ kiều) thuộc Hồng Châu khiến cho lực lượng của họ Đoàn Thượng tan vỡ, Đoàn Chủ bị Hà Văn Lôi đâm chết.

Sau sự kiện này, vua sai Chi hậu Phụng ngự Trần Hinh triệu Phạm Bỉnh Di về Kinh sư do việc Phạm Du ngầm sai người vào Kinh, đem vàng bạc đút lót cho người trong Nội phủ, nói rằng Phạm Bỉnh Di tàn ác giết hại nhiều người vô tội. Vua tin lời triệu cả Phạm Du, Phạm Bỉnh Di về kinh.

Nguồn: V17, tr.174; K3, tập 1, tr.411.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Kỷ Tỵ)

152. Loạn Quách Bốc, lập Hoàng tử Thầm làm vua

Ngay khi Phạm Bỉnh Di về đến Kinh sư, sắp vào tâu, có người can rằng: – Lời của Du đã đến tai vua trước rồi, vua còn chưa nguôi giận. Bỉnh Di nói: – Ta thờ vua hết trung mà bị kẻ gian tặc gièm pha ư? Huống chi là có mệnh vua đòi, ta còn tránh vào đâu? Rồi Bỉnh Di vào. Vua sai bắt cùng với con là Phụ giam ở Thủy viện. Sắp đem hành hình thì tướng của Bỉnh Di là bọn Quách Bốc nghe tin, đem quân đánh trống hò reo tiến vào đến ngoài cửa Đại Thành. Bị người coi cửa chống cự, Bốc phá cửa tiến vào. Vua thấy việc kíp quá, sai gọi Bỉnh Di và Phụ vào xứ Lương Thạch thềm Kim Tinh lấy giáo đâm chét. Bọn Bốc xông vào xứ Lương Thạch lấy xe của vua chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu của vua bọc xác Phụ, do cửa Việt Thành ra bến Đông Bộ Dầu; rồi lại trở vào cung Vạn Diên lập Hoàng tử Thầm làm vua. Bọn Đàm Dĩ Mông, Nguyễn Chính Lại đều chịu ngụy chức của Thầm. Cao Tông Long Cán chạy đến Quy Hóa giang.

Nguồn: Đ4, tr.255; Đ5, tr.396.

153. Trần Lý, Phạm Ngu bỏ Hạo Thầm, đưa Hạo Sảm lên ngôi

Khi cuộc bạo loạn Quách Bốc đang diễn ra dữ dội, Trần Lý thống suất thủy quân kịp thời đến Thăng Long rước Hoàng thái tử Sảm, hai Công chúa và Nguyên phi Đàm Thị về Hải Ấp và dự định nếu đón được Hoàng tử Hạo Thầm sẽ dựng làm vua ở đó. Biết được ý đồ trên, Lưu Thiệu vốn là gia thần của Hạo Sảm nói với Trần Lý và Phạm Ngu (người Giao hoặc Diêu Hào) rằng: – Thần tuy lớn nhưng là con thứ. Sảm tuy nhỏ nhưng là đích tử, xin hai ông liệu định! Nghe vậy, Trần Lý và Phạm Ngu rước Hoàng thái tử về Lỵ Nhân (có sách ghi là Mang Nhân), đưa làm Thắng Vương, giáng Hoàng tử Thầm xuống tước vương.

Ít lâu sau, Thắng Vương về ở công quán tại Lưu Gia, lấy trọng nữ – con gái thứ hai của Trần Lý làm Nguyên phi, ban cho Trần Lý tước Minh tự và cậu vợ là Tô Minh Từ làm Điện tiền Chỉ huy sứ, Phạm Ngu làm Thượng phẩm Phụng Sự.

Sự kiện trên đây được căn cứ vào Việt sử lược, có nhiều khác biệt với Đại Việt sử ký (toàn thưtiền biên) như tuổi tác của Hạo Sảm, Hạo Thầm; việc sử dụng Đàm Dĩ Mông, Nguyễn Chính Lại (Đại Việt sử ký ghi hai nhân vật này đều chịu ngụy chức của Thầm trong khi Việt sử lược cho rằng Thắng Vương đã đưa họ vào vị trí Thái úy, Tham tri Chính sự).

Nguồn: V17, tr.174-175; Đ4, tr.255; Đ5, tr.396

        Cuối năm

154. Anh em họ Trần họp hương binh dẹp loạn, đón Cao Tông Long Cán về Kinh

Về đến Kinh thành, anh em họ Trần còn giúp nhà vua khôi phục lại chính đạo, trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn và xử chúng theo thứ bậc khác nhau.

Nguồn: Đ4, tr.256; Đ5, tr.397.

        NĂM 1210 (CANH TÝ)

        Tháng 4 (tháng Ba – Canh Tý)

155. Cao Tông Long Cán đón Hạo Sảm từ Lưu Gia về Kinh

Thượng thẩm Phụng sự Đỗ Quảng đảm nhận việc đem quân về nhà riêng của Tô Trung Tự để đón Hoàng thái tử nhưng chưa đón Nguyên phi Trần Thị. Lúc này Trần Lý đã bị chết khi đi đánh dẹp, con trai là Trần Tự Khánh nhận tước Thuận Lưu bá, thay cha cai quản đám hương binh của họ Trần.

Nguồn: Đ4, tr.256; Đ5, tr.397-398.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Canh Tý)

156. Cao Tông Long Cán tha tội cho tất cả những người đã lìa bỏ triều chính

Nhân được xá tội, Đàm Dĩ Mông cùng 28 người đã nhận chức tước của Hoàng tử Thầm xin về chầu sau khi cùng thuộc hạ đến hương An Lãng mưu bắt những người theo Hoàng thái tử Sảm để tâng công, không thành. Đỗ Anh Doãn (có sách ghi là Đỗ Anh Triệt) mắng Đàm Dĩ Mông: – Mày là Đại thần của cả nước, đã mang lòng vô quân, nhận tước phong của giặc, nay lại cùng ngồi ngang hàng với ta! Ta tuy bất tài nhưng mặt mũi nào đối diện với ngươi nữa! Đàm Dĩ Mông cả thẹn, sợ hãi mà lui ra.

Nguồn: V17, tr.176, Đ4, tr.256; Đ5, tr.398

        Ngày 22 tháng 11 (tháng Mười – Canh Tý)

157. Cao Tông Long Cán băng hà

Nhà vua mệt nặng khi thời tiết sang đông. Ngày Nhâm Ngọ tháng Mười vua nằm trên giường bệnh, bỗng thấy hai người mặc áo xanh, cầm trượng đứng cạnh. Vua hỏi người cầm trượng là ai. Tả hữu tâu rằng không thấy ai cả. Đêm đó vua mất ở điện Thắng Thọ, hưởng dương 37 tuổi, miếu hiệu là Cao Tông, ở ngôi 36 năm, táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức, cải nguyên bốn lần.

Nguồn: V17, tr.176.

        Cuối tháng 11 (giữa tháng Mười – Canh Ngọ)

158. Hoàng thái tử Hạo Sảm nối nghiệp vua cha

Hoàng thái tử lên ngôi trước linh cữu, quần thần dâng tôn hiệu là Tự Thiên, Thống Ngự, Khâm Nhân, Hoằng Hiếu Hoàng đế; lấy miếu hiệu là Huệ Tông. Huệ Tông Hạo Sảm tôn mẹ là Nguyên phi Đàm Thị làm Thái hậu, cùng dự triều chính.

Trần Tự Khánh đem quân đến bến Tế Giang xin cậu là Tô Trung Tự cho được dự lễ tang Cao Tông không được nên khi Huệ Tông sai người về đón Trần Thị đã bị Trần Tự Khánh cản trở.

Nguồn: V17, tr.177; Đ4, tr.257; Đ5, tr.399.

        NĂM 1211 (TÂN MÙI)

        Tháng 3 (tháng Hai – Tân Mùi)

159. Huệ Tông Hạo Sảm đón Trần Thị về Kinh

Trần Thị được lập làm Nguyên phi. Nhân đó, cho Tô Trung Tự làm Thái úy Phụ chính, Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu.

Nguồn: Đ4, tr.257; Đ5, tr.399; V17, tr.179.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Tân Mùi)

160. Các thế lực họ Đoàn, họ Trần, họ Phạm, họ Nguyễn tranh giành ảnh hưởng

Sau khi Đoàn Chủ chết, Hạo Sảm lên ngôi, Đoàn Thượng quy thuận triều đình, trở thành một lực lượng đáng gờm với nhiều đối thủ mới nổi lên. Từ đất Hồng Châu, Đoàn Thượng tập hợp dưới cờ nhiều danh tướng trong dòng tộc như Đoàn Ma Lôi, Đoàn Cấm, Đoàn Khả Như, Đoàn Trì Lỗi, Đoàn Nguyễn, Đoàn Nghi. Tuy nhiên trong tháng này, thế lực Hồng Châu chỉ làm chủ thêm vùng đất Khoái Châu, được vua ban cho tước hầu còn phần nhiều bị thua trận, mất đất, chết tướng (Đoàn Trì Lỗi).

Kể từ khi Tô Trung Tự vì tư thông với Công chúa Thiên Cực bị giết chết, quyền lực của tập đoàn Hải Ấp nằm trọn trong tay Trần Tự Khánh. Bên cạnh việc liên kết với Nguyễn Tự – một tướng cũ của Tô Trung Tự để chống lại thế lực Hồng Châu, Trần Tự Khánh còn liên kết với lực lượng họ Phạm – dòng dõi của Phạm Cự Lượng ở vùng Nam Sách.

Nguyễn Nộn từ một cư sĩ ở chùa Phù Đổng, được Trần Tự Khánh cưu mang rồi gả em gái họ, cho trấn giữ vùng Bắc Giang. Từ lúc giết chết các tướng Thân Trường, Thân Cải và Đoàn Nguyễn, Nguyễn Nộn có thêm sự ủng hộ của triều đình.

Đây là những tập đoàn quân sự địa phương đang biến thành các thế lực cát cứ chống đối lẫn nhau khiến triều đình khi thì dựa dẫm vào các lực lượng này lúc vào tập đoàn kia một cách tạm bợ và hờ hững.

Nguồn: V17, tr.179-184; Đ4, tr.257-259

        NĂM 1212 (NHÂM THÂN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Nhâm Thân)

161. Trần Tự Khánh – Nguyễn Tự chia sẻ sơn hà

Nhận thấy triều đình ngày càng đổ nát, Trần Tự Khánh đã cùng Nguyên Tự họp nhau ở bến Triều Đông, nên danh nghĩa làm bạn sống chết có nhau, tận trung báo quốc, cùng bình họa loạn nhưng trên thực tế lại ngầm chia rạch đất nước mà phân giới là hai bờ sông lớn, mỗi người thống suất một bên. Từ Thượng Khối đến Na Ngạn, các hương ấp theo đường sông Bắc Giang và đường bộ thì thuộc về Trần Tự Khánh. Từ Kinh Ngạn đến Ô Diên thuộc về Nguyễn Tự. Lại hẹn đến tháng Ba họp nhau đánh mạnh vào thế lực họ Đoàn ở Hồng Châu.

Nguồn: V17, tr.182.

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Thân)

162. Huệ Tông Hạo Sảm chạy lên Lạng Châu bất thành

Để thoát khỏi tai họa do các đám loạn quân liên tiếp gây ra ở Kinh thành và sự o ép của Trần Tự Khánh, nhà vua và Thái hậu rời đến nhà Đại liêu ban Đỗ Thưởng bên Đông Ngạn để từ đó chạy lên Lạng Châu nương nhờ các thổ hào họ Thân. Trần Tử Khánh nghe tin, bèn dẫn quân đến Kinh sư, sai tướng là Lại Linh, Phan Lân đem binh đến nhà Đỗ Thưởng đón xa giá về cung. Vua sợ hãi, nghi ngại, đêm đó vẫn quyết đi Lạng Châu. Lại Linh, Phan Lân bèn nắm lấy cương ngựa, khấu đầu xin ở lại, vua bèn thôi. Ngày hôm sau, Chương Thành hầu Trần Tự Khánh đến bến Đông Ngạn đón vua, vua quay về, đỗ giá ở bến Từ Điệu. Tự Khánh sai người quét dọn cung Thánh Nghị, xa giá vào ở cung đó. Vua và Thái hậu tới trước bàn thờ Phật, thề rằng: – Trẫm là người đức bạc, thẹn nối cơ đồ quý báu, đến nỗi gặp loạn li, gần sụp đổ mất cơ nghiệp của người xưa, để cho cung giá phải nhiều lần dời đổi. Nay trẫm muốn thoái lui nhường ngôi trời cho người hiền đức. Nói đoạn vua cầm dao định cắt tóc để đi tu. Tự Khánh và quần thần đều khấu đầu khóc lóc, vua mới thôi rồi xa giá về cung.

Chương Thành hầu Tự Khánh tự di chuyển đến Hạc Kiều. Ngày hôm đó, vua truyền cho văn võ bá quan đều phải nghe mệnh lệnh của Chương Thành hầu.

Nguồn: V17, tr.183-184.

        Tháng 5 (tháng Tư – Nhâm Thân)

163. Trần Tự Khánh đem quân đánh Đoàn Thượng

Cuộc chiến diễn ra dữ dội tại Ấp Trì – Hồng Châu.

Nguồn: V17, tr.184.

        NĂM 1213 (NHÂM THÂN)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Thân)

164. Trần Tự Khánh làm loạn trong cung

Đang tìm cớ uy hiếp triều đình thì được Đàm Kinh Bang đem tội trạng của Nội minh tự Doãn Tín Dực tâu bày, Trần Tự Khánh bèn tỏ ra giận dữ, phát binh đến Long Thành sai Điện tiền Chỉ huy sứ Nguyễn Ngạch đem các quan chức vào cả trong cấm thành, hét lớn lên ràng: – Tín Dực a dua thượng ý, làm rối loạn kỷ cương trong nước, ra vào chốn thâm cung, không rõ rành danh phận. Thần xin trừ bỏ nó đi, chớ để làm ô bẩn! Tín Dực sợ lắm, bèn trốn ở trên Hương Các. Nguyễn Ngạnh đột nhập vào bắt, trói bằng dây thép năm vòng đưa đến nhà công quán ở Mỹ Lộc giao cho Tự Khánh.

Nguồn: V17. Tr.184.

        Tháng 2 và 3 (tháng Giêng, tháng Hai – Quý Dậu)

165. Huệ Tông Hạo Sảm tự thân đem quân đi đánh Trần Tự Khánh

Trước hết, trong tháng Giêng, Thái hậu ngầm sai Tiểu thị vệ Hỏa đầu Vương Thường vời các tướng ở đạo Phù Lạc là Phan Thế, ở đạo Bắc Giang là Ngô Nãi hẹn đến ngày Giáp Dần tháng ấy cùng phát binh đánh Tự Khánh. Ngày Giáp Dần, Vương Thường, Phan Thế tiến đánh quân Tự Khánh ở ngoài cửa Đại Hưng, định nhân đó sẽ vào hậu cung bắt mẹ Tự Khánh là Tô          thị. Phạm thị biết chuyện bèn ngầm đem Tô thị đi qua thành, lên thuyền chạy trốn. Lúc bấy giờ quân lính không đề phòng, thấy Ngô Nãi đến đều tan chạy. Tự Khánh ở bến Đại Thông, không hay biết việc đó.Mấy ngày sau hay tin, liền đem quân vào Cấm thành đốt cháy cầu Ngoạn Thiềm rồi đem lực lượng về đóng ở bến Đại Thông, sai người lên Bắc Giang triệu Nguyễn Nộm để hỏivề tội cho Ngô Nãi đến đánh. Khi Nguyễn Nộn về đến kinh liền bị Trần Tự Khánh bắt trói bằng năm vòng dây thép.

Trước sự bức bách ngày càng tăng, nhà vua cho vời Đàm Dĩ Mông, Đoàn Thượng về hội rồi sai đi dánh Trần Tự Khánh. Đến tháng 3-1213 đích thân vua đem lực lượng của triều đình tấn công Mễ Sở nhưng khi đó Trần Tự Khánh đang ở châu Quốc Oai thắng như chẻ tre.

Nguồn: V17, tr.184-185.

        Tháng 10 (tháng Chín – Quý Dậu)

166. Trần Tự Khánh kéo Nguyễn Nộn vào vòng ảnh hưởng của mình

Hồi tháng Tư, Tự Khánh đã thả Doãn Tín Dực về Kinh sư, nhân đó đút lót rất hậu, nói rằng: – Ông về chuyến này cố khéo nói giúp ta với vua và Thái hậu, để hai cung biết rõ nghĩa vua tôi thủy chung của ta, chớ nên nghe lời bọn tiểu nhân, cho ta được toàn tính mạng. Doãn Tín Dực về đến Kinh, vua hỏi han về Tự Khánh. Doãn Tín Dực nói rằng Tự Khánh có lòng thoán nghịch. Vua và Thái hậu lại càng ghét Tự Khánh.

Vào nơi giam giữ Tự Khánh thấy Nguyễn Nộn là người vẻ mặt khôi ngô, kỳ lạ, độ lượng, tuy sống trong cùm trói mà thần sắc vẫn giữ được tự nhiên, thấy dũng sĩ nhảy múa, cũng mang cả dây trói mà nhảy, giỏi hơn dũng sĩ. Tự Khánh lấy làm lạ, bèn cho cởi trói, phong làm tướng, gả con gái của dì mình làm vợ Nộn, cấp hai ấp Thần Khê, Cả Lũ (nay thuộc Thái Bình) để Nộn cai quản.

Nguồn: V17, tr.185-186.

        NĂM 1214 (GIÁP TUẤT)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Tuất)

167. Tập đoàn họ Trần tấn công Thăng Long

Sau khi huy động tổng lực, Trần Tự Khánh họp binh các đạo thề ở đền Đỗ thái úy ở Đông Phù Liệt, định đánh Kinh sư. Để thực hiện kế hoạch này, Tự Khánh chia ra Phan Lân, Nguyễn Nộn chỉ huy quân ở Quốc Oai, theo đạo Bình Lạc đánh bằng đường bộ; Tự Khánh tự lĩnh thủy quân đến Đà Mạc giang (Trần Thừa và Tự Khánh đánh bên hữu ngạn sông Lô, Vương Lê, Nguyễn Cải đánh cầu nổi Phù Lương (ở bến Triều Đông). Nhận được tin dữ, vua tự làm tướng trong cuộc đánh dẹp Tự Khánh, nhưng trên đường hành quân gặp sương mù, đen tối, người chở đò không thấy rõ đường đất. Đến Mễ Sở quân triều đình gặp quân của Vương Lê, Nguyễn Cải. Chưa giao chiến, nghe tiếng hò reo tiến binh, quan quân triều đình đã tự tan vỡ, bỏ thuyền lên bộ mà chạy, trong đó có cả thuyền rồng.

Trần Thừa định tiến công hữu ngạn sông Lô. Đến bến An Diên gặp Đàm Dĩ Mông và An Nhân vương đem các quân ở đạo Bắc Giang tới, liền đem hết quân tinh nhuệ ra đón đánh. Hai quân của Dĩ Mông và An Nhân vương đều bại. Trần Thủ Độ, Trần Hiến Sâm thừa thắng tiến đến bến Từ Điệu, lại thắng được. Phan Lân bèn đến chợ Dừa (Da thị), gặp tướng Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ Hốt liền đánh, khiến họ đều thua, phải tắt qua cầu Nổi ở bến Triều Đông mà về.

Lúc bấy giờ vua ở đình Trà, nghe tin các quân đều thất bại, rất sợ hãi, sai xe giá vào trong Cấm thành rước Thái hậu cùng lên thuyền định đi Lạng Châu. Khi đi qua Đại Thất (tức Thái Thất) ở Thiên Đức (Từ Sơn), Dĩ Mông khóc lóc thảm thiết, ngăn lại nói rằng: – Đường đi Lạng Châu xa xôi, đất nhiều chướng khí, không phải là nơi yên ổn. Nay bệ hạ tị nạn mà đến nơi ấy, khác nào tránh nóng mà lại chạy vào lửa, có ích lợi gì? Xin bệ hạ lưu lại đây ít lâu, sai bọn thần thống suất người Hồng Châu lại cùng kẻ kia giao chiến, để mưu toan về sau. Vạn nhất có bất lợi, sau đó hãy ngự đi cũng chưa muộn!. Vua nghe lời. Tuy nhiên, mấy ngày sau Đàm Dĩ Mông với người Hồng Châu không đến. Vua lo lắm, ngày Kỷ Mão ngự đi Lạng Châu. Xe giá đến nhà Nguyễn Thuận ở hương Nhuế Duệ (có lẽ là Nội Duệ), nghỉ một lát. Đêm đó vua lại ngự đến nhà Trịnh Nông ở hương Đa Cảm. Trịnh Nông dâng món ăn, ăn xong vua lại đi, ngủ ở nhà Đào Niên ở động Chu Ma. Tự Khánh ở Hạc Kiều, sai bảo các tướng súy, vỗ về binh lính mới tập hợp ở các đạo. Lại Linh giữ Nghĩa Trụ, Phan Lân giữ Siêu Loại, Thủ Độ giữ Lăng Ải, Phạm Ngữ giữ Bần Ải, Nguyễn Nộn giữ Bắc Giang.

Lúc bấy giờ Trần Thủ Độ gặp binh của người Hồng Châu là Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi, Đoàn Khả Như, liền đánh nhau. Người Hồng Châu thua chạy.

Vua nghe tin Nguyễn Nộn giữ Bắc Giang, bèn sai tướng An Thiết là bọn Thân Trường, Thân Cải cự chiến ở cánh đồng Nhuế Duệ đều bị Nguyễn Nộn giết chết cả.

Vua bèn cùng Thái hậu chạy đến đất Mục Sơn ngụ ở nhà quan Nội hầu Vương Thượng (châu mục Lạng Châu).

Được vài ngày, Tự Khánh bèn cắt tóc, sai người đem dâng vua và nói rõ ý của mình rằng: – Thần thấy bọn tiểu nhân ở cạnh bệ hạ, lấn át người trung lương, bưng tai bịt mắt bệ hạ; dân tình uất ức, không thấu được lên trên. Cho nên, nhân lòng giận dữ của người trong nước, thần khởi binh dẹp lũ đó, cắt trừ gốc họa, để yên lòng dân mà thôi. Đến như phận vua tôi, thần mảy may không dám phạm đến một chút nào. Ngờ đâu, phải gánh lấy tội chuyên quyền đánh dẹp, để khiến cho xe giá phải long đong, tự xét tội của thần, thật đáng vạn lần chết. Xin bệ hạ nguôi cơn giận dữ, quay xe giá về kinh sư để thỏa lòng người mong muốn! Vua không ưng lời.

Tự Khánh lại sai Đàm Kinh Bang đem trăm quan, chuẩn bị xe giá rước vua về Kinh. Vua toan nghe lời. Quần thần đều vui mừng. Khi Doãn Tín Dực nói với Thái hậu rằng: – Kẻ kia có lòng dạ khác đã lâu, toan bày kế để bắt tù đấy thôi! Sao bảo là đón rước được? Xin bệ hạ nên suy đi nghĩ lại! Thái hậu lấy làm phải. Ngày hôm sau, vua sai xe giá trở về, vào tâu với Thái hậu. Thái hậu nói rằng: – Vua lấy quốc gia làm trọng, không thể không về được. Còn mẹ già thì đi đâu? Vua biết rằng Thái hậu không có ý trở về, bèn cùng Thái hậu ngự đi Cổ Lộng. Đoàn Kinh Bang cho người đứng chật đường, vin lấy đầu ngựa, khóc lóc nói rằng: – Kinh sư là nơi dân mong ngóng, bỏ đấy không về thì định đi đâu? Lại nói rằng: – Thần thấy tấm lòng của Tự Khánh trung trực không có ý gì khác, bệ hạ còn nghi ngờ gì nữa?Vua vẻ thất vọng xuống xe nói với quần thần rằng: – Quốc gia chẳng may lúc này gặp nhiều biến cố. Nay Thái hậu lặn lội nơi xa xôi nguy hiểm, trẫm lẽ nào dám bỏ nghĩa sớm hôm thăm hỏi! Nói rồi giục xe mà đi. Lúc bấy giờ bọn hộ vệ nhiều người bỏ đi, duy có bọn Nội thị phán thủ Trần Hân 30 người cùng theo. Vua và Thái hậu lên thuyền ngự đến núi Tam Trĩ (thuộc Lạng Châu) ở tại nhà Hoàng Ngũ Lâu rồi thấy thủy thổ không hợp, bèn lui đến bến Thang. Đêm đó đỗ xe ở thôn Tượng Nô.

Tháng Hai, ngày Tân Mùi, xe giá vào Phượng Sơn được hơn một tuần lại trở về Nam Sách.

Nguồn: V17, tr.186-189.

        Ngày 1 tháng 4 (27 tháng Hai – Giáp Tuất)

168. Trần Tự Khánh cho đón Huệ Văn Vương về thay Huệ Tông Hạo Sảm

Ngày Mậu Thân (27 tháng Hai) Chương Thành hầu Trần Tự Khánh triệu tập các vương và bách quan bàn việc cải lập, bèn sai người đón con vua Anh Tông là Huệ Văn Vương đến Hạc Kiều lập làm vua. Ngày hôm đó bắt bọn Đàm Kinh Bang, họ nhà Thái hậu đều trói bằng dây thép đem giam ở Mỹ Lộc (Nam Định).

Ngày Quý Hợi (12 tháng Ba tức 16-4-1214) họp người trong nước thề ở sân Long Trì.

Tháng Ba, Huệ Văn Vương lên ngôi ở điện Đại An, cải nguyên là Càn Ninh, hiệu là Nguyên Vương. Ngày hôm đó có mưa to sấm lớn.

Nguồn: V17, tr.189.

        Tháng 4 (tháng Ba – Giáp Tuất)

169. Đoàn Nhuyễn – Nguyễn Nộn giáp chiến ở Đông Cứu

Từ Hồng Châu, Đoàn Nhuyễn đem binh đánh vào núi Đông Cứu ở Bắc Giang. Người Đông Cứu không đề phòng, thấy Nhuyễn đến, đại quân đông đủ, bèn tan vỡ. Nhuyễn vốn hung hãn, được thắng lại càng kiêu, bèn đốt nhà cửa, giết bắt gà chó gần hết. Sau đó, Nhuyễn cởi giáp lên chùa trên núi, đánh chuông làm vui. Lúc bấy giờ người canh giữ các chùa đều kéo chuông. Nguyễn Nộn nghe tiếng chuông đem binh đón đánh, giết được Đoàn Nhuyễn. Nguyễn Nộn thừa thắng đuổi theo đến tận Pháp Kiều, bị Đoàn Nghi mai phục ở dưới cầu, lấy giáo đâm xuyên qua cả giáp sắt khiến Nguyễn Nộn bị thương ở lưng. Nguyễn Nộn bèn dẫn binh lui (xưa Nộn thấy Đông Cứu giáp giới với Hồng Châu, sợ người Hồng Châu đánh úp, đến cứu không kịp, nên đã dặn trước lính canh rằng: – Nếu thấy người Hồng Châu đến thời ai nấy đều đánh chuông cáo cấp để Nguyễn Nộn nghe thấy mà lại cứu. Đến bây giờ, Đoàn Nhuyễn lầm lỡ đánh chuông chùa, vì thế mà bị đánh thua).

Nguồn: V17, tr.189-190.

        Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Tuất)

170. Họ Phan, họ Đỗ ở Cam Giá chống lại Trần Tự Khánh

Đầu tiên là Phan Cụ. Sau khi viên tướng này bị giam ở Mỹ Lộc, lại đến lượt Đỗ Bị và Phan Lân bị bắt. Đến khi Nguyễn Nộn rời bỏ, Trần Tự Khánh đem giết Nghĩa Tín Vương ở Dâm Đàm vì cho hai người này thông đồng với nhau. Không dừng lại ở đó, Trần Tự Khánh còn phát binh cướp vàng bạc hóa vật trong kho của nhà vua, sai Lại Linh đốt 19 nơi trong các cung thất ở Kinh đô, đưa Nguyên Vương xuống hành cung Lý Nhân rồi tự mình đến bến Đại Thông đắp lũy Nghĩa Trú.

Vì thế, họ Phan, họ Đỗ thề không đội trời chung.

Nguồn: V17, tr.190.

        Ngày 28 tháng 7 (27 tháng Sáu – Giáp Tuất)

171. Huệ Tông Hạo Sảm trở về ngự ở Thái Thất

Khi đó, Trần Tự Khánh đem quân tiến đánh Nguyễn Nộn ở Kinh thành, đốt cung Thánh Nghi. Tháng Sáu, ngày Bính Ngọ, vua cùng Thái hậu ở Nam Sách trở về ngự ở Thái Thất, ban cho Tướng quân đạo Bắc Giang là Nguyễn Nộn tước hầu. Ngày Đinh Mùi, nhà vua và Thái hậu đến Đại Nội. Thái hậu mật chiếu cho Tướng quân Phù Lạc là Phan Thế dụ Ô Kim hầu Nguyễn Bát mà giết đi nhưng không xong. Sau lại phải sai Nguyễn Nộn làm việc này.

Để phòng bị, vua xuống chiếu cho đắp lũy từ thành Vạn Xuân đến Chợ Cái.

Nguồn: V17, tr.190-191.

        Tháng 10 (tháng Chín – Giáp Tuất)

172. Trần Tự Khánh thả cho binh sĩ đốt phá Kinh thành

Ngoài việc sai Đàm Bật dâng thổ vật cho vua, Trần Tự Khánh lại sai Nguyễn Ngạnh đưa Đàm Kinh Bang – người cùng tông tộc với Thái hậu về Kinh sư thanh minh về sự trung chinh, một lòng theo vua. Không lung lạc được nhà vua và Thái hậu, Trần Tự Khánh dẫn binh xâm phạm cửa khuyết. Vua cùng Thái Hậu đem binh hội họp. Ngày hôm ấy Tự Khánh thả quân sĩ cướp tài vật của vua, đốt cả cung thất và nhà cửa của dân Kinh thành gần hết. Mấy ngày sau, vua cùng Thái hậu về Kinh sư, thấy cung thất bị đốt cháy hết, bèn đi ra cầu Thái Hòa ở cạnh đền Chúc Thánh, sai dựng căn nhà tranh để ở.

Nguồn: V17, tr.191.

        NĂM 1215 (ẤT HỢI)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Hợi)

173. Huệ Tông Hạo Sảm ban chiếu kêu gọi đánh dẹp Trần Tự Khánh

Đứng trước sự lộng quyền của Trần Tự Khánh, nhà vua kêu gọi: – Trần Tự Khánh nhóm họp hung đảng, cướp nhiễu Kinh sư, đánh thủy, đánh bộ, làm đau đớn đến tông miếu, xã tắc. Mùa đông năm ngoái, lửa bạo ngược lại càng bốc cháy, nó đem quân lính, càn rỡ tham ngược, cướp bóc của cải của ta, đốt phá cung thất của ta, đến như ngõ ngách Kinh thành, cũng bị biến thành tro bụi! Trẫm nhân nổi giận của ức triệu thần dân, nhờ cậy anh linh của nhất tổ lục tông, đem cả năm quân, thân hành đánh dẹp. Hỡi tướng sĩ! Hãy nghe lời chiếu của trẫm, ai nấy hãy dốc lòng gắng sức, cho xứng với ý trẫm!.

Ngay sau đó, không khí giúp vua đánh kẻ phản nghịch trở nên sôi sục hơn. Để đối phó lại và tránh bị rơi vào cô lập, Tự Khánh dẫn quân đến đóng đồn ở Cửu Liên, chia tướng sĩ đến đóng đồn ở Cửu Ông thuộc Cửu Cao để phòng ngự Nguyễn Nộn. Lại sai tướng quân Lộ Khoái là Nguyễn Đường, Nguyễn Thử giữ Địa Dân. Nhưng chẳng bao lâu Nguyễn Đường và Nguyễn Thử hưởng ứng chiếu vua ban, đã cùng với Nguyễn Nộn thông mưu để đánh Tự Khánh. Tự Khánh lại sai Lại Linh giữ An Diên, Phù Liệt, tự mình đi đánh bộ ba Đường, Thử và Nộn.

Trong khi đó, quân đội triều đình đánh đuổi được Lại Linh ra khỏi An Diện, Phù Liệt. Bắc Giang hầu Nguyễn Nộn được phong làm Bắc Giang Vương.

Nguồn: V17, tr.192.

        Tháng 4 (tháng Ba – Ất Hợi)

174. Trần Tự Khánh quyết giành giật vùng Khoái Châu

Trần Tự Khánh quyết giành lại Nguyễn Đường, Nguyễn Thử và vùng Lộ Khoái nên đem binh đến vây ép, dụ hàng được hai người này. Ngay lập tức, Trần Tự Khánh sai Nguyễn Đường, Nguyễn Thử đắp lại lũy Hoàng, An Lợi đắp lũy An Giá, Dương Từ đắp lũy Công Chúa. Tuy nhiên, khi Nguyễn Nộn đem binh tấn công, các lũy trên nhanh chóng bị san phẳng khiến Trần Tự Khánh phải đến giải nguy và cho các tướng Trần Thủ Khánh, Trần Hiếu Sâm và Đào Phán đóng ở Lam Kiều, tiến đánh cánh quân của Nguyễn Nộn do Phí Thám chỉ huy. Để thêm sự ràng buộc, Trần Tự Khánh còn gả em gái là Trần Tam Nương cho Nguyễn Đường.

Nguồn: V17, tr.192.

        Tháng 6 (tháng Năm – Ất Hợi)

175. Huệ Tông Hạo Sảm cạo tóc, thoái thác ngôi vua

Một hôm, nhà vua nói với quần thần rằng: – Trẫm muốn thoái vị, các khanh thấy thế nào? Quần thần đều khóc lóc can ngăn. Vua không nghe, bèn cùng Thái hậu dùng dao cạo tóc. Ngày hôm đó, vua từ dinh Thái Hòa ngự đến nhà Đặng Lão ở Trương Canh, hồi giá về nhà Nội kí ban Đỗ An ở ngõ Chỉ Tác tại cầu Tây Dương.

Trong tháng đó, Tự Khánh đánh Đại Hoàng nhưng bị thua, ba quân tan vỡ, tướng là Nguyễn Đường bị chết đuối.

Nguồn: V17, tr.193.

        NĂM 1216 (ẤT HỢI -BÍNH TÝ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Ất Hợi)

176. Quần thần dựng Thảo điện (điện lợp cỏ tranh) ở nhà Đỗ An

Nhà Nội ký ban Đỗ An ở ngõ Chỉ Tác gần cầu Tây Dương (nay là Cầu Giấy – Hà Nội). Sở dĩ có việc này vì trước đó Trần Tự Khánh cho đốt cung Đông Nhân, nhà vua phải cho rước thần chủ của Linh Nhân Thái hậu về đến Chúc Thánh. Thấy vậy, Trần Tự Khánh gửi trả nhà vua chiếc mũ Bình thiên.

Nguồn: V17, tr.193.

        Tháng 2 (tháng Giêng – Bính Tý)

177. Huệ Tông Hạo Sảm cùng Thái hậu coi triều ở Thảo điện

Nhân đó, Trần Tự Khánh lại đem trả lại nhà vua ghế thiếp vàng (kim ỷ).

Nguồn: V17, tr.193

        Tháng 6 (tháng Năm – Bính Tý)

178. Huệ Tông Hạo Sảm hoàn toàn bất lực, tìm lối thoát

Từ việc nhà vua cho người đi bắt kẻ cướp ở Cơ Xá bị tướng Đỗ Ất đuổi đánh, triệu Đỗ Ất vào cung không nghe, sai Hiển Tín vương đi trừ hậu họa cũng bị chống lại đến việc Đỗ Nhuế đem quân tìm đánh vua trong cung rồi chạy theo Nguyễn Nộn đã khiến Huệ Tông hoàn toàn bất lực, tâm thần bất an. Thêm vào đấy, Thái hậu luôn luôn cho rằng, Trần Tự Khánh là phản trắc, thường chỉ mặt phu nhân là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi đi. Lại sai người bảo với phu nhân bắt tự xử, may mà vua biết nên ngăn lại. Không dừng lại, Thái hậu còn âm mưu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân, khiến mỗi bữa ăn vua phải chia cho phu nhân một nửa phần ăn của mình và không lúc nào rời xa. Thái hậu lại sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải tự tử, may mà vua ngăn kịp. Không còn cách nào khác, vào đêm Giáp Thìn (tháng Năm – Bính Tý) vua cùng phu nhân Trần thị xuống thuyền đi Thuận Lưu theo Tự Khánh. Trời sáng, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê lại đón. Thái hậu và Công chúa con vua thì đến Ô Kim. Tự Khánh trông thấy vua rất mừng, tướng sĩ đều vui vẻ hò reo. Từ đó, vua cùng Tự Khánh quyết ý đánh bọn Bắc Giang Vương Nguyễn Nộn, Hiển Tín vương Lý Bát, người Hồng Châu Đoàn Văn Lôi và Hà Cao ở Quy Hóa.

Ngày Giáp Thân, Thái hậu đem các Công chúa đến An Xướng dưới sự bảo hộ của Nguyễn Nộn. Lúc bấy giờ Nguyễn Nộn, Hà Cao lấy mệnh lệnh của Thái hậu đánh các ấp ở Từ Liêm đều hạ được.

Ngày Canh Tuất, Tự Khánh dựng Thảo điện ở Tây Phù Liệt, quy mô phỏng theo đại nội. Vua xuống chiếu cho Minh tự Phùng Tá Chu làm Chiêu thảo sứ. Ngày Giáp Thìn, vua đến Từ Liêm, sai Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn sau đó xuống chiếu đày Nguyễn Nộn làm lính.

Nguồn: V17, tr.193-194; Đ4, tr.258; Đ5, tr.400

        Tháng 7 (tháng Sáu – Bính Tý)

179. Hoàng trưởng nữ Thuận Thiên Công chúa sinh

Bà húy là Oanh, con gái trưởng của Huệ Tông Hạo Sảm và phu nhân Trần thị, sinh tại bãi Cửu Liên (gần Cửu Cao – Văn Giang – Hưng Yên ngày nay) nơi đóng quân của Trần Tự Khánh.

Nguồn: Đ4, tr.259; Đ5, tr.401

        NĂM 1217 (BÍNH TÝ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Bính Tý)

180. Huệ Tông Hạo Sảm xếp đặt lại triều đình, nâng cao vị thế họ Trần

Việc nhà vua ngả hẳn về Trần Tự Khánh tạo ra nhiều phản ứng trong triều. Một tôn thất là Hiển Tín Vương Lý Bát đã đem binh tới phá Ấp Hợp, tướng Đỗ Tế chạy về Đan Phượng. Mãi tới tháng 6-1217, Trần Tự Khánh mới đánh đuổi được Hiển Tín vương Lý Bát lên sách An Lạc.

Sau khi sách phong phu nhân Trần Thị làm Hoàng hậu, Huệ Tông Hạo Sảm ban cho Trần Thừa – anh trai của Trần Tự Khánh tước Liệt hầu, chức Nội thị Phán thủ; Phùng Tá Chu và Lại Linh được tước Quan Nội hầu; Tự Khánh làm Thái úy, khi xuống lễ không phải gọi tên; Trần Liễu – con Trần Thửa cũng được tước Quan Nội hầu còn Trần Tự Hải được tước vương. Lại cho Trần Thừa mỗi khi có đại yến thì ngồi ở điện Thiên An; Tự Khánh và Thượng tướng quân Phan Lân xếp đặt quân ngũ, chế binh khí, tập võ nghệ.

Nguồn: V17, tr.194; Đ4, tr.259; Đ5, tr.401.

        Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Sửu)

181. Huệ Tông Hạo Sảm mắc trọng bệnh

Vua mắc bệnh phong từ tháng Chạp năm trước, chữa chạy mãi không khỏi. Nay mới vào cuối xuân, đầu hè của năm Đinh Sửu, thời tiết nóng bức khiến nhà vua dần dần phát chứng điên, lúc nói là thiên tướng giáng, tay cầm thuẫn, cắm cây cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không thôi, hoặc khi thôi đùa nghịch lại đổ mồ hôi, miệng ráo khát nước, uống rượu ngủ li bì, ngày hôm sau mới tỉnh. Chính sự không giải quyết, giao phó cho Trần Tự Khánh, quyền lớn trong nước dần dần về người khác.

Việc nhà vua mắc trọng bệnh như trên còn được Đại Việt sử ký (toàn thư, tiền biên) ghi nhận thêm vào các năm Tân Tỵ (1221 – vua bị bệnh, thầy thuốc chữa đã lâu không hiệu nghiệm, ở sâu trong cung, giặc cướp thả sức tung hoành, dân ở ngoài thành phần nhiều lưu lạc, mất nơi ăn chốn ở, đều ngầm muốn nổi loạn), Giáp Thân (1224 – khi đó bệnh của vua ngày càng tăng, các Công chúa đều chia nhau các lộ làm ấp thang mộc, ủy nhiệm cho một mình Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ lãnh các quân Điện tiền để hộ vệ nơi cấm đình). Trong khi đó, Việt sử lược lại không hề đề cập tới các chi tiết này, vẫn đưa ra một lịch trình đầy đủ và rõ ràng về một Huệ Tông hoàn toàn tỉnh táo, bình an [như các sự kiện tiếp theo].

Nguồn: Đ4, tr.259. 260; Đ5, tr.401, 403.

        Tháng 5 (tháng Tư – Đinh Sửu)

182. Huệ Tông Hạo Sảm xét tội thua trận của Phạm Ân

Vua ngự ở tòa Lương Thạch (đá mát), cho truất Phạm Ân làm Tiểu thị vệ, đánh 80 trượng. Sở dĩ có chuyện này vì trong tháng, Thái úy Trần Tự Khánh chia sáu đạo đi dẹp Nguyễn Nộn. Nguyễn Nộn đem binh xuất kỳ bất ý đánh Phạm Ân. Quân của Phạm Ân bị hãm ở cửa đầm Lãnh Kinh, bị quân của Nguyễn Nộn giết hơn năm chục người, rồi thừa thắng lại đánh Ái Đạo, gặp quân của Thái úy, giao chiến, quân Nguyễn Nộn thua lớn.

Sau trận này, Đoàn Thượng đem toàn bộ lực lượng ở Hồng Châu về quy hàng, được Huệ Tông Hạo Sảm phong tước vương. Tiếp đó, Trần Tự Khánh còn đem quân đánh dẹp thu lại Phong Châu khiến cho một giải hương ấp phía bắc trở lại thanh bình. Đến tháng 6-1218, Trần Thừa và Trần Tự Khánh gả Trần Tam nương, vợ góa của Nguyễn Đường cho Đoàn Văn Lôi – tướng Hồng Châu nổi tiếng vì tài thao lược, dũng cảm, được lòng dân.

Nguồn: V17, tr.194-195.

        NĂM 1218 (MẬU DẦN)

        Tháng 6 (tháng Năm – Mậu Dần)

183. Huệ Tông Hạo Sảm xuống chiếu về xử lý án ngục

Từ đầu năm, nhà vua có nhiều cuộc viếng thăm các địa phương như về Đọi Sơn và châu Cửu Liên xem bắt cá, ngự ra Cửu Kinh ăn vải, cho Bạch Lãng ở sách Na Luận làm Liệt hầu. Nhà vua còn hạ chiếu về các bản án đã xử xong rồi thì việc trước tiên phải giao cho các quan ở Viện Thẩm hình dự xét sửa đổi thêm sau đó mới chuyển lên vua.

Nguồn: V17, tr.195.

184. Huệ Tông Hạo Sảm cử Trần Thừa đem binh đánh Nguyễn Nộn

Bất lực trước hệ thống phòng ngự do Nguyễn Nộn xây đắp, Trần Thừa phải cho phá đê sông để nước tràn vào các hương ấp, nhân đó cho Lại Linh theo thế nước mà tiến đánh. Không đối phó kịp, quân Nguyễn Nộn bị tan vỡ thành nhiều mảnh. Vợ con Nguyễn Nộn bị quân triều đình bắt. Nguyễn Nộn chỉ còn hơn trăm quân lui về giữ Phù Ninh. Sau trận này, Lại Linh được vào coi châu Nghệ An.

Nguồn: V17, tr.196.

        Tháng 10 (tháng Chín – Mậu Dần)

185. Hoàng thứ nữ của Huệ Tông Hạo Sảm sinh

Ban đầu Hoàng thứ nữ có tên là Phật Kim, sau đổi lại là Thiên Hinh tước hiệu là Chiêu Thánh Công chúa, sinh tại Kinh thành Thăng Long.

Nguồn: Đ4, tr.259; Đ5, tr.401.

        Tháng 11 (tháng Mười – Mậu Dần)

186. Trần Tự Khánh bị người Mường ở Quảng Oai đánh bại

Trong khi đó, Lý Bất Nhiễm đẩy lui được cuộc xâm lấn của Chiêm Thành, Chân Lạp ở châu Nghệ, được thăng tước hầu, cho thực ấp hàng ngàn hộ.

Nguồn: Đ4, tr.259; Đ5, tr.401.

        NĂM 1219 (KỶ MÃO)

        Tháng 3 (thàng Hai – Kỷ Mão)

187. Huệ Tông Hạo Sảm dự nghe việc kiện tụng ở Đô hộ phủ

Nhân đó giáng quan Sĩ sư (một chức quan coi ngục, cấp dưới Đại tư khấu, Tiểu tư khấu, chuyên nghe về việc kiện tụng) ở Viện Thượng Lâm là Nguyễn Tuyên và con ông ta xuống làm Thư gia. Cho Lưu Viêm giữ chức này.

Nguồn: V17, tr.196.

        Tháng 7 (tháng Sáu)

188. Huệ Tông Hạo Sảm đến bến Triều Đông ở Cựu Kinh xem các quân tiến đánh Nguyễn Nộn

Trước khi tiến đánh Nguyễn Nộn thì viên tướng phụ trách cánh quân ở Nam Sách là Phạm Dĩ bị phát bệnh mà chết, viên Phó tướng Vương Lê vội đem quân trở về, do đó Nguyễn Nộn dễ dàng chiếm lại Bình Cảo. Trần Tự Khánh muốn giành lại Bình Cảo nhưng không được.

Nguồn: V17, tr.196.

        NĂM 1220 (KỶ MÃO – CANH THÌN)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Kỷ Mão)

189. Nguyễn Nộn bị trọng bệnh, qua đời;

Nghe tin chủ tướng mất, tướng của Nguyễn Nộn là Phí Thám đưa Thái hậu và các Công chúa con vua ra hàng Trần Tự Khánh. Viên Đại tướng của Nguyễn Nộn trốn vào rừng hiểm Thị Hàng, cuối cùng cũng ra hàng phục.

Về sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư chép khác hẳn như sau:

“Kỷ Mão, năm thứ 9 (1219) (Tống, Gia Định năm thứ 12). Mùa xuân, tháng Hai, Trần Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, bắt đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua y cho. Mùa đông, tháng Mười, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man Quảng Oai.

Canh Thìn, năm thứ 10 (1220) (Tống, Gia Định năm thứ 13). Mua xuân, tháng Ba, Nguyễn Nộn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua sai người đem sắc thư đến tuyên dụ, song vì vua có bệnh trúng phong không chế ngự nổi”.

Đại Việt sử ký tiền biên ghi chép gần giống như trên. Có điều khác biệt nữa là cả Toàn thưTiền biên đều ghi nhận Nguyễn Nộn không chết vào thời điểm này mà đến tận tháng Ba năm Kỷ Sửu (4-1229) mới qua đời với nhiều sự kiện tiếp diễn như sau:

– Tháng Hai – Bính Tuất (3-1226), Trần Thủ Độ đem quân đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và người Mường ở Quảng Oai, Tản Viên. Không hàng phục được, phong cho Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho huyện Đông Ngàn. Riêng Đoàn Thượng không đến nhận phong.

– Tháng Chạp – Mậu Tý (1-1229), Nguyễn Nộn đánh Hồng Châu, giết Đoàn Thượng, con Đoàn Thượng là Đoàn Văn đem gia thuộc tới hàng. Trần Thủ Độ phải gia phong Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, gả con là Công chúa Ngọc Thiềm.

– Tháng Ba – Kỷ Sửu (4-1229), sau khi kiêm tính được Hồng Châu, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ăn chơi vô độ, đến đây ốm nặng, cố gượng ăn uống và cưỡi ngựa để tiếp Nội nhân của Trần Thái Tông, được ít ngày thì mất. Dự tính đến tháng Mười vào chầu ở Thăng Long chấm dứt hoàn toàn.

Nguồn: V17, tr.197; Đ4, tr.259-260; 264-265; 267-268; Đ5, tr.401-402; 420-422.

        Tháng 5 (tháng Tư – Canh Thìn)

190. Trần Tự Khánh và Trần Thừa đánh Hà Cao ở trại Quy Hóa

Trần Tự Khánh, Trần Thừa theo đường sông Quy Hóa (tức sông Thao, đoạn trên của sông Hồng), Lại Linh, Phan Cụ theo đường sông Tuyên Quang (tức sông Lô) cùng tiến. Phạm Cụ bị hãm ở trong đầm lầy và bị tướng của Hà Cao là Nguyễn Nãi chém. Hà Cao nghe tin quân Thái úy bao vây bốn phía rất gấp, bèn cùng vợ con đều thắt cổ chết. Từ đó những vùng Thượng Nguyên lộ, Tam Đái giang đều bình. Thái úy thấy Phan Cụ chết vì nước, xin truy phong cho là Minh Tín Vương.

Nguồn: V17, tr.198.

        Tháng 12 (tháng Một – Canh Thìn)

191. Huệ Tông Hạo Sảm ngự ra bến Phù Liệt xem đua thuyền

Trước đó, Cung điện cho vua dự chầu được làm xong ở Kinh sư.

Nguồn: V17, tr.198.

        NĂM 1221 (TÂN TỴ)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Tân Tỵ)

192. Nguyên Vương – tức Huệ Văn Vương qua đời

Số là, vào ngày 1-4-1214 khi Huệ Tông Hạo Sảm cùng Thái hậu kiên quyết ở lại vùng Phượng Sơn và Nam Sách, không chịu hồi kinh, Trần Tự Khánh bèn cho đón Công tử con trai Anh Tông Thiên Tộ Hoàng đế là Huệ Văn vương về Thăng Long để chuẩn bị việc cải lập, sẵn sàng cho sự thay thế vị trí của Huệ Tông Hạo Sảm. Dưới sự sắp xếp của Trần Tự Khánh, giữa tháng 4-1214, Huệ Văn Vương lên ngôi ở điện Đại An, cải nguyên là năm Càn Ninh, hiệu là Nguyên Vương. Từ tháng 5-1214, Trần Tự Khánh nhiều lần điên cuồng đốt phá cung điện, cướp đoạt vàng lụa trong kho, Nguyên Vương bị đưa xuống Hành cung Lý Nhân, chẳng mấy khi được đoái trông. Từ tháng 6-1216 khi Huệ Tông Hạo Sảm về với Trần Tự Khánh thì vai trò của Nguyên Vương không còn ai nhắc tới.

Đến đây, Nguyên Vương qua đời, Huệ Tông Hạo Sảm cho bãi chầu 5 ngày, ăn chay 3 ngày.

Nguồn: V17, tr.189, 190, 198.

        Tháng 10 (tháng Chín – Tân Tỵ)

193. Huệ Tông Hạo Sảm ngự đến nhà riêng của Trần Tự Khánh

Nhà của Thái úy đặt tại Mỹ Lộc (nay thuộc Nam Định)

Nguồn: V17, tr.198.

        NĂM 1222 (NHÂM NGỌ)

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Ngọ)

194. Huệ Tông Hạo Sảm cho chia nước thành 24 lộ

Lộ được chia cho các Công chúa. Dưới lộ là giáp, lấy các hoành nô thuộc lệ và quân nhân của bản lộ cho cai quản các giáp.

Trong số 24 lộ kể trên, có một số lộ thường xuyên xuất hiện trong sử sách: Thiên Trường, Quốc Oai, Hải Đông, Kiến Xương, Khoái, Hoàng Giang, Bắc Giang, Long Hưng, Thanh Hóa.

Nguồn: Đ4, tr.260; Đ5, tr.402.

        Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Ngọ)

195. Huệ Tông Hạo Sảm cùng Thái hậu dự lễ nạp hôn con trai Trần Tự Khánh

Lễ nạp hôn giữa Hiển Đạo Vương Trần Tự Hải với Hoàng trưởng nữ Thuận Thiên. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân về sau không thành.

Nguồn: V17, tr.198.

        NĂM 1223 (QUÝ MÙI)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Mùi)

196. Trần Tự Khánh sai bắt giam Bảo Tín hầu Lại Linh

Lại Linh thấy người đến bắt, bèn treo cổ nhưng cứu được, bị giam vào ngục.

Lại Linh hiện tại được di duệ họ Lại làng Yên Phụ (Tây Hồ – Hà Nội) phụng thờ. Gia phả họ Lại cho biết ông là một tướng tài phụng sự hai vua Lý Cao Tông (1176-1210) và Lý Huệ Tông (1211-1225), được phong đến Bảo Tín hầu, Khu mật tả sứ Gián nghị Đại phu.

Vị thế của Lại Linh trong triều chỉ dưới Trần Tự Khánh, ngang với Trần Thủ Độ, cho nên vào năm Giáp Tuất 91214) khi Thủ Độ được giao giữ Bắc Giang thì Lại Linh được giao giữ Nghĩa Trụ. Bắc Giang khi này thuộc vùng đất biên ải phía bắc, còn Nghĩa Trụ là vùng trọng yếu cửa ngõ phía đông Kinh thành Thăng Long.

Sau đó, Lại Linh còn được sai đi coi giữ đất Nghệ An, vùng đất biên cương trọng yếu phía nam Đại Việt, nơi từng được giao trọng trách cho Thái úy Lý Thường Kiệt cai quản trước đó.

Phải chăng vai trò và vị thế của Lại Linh đã là trở ngại lớn trong toan tính phê truất nhà Lý của thế lực họ Trần. Lại Linh không chỉ là một tướng tài xông pha trận mạc, mà còn là một đại thần thân cận của nhà Lý, can gián hoạch định kế sách, lại hết mực trung thành với vương triều nên đã phải chịu kết cục bi hùng như vậy!

Nguồn: V17, tr.198; G2, tr.9, 73-79.

        NĂM 1224 (QUÝ MÙI – GIÁP THÂN)

        Ngày 10 tháng 1 (Kỷ Mão 26 tháng Chạp – Quý Mùi)

197. Phụ quốc Thái úy Trần Tự Khánh qua đời

Trước đó, ông còn mang quân đi đánh Sơn Lão ở sách Mông. Đến đây ông qua đời tại Phù Liệt. Vua cùng Thái hậu đến viếng khóc lóc rất thương xót, đặt tên thụy là Kiến Quốc Vương.

Nhìn nhận một cách toàn cục cuộc đời và sự nghiệp của Trần Tự Khánh nhiều nhà sử học nhận ra rằng, ông đến Kinh thành Thăng Long và với Huệ Tông Hạo Sảm giống như hành tung của một tướng cướp nhưng rồi nhận ra đó chỉ là một động thái nhằm tìm cách nắm lấy nhà vua và từ đó thay thế ông cậu Tô Trung Tự ngồi vào ngôi phụ chính.

Chưa thuyết phục được Huệ Tông Hạo Sảm, ông dựng Nguyên Vương làm thế đối trọng nhưng khi nhà vua ngỏ ý quay về, ông vui lòng đón rước và cũng vui vẻ trả lại Nguyên Vương về chỗ cũ. Chính hành động đại nghĩa trên đây đã giúp Trần Tự Khánh tiếp tục đánh thắng các thế lực to nhỏ hòng chia năm xẻ bẩy khi đó, dần dần thống nhất Đại Việt trở lại.

Như vậy, xét về toàn cục, Trần Tự Khánh xứng đáng được tôn vinh là Kiến Quốc Vương, như Ngô Sĩ Liên bình: “Trần Tự Khánh vì cớ Huệ Hậu bị Thái hậu làm khổ đem quân đến cửa khuyết xin đón xa giá. Đương lúc bấy giờ, lòng người không khỏi ngờ vực, cho nên Huệ Tông có lệnh bắt Tự Khánh mà không bắt được. Tự Khánh muốn làm việc cho kỳ được, mới nhiều lần làm kinh động đến vua, xa giá phải rời chỗ mấy lần, tội rõ ràng rồi. Nhưng mà Huệ Tông và Huệ Hậu rốt cuộc phải nhờ Tự Khánh mới được yên, thì tội ấy lại bỏ. Thế là việc tuy là trái nhưng tình thì thuận, sử chép không khen nhưng thực là khen. Nếu không thế thì chỉ là kẻ đầu sỏ giặc cướp mà thôi”.

Nguồn: V17, tr.198; Đ4, tr.260; Đ5, tr.402.

        NĂM 1224 (GIÁP THÂN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Thân)

198. Huệ Tông Hạo Sảm lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy

Ngoài ra, Phùng Tá Chu được làm Nội thị Phán thủ, Thượng phẩm hầu Trần Bảo lên tước vương, hiệu là Hiển Thánh.

Kiến Quốc Vương Trần Tự Khánh được đưa về an táng ở Mỹ Lộc.

Nguồn: V17, tr.199.

        NĂM 1225 (ẤT DẬU)

        Mùa xuân

199. Huệ Tông Hạo Sảm ngự cửa Đại Hưng xem đặt lễ tàng thư cưu

Nhà vua còn xuống chiếu cho con gái đẹp ở trong nước tới xem.

Nghe tin châu Nghệ An biến loạn, nhà vua cử Phụ quốc Thái úy Trần Thừa đem quân đánh dẹp, thắng lợi trở về.

Nguồn: V17, tr.199.

        Ngày 3 tháng 7 (Kỷ Mão 3 tháng Sáu – Ất Dậu)

200. Huệ Tông Hạo Sảm nhường ngôi cho Chiêu Thánh, hội thề Long Trì

Sử cũ ghi khác nhau về thời điểm diễn ra sự kiện này.

Đại Việt sử ký (Toàn thư, Tiền biên) đều ghi nhận việc nhường ngôi diễn ra vào tháng Mười năm Giáp Thân (tháng 11-1224) và ngay sau đó, Huệ Tông Hạo Sảm đi tu:

“Giáp Thân, năm thứ 14 (1224) (Từ tháng Mười về sau là Chiêu Hoàng, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1 – Tống, Gia Định năm tứ 17). Bệnh của vua ngày càng tăng, không có con trai để nối nghiệp lớn, các Công chúa thì đều chia ở các lộ làm ấp thang mộc, ủy nhiệm cho một mình Trần Thủ Độ làm Chỉ huy sứ lãnh các quân điện tiền mà hộ vệ cấm đình.

Mùa đông, tháng Mười, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu Hoàng”.

Việt sử lược lại ghi sự việc xảy ra vào năm Ất Dậu, hiệu Kiến Gia năm thứ 15 (1225):

“Tháng Sáu, vua nhường ngôi cho Công chúa thứ hai là Công chúa Chiêu Thánh, hiệu là Chiêu Vương (Chiêu Hoàng), tôn vua là Thái Thượng Vương (Thái Thượng Hoàng), cải nguyên là Thiên Chương Hữu Đạo.

Ngày Kỷ Mão, họp người trong nước thề ở sân Long Trì”.

Nguồn: Đ4, tr.260; Đ5, tr.403; V17, tr.199.

        Ngày 24 tháng 12 (1 tháng Chạp – Ất Dậu)

201. Thái Thượng Vương Hạo Sảm chuẩn bị cho bước chuyển giao triều đại

Thấy Nữ vương (Nữ hoàng) còn bé mà lo, Thái Thượng Vương bèn cho vời Phùng Tá Chu đến bàn rằng: – Trẫm vì bất đức, chịu tội với trời, không có người kế tự, phải truyền ngôi cho con gái, lấy một âm mà chế ngự cả một bầy dương, nếu chúng không theo thì tất phải ăn năn. Cứ như ta thấy, không gì bằng bắt chước Đường Nghiêu ngày xưa, noi theo Nhân tổ mới rồi, chọn người hiền mà trao ngôi cho. Nay ta thấy con trai thứ Thái úy là Mỗ (tức Trần Cảnh), tuổi tuy còn bé, nhưng tướng mạo phi thường, tất có thể cứu đời, yên dân, nên ta muốn lấy làm con, để làm chủ xã tắc, mà lấy Chiêu vương (Chiêu hoàng) gả cho. Lũ khanh hãy vì trẫm mà nói dùm với Thái úy! Thái Thượng Vương Trần Thừa còn chưa tin. Tả phụ Nguyễn Chính Lại nói với Thái Thượng Vương rằng: – Họ Lý được nước, vua hiền đã có 6, 7 đời, ơn đức của các vua ấy đã thấm sâu vào lòng người ta, bỗng chốc vội lấy họ khác nối ngôi, chắc rằng chỉ định thử xem ý ta thế nào mà thôi! Nếu ta do đó mà nhận, thiên hạ ắt bảo Thái úy thật có chí cướp ngôi! Thái Thượng Vương toan theo lời ông ta; Thượng phẩm Phụng ngự Trần Thủ Độ nói rằng: – Ông Tả phụ nói không đúng. Nếu như Thượng Vương (Thượng Hoàng) có con trai mà lại toan nhường ngôi cho Nhị lang (chỉ Trần Cảnh), xét về nghĩa thì không thể vâng chiếu. Nay vì vua không người kế tự, muốn chọn người hiền mà phó thác ngôi cho, đó là Thượng Vương (Thượng Hoàng) bắt chước việc nhường ngôi của Nghiêu Thuấn ngày xưa, thì còn gì nữa? Huống chi ngôi trời không thể để khuyết lâu, mà ý Thượng Vương (Thượng Hoàng) muốn thoái lui đã quyết, (chọn người họ khác) để nối ngôi, dẫu muốn không phụng thờ người ấy thì có được không? Vả Thượng Vương (Thượng Hoàng) lấy nhị lang nối ngôi, đó là “ý trời): Trời đã cho mà không lấy thì ta sẽ phải chịu tội đấy. Xin Thái úy hãy suy nghĩ kỹ”.

Ngay sáng hôm đó, Thái Thượng Vương sai Nội thị Phán thủ Phùng Tá Chu, Nội thành khiển Tả ti lang trung Trần Tri Hoành đem văn võ bá quan, sửa soạn thuyền xe đến phủ Tinh Cương đón Trần Thừa.

Nguồn: V17, tr.199-200.

202. Trần Cảnh lên ngôi, lập ra nhà Trần

Sự kiện này, Sử cũ trình bày rất khác nhau.

Việt sử lược cho rằng từ khi Huệ Tông Hạo Sảm nhường ngôi cho Chiêu Thánh đến khi quyết định chuyển giao quyền lực, thời gian diễn ra trong vòng nửa cuối năm Ất Dậu (3 tháng Sáu – 1 tháng Chạp). Tuy nhiên, theo ghi chép của Đại Việt sử ký (Toàn thư, Tiền biên), tiến trình này kéo dài hơn 1 năm, từ tháng Mười Giáp Tuất đến tháng Chạp Ất Dậu và được diễn tả theo sự bày đặt, đạo diễn của Trần Thủ Độ như sau:

Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 (1225) (Từ tháng Chạp về sau là Trần Thái Tôn Kiến Trung năm thứ 1 – Tống, Lý Tôn Hú, Bảo Khánh thứ 1). Mùa đông, tháng Mười, xuống chiếu chọn con em của quan viên trong ngoài sung vào các sắc dịch trong nội, như Sáu hỏa Thị cung, Ngoại chi hậu, Nội nhân, Thị nội, ngày đêm cắt lượt nhau chầu hầu. Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ làm Tri thành thị Nội ngoại Chư quân sự; cháu gọi Thủ Độ bằng chú bác là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục Cục chi hậu; Trần Thiêm làm Chi hậu cục; Trần Cảnh làm Chánh thủ (Cảnh sau là Trần Thái Tôn). Cảnh lúc ấy mới 8 tuổi, chực hầu ở bên ngoài. Một hôm đến phiên giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong, Chiêu Hoàng trông thấy yêu lắm. Mỗi khi chơi đêm, cho gọi Cảnh đến cùng chơi: thấy Cảnh ở chỗ tối thì chạy đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng vào bóng. Có một hôm Cảnh bưng chậu nước đứng hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt, lấy tay té, nước ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: – Nếu thực có thế thì họ ta làm vua chăng? Chết cả họ chăng?. Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy xuống nói: – Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh? Chiêu Hoàng cười và nói: – Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó! Cảnh lại về bảo cho Thủ Độ biết. Thủ Độ sợ việc tiết lộ ra thì bị giết cả. Bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa cung, cắt người coi giữ. Các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: – Bệ hạ đã có chồng rồi! Các quan đều nói được, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng: – Từ xưa nước Nam Việt ta, đã có đế vương trị thiên hạ. Nghĩ triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, gồm có bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì Thượng Hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước gian nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ, chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi, trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không có người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, giữ thế nào nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản, đến thế là cùng cực rồi. Kinh Thư có nói: – Quân tử hảo cầu, Ngụ my tử phục. Du tai du tai! (Quân tử tìm bạn tốt, tìm mãi không được, lúc thức lúc ngủ, không lúc nào nguôi, lâu thay lâu thay). Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất vẹn tuyền, thực là thể cách hiền nhân quân tử, uy nghi chễm chệ, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tôn cũng không hơn được, sớm tối nghĩ kỹ, xét nghiệm từ lâu, nên nhường ngôi báu, để thuận lòng trời, để phụ lòng trẫm. Mong rằng đồng lòng hết sức, cùng giúp đỡ việc nước, để hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ, để mọi người biết.

Tháng Chạp, ngày 11, Mậu Dần, Chiêu Hoàng đặt đại hội ở điện Thiên An, ngự trên bảo sàng, các quan mặc triều phục vào chầu lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng trút bỏ áo ngự, khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế. Đổi niên hiệu làm Kiến Trung năm thứ 1; đại xá cho thiên hạ; xưng là Thiên Hoàng, rồi lại đổi là Văn Hoàng. Các quan dâng tôn hiệu là Khải thiên lập cực chí nhân chương hiếu hoàng đế. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, coi việc thiên hạ. Trần Thừa làm Nhiếp chính”.

Việt sử lược chỉ mô tả lễ chuyển giao vắn tắt như sau: “Ngày mồng 1 tháng Chạp năm ấy, (Ất Dậu, tức 24-12-1225) Nhị lang lên ngôi ở điện Thiên An, tôn Thuận Trinh vương hậu làm Thái hậu, giáng Chiêu Vương (Chiêu Hoàng) làm Chiêu Thánh Vương (hoàng) (hậu cả) nguyên Kiến Trung.

Thái Thượng vương cùng mẹ là Đàm Thái hậu ra ở chùa Phù Liệt, hiệu là Huệ Quang Thiền sư”.

Nguồn: Đ4, tr.261-262; Đ5, tr.405-407; V17, tr.261.

        NĂM 1226 (BÍNH TUẤT)

        Ngày 25 tháng 9 (10 tháng Tám – Bính Tuất)

203. Huệ Tông Hạo Sảm qua đời

Về cái chết của nhà vua, Việt sử lược ghi vắn tắt như sau:

“Năm thứ 2, hiệu Kiến Trung (1226), tháng Tám, ngày Bính Tuất (Huệ Quang Thiền sư) mất ở chùa Thiên Giáo, miếu hiệu là Huệ Tông, ở ngôi 15 năm (có lẻ), cải nguyên một lần, niên hiệu là Kiến Gia, được 15 năm, thọ 33 tuổi, táng ở chùa Bảo Nha phủ An Hoa”.

Đại Việt sử ký (toàn thư, tiền biên) ghi nhận tác động của Trần Thủ Độ đối với việc triệt tiêu mầm mống nhà Lý như sau:

“Mùa thu, tháng Tám, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tôn ở chùa Chân Giáo. Trước là Thượng Hoàng nhà Lý thường ra chơi chợ Đông, nhân dân tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ sinh biến loạn, dời cho ở chùa Chân Giáo, giả cách là để phụng sự Phật, nhưng thực là để giữ kỹ. Có khi đi qua trước chùa, thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói: – Nhổ cỏ thì nhổ hết rễ. Huệ Tông đứng vùng dậy, phủi tay nói: – Câu ngươi nói ta hiểu rồi! Đến đây sai người bày biện hương hoa và bảo: – Thượng phụ sai thần đến xin một việc! Thượng Hoàng nhà Lý nói: – Ta tụng kinh xong sẽ tự tử! Rồi vào trong buồng ngủ khấn rằng: – Thiên hạ của nhà ta đã về nhà mày rồi, mày lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến ngày khác con cháu nhà mày cũng lại như thế! Bèn tự thắt cổ ở vườn sau chùa. Thủ Độ sai các quan đến khóc, khoét thành phía Nam làm cửa (người bấy giờ gọi là cửa khoét), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang; tôn miếu hiệu là Huệ Tôn. Giáng Huệ hậu làm Thiên Cực Công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, lấy châu Lạng làm ấp thang mộc”.

Nguồn: V17, tr.201; Đ4, tr.265; Đ5, tr.415-416.

        Ngày 30 tháng 9 (15 tháng Tám – Bính Tuất)

204. Lý Long Tường bắt đầu vượt biển tìm đường tới Cao Ly

Lý Long Tường là con thứ 7 của Lý Long Xưởng (1155-1219), gọi Long Hãn Lý Cao Tông bằng chú ruột, sinh vào khoảng 1194 (Giáp Dần, năm Thiên tư Gia Thụy 9), từng được giao trọng trách về binh nghiệp. Khi Trần Cảnh vừa tiếm ngôi đã phong ông làm Thái sư Thượng trụ quốc, Khai phủ Nghị đồng tam tư, Thượng thư Tả bộc xạ, lĩnh Đại đô đốc, tước Kiến Bình vương. Niên hiệu Kiến Trung thứ 2 đời Trần Thái Tông tháng Tám ngày rằm (30-9-1226). Ông đã cùng gia tộc thuộc vài trăm người bôn xuất. Trước khi ra đi, Lý Long Tường đã bí mật về cố hương tạ biệt lăng miếu, tới Thái miếu thu gom các bài vị, các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ Sơn đem hết tông tộc xuống thuyền. Sáu tháng sau, đoàn thuyền gặp bão, phải vào trú tại Đài Loan. Con trai của ông là Lý Đăng Hiền cùng với vợ con được ở lại đảo này còn đoàn thuyền tiếp tục vượt biển, đổ bộ lên cửa Phú Lương Giang, quận Khang Linh (Ong Jin-Gun), tỉnh Hoàng Hải (Hwang hac), thuộc Bắc Cao Ly. Vị trí đổ bộ này tên là Nak-nac-wac (Bến của khách phương xa mang theo đồ thờ cúng), được vua Cao Tông (Kojong) cùng quần thần tiếp kiến bằng bút đàm, ban đồ tiếp tế và cho lập cư ở Ung Tân phủ Nam Trấn Sơn (Chin Sang). Vương cùng thân tộc gắng sức mưu sinh, không quên luyện rèn võ lược.

Năm 1253, quân Nguyên Mông xâm lăng Cao Ly. Chiến thuyền và bộ binh Mông Cổ chiếm được nhiều nơi, đe dọa cả Kinh đô. Nhiều tướng Cao Ly tử trận. Trước tình hình ấy, Kiến Bình vương Lý Long Tường yết kiến Thái úy Vi Hiển Khoan để hiến kế sách rồi cưỡi ngựa đôn đốc binh sĩ. Sau 5 tháng kháng chiến kiên cường, quân Nguyên Mông phải rút lui. Trong lễ mừng chiến thắng, nhà vua phong cho vương Lý Long Tường làm Hoa Sơn Tướng công theo tên núi nơi ông cư ngụ, cho dựng bia trên núi ghi khắc công lao, lại ban tặng 3 chữ Thụ Hàng Môn (cửa giặc đầu hàng).

Nguồn: V22.

        NĂM 1237 (ĐINH DẬU)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Đinh Dậu)

205. Trần Thủ Độ và Thiên Cực Công chúa đem vợ Trần Liễu là Công chúa Thuận Thiên lập làm Hoàng hậu Thuận Thiên

Khi ấy, Thuận Thiên Lý thị đang là vợ của Hoài Vương Trần Liễu, anh của Thái Tông Trần Cảnh. Do việc ấy, Hoàng hậu Chiêu Thánh bị giáng làm Công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con, mà Thuận Thiên thì có mang Quốc Khang ba tháng. Trần Thủ Độ và Công chúa Thiên Cực mật mưu với vua là nên mạo nhận lấy để nhờ về sau. Cuộc tranh đoạt ấy khiến Trần Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn, còn nhà vua trong lòng áy náy không yên, đêm ra khỏi thành đến ở nhà Phù Vân Quốc sư (Quốc sư là bạn cũ của Trần Cảnh) ở núi Yên Tử. Ngày hôm sau, Trần Thủ Độ đem các quan đến đón Thái Tông về Kinh sư. Vua nói: – Trẫm còn trẻ tuổi, chưa cáng đáng nổi việc nặng nề, Phụ hoàng đã vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, không dám ở ngôi vua mà làm nhục xã tắc! Thủ Độ cố nài xin hai ba lần, vua vẫn chưa nghe. Thủ Độ bèn bảo mọi người rằng: – Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đấy! Bèn cắm nêu trong núi, chỗ này làm điện Thiên An, chỗ kia làm gác Đoan Minh sai người xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế, tâu rằng: – Bệ hạ nên gấp về Kinh sư, chớ để làm hại núi rừng của đệ tử! Vua bèn về Kinh. Được hai tuần, Trần Liễu tự biết thế cô, khó lòng đối lập được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ Thái Tông xin hàng. Khi ấy vua đương ở thuyền lớn, nhìn nhau khóc. Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, rút gươm thét to rằng:- Giết chết tên giặc Trần Liễu! Vua giấu Trần Liễu ở trong thuyền, vội vàng bảo Thủ Độ rằng: – Phụng Càn vương (Phụng Càn là hiệu cũ của Liễu về thời nhà Lý) đến hàng đó thôi! Và lấy mình che đỡ cho Liễu. Thủ Độ tức lắm, ném gươm xuống sông nói: – Ta chỉ là con chó săn tôi, biết đâu anh em nhà ngươi thuận nghịch thế nào? Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về. Lấy đất các xã Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc và phong làm Yên Sinh Vương, ở đất ấy. Binh lính theo làm loạn ở sông Cái đều bị giết cả.

Nguồn: Đ4, tr.273; Đ5, tr.428.

        NĂM 1247 (ĐINH MÙI)

        Tháng 3 (tháng Hai – Đinh Mùi)

206. Đào Dương Bật thi đậu Thái học sinh kỳ thi Đại Ty

Đào Dương Bật vốn gốc họ Dương ở Thanh Hóa Nội trấn, chuyển sang họ Đào và di cư đến Át Lỗ thuộc Thanh Hóa Ngoại trấn hồi đầu triều Trần. Tại kỳ thi này, Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ Thám hoa.

Nguồn: Đ11; Đ4, tr.278; Đ5, tr.436.

        NĂM 1248 (MẬU THÂN)

        Tháng 7 (tháng 6 – Mậu Thân)

207. Hoàng hậu Thuận Thiên băng hà

Bà là Hoàng trưởng nữ của Huệ Tông Hạo Sảm và Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị, không rõ được gả cho Phùng Càn vương Trần Liễu năm nào. Bà bị chính mẹ mình khi đó cho xuống làm Thiên Cực Công chúa, rồi lại cùng Trần Thủ Độ đồng mưu cướp cho Thái Tông Trần Cảnh, gạt con gái thứ hai là Chiêu Thánh xuống làm Công chúa.

Sau khi về làm vợ Thái Tông Trần Cảnh, bà sinh Trần Quốc Tảng – con Trần Liễu rồi Trần Hoảng (1240) – tức Thánh Tông sau này; Trần Quang Khải (1246); Thái Đường Công chúa (1248) – sau lấy Vũ Tỉnh và là mẹ của Vũ Thành.

Khi ở với Trần Liễu bà đã sinh được Trần Doãn – anh của Trần Quốc Tảng.

Nguồn: Đ4, tr.278; Đ5, tr.437.

        NĂM 1258 (MẬU NGỌ)

        Ngày 29 tháng 1 (1 tháng Giêng – Mậu Ngọ)

208. Thái Tông Trần Cảnh gả Công chúa Chiêu Thánh cho Lê Phụ Trần

Lê Phụ Trần, nguyên là Lê Tần, con của Lê Khâm, được giữ chức Ngự sử Trung tướng Tri tam ti viện sự vào năm 1250, có công phò tá Thái Tông Trần Cảnh đốc chiến chống quân Mông Cổ tràn sang từ Vân Nam theo đường sông Hồng. Như sử cũ ghi, ngày 12 tháng Chạp năm Đinh Tỵ (10-1-1258) tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Thai xâm lấn đồng Bình Lệ. Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước xông pha tên đạn. Quan quân hơi núng, vua ngoảnh lại hai bên, chỉ có Lê Phụ Trần (tức Lê Tần) cưỡi ngựa một mình ra vào trận giặc, sắc mặt như thường. Lúc ấy có người khuyên vua đóng lại để trông coi chiến đấu. Phụ Trần cố sức can rằng: – Như nay chỉ là bệ hạ dốc túi đánh nước cuối cùng thôi. Nên lánh đi, chớ nên nhẹ tin lời người ta. Bấy giờ vua mới lui quân đóng ở sông Lô, Phụ Trần đi giữ ở sau, quân giặc bắn tới tấp. Phụ Trần lấy ván thuyền để che được thoát nạn. Thế giặc hăng lắm. Lại phải lui giữ sông Thiên Mạc. Phụ Trần theo vua bàn việc cơ mật, không mấy người biết.

Đến đây, nhân đuổi xong quân Mông Cổ, trăm quan vào chầu, Thái Tông Trần Cảnh ngự ở chính điện mừng trăm họ vẫn yên nghiệp như cũ, đinh công phong tước cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử Đại phu, đem Công chúa Chiêu Thánh gả cho và nói: – Trẫm không có khanh thì làm gì có được ngày nay. Khanh nên cố gắng để cùng được hưởng phúc sau này.

Nguồn: Đ4, tr.284-285; Đ5, tr.446-448.

        NĂM 1260 (CANH THÂN)

        Ngày 6 tháng 2 (1 tháng Giêng – Canh Thân)

209. Vợ chồng ông bà Dương Kiện – mở đầu tục lệ Cung tiến, gửi Hậu

Diên Khánh tự bi ký, tạo năm Hồng Đức thứ 10 (1479) dựng tại đình làng Cửa Ải, xã Hạ Bán Ngâm, lộ Bắc Giang (nay là đình thôn Môn Ải, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) ghi lại rằng:

“Vào năm Canh Thân niên hiệu Thiệu Long 3 (1260) tháng Giêng ngày mồng 1, chồng là Dương Kiện vợ là Nguyễn Thị Suyễn, tự đặt hiệu là Ông Ngộ Đạo, bà Ngộ Thiện. Hai người thường tự than rằng: Buồn thay! Thương thay! Tội chẳng gì lớn hơn là không có con nối dõi. Đạo trời không biết khiến cho chúng con đây không có con, lấy ai phụng dưỡng, lấy ai giúp đỡ! Nghĩ những điều bất thường có thể xảy ra nhanh chóng, lo lắng chốn địa ngục vất vả khổ sở, đời người tuy vui chỉ là huyễn hoặc, chẳng có gì tồn tại vững chắc, có rồi lại bị phá hỏng đi. Dân chúng ngưỡng mộ bậc thiện nhân, dám noi theo nương tựa vào bậc tín giả, cùng cúi xuống một tay nâng đỉnh. Bèn tạc ba pho tượng Phật cho chùa này, công việc đã hoàn thành, lưu truyền lại cho đời sau. Nhưng di tích có thể bị mai một, may được lão tăng trở về tiếp nối bước chân của tiền nhân. Nay gặp người hiền tài như gặp người nuôi dưỡng, không còn lo lắng. Tuy nhiên phúc đức sau này lưu lại ở mỗi thửa ruộng đất. Trong vườn chùa có hai khoảnh đất, hai khoảnh ở Tứ Lục nhà ta, ruộng mảnh ở vườn Đa Giá cùng với hoa quả trong vườn chùa, tất cả những vật đó đều giữ lại để thờ cúng trong các kỳ giỗ chạp. Ông giỗ ngày 12 tháng Hai, bà giỗ ngày 13 tháng Tám, đời đời phải cúng giỗ ông bà”.

Đây là tấm bia sớm nhất ghi lại sự ra đời của tục lệ Cung tiến, bầu Hậu ở Việt Nam. Vợ chồng ông bà Dương Kiện có thể được coi là người khởi xướng việc làm tốt đẹp này.

Nguồn: T12, tập 5, N04486; V5, tr.169-178.

 

NĂM 1261 (TÂN DẬU)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Tân Dậu)

210.  Viên ngoại lang Dương An Dưỡng bàn định với phái viên Mông Cổ

Do việc vua Mông Cổ sai Lễ bộ Lang trung là Mạnh Giáp, Viên ngoại lang Lý Văn Tuấn mang dụ thư đến (Dụ thư đại lược viết: Tất cả quan liêu, sĩ thứ nước An Nam, gồm áo, mũ, lễ, nhạc, phong tục đều theo như lệ cũ ở trong nước không phải thay đổi. Phải báo các tướng ở biên giới không được tự tiện dấy binh cướp bóc xâm lấn biên cương, quấy nhiễu nhân dân, nhân dân nước ấy đều nên yên ổn như cũ). Mạnh Giáp đến dự yến ở cung Thánh Từ. Nhà vua bèn sai Thông thị Đại phu Trần Phụng Công, Chư vệ Ký ban Nguyễn Thám, Viên ngoại lang Nguyễn Diễn sang Mông Cổ để thông hiếu. Mông Cổ phong vua làm An Nam Vương, ban cho 3 tấm tây cẩm, 6 tấm gấm kim thục và trao cho hổ phù, lại dụ kỳ tiến cống 3 năm nên chọn nho sĩ, thầy thuốc và người thông âm dương bói toán, các hạng thợ thuyền mỗi loại 3 người, cùng là trầm hương, tê giác, trân châu, đồi mồi, vàng bạc, ngà voi, chén sứ. Vua lại sai Viên ngoại lang là Dương An Dưỡng đến tạ ơn và xin định cống vật, xin miễn đòi các hạng người (Dương An Dưỡng được cử mang 3 tờ biểu có nội dung: 1) Định vật tiến cống; 2) Miễn đòi các hạng người; 3) Xin cho nhận Thích Bình Trường làm chức Đạt Lỗ Hoa Xích). Vua Mông Cổ đồng ý, ban cho đai ngọc, vải lụa, thuốc men, yếm xe, theo thứ bậc khác nhau.

Nguồn: Đ5, tr.452, 461.

        NĂM 1266 (BÍNH DẦN)

        Tháng 3 (tháng Hai – Bính Dần)

211. Viên ngoại lang Dương An Dưỡng được cử sang Mông Cổ đáp lễ

Bính Dần, [Thiệu Long] năm thứ 9 [1266] (Tông Hàm Thuần năm thứ 2, Mông cổ Chí Nguyên năm thứ 3), mùa xuân, tháng Hai, sứ Mông Cổ là Nậu Thích Đinh đến. Ta sai sứ sang Mông Cổ, Mông Cổ sai Nậu Thích Đinh sang bảo ta: – Ta trước sai sứ sang thông hiếu. Vì người làm việc mê muội không biết nghĩ lại, vì thế ta có việc dụng binh năm trước. Vua sai Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn sang để đáp lễ. Trước đấy Ngột Lương Hợp Thai người Mông Cổ bình định nước Đại Lý rồi đem quân xâm lược phía Nam, 3 lần sai sứ mang chỉ dụ đến, đều bị ta bắt giữ, họ liền đánh Bình Lệ. Thượng Hoàng phải chạy ra ngoài để lánh nạn. Quân Mông Cổ vào Kinh sư, gặp 3 người sứ trước, đưa ra khỏi ngực, thấy lạt tre trói thân thể hằn sâu vào tận da, đến khi cởi trói thì 1 người sứ bị chết, bèn thỏa ý chém giết. Ở được 9 ngày, vì không chịu được nóng, bèn kéo quân về, Thượng Hoàng sai quân đón đánh. Mông Cổ lại sai 2 người sứ trước dụ Thượng Hoàng vào chầu, Thượng Hoàng không nghe. Khi ta đã lấy lại được Kinh thành, thấy cung khuyết bị tàn phá, rất căm phẫn sự tàn bạo của Mông Cổ, liền trói 2 người sứ rồi thả cho về. Cho nên Thích Đinh đến bảo và nói việc 2 người sứ bị trói, có lẽ là trách ta đấy!

Nguồn: Đ5, tr.455-456; Đ4, tr.291.

        Tháng 10 (tháng Chín – Bính Dần)

212. Dương An Dưỡng về nước, mang theo thư và lễ vật của vua Mông Cổ

Thư có nội dung như sau:

“Theo bài Thánh chế của vua Thái Tổ Hoàng đế: phàm những nước đã quy phụ với Trung Quốc, thì vua phải thân hành đến chầu, cho con em ở tại Trung Quốc làm tin, biên nạp dân số, cung ứng quân dịch, nạp thuế khóa, còn đặt quan Đạt Lỗ Hoa Xích cai trị. Các khoản nói trên đều để tỏ rõ lòng trung thành làm nước chư hầu. Nay khanh cống hiến, không hề quá hạn ba năm, đủ biết lòng thành thật như trước, nên ta kể lại chế độ tổ tông nước ta, cũng lấy lòng thành thật tỏ bày vậy.Vả lại, vua chư hầu tới chầu, cho con em vào làm tin, nạp sổ dân, sổ thuế và xuất quân giúp nhau, xưa vẫn đã có, không phải mới ngày nay ta bày đầu. Khanh lo làm đầy đủ mấy khoản đó, thì Trẫm còn nói gì nữa, nếu chưa làm được, Trẫm cũng không trách, khanh cứ lo làm tròn bổn phận. Còn nói về việc xuất quân, cũng không phải đi chinh phục ở đâu xa mà lo. Chỉ sứ thần của khanh là Dương An Dưỡng tới nói có quân mọi Chiêm, Lạp và Sơn Liêu hay làm rối đáng lo. Như hai đám giặc mọi ấy biết phục tùng theo mình thì không cần chi đánh; cái đạo giao binh ai cho rằng dễ, nếu nó nghịch mạng thì mới dùng binh đánh dẹp. Huống chi quân lính của Vân Nam đóng tại đấy, khanh nên giúp sức để chóng thành công. Vả lại mỗi lúc tâu lên, khanh thường có lời nói thân mật như trong một nhà. Nay nghe Nậu Thứ Đinh ở bên ấy, có nhiều sự thường bị chống báng cấm đoán, không cho được hội đàm, quả như thế thì có phải lễ nghĩa thân mật trong một nhà đâu! Nghĩa vua tôi cũng như tình phụ tử, có lẽ gì tôi mà phản vua, con mà phản lại cha sao? Nếu Trẫm không nói ra, thì đãi khanh không có sự thành thật, khanh nên nghĩ lại cho chín chắn để tròn sự giao hảo trước sau như một”.

Nguồn: Đ4, tr.292; A1, tr.75.

        NĂM 1278 (MẬU DẦN)

        Tháng 4 (tháng Ba – Mậu Dần)

213. Phu nhân của Lê Phụ Trần là Công chúa Chiêu Thánh
qua đời

Chiêu Thánh lấy Phụ Trần hơn 20 năm, sinh được con trai là Thượng vị hầu Lê Tông, Công chúa là Ứng Thụy, Công chúa Lê Khuê. Đến 61 tuổi thì bà mất.

Đời sau, Đào Sư Tích lúc qua nơi ở cũ cuối đời của bà đã xúc cảm:

Ức tích Chiêu Hoàng chí thử phương

Canh điền tạc tỉnh đới sầu trường.

Mao gia hậu nhật thành linh miếu

Di tượng thanh cao tự sự chương”

(Chiêu Hoàng xưa ở chốn này,

Cày đồng, đào giếng thảm thay lòng người

Nhà tranh thành miếu thiêng rồi

Thanh cao di tượng rạng ngời sự chương)

Nguồn: Đ4, tr.297; Đ5, tr.465.

        NĂM 1282 (NHÂM NGỌ)

        Trong năm

214. Đào Dương Bật xây dựng căn cứ Đông Trang

Trước sự đe dọa của nhà Nguyên, vua tôi nhà Trần đã chọn Vũ Lâm thuộc đất Thanh Hóa Ngoại trấn xây dựng Hành cung để triều đình dùng làm hậu cứ khi giặc tràn đến Thăng Long. Khi ấy ấp Át Lỗ đã được đổi tên là Đông Trang nằm ngay ở cửa ngõ Hành cung Vũ Lâm. Để làm nhiệm vụ của một trạm tiền tiêu đối với hậu cứ, Đào Dương Bật đã cho xây dựng Yên Ninh tự để vừa cảnh giới vừa có thể chặn giặc tiến từ cửa biển Thần Phù. Từ hậu cứ Vũ Lâm, ngày 3 tháng Năm năm Ất Dậu (30-5-1285) hai vua xuất quân qua Đông Trang, thắng lớn ở phủ Trường Yên, chém đầu cắt tai kẻ thù nhiều không kể xiết.

Nguồn: Đ11; Đ4, tr.308; Đ5, tr.479; L10.

        NĂM 1324 (GIÁP TÝ)

215. Đào Toàn Mân đỗ đầu kỳ thi hương tại trường thi Bắc Giang lộ

Đào Toàn Mân, còn gọi là Toàn Bân hoặc Toàn Phú, gốc họ Dương ở Thanh Hóa Nội trấn, đầu thời Trần phải đổi sang họ Đào và chuyển cư về Song Khê, Cổ Dũng, lộ Bắc Giang (nay thuộc thành phố Bắc Giang), nổi tiếng học giỏi từ nhỏ. Sau khi đỗ kỳ thi Hương, ông mở trường dạy học tại quê nhà.

Nguồn: Đ11

        NĂM 1338 (MẬU DẦN)

        Ngày 16 tháng 5 (5 tháng Tư – Mậu Dần)

216. Tục Cung tiến, gửi Hậu do ông bà Dương Kin khởi xướng bắt đầu khai triển và lan tỏa

Vẫn theo Diên Khánh tự bi ký (1479), phải tới 80 năm sau sự kiện ông bà Dương Kiên tự nguyện Cung tiến, gửi Hậu mới lại tiếp nối ngay tại quê hương bản quán:

“Ngày mồng 5 tháng Tư năm Mậu Dần (16-5-1338) tại làng Cửa Ải, xã Hạ Bạn Ngâm, lộ Bắc Giang, ông Nguyễn Tộ Thư hiệu là Ninh Phần đã cùng vợ gửi ba khoảng ruộng lưu tại chùa Diên Khánh, một khoảnh ở cửa chùa Bạch Đa, một khoảnh ở cầu Cảo, một khoảnh ở Mục Xá, số ruộng đó giữ lại làm ruộng hương hỏa để giỗ ông vào ngày 21 tháng Ba, giỗ bà vào ngày mồng 5 tháng Năm, phải cúng giỗ đời đời.

Bà Nguyễn Thị Nhuyễn, ông Nguyễn Chiểu, ông Nguyễn Nại, ba người cùng cho hai khoảnh ruộng ở đồng Nhuế. Ông Nguyễn Lãnh cho 10 khoảnh rộng ở đồng Tha Lạc, ông Nguyễn Cố cho một khoản ruộng tại đồng Mão Liên.

Năm Kỷ Mão Khai Hựu 11, ngày 15 tháng Giêng (15-2-1339) ở xã Hạ Bán Ngâm, lộ Bắc Giang, ông Nguyễn Hàn hiệu là Bình Đẳng cùng với bà hiệu là Từ Thiện đã gửi lưu tại chùa Diên Khánh 5 khoảnh ruộng, lưu làm ruộng hương hỏa cho các ngày giỗ chạp, số ruộng ở sau trong vườn chùa và ruộng ở trên dưới nước là ba khoảnh, đông tây đều gần bãi tha ma. Một khoảnh ruộng ở Đăng Miệt, phía đông gần Nguyễn Nữu, phía tây gần Đinh Đê. Một thửa ruộng ở đồng Phu cửa Miếu, phía đông gần ruộng Nguyễn Hà Khước, phía tây ruộng Nguyễn Tư. Giỗ ông ngày 10 tháng Mười, giỗ bà ngày 25 tháng Mười một. Tăng Bảo Nữu cho một khoảnh ruộng ở Suy Trúc. Ông Thị vệ Nguyễn Khả Nguyên cho hai khoảnh ruộng bồi. Bà Nguyễn Thị Uông cho một khoảnh ruộng chia đôi.

Năm Tân Tỵ, ngày mồng 1 tháng Hai (10-3-1341) tại xã Hạ Bán Ngâm lộ Bắc Giang, ông Nguyễn Kỷ ở Thánh Dực gửi 4 khoảnh ruộng lưu lại chùa Diên Khánh, gồm 2 khoảnh ruộng trên dưới Nương Nhuế, A Duy, một khoảnh ruộng đất bồi đã cao, số ruộng này lưu lại làm ruộng hương hỏa để cho các tiết giỗ chạp đời đời.

Năm Mậu Tý, Thiệu Phong 8, ngày mồng 5 tháng Mười (17-11-1348) tại xã Hạ Bán Ngâm lộ Bắc Giang, tiểu Văn Công Hạ, Nguyễn Nữu hiệu là Chân Giác cùng với Hoàng Đại Nương gửi lưu tại chùa Diên Khánh 4 khoảnh ruộng. Đó là ruộng ở vườn cả trên dưới gồm hai khoảnh. Phía đông gần bãi tha ma, phía tây gần ruộng Triết Nhĩ, ruộng bà Hà 2 khoảnh, phía đông gần bên ruộng Phiên Nhuế, phía tây gần Nguyễn Sát. Một khoảnh ruộng ở bãi tha ma, phía đông gần ruộng Vũ Sàng, nay phía tây gần bãi tha ma, lưu làm ruộng hương hỏa, ngày giỗ chạp phải cúng hương oản đời đời.

Đại Tạng Thanh Sử Nguyễn Tín, Vũ Thị Tiên cùng cho vườn đã biến thành ruộng mạ, trên dưới gồm hai khoảnh.

Nguyễn Đãn người làng Cửa Ải xã Hạ Bán Ngâm cùng với vợ là Nguyễn Thị Liên gửi lưu lại bốn khoảnh ruộng, một khoảnh ở Nương Đông, phía đông gần ruộng Nguyễn Nữu, phía tây gần ruộng Nguyễn Chinh Kiều. Một khoảnh ruộng ở đồng Mặc, phía đông gần Trạm, tây gần quan trung (đường quan?). Hai khoảnh ruộng ở Ma Miệt trong đó một khoảnh phía đông gần ruộng Nguyễn Dẫn, phía tây gần mả. Một khoảnh phía đông gần ruộng Nguyễn Nữu, phía tây gần đồng Hội, lưu lại làm ruộng hương hỏa cho các ngày giỗ chạp. Ông giỗ ngày 5 tháng bảy, bà giỗ ngày 13 tháng Ba đời đời cúng giỗ.

Nguyễn Thị Thân cho hai khoảnh ruộng lớn. Ông Chân Tâm cho một khoảnh ruộng. Bà Nguyễn Thị Giới, ông Lê Điền cùng gửi bên vườn chùa một khoảnh ruộng mạ, lưu lại làm ruộng cúng giỗ”.

Nguồn: T12, tập 5, N0.4486; V5, tr.169-178.

        NĂM 1343 (QUÝ MÙI)

        Ngày 1 tháng 4 (15 tháng Ba – Quý Mùi)

217. Vợ chồng ông bà Thư đô hỏa Dương Mãng cung tiến xây dựng tháp phật

Nhất ký Thiên Long tự thường trụ tam bảo vật (Bài ký trên vật thường trụ Tam bảo chùa Thiên Long) tạo năm Thiệu Phong 3, dựng tại chùa Thiên Long trên núi Dục Thúy (còn gọi là Non Nước nay thuộc phường Thanh Bình – thành phố Ninh Bình) ghi lại rằng, vào năm trước bốn phương đàn việt, ông già bà lão trong quận cùng nhau quyên góp tiền của, sức lực xây dựng tháp phật. Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Thiệu Phong 2 hoàn thành. Sang mùa xuân năm Quý Mùi mở đại hội chúc mừng. Khi ấy những người biết tin đều đến làm lễ chiêm bái. Đến ngày 15 tháng Ba lập đàn, các nhà công đức làm vật thường trụ Tam bảo của chùa nên khắc vào bia truyền mãi đời sau.

Trong số những người đóng góp và được khắc ghi vào bia đá có vợ chồng Thư đô hỏa Dương Mãng – Phạm Thị Khả Lôi cung tiến 100 quan tiền.

Nguồn: T1, số 6/2011, tr.58-68.

        NĂM 1352 (NHÂM THÌN)

        Trong năm

218. Đào Toàn Mân thi đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ

Sau khi đỗ đạt, ông được bổ quan tại phủ Thiên Trường, tức lộ Sơn Nam sau này, đưa gia đình về khai hoang, lập ấp Song Khê (nay thuộc thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh – Nam Định). Tương truyền, tuy làm quan nhưng ông vẫn không bỏ nghề dạy học. Trong số học trò của ông đỗ đạt và thành danh, ngoài con trai là Đào Toàn Kim (sử sách thường ghi là Đào Sư Tích) còn có anh em Lê Hiến Phủ – Lê Hiến Từ, Trần Đình Thám, những người đỗ đạt cao khoa thi năm Giáp Dần (1374). Danh sư Chu Văn An đã tặng Đào Toàn Mân bốn chữ Đại sư vô nhị để bày tỏ lòng kính trọng và cảm phục của mình.

Nguồn: Đ11.

        NĂM 1366 (BÍNH NGỌ)

        Trong năm

 219. Bà Dương Thị Nương cung tiến ruộng đất cho nhà chùa Khánh Long

Chùa Khánh Long còn gọi là chùa Giầu thuộc xã Đình Xá (Bình Lục – Hà Nam). Theo văn bia Đại Phúc thông minh tạo năm Bính Ngọ, niên hiệu Đại Trị nhà Trần (1366) thì vào năm đó bà Dương Thị Nương cùng với nhiều người thuộc các dòng họ Phan, Lê, Trần, Đỗ, Nguyễn, Trương, Phạm được ghi danh vào bia này do việc Cung tiến ruộng đất cho nhà chùa.

Nguồn: T9, 2001, tr.654-664.

        NĂM 1369 (KỶ DẬU)

        Ngày 18 tháng 7 (15 tháng Sáu – Kỷ Dậu)

220. Nhật Lễ lên ngôi, lấy niên hiệu là Đại Đnh

Trần Dụ Tông không có con nên từ cuối tháng Tư – Kỷ Dậu, lúc đang ốm nặng đã xuống chiếu cho đón Nhật Lễ vào nối đại thống. Mặc dù nhà vua băng từ ngày 25 tháng Tư – Kỷ Dậu (31-5-1369) nhưng phải gần 2 tháng sau, Nhật Lễ mới được đón vào cung như sử cũ ghi lại: Tháng Sáu, ngày 10 mưa to gió lớn. Ngày 15, Hiển Từ Hoàng Thái hậu cho đón con thứ của cố Cung Túc Đại vương Dụ là Nhật Lễ vào lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Định năm thứ nhất.

Khi Nhật Lễ lên ngôi cũng là lúc sứ của nhà Minh là Trương Dĩ Ninh, Ngưu Lượng đến Thăng Long. Nhật Lễ được sử Minh ghi là Trần Nhật Kiên. Nhật Lễ sai Nguyễn Nhữ Lượng đến đón sứ Minh, xin cáo ấn nhưng không được, bèn cho Dỗ Thuấn Khâm sang báo tang, thỉnh mệnh còn Trương Dĩ Ninh vẫn ở lại đợi mệnh. Nghe tin sứ sang, vua Minh mặc áo trắng ngự cửa Tây Hoa gặp mặt, bèn mệnh cho Biên tu Vương Liêm sang tế, đem phúng năm mươi lạng bạch kim, năm mươi sấp lụa trắng. Lại sai Lại bộ chủ sự Lâm Đường Thần sang phong Nhật Kiên làm vuwng, tặng cho ấn vàng cùng bốn mươi sấp lụa gấm sợi vàng.

Về nguồn gốc Nhật Lễ, sử cũ cho biết:

“Nhật Lễ là con người phường chèo tên là Dương Khương. Mẹ Nhật Lễ gọi là Vương Mẫu, lúc diễn trò (có truyện Vương Mẫu hiến bàn đào, mẹ Nhật Lễ đóng là Vương Mẫu, do đấy làm hiệu), đang có thai, Dục thích sắc đẹp của nàng nên lấy về, đến khi sinh nhận là con của mình. Đến khi ấy vua băng, không có con nối ngôi, Thái hậu bảo quần thần rằng: “Dục là con đích trưởng không được làm vua lại mất sớm, Nhật Lễ không phải là con của Dục hay sao? Thế là sai người đón về lập làm vua, truy tôn dục làm Hoàng Thái bá”.

Hồ Nguyên Trừng trong Nam Ông mộng lục ghi lại khá chi tiết rằng:

“Nguyên trước kia, khi người con thứ ba của Minh Vương (Trần Minh Tông) là Hiến Vương (Trần Hiến Tông) đã lên ngôi, thì những người con đích của Minh Vương mới sinh ra: con trưởng là Cung Túc Vương (Trần Nguyên Dục), ngờ nghệch không hiểu về chuyện đời; con thứ là Lộc Tinh (Trần Dụ Tông) tuổi còn thơ ấu thì Hiến Vương mất, lại không có con thừa kế, nên Lộc Tinh đã vâng mệnh vua cha lên nối ngôi, ấy là Dụ Vương. Phong cho hai người anh thứ là Cung Tĩnh Vương (Trần Nguyên Trác) làm Thái úy, Cung Định Vương làm Tả tước quốc. Cung Định Vương là người trung hậu, thành thực, thờ vua thờ cha chu đáo, từng chân tơ sợi tóc không ai chê trách điều gì. Giao thiệp với người thì không thân lắm, cũng không sơ lắm; trước việc chính sự thì không có điều gì quá chê cũng không quá khen. Hồi Minh vương qua đời, Cung Định Vương để tang ba năm, mắt không lúc nào ráo lệ. Đoạn tang, quần áo không sắm các thứ tơ lụa màu mè; ăn không cần ngon; quả muỗm, cá hồng là những thức ăn quý ở phương Nam từ đấy tuyệt nhiên không tới miệng. Thờ Dụ Vương hơn mười năm. Khi Dụ Vương mất sớm không có con nối nghiệp, các quan đại thần bàn với nhau rằng: – Tả tướng quân rất tốt, nhưng không lý anh lại kế ngôi em!

Bèn theo lệnh Quốc mẫu đón con của Cung Túc Vương là Vong Danh (nghĩa đen là Không nhớ tên) về lập lên làm vua. Lúc bấy giờ, Cung Túc Vương cũng đã sớm mất […]. Con Cung Túc Vương thuở nhỏ không chịu học, chỉ thích chơi bời lêu lổng. Người ta nói bà mẹ đã tư thông với một người họ Dương ngoài hoàng tộc rồi đẻ ra Vong Danh, cho nên Vong Danh thường bị những người trong hoàng tộc khinh rẻ. Sau khi kế vị, Vong Danh để tang cha, không tỏ vẻ đau buồn, cử chỉ phần nhiều thất lễ, cất nhắc bọn tiểu nhân thân cận, miệt thị cha ông, làm cho đám khanh sĩ bất mãn”.

Nguồn: Đ4, tr.389; Đ5, tr.599; N1, tr;64-66.

        Tháng 9 (tháng Tám – Kỷ Dậu)

221. Nhật Lễ lấy con gái Cung Định vương Trần Phủ (Trần Nghệ Tông) làm Hoàng hậu

Cùng với việc ấy, Nhật Lễ tôn Hiển Từ Hoàng Thái hậu là Hiển Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái hậu; Nghi Thánh Hoàng Hậu là Huy Từ Tả Thánh Hoàng Thái hậu.

Nguồn: Đ4, tr.390; Đ5, tr.600.

        NĂM 1370 (KỶ DẬU – CANH TUẤT)

        Ngày 11 tháng 1 (14 tháng Chạp – Kỷ Dậu)

222. Nhật Lễ bỏ thuốc độc giết Hiển Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái hậu

Bà là Hoàng hậu của Trần Minh Tông, mẹ của Trần Dụ Tông, Trần Nguyên Dục và Thiên Ninh Công chúa Ngọc Tha. Là con gái của Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn, bà được thụ phong là Huy Thánh Công chúa từ nhỏ, nổi tiếng là người nhân hậu. Biết bà hối hận vì việc dựng mình lên ngai vàng, Nhật Lễ đã ngầm đánh thuốc độc giết bà.

Nguồn: Đ4, tr.390-391; Đ5, tr.601-602.

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Tuất)

223. Nhật Lễ muốn quay trở lại họ Dương, bỏ tên gọi Trần Nhật Kiên

Việc muốn trở lại họ Dương cùng với thói rượu chè hoang dâm, hàng ngày chỉ bày vẽ các trò để vui chơi khiến cho tôn thất, quan lại và dân chúng vô cùng chán ghét. Đồng thời, Nhật Lễ còn cho sứ sang nhà Minh cống voi, mừng nhà Minh bình định được vùng sa mạc, gấp gáp cử một sứ đoàn theo Trương Dĩ Ninh sang chầu tại Nam Kinh. Minh sử (Q.321 – Ngoại quốc) chép sự kiện này vào mùa xuân năm Hồng Vũ thứ tư (1371) có lẽ chậm 1 năm.

Nguồn: Đ4, tr.391-392; Đ5, tr.603-604; A3, tr.84.

        Ngày 4 tháng 11 (20 tháng Chín – Canh Tuất)

224. Cha con Thái tổ Trần Nguyên Trác tổ chức giết Nhật Lễ bất thành

Ngoài con trai là Trần Nguyên Tiết, Thái tổ Trần Nguyên Trác còn nhận được sự hưởng ứng của hai người con của Công chúa Thiên Ninh và nhiều người trong tôn thất. Khi hay tin mọi người kéo vào cung cấm tìm giết mình, Nhật Lễ đã nhanh chóng trèo qua tường trốn nép vào cầu mới. Sau một hồi lùng sục không thấy, mọi người tan về. Gần sáng, Nhật Lễ vào cung, sai người chia đi bắt những người chủ mưu, cộng được 18 người, đem giết tất cả.

Về cuộc bạo động này, Hồ Nguyên Trừng viết: “Được một năm, những kẻ ngang ngạnh trong hoàng tộc cùng nhau làm loạn, bị Vong Danh bắt được đem chém, nhiều người liên lụy bị chết oan trong vụ này rất đông. Vong Danh còn ngầm mưu khử sạch những người có tên tuổi trong họ Trần, bèn giết Thái Tổ ngay tại nhà”.

Nguồn: Đ4, tr.392; Đ5. Tr.604; N1, tr.66.

        Ngày 5 tháng 11 (21 tháng Chín – Canh Tuất)

225. Thái sư Trần Phủ cùng nhiều người trong hoàng tộc chạy lên trấn Đà Giang

Hồ Nguyên Trừng cho biết “Thái sư đang đêm phải lẻn trốn. Đến sáng hôm sau, những người cùng làm quan trong hoàng tộc, đều mang gia quyến chạy hết; Đô thành vì vậy vắng tanh. Thái sư theo đường hẻm tới tận vùng man động xa xôi, ý muốn tự tận, nhưng những kẻ xung quanh đã ngăn lại. Người man động giữ Thái sư ở đây hàng tháng trời, ai cũng biết tiếng Thái sư. Các quan trong tông thất nối nhau tìm tới. Quân lính do con Cung Túc Vương sai đi lùng bắt Thái sư cũng đều chạy về phía Thái sư cả”.

Sử cũ ghi việc này diến ra vào tháng Mười – Canh Tuất và cho rằng Thái sư Trần Phủ vì chưng có con gái làm Hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình, tránh ra trấn Đà Giang (tức là phủ Gia Hưng), ngầm hẹn với em là Cung Tuyên vương Kính Chương, Túc Quốc Thượng hầu Nguyên Đán và Công chúa Thiên Ninh Ngọc Tha cùng họp nhau ở sông Đại Lại phủ Thanh Hóa để dấy binh. Bấy giờ Nhật Lễ chuyên dùng Thiếu úy Trần Ngô Lang, không biết Ngô Lang cùng mưu với vua [tức Thái sư Trần Phủ], mỗi khi sai tướng đi đánh bắt, Ngô Lang ngầm bảo đi theo vua mà trở về; nhiều lần sai các quân Nam Bắc, không một người nào quay lại. Ngô Lang xin đi, Nhật Lễ không cho. Trước vua vốn không có ý gì về việc lấy nước, Công chúa Thiên Ninh bảo vua rằng: – Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại bỏ cho người khác, ông nên đi, tôi đem bọn gia nô dẹp yên được.

Nguồn: N1, tr.66-67; Đ4, tr.392-393; Đ5, tr.604-605.

        Ngày 26 tháng 2 (13 tháng Một – Canh Tuất)

226. Nhật Lễ bị phế làm Hôn Đức Công

Kết thúc sự nghiệp của Nhật Lễ trên ngôi báu, sử cũ chép hết sức vắn tắt như sau: “Tháng Một, Thái sư cùng Cung Tuyên vương và Công chúa Thiên Ninh đều đem quân về Kinh sư. Ngày 13 đến phủ Kiến Hưng (tên cũ là Hiển Khánh), hạ lệnh phế Nhật Lễ làm Hôn Đức Công. Ngày 15, lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu, đại xá cho thiên hạ, xưng là Nghĩa Hoàng. Mọi công việc đều theo lệ cũ đời Khai Thái […]. Ngày 21, xa giá về đến bến Đông, Ngô Lang đưa Nhật Lễ mặc áo thường đến xin nhường ngôi, xuống thuyền đón tiếp. Vua bảo Nhật Lễ rằng: – Không ngờ ngày nay sự thể đến thế này! Lại đem giam Nhật Lễ ở phường Giang Khẩu”.

Hồ Nguyên Trừng cho biết: “Hữu Tướng quốc đốc thúc các quan khuyên mời Thái sư trở về Kinh đô để dẹp yên nơi cung điện. Thái sư sụt sùi thoái thác rằng:

– Chư vị sớm… trở lại Kinh thành, khéo giúp minh quân, chuyển loạn thành trị, đặt nước nhà vào thế yên ổn thì ta đến chết cũng vẫn chịu ơn. Ta có tội với Chúa thượng, thoát thân chạy trốn, chờ chết ở chốn núi rừng cũng đã là may, đâu dám có lòng này dạ nọ. Xin chư vị chớ nên cố ép.

Mọi người đều xôn xao, hết lượt này đến lượt khác khẩn khoản dâng thư, thề chết không đổi ý định, cố nài Thái sư lên đường, rồi dùng vai làm kiệu đưa Thái sư xuống núi. Người gần xa tụ tập đông nghịt, tiếng hoan hô vang động cả một góc trời. Khi về cách Đô thành ba trăm dặm, lão tướng Nguyễn (Trần) Ngô Lang bảo con Cung Túc Vương (Nhật Lễ) tự tay viết tội trạng mình và xin thoái vị, xong mang ra để đón xin lỗi Thái sư. Con Cung Túc vương phục xuống đất xin tha tội. Thái sư cũng xoài ra đất ôm con Cung Túc vương khóc lóc hết sức thảm thiết mà rằng:

– Làm sao Chúa thượng phải đến nông nỗi này? Thật không may cho thần, nào ngờ có ngày hôm nay!

Hữu Tướng quốc tuốt gươm thét lớn rằng:

– Trời sai trị tội, kẻ có tội sao được lắm lời? Thái sư lẽ nào lại vì chút lòng nhân huệ mà bỏ nghĩa lớn?

Bèn quát bảo quân tướng lôi con Cung Túc Vương đi, giục người có trách nhiệm chuẩn bị làm lễ rước Thái sư lên ngôi, phế con Cung Túc Vương làm Hôn Đức Công. Thái sư vào thành yết tông miếu, vừa khóc vừa khấn vái rằng:

– Sự việc hôm nay thật ngoài ý muốn của thần. Vì nền xã tắc, thần không thể từ chối. Trái lẽ trung hiếu, thẹn sợ trong lòng. Nguyện từ bỏ sự tôn quý và vinh dự của thần để thực hiện phần nào chí cũ”.

Nguồn: Đ4, tr.393; Đ5, tr.606; N1, tr.

        NĂM 1371 (CANH TUẤT – TÂN HỢI)

        Ngày 3 tháng 1 (21 tháng Một – Canh Tuất)

227. Nhật Lễ giết hại Trần Ngô Lang

Biết được từ lâu Trần Ngô Lang vẫn ngấm ngầm giúp Thái sư Trần Phủ, vì thế trước khi bị giam ở Giang Khẩu, Nhật Lễ còn triệu viên tướng này vào nghe lệnh rồi bất ngờ bóp cổ cho tới chết. Nhận được tin dữ, cháu Ngô Lang là Trần Thế Đô đem chuyện ấy tâu lên nhà vua. Nhật Lễ và con là Liễu bị đánh chết.

Nguồn: Đ4, tr.394; Đ5, tr.606.

        Tháng 5 (tháng Ba nhuận – Tân Hợi)

228. Quân Chiêm Thành được mẹ của Nhật Lễ cầu cứu, kéo vào tàn phá Thăng Long

Đích thân vua Chiêm Thành là A Đáp A Giả chỉ huy đạo quân này, từ cửa bể Đại An (nay thuộc Nghĩa Hưng – Nam Định) tiến thẳng vào Kinh đô. Do lâu năm không có binh hỏa nên biên thành không có sự phòng bị, giặc đến không có quân chống đỡ. Nghệ Tông phải lánh sang Đông Ngàn. Quân Chiêm Thành vào thành làm loạn, bắt con gái, cướp ngọc lụa, đốt phá cung điện, sổ sách. Cung điện cũng bị thiêu trụi.

Nguồn: Đ4, tr.396-397; Đ5, tr.610-611.

        NĂM 1374 (GIÁP DẦN)

        Tháng 3 (tháng Hai – Giáp Dần)

229. Đào Toàn Kim (Sư Tích) thi đậu Trạng nguyên

Thi đình các Tiến sĩ, cho Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ Bảng nhãn, Trần Đình Thâm đỗ Thám Hoa, từ La Tu trở xuống cho đỗ Hoàng giáo cập đệ và đồng cập đệ; đều được ăn yến và áo xấp, xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Dẫn ba người đỗ đầu đi chơi phố 3 ngày. Theo lệ cũ, Thái học sinh 7 năm một lần thi, lấy 30 người đỗ mà thôi. Thi Trạng nguyên thì không có định lệ nhưng thuộc quan ở Tam quán, Thái học sinh, Thị thần học sinh, Tướng phủ học sinh và người có tước phẩm đều được vào thi cả.

Bài thi Đình của Đào Sư Tích có đoạn như sau: “Thần cúi đọc lời Thánh sách rằng “Tìm người tài chưa đúng cách là do việc làm của trẫm không đốc thực. Dùng người chưa đúng với tài năng của họ là do sự xét đoán của trẫm không sáng tỏ. Đối đãi họ chưa hết lòng mình là do ý trẫm chưa thành thực”. Ở chỗ này thần thấy bệ hạ hiểu rất sâu sắc về đường lối trị nước nhưng chưa bao giờ tự cho mình là đầy đủ cả. Thần kính nghĩ: Bệ hạ luôn luôn chăm lo trị nước chỉ lấy việc cầu hiền là cấp bách nhất. Không bỏ sót người hiền tài nơi thôn dã, đưa người tuấn tú ra làm quan.Việc làm đó há không có chỗ không hậu thực và tìm người há có chỗ chẳng đúng cách ư? Những người có tài kinh luân thì để họ ở nơi “đỉnh huyền” (nơi chủ chốt của triều đình). Những người am hiểu thao lược thì đưa họ ra làm quan ở nơi phiên trấn; cho đến cả các ty, các phủ ở bên dưới không một nơi nào mà không dùng đúng với tài năng và chức tước của họ. Sự suy xét ấy há có chỗ nào không sáng tỏ và sự dùng người há có ai không xứng đáng với tài năng của họ ư? Những bậc tể phụ không dùng làm những việc nhỏ nhặt, những vệ sĩ có nanh vuốt có thể khiến họ đem toàn lực liều chết cho triều đình. Đến như cả kẻ sĩ đại phu không một ai không lấy lòng thành thực để đối đãi chăm sóc họ rất hậu. Tâm chí của nhà vua há có chỗ nào không thành thực và đối đãi với họ há có chỗ không hết mình? Nhưng tất cả các điều ấy chẳng phải bệ hạ không có khả năng làm được! Điều cần suy nghĩ là việc làm hoặc chưa đến nơi đến chốn mà thôi. Thần mong hệ hạ hãy thận trọng khi sự việc đã kết thúc cũng như lúc mới bắt đầu, theo lòng ấy để thi hành. Việc làm đã hậu thì càng suy nghĩ để hậu thực thêm; sự suy xét đã rõ ràng thì càng lo nghĩ để sáng tỏ thêm, lòng đã thành thực thì càng lo lắng để thành thực thêm. Như thế thì đạt được hiệu quả hết mức của ba điều ấy thật không khó vậy!”.

Nguồn: Đ4, tr.399; Đ5, tr.615; T9, 1995, tr.338-345.

        NĂM 1375 (ẤT SỬU)

        Ngày 27 tháng 2 (5 tháng Hai – Ất Sửu)

230. Lệ Cung tiến, bầu Hậu có bước phát triển mới

Diên Khánh tự bi ký (1479) ghi tiếp về ảnh hưởng việc làm của vợ chồng Dương Kiện: “Năm Ất Sửu tháng Hai ngày mùng 5 Thi Đô giám trường Nguyễn Ngọc Điển đã lưu lại một khoảnh ruộng ở đồng Phu, phía đông cận Nguyễn Cộng, phía tây gần mà, lưu lại làm ruộng hương hỏa cho ngày giỗ.

Quách Thị Chủ cho một khoảnh ruộng bà Hà, Nguyễn Thị Nhuyễn cho một khoảnh ruộng ở đồng Phần.

Năm Đinh Mão tháng Năm ngày mồng 1 (30-5-1377) người tu hành là Nguyễn Đoàn gửi lưu lại một khoảnh ruộng ở Duyên Đâu, phía đông gần ruộng Phạm Dụng, phía tây gần Nghê, lưu lại làm ruộng hương hỏa cho ngày giỗ.

Người làm Thị vệ Nguyễn Nhật cho một khoảnh ruộng ở Trầm Phần Phần, ông Phạm Phiên cho một khoảnh ruộng bà Hà.

Năm Canh Ngọ Quang Thái 3, tháng Năm (6-1390), Nội Hộ Nguyễn Điếm gửi lưu tại chùa Diên Khánh một khoảng ruộng trong vườn chùa, phía đông gần đường quan?, phía tây gần đường Tùng, lưu làm ruộng hương hỏa cho các kỳ giỗ chạp. Bố giỗ ngày 24 tháng Tám, mẹ giỗ ngày 25 tháng Năm, cũng giỗ đời đời.

Bà Nguyễn Thị Doanh cho một khoảnh ruộng ở Đống Luyện, lưu làm ruộng Tam bảo. Ông Nguyễn Điển cho một khoảnh ruộng ở đồng Mặc. Ông Nguyễn Độ cho một khoảnh ruộng ở Từ Nguyễn làm ruộng Tam bảo. Bà Phạm Thị Xuân cho một khoảnh vườn biến thành ruộng mạ, lưu làm ruộng để cúng giỗ, hương oản đời đời. Bà Nguyễn Thị Thường cho hai khoảnh ruộng ở Nương Đông lưu làm ruộng cúng giỗ vào ngày mồng 10 tháng Tám.

Bà Nguyễn Thị Thành cho hai khoảnh ruộng, trên dưới cửa ngõ đồng Phu Một. Ông Đặng Hoan và vợ Nguyễn Thị cùng cho một khoảnh ruộng ở cầu Cảo, lưu lại làm chi phí dầu đèn, hương hỏa trong ngày giỗ, đời đời cúng giỗ.

Năm Tân Mùi tháng Hai ngày mồng 1 (26-2-1391) tại xã Hạ Bán Ngâm, Cấm quân điện Hậu Đê hầu Nguyễn Ưu, sách phong là Nhật, ông Nguyễn Khi, ông Nguyễn Kỳ cùng lưu tại vườn một khoảnh ruộng mạ, phía đông gần tha ma, phía tây gần đường quan, làm ruộng hương hỏa giỗ cha mẹ đời đời.

Năm Nhâm Thân tháng Giêng ngày mồng 1 (17-1-1392) tại xã Hạ Bán Ngâm, ông Nguyễn Nhĩ Đái cùng vợ là Nguyễn Thị Viện cùng cho một khoảnh ruộng đường Đạo, phía đông gần ruộng Nguyễn Tân và Nguyễn Cự Địch, phía tây gần ranh giới đường quan. Lưu lại làm Tam bảo chùa Diên Khánh đời đời.

Năm Mậu Thìn tháng Hai ngày 15 (10-3-1448), bà Nguyễn Thị Công có thổ trạch ở làng Ải xã Hạ Bán Ngâm, cho làm ruộng Tam bảo đời đời. Phía đông gần ruộng Nguyễn Thị Đa Mai, phía tây gần Hương […] sau này […]. Cả xã cùng đề ký.

Năm Quý Tỵ Hồng Đức 4 (1473) tháng Chín, tu đạo Phật điện, đến tháng Một năm Hồng Đức 10 (1479) đúc chuông.

Ba khoảnh lưu lại chùa Diên Khánh”.

Nguồn: T12, tập 5, N0.4486; V5, tr.169-178

        NĂM 1379 (KỶ MÙI)

231. Lang tướng họ Dương được ghi nhận là người xây dựng am Bạch Dương

Quốc Oai trung lộ, Kim Bài tổn, Quách Xá xã, Quách Xá phường, Bạch Dương am (Văn bia am Bạch Dương, phường Quách Xá, xã Quách Xá, tổng Kim Bài, lộ Quốc Oai Trung) tạo năm Xương Phù thứ 3 triều Trần (1379) dựng tại chùa Xuyên Dương, tức am Bạch Dương, cho biết am này được xây dựng từ thời Trần Nhân Tông do tiên tổ một vị Lang tướng họ Dương xây dựng và mở mang ngày một khang trang. Để ghi nhớ công lao, Đức Hanh công Đoàn Kiêm ở trấn Chí Yên đã cho dựng bia và khắc bài minh nêu rõ: Xưa thời Lang tướng/ Có điện thờ phật/ Có nhà lễ phật/ Có ruộng tế tự/ Có phòng tiếp tăng (Tích tại Lang tướng/ Phụng phật hữu điện/ Lễ phật hữu đường/ Tư tự hữu điền/ Tiếp tăng hữu phong).

Nguồn: T1, số 5/2013, tr.68-70.

        NĂM 1381 (TÂN DẬU)

        Tháng 6 (tháng Năm – Tân Dậu)

232. Cha con Đào Toàn Mân được triều đình đắc dụng

Theo đó, người cha là Đào Toàn Mân được cử giữ chức vụ Tri thẩm hình viện sự còn con là Đào Toàn Kim (Sư Tích) giữ chức Nhập nội Hành khiển Hữu ty lang trung.

Năm Bính Dần (1386), Đào Toàn Mân qua đời, thọ 79 tuổi, được đưa về an táng tại Đồng Mới – sau gọi là Bãi Trạng thuộc Lim Xuyên – Song Khê (nay thuộc thành phố Bắc Giang). Tại Cổ Lễ, Đào Toàn Mân được tôn làm Thành hoàng, có đền thờ riêng.

Nguồn: Đ4, tr.408; Đ5, tr.626.

        NĂM 1384 (QUÝ HỢI – GIÁP TÝ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Quý Hợi)

 233. Đào Toàn Kim (Sư Tích) đề tựa sách Bảo Hòa dư bút

Tháng 7-1383, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga và Đại tướng La Ngai đem quân bộ tiến đến tận Quảng Oai uy hiếp Thăng Long, triều đình phải cho tướng Nguyễn Đa Phương đốc quân dựng rào trại ở Kinh thành ngày đêm chống giữ; Thượng hoàng Nghệ Tông phải ngự sang Đông Ngàn.

Tháng 1-1384, Chế Bồng Nga rút quân về nước. Khi ấy, Thượng hoàng ở cung Bảo Hòa dựng trên núi Lạn Kha (nay thuộc Phật Tích, Tiên Du – Bắc Ninh) bèn sai Thiên tri Nội mật viện sự Nguyễn Mậu Tiên, Lang trung lễ bộ Phan Nghĩa và gia thần của Vũ Hiến Hầu ở Tiên Du thay phiên nhau chầu chực, cho ăn và hỏi các việc cũ, hàng ngày ghi chép, biên thành 8 quyển, ghi là Bảo Hòa dư bút.

Đào Toàn Kim (Sư Tích) đề tựa đầu tập sách được dùng để dạy bảo quan này.

Nguồn: Đ4, tr.409-410; Đ5, tr.627.

        NĂM 1389 (KỶ TỴ)

        Tháng 5 (tháng Tư – Kỷ Tỵ)

 234. Phạm Cự Luận tiến cử Dương Chương với Hồ Quý Ly

Hồ Quý Ly sinh năm 1335, vốn tổ tiên là Hồ Hưng Dật, người Chiết Giang, thời Hậu Hán (947 – 950) sang nước ta, lúc đó là thời nhà Ngô (939 – 965), làm Thái thú Diễn Châu (Nghệ An). Sau cục diện Mười hai sứ quân, ông về hương Bào Đột (Quỳnh Lưu, Nghệ An), làm trại chủ vùng này và là thủy tổ dòng họ Hồ ở nước ta. Đến thời Lý, họ Hồ đã trở thành một họ lớn, có người lấy công chúa Nguyệt Địch sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Cháu đời thứ 12 là Hồ Liên dời ra hương Đại Lại (Hà Trung, Thanh Hóa) làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn. Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Lê Huấn. Hồ Quý Ly có hai bà cô được chọn làm cung nhân của vua Trần Minh Tông (1314 – 1357), một bà sinh ra vua Trần Nghệ Tông (1370 – 1395), một bà sinh ra vua Trần Duệ Tông (1372 -1377). Vua Trần Nghệ Tông còn gả em gái là Công chúa Huy Ninh cho Hồ Quý Ly và sau này, con gái trưởng của Hồ Quý Ly là Hoàng hậu của vua Trần Thuận Tông (1389 – 1398).

Là một quý tộc ngoại thích với nhiều quan hệ thân tộc chặt chẽ với các vua Trần, nhất là sự tin cậy của vua/ Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Hồ Quý Ly tiến thân rất nhanh và trở thành người có thế lực nhất trong triều đình. Từ chức Chi hậu tứ cục chánh chưởng, năm 1371, ông được thăng bổ làm Khu mật viện đại sứ, năm 1375 – Tham mưu quân sự, năm 1380 – Nguyên nhung hành Hải Tây đô thống chế, năm 1387 – Đồng bình chương sự, cương vị như Tể tướng. Có thể thấy, vào thời điểm này, trên thực tế Hồ Quý Ly đã nắm toàn bộ quyền lực quyết định mọi việc triều chính. Chính vì vậy, tháng Tư năm Quang Thái 2, ông đã cho Phạm Cự Luận làm Thiên thư Khu mật viện sự, rồi ỏi ai làm được thuộc Khu mật viện. Cự Luận bèn tiến cử em là Phạm Phiếm và Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Cảnh Chân đều là những người có danh tiếng, nhất là Đỗ Tử Mãn.

Tháng 5, cho Vương Khả Tuân Giám sát quân Thần Dực ở Ý Yên, Dương Cương Giám sát quân Thần Dũng.

Nguồn: Đ4, tr.414, 416; Đ5, tr.636; L7, tr.24.

        NĂM 1390 (CANH NGỌ)

        Ngày 10 tháng 3 (23 tháng Giêng – Canh Ngọ)

 235. Chế Bồng Nga chết trận, Đầu ngũ Dương Ngang được ban thưởng

Chế Bồng Nga cùng với hàng tướng Trần Nguyên Diệu khi ấy đem hơn 100 chiếc thuyền đến xem tình hình cử quan quân. Các thuyền khác chưa đến hội. Ba Lậu Kê là tiểu thần của Bồng Nga, bị Bồng Nga trách phạt sợ phải giết, chạy trốn sang quân ta, trỏ vào thuyền sơn lục bảo rằng đó là thuyền của Quốc vương. Khát Chân sai các súng đều bắn vào, Chế Bồng Nga bị trúng suốt đến ván thuyền mà chết. Người trong thuyền kêu khóc ầm lên. Trần Nguyên Diệu cắt lấy đầu của Bồng Nga định tâng công chuộc tội với quan quân. Đại đội phó Thương đô quân Long hiệp là Phạm Nhữ Lặc và Đầu ngũ là Dương Ngang bèn giết Nguyên Diệu và lấy cả đầu Bồng Nga. Quân giặc chạy tan. Trần Khát Chân sai Giám quân là Lê Khắc Khiêm bỏ thủ cấp của Bồng Nga vào hòm chở thuyền về báo tin thắng trận ở thành tại Bình Than. Bấy giờ đồng hồ đã điểm canh ba, Thượng hoàng đương ngủ say, bị kinh động thức dậy, cho là giặc đánh đến ngự linh. Đến khi nhe tin báo thắng trận nói rằng đã lấy được thủ cấp của Chế Bồng Nga thì mừng lắm, cho gọi các quan đến xem. Các quan mặc triều phục hô “muôn năm”. Thượng hoàng nói: – Ta với Chế Bồng Nga cầm cự với nhau đã lâu, ngày nay mới được thấy mặt, khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ”. Thiên hạ yên rồi. La Ngai đem các quân còn lại đến phía trên bờ sông Lô làm hỏa táng cho Chế Bồng Nga, rồi đêm ngày đi bộ men theo chân núi, gác đường sàn mà nấu cơm ở trên, vừa đi vừa ăn, đem cả quân về. Gặp quan quân đuổi theo đánh thì dừng voi lại mà tung tiền của ra để khỏi đuổi.

Lấy Trần Khát Chân làm Long tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng tướng quân, phong tước Vũ tiết quan Nội hầu, Phạm Khả Vĩnh (người Tây Chấn) làm Xa kị vệ Thượng tướng quân, phong tước Quan Phục hầu; Phạm Lặc và Dương Ngang thưởng tước 5 tư, thămg Phạm Nhữ Lạc làm giám Cấm vệ đô, cho Dương Ngang 30 mẫu ruộng. Còn các người khác được thăng chức tước theo thứ tự bậc khác nhau.

Nguồn: Đ4, tr.418-419; Đ5, tr.641-642.

        NĂM 1391 TÂN MÙI)

        Tháng 6 (tháng Năm – Tân Mùi)

 236. Thái úy Trang định Đại vương Trần Ngọc chạy ra trại Vạn Ninh nương nhờ Trại chủ Dương Đạc (Độ)

Lúc còn là Thái úy, khi Linh Đức Vương bị phế, Thượng hoàng Minh Tông đã xếp đặt ông vào ngôi vua. Vốn không ưa Thái úy nên Hồ Quý Ly vờ ủng hộ rồi gây sức ép buộc ông phải từ chối với lập luận không nhận ngôi báu là có đức lớn. Thượng hoàng tin là thật, bèn phong Trần Ngọc là Trang đinh Đại vương, đưa Trần Ngung – con út của Nghệ Tông lên ngôi, tức Thuận Tông Hoàng đế.

Kể từ đấy, hiềm khích giữa Hồ Quý Ly và ông ngày một lớn. Đến đầu mùa hè năm ấy, Thái úy phải bỏ trốn ra trang Nam Định rồi từ đó nhờ đưa bằng thuyền đến tại Vạn Ninh (phủ Hải Ninh, trấn An Quảng sau này). Hay tin, Thượng hoàng sai tướng coi quản Ninh Vệ là Nguyễn Nhân Liệt đến nhà Dương Đac (có bản ghi là Dương Độ) bắt về nhưng Nguyễn Nhân Liệt khi bắt được Thái úy lại theo lời Hồ Quý Ly, sát hại ông trên đường dẫn giải rồi về tâu Thượng hoàng rằng Thái úy vì bạo ngược nên bị người trại Vạn Ninh giết đi.

Sau, Thượng hoàng tỉnh ngộ, hỏi kẻ đuổi bắt Thái úy là ai. Nguyễn Nhân Liệt sợ hãi, tự thắt cổ chết. Khi Hồ Quý Ly giành được nước, vẫn không quên thù xưa, giáng Thái úy làm Liệt hiệu (Phán) Á hầu.

Nguồn: Đ4, tr.420; Đ5, tr.646.

        NĂM 1393 (NHÂM THÂN – QUÝ DẬU)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Thân)

237. Đào Toàn Kim (Sư Tích) bị giáng làm Trung thư Thị lang Đồng tri Thẩm hình viện sự

Nguyên do là Hồ Quý Ly làm sách Ninh đạo 14 thiên dâng lên, đại khái cho Chu Công là Tiên thánh, Khổng Tử là Tiên sư; ở Văn miếu thờ Chu Công ở chính giữa ngoảnh về phương nam; Khổng Tử ở bên ngoảnh về phương tây; lại cho rằng sách Luận ngữ có bốn chỗ ngờ như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, ở nước Trần hết lương, Công Sơn Phật Hất gọi mà Khổng Tử muốn đến, v.v… cho Hàn Dũ là đạo Nho, cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Hiệu, Trình Di, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý Diên Niên, Chu Tử đều là học thì rộng nhưng tài thì kém, không quan thiết đến sự tình, chỉ chuyên làm nghề lấy cắp văn chương của người xưa. Thượng hoàng ban chiếu khen ngợi. Quốc tử Trợ giáo là Đoàn Xuân Lôi dâng thư lên Thượng hoàng. Thư này cũng được Đào Toàn Kim đồng thuận nói Hồ Quý Ly bàn thế là không phải, (Xuân Lôi, người xã Ba Lỗ, huyện Tân Phúc, lộ Bắc Giang là người minh mẫn biết việc, làm quan đến chức Trung thư hoàng môn Thị lang kiêm tri Ái châu Thông phán, chết tại chức); bị đày đi châu Nghệ An còn Đào Toàn Kim (Sư Tích) bị giáng làm Trung thư Thị lang Đồng tri Thẩm hình viện sự.

Nguồn: Đ4, tr.421-422; Đ5, tr.649.

        NĂM 1396 (BÍNH TÝ)

        Ngày 19 tháng 3 (10 tháng Hai – Bính Tý)

 238. Đào Toàn Kim (Sư Tích), Nguyễn Ứng Long (Phi Khánh) đi sứ nhà Minh

Từ năm 1380 quan hệ giữa Đại Việt và nhà Minh bắt đầu trở nên rất căng thẳng. Tháng 9 năm 1384, yêu cầu Đại Việt phải cung cấp lương thực cho quân đội đang ở Vân Nam. Tháng 3 năm 1385, lại yêu cầu phải nộp 20 tăng nhân. Tháng 2 năm 1386, đòi phải nộp các loại cây ăn quả quý, cấp 50 thớt voi để đánh Chiêm Thành. Năm 1394, sai Hình bộ Thượng thư Dương Tĩnh dụ bảo Đại Việt sai chuyển tám vạn thạch gạo đến nuôi quân ở Long Châu. Quý Ly chuyển một vạn thạch, tặng một ngàn lạng vàng, hai vạn lạng bạc, nói đường bộ đến Long Châu hiểm trở, xin cho chuyển đến động Bằng Tường. Tĩnh không thể nghe, sai chuyển hai vạn thạch đến sông Đà Hải. Sông này cách Long Châu chỉ nửa ngày đường. Dương Tĩnh nhân đó tâu lên rằng: – Nhật Côn (Thuận Tông) tuổi nhỏ, việc nước đều do cha con Quý Ly quyết định, mới dám có ý chần chừ nghe ngóng như vậy! Bấy giờ, nhà Minh thấy Tông Thọ đã nạp khoản, dời quân sang chinh phạt các tộc man ở Hướng Vũ, bèn dụ Dương Tĩnh sai Đại Việt chuyển hai vạn thạch gạo cho quân, mà miễn cho số vàng bạc dâng hiến.

Tháng 6 năm 1395, quân Minh tiến đánh quân loạn ở Quảng Tây, yêu cầu Đại Việt phải cung cấp 5 vạn quân, 50 vạn thạch lương, 50 thớt voi. Về yêu cầu này nhà Trần chỉ nộp lương thực, quân Minh yêu cầu phải nộp tiếp tăng nhân, thanh niên và phụ nữ phục vụ chiến trường.

Các yêu cầu của nhà Minh ngày càng vô độ nên triều đình cần người tài giỏi đi sứ nhằm xoay chuyển tình thế. Bấy giờ nhà Trần ở vào thời mạt, quyền lực trong triều dần bị Hồ Quý Ly nắm lấy. Hồ Quý Ly khi tìm người thì thấy chỉ có mình Đào Sư Tích từng đỗ Trạng nguyên và Nguyễn Phi Khanh là có thể đáp ứng được yêu cầu này. Tuy nhiên lúc này Đào Sư Tích chán cảnh Hồ Quý Ly chuyên quyền nên đã cáo quan về quê bốc thuốc và dạy học. [Đây là khoảng thời gian qua tìm hiểu, Đào Sư Tích mới biết họ Đào vốn gốc họ Dương nên đã làm bài thơ Lão ngữ chư tử (Lời của già nói lại với các con): Dương Xá thiên thu trí Tổ phần/ Gia cư sinh tụ khởi phi chân/ Cố nhân ngự tặc nhưng tồn miếu/ Quản chỉ hồi chiêm lại hữu thần/ Kim trạch Tùng Khê thời dĩ cái/ Diệc ưu thủy lạo khí Canh tân/ Tồn tâm bồi trúc duy miêu duệ/ Dã đắc an toàn vạn cổ lân (Dương Xá ngàn thu đất Tổ phần/ Dựng nhà ăn ở chớ phân vân/ Người xưa chống giặc còn thờ tự/ Quê cũ thường trông có thánh thần/ Đất mới Tùng Khê thời đổi khác/ Bởi do nước lụt khí Canh tân/ Hậu lai bồi đắp đừng quên lãng/ Cầu được an bình mãi vạn xuân)]. Dù không ưa gì Đào Sư Tích nhưng vì không thể có ai thay thế, Hồ Quý Ly đành phải xin vua Trần cho Đào Sư Tích đi sứ. Khi Hồ Quý Ly triệu Đào Sư Tích vào triều còn ra lệnh nếu Đào Sư Tích không hồi triều đi sứ sẽ bị tru di tam tộc.

Để đề phòng dòng họ có thể bị sát hại, Đào Sư Tích đã kịp thời cho con cháu chuyển sang họ Phạm rồi mới về triều. [Về sau lại có người đổi từ họ Phạm sang họ Dương. Vì thế mà ngày nay từ đường họ Đào ở Cổ Lễ, quê của Đào Sư Tích có bức đại tự ghi là Đào – Phạm – Dương. Bên cạnh đó, có một nhánh con cháu họ Đào đổi sang họ Nguyễn].

Minh thực lục ghi nhận:

“Ngày 10 tháng Hai năm Hồng Vũ thứ 29 (19-3-1396)

Trần Nhật Côn (Thuận Tông) nước An Nam sai bọn bày tôi là Thông phụng Đại phu Đào Toàn Kim, Thiếu trung Đại phu Nguyễn Ứng Long dâng biểu cúng sản vật địa phương. Ban cho tiền giấy có sai biệt”.

Chuyến đi sứ này Đào Toàn Kim (Sư Tích) và Nguyễn Ứng Long (Phi Khanh) đã thuyết phục nhà Minh bỏ và giảm nhẹ nhiều lệ cống nạp hàng năm, trong đó bỏ hẳn được việc cống nạp tăng nhân, góp phần quan trọng kéo dài thời gian hòa hoãn cho Đại Việt.

[Tài năng của Đào Sư Tích khiến triều đình nhà Minh cũng phải e ngại, trong dân gian lưu truyền lại giai thoại:

Khi thời hạn đi sứ sắp hết, vua Minh có hỏi Đào Sư Tích rằng: – Nếu Bắc đánh Nam thì ai thắng.

Đào Sư Tích bèn ngâm hai câu thơ trả lời:

Bắc thắng, Nam thua, thua thua thắng

Nam thua, Bắc thắng, thắng thắng thua

Câu trả lời của Đào Sư Tích thể hiện được ý chí của nước Nam lại cũng không làm phật lòng vua Minh, giúp kéo dài thời gian hòa hoãn giữa hai nước, có lợi cho Đại Việt.

Vua Minh lại hỏi tiếp: – Nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly chuyên quyền, lòng dân ly tán, tại sao ta không thắng?

Đào Sư Tích cũng lại đáp bằng hai câu thơ:

Trần thực, Hồ hư, hư hư thực,

Cổ lai chinh chiến thực thực hư hư

(Nhà Trần là thực, Hồ chỉ là hư, hư là hư thực

Xưa nay chinh chiến thực thực hư hư)

Biết không dễ gì khuất phục được một người giỏi như Đào Sư Tích, vua Minh liền nghĩ cách giết đi. Vua trao cho vị quan chuyên tiếp đón Đào Sư Tích bốn phong thư và dặn rằng phải mở theo thứ tự.

Viên quan này mở phong thư thứ nhất thấy có câu “thượng văn vấn, hạ tri vương” nhưng không hiểu ý là gì bèn hỏi Đào Sư Tích.

Đào Sư Tích trả lời rằng: – Văn là nghe, nghe là tri, tri là nhĩ. Vấn là hỏi, hỏi là khẩu. Bên dưới có chữ vương. Hợp ba chữ: nhĩ, khẩu, vương thành chữ thánh. Vua Minh có ý bảo ta là thánh nhân đó mà. Vua Minh quá khen, cho ta là bậc thánh hiền. Ta đâu dám nhận lời khen đó.

Sau đó vị quan mở phong thư thứ 2, đây chính là đáp án giải nghĩa cho phong thư thứ nhất, đúng như những gì Đào Sư Tích đã giải nghĩa.

Phong thư thứ ba là sắc phong Đào Sư Tích làm Lưỡng quốc Trạng nguyên, tức Trạng nguyên của cả Trung Hoa lẫn Đại Việt.

Phong thư thứ tư có hai dòng chữ:

Hậu họa/ Nhất dược, nhị đao

Vị quan này hiểu rằng đây là mệnh lệnh phải giết Đào Sư Tích bằng đao hoặc độc dược nên ông rất buồn bã. Nhìn vẻ mặt của vị quan này Đào Sư Tích đoán được sự việc liền an ủi rằng: – Thánh thì thoát tục. Ông chẳng nên quá buồn rầu. Chỉ xin cho được chết bằng thuốc độc để ông khỏi phải khổ tâm khi phải trực tiếp giết ta.

Sau khi Đào Sư Tích qua đời, thi hài được đưa về nước mai táng].

Nguồn: Đ4, tr.410, 411, 424; Đ5, tr.628, 629, 653; A3, tr.86; M3, tập 1, tr.183; Đ11; N6.

        NĂM 1408 (MẬU TÝ)

        Trong năm

 239. Dương Khắc Chung, Dương Thế Chân nổi dậy chống quân xâm lược Minh ở phủ Thái Nguyên

Mượn chiêu bài Phù Trần diệt Hồ, mùa xuân năm 1406 nhà Minh cho tên Việt gian Nguyễn Khang đổi tên là Trần Thiêm Bình đi theo hàng vạn quân Minh do Hoàng Trung tràn vào Đại Ngu. Bị đẩy lui, nhà Minh lại cho Chu Năng đeo ấn Chinh Di tướng quân hùng hổ lên đường nhưng phải bỏ dở cuộc chiến vì viên Tổng binh này bị ốm chết giữa đường. Liền sau đó, nhà Minh phát động cuộc xâm lăng mới vào ngày 19-11-1406 với 80 vạn quân do Trương Phụ – Trần Húc và Mộc Thạnh – Lý Bân theo 2 ngả tiến vào Thăng Long. Trong khi quân đội triều đình của cha con họ Hồ thua chạy khắp nơi thì quân xâm lược vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của các đội dân binh và quân khởi nghĩa tại khắp các địa bàn. Ngay từ năm 1408, phủ Thái Nguyên đã là khu vực hoạt động của Chu Sử Nhan, Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trà, Dương Khắc Chung, Dương Thế Chân, Ông Lão… Trong số các thủ lĩnh nghĩa binh này, Ông Lão là người có thế lực nhất và đã xây dựng được căn cứ ở huyện Động Hỷ (thuộc Thái Nguyên). Nhà Minh ra lệnh cho thổ quan Ma Bá Hổ giữ chức Đồng Tri phủ Thái Nguyên phải tuyển mộ thêm thổ binh để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân trong vùng.  

Nguồn: K11, tr.65.

        NĂM 1411 (TÂN MÃO)

        Trong năm

 240. Dương Cao Thiên khởi nghĩa

Cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở khu vực Vạn Nhai – Lạng Sơn. Nghĩa quân chiếm cứ vùng núi hiểm yếu chống cự trước các cuộc tấn công của giặc.

Nguồn: M3, tập 1, tr.352.

        NĂM 1417 (ĐINH DẬU)

        Ngày 9 tháng 11 (1 tháng Mười – Đinh Dậu)

 241. Tổng binh Lý Bân sai Đô chỉ huy Chu Quảng đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Dương Tiến Giang tại phủ Thái Nguyên

Theo Minh thực lục, vào ngày tháng này, Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân sai Đô chỉ huy Chu Quảng mang quân đánh dẹp đầu đảng Dương Tiến Giang. Chu Quảng cho đánh phá các trại ở Bắc Trú, bắt Tiến Giang và các thủ lĩnh khác chém để làm răn. Các nghĩa binh còn lại tự tan rã.

Tuy nhiên, An Nam chí nguyên lại cho rằng, Dương Tiến Giang là một bộ phận của cuộc khởi nghĩa do Trần Nguyệt Hồ lãnh đạo nổ ra vào năm 1415 tại Thanh Hóa. Dương Tiến Giang hoạt động ở Thái Nguyên.

Trong khi sách Hoàng Minh thực lục cho rằng, Trương Phụ dẫn quân đi đánh Trần Nguyệt Hồ và đến tháng 11-1425 thì bắt được thủ lĩnh tại vùng Xích Thổ (nay thuộc Ninh Bình) thì An Nam chí nguyện lại viết: “Năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1415) Trần Nguyệt Hồ làm phản, Phương Chính tiến quân đánh úp tận sào huyệt, bắt sống được Tiến Giang”.

Như vậy, ngoài việc thời điểm vênh nhau 2 năm, tướng đánh dẹp khác nhau còn một điểm đáng lưu tâm nữa là, vào cuối năm 1407, Phạm Chấn khởi nghĩa ở Đông Triều đã lập Trần Nguyệt Hồ làm minh chủ. Cuộc khởi nghĩa thất bại ngay sau đó, Trần Nguyệt Hồ bị bắt. Vậy, điều còn lại là 2 nhân vật này có phải là một người không và nếu phải thì Trần Nguyệt Hồ trốn thoát vào lúc nào?

Nguồn: M3, tập 2, tr.47; A2, tr.216; K11, tr.87.

        Trong năm

 242. Nhiều người họ Dương bị bọn thống trị Minh đưa sang Yên Kinh

Nhà Minh định lệ hàng năm cống các nho học, sinh viên sung vào Quốc tử giám, nhà phủ học mỗi năm cống 2 người, nhà châu học 2 năm cống 3 người, nhà huyện học mỗi năm cống 1 người. Sau lại định nhà phủ học mỗi năm 1 người, nhà châu học 3 năm 2 người, nhà huyện học 2 năm 1 người.

Hoàng Phúc còn sức cho các hào phú, thổ quan là Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung, Đỗ Hy Vọng, Lương Sĩ Vĩnh, Dương Cự Giác đều phải đem người nhà đến Yên Kinh phục dịch để làm cung điện.

Nguồn: Đ4, tr.473-474; Đ5, tr.715-716.

 

        NĂM 1420 (CANH TÝ)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Canh Tý)

 243. Dương Cung khởi nghĩa

Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Người làng Chàng Kinh huyện Thủy Đường là Lê Ngã, đổi họ tên làm Dương Cung, tự xưng là Thiên thượng Hoàng đế, đặt niên hiệu là Vĩnh Thiên. Ngã vốn là gia nô của Trần Thiên Lại, tướng mạo đẹp, thường đi chơi bốn phương, ai cũng cung nuôi. Lại trá xưng là lính hầu của Mã Kỳ, hống hách các châu huyện, làm kế nuôi mình. Thấy Công Chứng, Phạm Ngọc, Phạm Thiện đua nhau dấy quân, Ngã bảo với người quen biết rằng: “Các anh có thích phú quý không? Ai thích thì theo ta đi”. Ngã bèn đến huyện Đan Ba ở Lạng Sơn, trá xưng là cháu bốn đời của Trần Duệ Tôn từ nước Lão Qua về. Phụ đạo ở Đan Ba là Bế Thuần gả con gái cho và lập làm vua. Trong khoảng mấy tuần một tháng, có quân hơn vài vạn người, đến Yên Bang giữ trại Hồng Doanh. Khi Công Chứng và Phạm Ngọc đã thất bại, dư đảng theo về với Ngã, thành ra có quân đến vài vạn người. Ngã tiếm xưng tôn hiệu, đặt niên hiệu, đặt quan, đúc tiền, đốt thành Xương Giang, cướp trại Bình Than. Có người biết rõ là Ngã cũng không dám nói. Trần Thiên Lại đến xem, ra ngoài nói rằng: – Nó là gia nô của ta, lạy nó làm gì! Bèn rời thuyền trốn đi. Ngã đuổi theo không kịp. Thiên Lại gửi hịch cho huyện bên cạnh, tự xưng là Hưng vận Quốc thượng hầu, đem quân đánh nhau với Ngã, bị Ngã giết chết. Lý Bân đem đại quân thủy bộ đến đánh. Ngã và Thuấn đều trốn đi đêm, không biết đi đâu.

Đại Việt sử ký tiền biên mô tả ngắn gọn hơn và có vẻ có cách nhìn hơi khác: “Thổ hào ở Đồ Sơn Phụng Hóa là Trần Thái Xung, Phạm Ngọc khởi binh bị Lý Bân đánh bại.

Lê Ngã người Thủy Đường làm loạn. Ngã giả xưng là cháu 5 đời của Duệ Tông từ Lão Qua về. Phụ đạo Đan Ba là Bế Thuấn gả con gái cho rồi lập lên, trong khoảng một tháng mộ được vài vạn người, tiếm xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Vĩnh Thiên, đặt quan chức đúc tiền, đốt phá Xương Giang cướp bóc trại Bình Than dư đảng của Trịnh Công Chứng, Phạm Ngọc đều theo, thế rồi Lê Ngã đổi họ tên là Dương Cung, có người biết Ngã là gia nô của Trần Thiên Lại (tôn thất nhà Trần). Thiên Lại đến trông thấy thì đúng như vậy, bèn truyền hịch đến huyện chung quanh tự xưng là Hưng Vận Quốc Thượng hầu đem quân đánh Ngã nhưng đều bị Ngã giết chết.

Lý Bân đem đại quân thủy bộ đến đánh, Ngã và Thuấn đều trốn, quân còn lại tan tác hết”.   

Nguồn: Đ4, tr.480; Đ5, tr.718-719

        NĂM 1421 (TÂN SỬU)

        Ngày 15 tháng 10 (19 tháng Chín – Tân Sửu)

 244. Dương Cung được cho là bị bắt đem sang Yên Kinh

Theo Minh thực lục, vào ngày này Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân sai Đô chỉ huy Vương Trung chỉ huy lực lượng tiến đánh, bắt được Dương Cung. Trước đây viên thủ lĩnh tiếm xưng vương, tụ tập đám đông làm loạn, quan quân truy đánh, Cung chạy trốn không bắt được. Sau vì bắt được người cậu tên là Đỗ Cô bèn bắt chỉ đường đến huyện Giáp Sơn, phủ Tấn An thì bắt được, liền cùm giải sang Bắc Kinh.

Chép như trên, Minh thực lục đã che dấu sự thật sau đây:

Khi chưa bắt được Dương Cung, Lý Bân tìm cách cho người đóng thế. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết “Lý Bân và nội quan là Lý Lượng bắt Phạm Luận là sinh viên ở huyện Giáp Sơn mạo là Dương Cung để tắc trách đối với chiếu mệnh lùng bắt, bắt đến cả gia thuộc của Luận là bọn Phạm Đỗ, đưa về Yên Kinh. Tri huyện là Đặc Khiêm làm chứng là không phải tên Cung, bọn Bân không nghe. Khiêm lấy bao vàng dâng đại cáo tâu thẳng về Yên Kinh. Bân sai người chặn đường bắt về. Hoàng Phúc khuyên Khiêm rằng: – Mọi người đều nhận là đúng, chỉ riêng anh bảo không phải là làm sao? Khiêm nói: – Ai có thể ra ngoài mà không qua cửa ngõ? Bân cho giải cả Khiêm và Luận về Yên Kinh, giao xuống cho pháp tư xét hỏi. Khiêm suýt nữa bị tội, vì anh của Khiêm đánh trống đăng văn khiếu oan được hỏi tội. Rồi sau thăng đầu đến chức Hữu bố chính sử nước ta. Gia thuộc của Luận rốt cuộc bị chết ở trong ngục”.

Dưới ách thống trị của nhà Minh, còn không ít người thuộc dòng họ Dương như Dương Thì Lợi, Dương Thái Nhất, Dương Công Đình, Dương Công Táo, Dương Huyền Trung đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Nguồn: M3, tập 2, tr.88; Đ4, tr.482; Đ5, tr.720

 

NĂM 1427 (ĐINH MÙI)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Đinh Mùi)

 245. Lê Lợi sai Dương Thái Nhất sửa chữa đền thờ Trần Hưng Đạo

Ngay khi còn sống, Trần Hưng Đạo đã được lập Sinh từ nằm ở phía đông nam đền Kiếp Bạc, thuộc khu Phủ đệ Thung Trong. Sinh từ sau trở thành đền thờ khi ông mất. Ngoài việc tu sửa, Dương Thái Nhất còn phải tuân thủ lệnh cấm không được chặt hạ cây cối quanh vùng. Ngoài ra, Lê Lợi còn sai Án sát Dương Thì Lợi tham gia tổ chức kỳ thi Hội đầu tiên, bổ 575 người làm Thuộc viên ở Viện Hàn lâm và 4 đạo mới giải phóng. Sau đại thắng bình Ngô, Dương Công Đình trở thành Nội giám, Dương Công Tảo được cấp thực ấp rộng 500 mẫu để lập làng Thụ Triền (nay thuộc xã Cảnh Hưng, Tiên Du – Bắc Ninh).

Nguồn: K3, tập 1, tr.777-778; V1.

        NĂM 1434 (GIÁP DẦN)

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Dần)

 246. Tri châu Phục Lễ Dương Đại Nhuệ cung tiến tu tạo đền thờ Dương Tam Kha tại Cổ Lễ

Mùa xuân năm Nhâm Tý (1432), Lê Thái Tổ đem quân đánh Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, đổi tên thành châu Phục Lễ, cho Dương Đại Nhuệ làm Tri châu.

Mùa đông năm Giáp Dần (1434), Tri châu Dương Đại Nhuệ trong dịp về thăm quê đã ghé thăm nơi thờ tự Dương Tam Kha ở Cổ Lễ, tổng Thần Lộ, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường – Nam Đạo (nay đền thờ thuộc thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh – Nam Định), thấy đổ nát tang thương bèn bỏ tiền cho tu tạo lại rồi dâng biểu lên triều đình tâu bày về công lao, sự tích vị thần nhân được dân thờ phụng. Nhận được biểu, Lê Thái Tông đã cho Bắc Đạo Tư mã Lê Văn An về làm lễ Quốc tế.

Đền thờ Dương Tam Kha về sau còn được Trấn thủ Sơn Nam là Dương Tùy Ngộ sửa chữa vào năm Quý Sửu, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1793) và lần sửa chữa thứ 3 do ông Dương Thiệu Nhân bỏ ra 300 quan vào thời Nguyễn.

Nguồn: C5.

        NĂM 1435 (ẤT MÃO)

        Trong năm

 247. Dương Huyền Trung được cử làm Hộ bộ Chủ sự Linh đại trang

Đây là chức vụ chuyên trông coi việc biên soạn lịch cho nhà nước.

Nguồn: Đ4, tr.553.

        NĂM 1441 (TÂN DẬU)

        Tháng 4 (tháng Ba – Tân Dậu)

 248. Hoàng hậu Dương Thị Bí xuống làm dân thường

Tháng Mười năm Kỷ Mùi (11-1439), Hoàng hậu Dương Thị Bí sinh Hoàng tử Nghi Dân. Đến ngày 21 tháng Giêng năm Canh Thân (14-2-1440) Nghi Dân được lập làm Hoàng Thái tử. Kể từ đó, Hoàng hậu ngày càng trở nên kiêu ngạo. Lê Thái Tông biết nhưng chỉ giáng xuống làm Chiêu Nghi, hy vọng sớm sửa đổi lỗi lầm. Tuy nhiên, Chiêu Nghi ngày càng chứa chấp lòng đố kỵ, không kiêng nể phép tắc. Nhà vua cho rằng người mẹ ác tâm như thế thì con cái khó là người tốt. Bèn cho giáng làm dân thường, xuống chiếu cho thiên hạ biết là ngôi Hoàng Thái tử chưa định đoạt.

Nguồn: Đ4, tr.575-576.

        NĂM 1448 (MẬU THÌN)

        Ngày 19 tháng 9 (1 tháng Chín – Mậu Thìn)

 249. Dương Chấp Trung thi đậu Hoàng giáp

Ông sinh năm 1414, người thôn Văn Thai, xã Sài Xuyên, tổng Lạc Xuyên, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, Thừa tuyên Nghệ An (nay thuộc xã Cẩm Minh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh) – con trai Tráng hiến Đại vương Bàn Thạch hầu Dương Công Cứ.

Theo Thái Hòa lục niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ đề danh bi ký (Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, năm Thái Hòa thứ 6) thì kỳ thi này được tổ chức vào mùa thu, ngày 23 tháng 8 năm Mậu Thìn (11-9-1448). Hoàng thượng ngự điện Tập Hiền, đích thân ra đề văn sách. Sai Đặc tiến Nhập nội Tư khấu Đồng Bình chương sự Trịnh Khắc Phục làm. Đề điệu, Ngự sử trung Thừa Ngự sử đài Hà Lật làm Giám thí, Môn hạ sảnh Tả ty Tả nạp ngôn Tri Bắc đạo quân dân bạ tịch Nguyễn Mộng Tuân, Hàn lâm viện Thừa chỉ Học sĩ Trình Thuấn Du, Quốc tử giám Tế tửu Nguyễn Tử Tấn làm Độc quyển. Ngày 1 tháng Chín năm Mậu Thìn (19-9-1448) lấy những bài thi có văn phong khí cốt đáng khen, chọn Nguyễn Nghiêu Tư trở xuống, ban cho đỗ Tiến sĩ cập đệ và xuất thân có thứ bậc khác nhau. Mọi nghi thức ban cấp áo mũ, yến tiệc đều tuân theo lệ cũ. Duy có việc dựng đá đề danh thì lúc đó chưa kịp tiến hành.

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa này được Hàn lâm viện Thị tộc Đông các Đại học sĩ Đỗ Nhuận soạn; bia dựng tại Văn miếu ngày 15 tháng Tám năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (25-9-1484), vẫn còn ghi đậm lời nhắc nhở:

“Nay những người được đề tên vào tấm đá này, cho dù nay đã có nửa phần tuổi tác đã cao, nhưng con người trung chính hay tà ngụy thế nào, việc làm được mất nên hư thế nào, công luận nghiêm xét, ngàn đời khó trốn.

Còn những người hiện đương tại chức, hãy nên nhớ lại ơn lựa chọn của tiên triều, ngẫm tới sự hiển đạt của mình ngày nay, tiết muộn đường dài, hãy thận trọng để khỏi hổ thẹn. Còn những người hậu tiến sờ vào tấm đá này, liếc nhìn bài văn này cũng nên biết cách thức khích lệ của thánh triều, kiếm tìm dấu tích danh thực của tiền bối, lựa lấy điều hay để theo mà bắt chước; đừng để cho đời nay phải chê trách đời trước, thế là việc rất tốt trong việc tốt vậy”.

Nguồn: V2, tr.37-42.

        Tháng 12 (tháng Một – Mậu Thìn)

 250. Dương Thắng Kim nổi dậy, bị đàn áp

Dương Thắng Kim, người sách Thám Già – Tuyên Quang hiệp với Nông Thế Ôn ở An Phú cùng Thừa tuyên từ lâu dựa vào thế đất toàn rừng núi hiểm trở không chịu nộp phú dịch cho triều đình. Phụ đạo An Phú là Nguyễn Doãn Bộ cáo giác, triều đình sai Tổng quản Lê Luân đem quân bản trấn bắt về Kinh đô xử tội.

Nguồn: Đ4, tr.591.

        NĂM 1449 (MẬU THÌN – KỶ TỴ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Mậu Thìn)

 251. Hoàng giáp Dương Chấp Trung được làm Khởi xá Cư nhân

Cùng vào dịp này, nhà vua cho lấy Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư và Tiến sĩ Trịnh Kiển làm Hàn lâm Trực học sĩ (vì Kiến nguyên là Đô quan Lục phẩm), Bảng nhãn Trịnh Thiết Trường, Thám hoa lang Chu Thiêm Uy làm Trung thư Xá nhân, Tiến sĩ Nguyễn Bá Ký làm Hàn lâm Tri chế cáo, Nguyễn Mậu, Dương Chấp Trung làm Khởi cư Xá nhân, Phạm Đức Khản, Nguyễn Đình Tích, Nguyễn Di Quyết, Đặng Nghi làm Hàn lâm Đãi chế, Bùi Phúc, Nguyễn Văn Chất, Phan Hoan, Nguyễn Thúc Thông làm Quốc sử viện Đồng tu sử, Phụ bảng là Đoàn Nhân Công 13 người sung Ngự tiền Học sinh; lại lấy An phủ Phó sứ Thiên Trường là Phan Phu Tiên làm Bác sĩ Quốc tử giám, Chuyển vận Phó sứ huyện Phú Lương là Phạm Hùng làm Trợ giáo, Lộ giáo thụ là Vũ Vĩnh Trinh làm Giáo thụ Quốc tử giám, Thính hậu quan là Phan Tử Viết làm Quan sát sứ. Cuối cùng, nhà vua cho lấy những người ngự thí hợp cách là Đặng Duy Khiêm 33 người sung Giám sinh Quốc tử giám. Lệ thi hàng năm học trò các lộ đến thi, sinh đồ hợp cách ở bản đạo mà đỗ Hương cống thì sung Giám sinh, nếu là quân dân mà đỗ Hương cống thì không được sung Giám sinh, vẫn là Hương cống. Đến đây tư khấu Trịnh Khắc Phục mới xin lấy quân dân đỗ Hương cống là Duy Khiêm sung Giám sinh, mà Sinh đồ đỗ Hương cống lại không được vào Quốc tử giám.

Một thời gian sau vào tháng Một – Kỷ Tỵ (12-1449) Dương Chấp Trung được bổ làm chuyển vận sứ huyện Thủy Đường (nay là Thủy Nguyên – Hải Phòng) rồi Quyền Quốc Oai đẳng xứ Tán trị Thừa tuyên sứ ty Tham chính.

Nguồn: Đ4, tr.592; C1, tr.90.

        NĂM 1453 (QUÝ DẬU)

        Tháng 3 (tháng Hai – Quý Dậu)

 252. Dương Tông Hải thi đậu Hoàng giáp

Ông người xã Minh Sơn, tổng Kênh Triều, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, Thừa tuyên Hải Dương (nay thuộc xã Trung Hà, Thủy Nguyên – Hải Phòng), trú quán tại xã Ninh Giang, tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Đình Xuyên, Gia Lâm – Hà Nội), nguyên là Dương Tông Mỗi, được nhà vua cho đổi tên.

Nguồn: C1, tr.98.

        NĂM 1458 (CANH DẦN)

        Trong năm

 253. Dương Tử Do thi đậu Tiến sĩ (không phân hạng)

Ông sinh năm 1410, người xã Trang Liệt, tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Thừa tuyên Kinh Bắc (nay là phường Trang Liệt, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), nhà nghèo, lớn lên giữa cảnh đất nước loạn lạc, lại bị nhà Minh thống trị nên thất học. Năm ông 43 tuổi (1452) nhân có việc ở đình làng, ông vạch mặt viên xã trưởng gian dối tiền của dân làng nên bị hắn xỉ nhục là kẻ không biết chữ, không cho dự ở chốn đình chung. Ông bèn bỏ sang Hà Lỗ tìm thầy, dùi mài kinh sử và đến năm này, ông thi đậu. Cảm phục chí khí của ông, người đời sau tặng ông 4 câu thơ:

“Tứ thập tam tuế thủy khai tâm

Tứ thập cửu tuế dĩ đăng đệ

                      Dụng công duy hữu lục niên gián

                      Quân tử thắng nhân tại thông tuệ”

(Bốn ba mới học vỡ lòng

Đến năm bốn chín đã ông Nghè rồi

Dụng công có sáu năm trời

Hơn đời cốt ở tính người thông minh)

Kỳ thi này chỉ lấy đỗ 5 người (Nguyễn Văn Nễ, Nguyễn Văn Xướng, Nguyễn Như Huân, Nguyễn Điện, Dương Tử Do), do không kịp thi Đình vì nhiều chuyện rắc rối trong triều nên tất cả đều xếp một hạng Tiến sĩ xuất thân. Dương Tử Do làm quan tới Công bộ Hữu thị lang.

Nguồn: Đ4, tr.606; P4, tr.219-220.

 

NĂM 1463 (QUÝ MÙI)

        Ngày 2 tháng 3 (22 tháng Hai – Quý Mùi)

 254. Dương Văn Đán, Dương Đức Nhan có tên trên Bảng Vàng cửa Đông Hoa

Cùng 44 sĩ tử vượt qua 1400 tham dự kỳ thi Hội, Dương Văn Đán và Dương Đức Nhan trúng thức vào thi Điện do Nhập nội kiểm hiệu Tư đồ bình chương sự Nguyễn Lai, Nhập nội đô đốc Đồng bình chương sự Đông đạo chư vệ dân quốc Quốc tử giám tế tửu Lê Niệm làm Đề điệu, Chánh sự viện Tham nghị chính sự Nguyễn Sự làm Giám thí, Môn hạ sảnh ty Tả gián nghị Đại phu Bắc đạo dân quân Bạ tịch kiêm Hàn lâm viện thừa chí Học sĩ Nguyễn Như Đỗ, Hàn lâm viện Thừa chí Học sĩ tri Đông đạo quân dân Nguyễn Vĩnh Tích, Quốc tử giám Tế tửu Nguyễn Bá Ký làm Độc quyển.

Theo Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký (Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi năm Quang Thuận 4) do Hàn lâm viện Thị giảng Đông các hiệu thư Đào Cử soạn, bia dựng ngày 15 tháng Tám năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (15-9-1484) tại Văn Miếu, thì:

“Ngày 16 tháng Hai (năm Quý Mùi, tức 24-2-1463) Hoàng thượng ngự ở hiên điện thân hỏi về đạo trị nước của các bậc đế vương; sai bọn Kiểm hiệu Tư đồ Bình chương sự kiêm Đô đốc Đồng bình chương sự Đông đạo chư vệ quân Nguyễn Lỗi làm Đề điệu, Quốc tử giám Tế tửu Lê Niệm cùng trông coi công việc.

Sáng hôm sau, Tả ty môn hạ sảnh gián nghị đại phu Tri Bắc đạo quân dân bộ tịch sảnh kiêm Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Như Đổ, Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Tri Đông đạo quân dân Bạ tịch Nguyễn Vĩnh Tích, Quốc tử giám tế tửu Nguyễn Bá Ký dâng quyển lên đọc, Hoàng thượng ngự lãm, định thứ bậc cao thấp. Ban cho từ Lương Thế Vinh trở xuống đỗ Tiến sĩ cấp đệ, xuất thân thứ bậc có khác nhau.

Ngày 22 (tháng Hai Quý Mùi, tức 2-3-1463) vua ngự điện Kính Thiên, cho gọi loa xướng tên người thi đỗ. Quan bộ Lễ rước Bảng Vàng ra yết ngoài cửa Đông Hoa để cho các sĩ tử xem tên. Lại ban áo mũ, yến tiệc để tỏ ý yêu mến đặc biệt, ơn sủng thật trọng hậu […].

Đến nay chế độ văn vật rõ ràng sáng suốt, khắc vào bia đá dựng ở nhà Quốc học, một là để làm thịnh điển của triều vua sáng, hai là để làm vinh quang cho kẻ sĩ, soi tỏ mai sau, ngụ lời khuyến khích.

Kẻ sĩ may mắn được ghi danh vào tấm đá này, phải làm cho danh đúng với thực, sửa nết giữ mình, bắt chước Văn Hiến giữ lòng, đừng theo Công Tôn học hành xiên vạy. Thanh danh đức hạnh phải như Triệu Duyệt Đạo, khí tiết cứng cỏi phải giống Phạm Cảnh Nhân. Những người ở chức tháp tùng hầu vua phải lo dâng tiến mưu hay, những người nắm giữ kỷ cương phải lo làm cho chính sự trong sạch, những người cai trị địa phương phải lo làm sao rạng tỏ đức bề trên mà thấu tình người dưới, những người giữ quyền chăn dân phải lo sao cho nơi mình làm quản dân được no đủ mà gốc nước được vững bền. Ngõ hầu trên không phụ thịnh ý của triều đình ban khen, dưới không phụ hoài bão lớn muốn phò vua giúp nước, để danh dự được lưu lại đời đời, danh thơm truyền mãi mãi, khiến cho người đời đến xem đọc bia đá này, chỉ vào tên mà nói: đây là những người trung với nước, hiếu với dân, bàn nói ngay thẳng làm sáng thánh đạo, giữ vững đạo đức kiến lập công lao, được như thế là may mắn lắm. Nếu không được thế thì người xem đưa mắt bảo: kẻ này nhu nhược, kẻ này đức mỏng, kẻ này hèn nhát v.v… Công luận còn đó, há chẳng nên cẩn thận lắm sao?

Xem thế đủ biết Thánh thiên tử có ý ban khen khuyến khích rất sâu sắc, lòng kỳ vọng rất mực, sự khích lệ cao cả chân thành hơn cả xưa nay. Đó là vì vua muốn được người chân Nho giúp việc trị nước, truyền lại cơ đồ tốt đẹp cho con cháu đời sau. Thế thì việc khắc đá đề danh chẳng những là tốt đẹp cho đất nước muôn vạn năm, mà cũng là phúc lớn cho con thần cháu thánh muôn vạn đời”.

Trên Bảng Vàng, Dương Văn Đán, nguyên gốc người Yên Thế, tổ tiên chuyển cư về xã Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội) đỗ Hoàng giáp; Dương Đức Nhan, người xã Hà Dương, tổng Hạ Đam, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, Thừa tuyên Hải Dương (nay thuộc xã Cống Hiền, Vĩnh Bảo – Hải Phòng) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, sau làm quan đến Hình bộ Hữu thị lang tước Dương Xuyên hầu, tác phẩm có bộ Tinh tuyển chư gia luật thi (Tinh tuyển thi tập).  

Được biết, trước khi thi đỗ Đệ tam Tiến sĩ, Dương Đức Nhan đã hoàn thành Tinh tuyển chư gia luật thi – còn được gọi bằng nhiều tên khác như Thi gia tinh tuyển; Tinh tuyển tập; Cổ kim chư gia tinh tuyển; Tinh tuyển chư gia thi tập. Lê Quý Đôn cho biết, bộ sách này gồm 15 quyển,. Đến Phan Huy Chú chỉ thấy bộ sách này còn 5 quyển, chép từ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trung Ngạn trở xuống gồm 13 thi gia với 472 bài thơ. Ông được Ngô Thế Vinh coi là một trong bốn bậc tiền nhân giành nhiều công sức bảo tồn sự nghiệp văn chương của lớp người đi trước để lại cho đời sau:

“Thơ có thể dùng để xem xét con người, bàn bạc thời cuộc. Người sưu tập thơ nhân người mà bảo tồn thơ, nhân thơ mà lưu giữ người. Nói về thuyết ấy, cái không thể bảo tồn cũng ít vậy. Đất Giao Nam ta là nước văn hiến, các sáng tác thơ phong phú đặc biệt đáng sợ. Trước đây Phan Phu Tiên, Dương Đức Nhan, Hoàng Đức Lương, Lê Quý Đôn bốn bậc đại gia đều có ghi chép, tuyển chọn riêng” (Bài tựa Minh Đô thư vựng).

Nguồn: V2, tr.45-51; C1, tr.116.

        NĂM 1466 (BÍNH TUẤT)

        Ngày 1 tháng 5 (26 tháng Ba – Bính Tuất)

 255. Dương Như Châu thi đậu Hoàng giáo

Thi Hội các cử nhân trong nước, lấy đỗ 27 người. Tháng Ba, ngày 12 (năm Bính Tuất, tức 17-4-1466) vua ngự ra cửa Kính Thiên, thân ra đầu bài văn sách hỏi về các đế vương trị thiên hạ. Sai Sùng tiến Nhập nội tả đô đốc kiêm Thái tử thiếu bảo Lê Cảnh Huy và quyền Chính sự viện Thượng thư kiêm Cẩn Đức điện Đại học sĩ Thái tử tân khách Nguyễn Như Đổ làm Đề điệu, Hàn lâm viện Đại học sĩ quyền Ngự sử đài Đô ngự sử Đại phu Trần Bàn làm Giám thí, Hàn lâm viện Thừa chỉ Nguyễn Trực, Hàn lâm viện Thừa chỉ Hộ bộ Hữu thị lang kiểm Cẩn Đức điện Đại học sĩ Nhập thị Kinh diên kiêm Tá xuân phường Thái tử Tả dụ đức Nguyễn Cư Đạo, Hàn lâm Học sĩ hành Hải tây đạo Tuyên chính sứ ty Tham tri kiêm Bí thư Giám học sĩ Vũ Vĩnh Trinh làm Đọc quyển. Lấy Dương Như Châu 8 người đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Nhân Thiếp 19 người đỗ đồng Tiến sĩ. Ba năm một khoa thi bắt đầu từ đây. Ngày 26 (tháng Ba – tức 1-5-1466) xướng danh bọn tiến sĩ Dương Như Châu, ban cho ân mệnh; bộ Lễ đem bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa.

Tháng Ba nhuận, ngày mồng 3, cho bọn Tiến sĩ Dương Như Châu vinh quy. Bài ký Đề danh Tiến sĩ do Đàm Văn Lễ soạn rằng: “Nhân tài đối với nhà nước có quan hệ rất lớn. Từ đời Đường, Ngu, Tam đại cho đến Hán, Đường, Tống lập ra nhà trường, nhà tự và nhà học hiệu, mà nhân vật tài được thành, dựng phép thi cử mà nhân tài có chỗ dùng. Tuy rằng công hiệu chính trị có thuần tạp khác nhau, nhưng không bao giờ không lấy việc được người tài giỏi làm trước hết. Thái Tổ bình định thiên hạ, dạy nuôi anh tài, về sự tìm rộng thì có tìm người ẩn dật, về sự thu nhặt thì có thi các học sinh, tuy là tên khoa tiến sĩ chưa đặt mà khí mạch văn học đã đủ. Thái Tông dựng nền từ năm Nhâm Tuất mở khoa, các nhân tài được thu vào hết. Nhân Tông mở liền ba khoa thi, văn hóa càng thêm rõ rệt. Đến Thánh Tông Trung hưng, khoa thi năm Quý Mùi lấy người so với trước lại thịnh hơn. Song từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mùi, hoặc 6 năm một khoa, hoặc 5 năm một khoa, 3 năm một khoa thì năm Bính Tuất này mới bắt đầu. Phàm người thi đỗ đều gọi là người được. Rồi sau chế độ ngày càng tường bị, văn hóa ngày càng đầy đủ, thi Hội có lục đăng khoa, đã đủ nêu sự thịnh trị của đời nay, có bia đề tên, lại đủ làm gương khuyến khích cho đời sau”.

Dương Như Châu, người xã Lạc Thổ, tổng Lạc Thổ, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, Thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Hồ, Thuận Thành – Bắc Ninh) giành học vị Hoàng Giáp.

Khi vào thi Đình, được hỏi về quan hệ bang giao với Trung Quốc, Dương Như Châu đã tâu bày:

“Bề tôi không dám dâng kế cùng binh độc vũ, cậy vào binh lính để đánh nhau mãi, cũng không dám dâng kế sách buông lơi việc võ mà chú trọng việc văn. Chỉ mong sửa sang điều nhân thực hành điều nghĩa, chọn người giỏi văn, giỏi võ, trao trách nhiệm cho tướng soái, răn bảo việc luyện tập quân sĩ, chăm việc võ bị. Trong khi rảnh việc cày bừa, không quên việc giảng duyệt (…). Như thế là đạt tới chỗ dùng văn, dùng võ đúng lúc, có thể tiêu trừ họa hoạn lúc chưa thành, giữ nền cực trị đến mãi mãi. Nước ta vững như bàn thạch, sáng như lửa hồng, hễ giặc đụng đến đâu thì là nát tan, chạm đến đâu là thiêu cháy. Điều lành về nhân, chính vì vậy mà mở rộng mãi ra (…). Thế tất quân sĩ đều vui vẻ ra lệnh, một người có thể địch trăm người, dựa vào đấy đã tiến là đánh, đánh là diệt, thức thời bốn phương có thể yên ổn, còn có lo gì đến việc gây hấn ở biên thùy”.

Nguồn: Đ4, tr.628-629.

        NĂM 1467 (ĐINH HỢI)

        Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Hợi)

 256. Dương Tông Hải có bước thăng tiến

Nhà vua cho Dương Tông Hải từ Thiêm đô Ngự sử đài lên Đô cấp Sự trung quyền Thượng bảo Tự khanh. Đến tháng Năm năm đó, ông lại được cùng Tả thừa Thông chính ty Nghiêm Nhân Thọ dạy học cho các quân kiêu dũng binh mã.

Nguồn: Đ4, tr.636-638.

        Ngày 6 tháng 6 (14 tháng Năm – Đinh Hợi)

 257. Dương Chấp Trung được lên chức

Ông đang từ Quyền Quốc Oai đẳng xứ Tán trị Thừa tuyên sứ ty Tham chính lên Đại lý Tự khanh quyền Hình bộ Tả thị lang. Đến ngày 20 tháng Năm, ông cùng các Đại thần và Chức sự dự cỗ yến ở điện Cần Chính.

Nguồn: Đ4, tr.639.

        Tháng 12 (tháng Một – Đinh Hợi)

 258. Dương Như Châu chuyển đổi công việc

Ông từ Đãi chế (trật Tòng lục phẩm) chuyển làm Hồng lô Tự thừa.

Nguồn: Đ4, tr.646.

        Trong năm

 259. Ngự tiền học sĩ Dương Bích viết chữ bia Thái sư Cương Quốc công bi ký

Văn bia do Trạng nguyên Nguyễn Trực soạn, bia dựng tại nhà thờ họ Nguyễn tại xã Thượng Xá, tổng Ngô Trường, huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, lộ Nghệ An (nay thuộc xã Nghi Hợp, Nghi Lộc – Nghệ An) ghi lại tiểu sử của Nguyễn Xí như sau: Cuối đời Hồ, từ năm lên 9 tuổi, ông cùng anh là Biện lên Lam Sơn theo Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) khởi nghĩa chống quân Minh, xông pha tên đạn, lập nhiều chiến công. Khi Lê Thái Tổ sắp mất viết di chiếu giao cho ông làm Phụ chính Đại thần, giúp Thái Tông còn nhỏ tuổi. Thời Nhân Tông, bọn Phạm Đồn, Phạm Ban phản nghịch giết vua, lập Nghi Dân lên ngôi. Ông tập hợp các đại thần trung nghĩa dấy binh dẹp loạn, tôn lập hoàng tử Tư Thành lên ngôi (tức Lê Thánh Tông), được ban Quốc tính (họ Lê), hàm Thái phó, giữ chức Bình chương Quân quốc trọng sự (Tể tướng), tước Á Quận công. Ông là người cương trực mà sáng suốt, dũng cảm có đạo nghĩa, được dự hàng Khai quốc Công thần, công lao to lớn bậc nhất trong hàng các đại thần đời Lê sơ. Ngày 30 tháng Mười năm Quang Thuận thứ 6 (1465) ông lâm bệnh qua đời, thọ 69 tuổi. Con trai 16 người, con gái 8 người đều hiển vinh (trong đó con gái thứ hai là Ngọc Lệ làm vợ Hoàng thái tử tức Lê Hiển Tông).

Nguồn: V12, tr.775-776.

        NĂM 1468 (Đinh Hợi – Mậu Tý)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Đinh Hợi)

260. Dương Tông Hải tiến cử Huyện quan dám đàn hạch nạn sâu mọt

Nhà vua cho phép các triều thần tiến cử các Huyện quan cương trực, biết chỉ trích kẻ gian nịnh. Để việc tiến cử được những người trực ngạnh đáp ứng đúng mong mỏi của triều đình, nhà vua chỉ rõ: – Sáu bộ, sáu khoa và Ngự sử đài bảo cử bậy thì chịu tội giáng hay bãi; nếu bảo cử được người giỏi thì tất có thưởng hậu.

Trong số những người được tiến cử, ngoài Huyện quan do Dương Tông Hải tiến cử nhà vua đã loại bỏ người do Thái bảo Lê Niệm giới thiệu, thu lại văn bằng người do Lương Như Hộc đưa vào. Những người do Nguyễn Như Đổ bảo cử được đánh giá là hạng tân tiến thường tài.

Nguồn: Đ4, tr.646.

        Tháng 12 (tháng Một – Mậu Tý)

 261. Dương Văn Đán được cử đi sứ nhà Minh

Cùng trong sứ đoàn có Phạm Giảm, Hoàng Nhân. Khi về ông được cử giữ chức Thừa chính sứ.

Nguồn: Đ4, tr.650.

        NĂM 1469 (KỶ SỬU)

        Tháng 4 (tháng Hai nhuận – Kỷ Sửu)

262. Dương Chấp Trung được cử làm Giám thí khoa thi Hội

Ngày 26, vua ngự ra cửa Kính Thiên, thân ra đầu đề văn sách hỏi về việc trị nước, sai Thái bảo bình chương Quân quốc trọng sự kiêm Đề điệu Quốc tử giám là Lê Niệm và Thượng thư Lại bộ Nguyễn Như Đổ làm Đề điệu, Đại lý tự khanh quyền Hữu thị lang Hình bộ là Dương Chấp Trung làm Giám thí, Hàn lâm viện Thừa chỉ là Nguyễn Trực, Hàn lâm viện Đại học sĩ Thự viện sự kiêm Quan lộc tự khanh đồng tri Kinh diên sự là Vũ Vĩnh Ninh, Hàn lâm viện Trực học sĩ là Nguyễn Đức Trinh, Quách Đình Bảo, làm Độc quyền, cho Phạm Bá đỗ Tiến sĩ xuất thân theo thứ bậc khác nhau.

Nguồn: Đ4, tr.650-651.

        NĂM 1470 (CANH DẦN)

        Trong năm

 263. Họ Dương và các họ Hồ, Lê, Nguyễn, Phạm lập Hương ước xã Lỗ Giản (Quảng Nam)

Trùng tu Thánh tự bi tạo năm Nhâm Thân (1512) dựng tại chùa Thánh, xã Lỗ Giản, tổng Lỗ Giản, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, Thừa tuyên Quảng Nam cho biết khi mới thành lập xã này chỉ có 5 họ là: Dương, Hồ, Lê, Nguyễn, Phạm. Các ông tổ của 5 họ trước đây đều theo vua lên phương Bắc rồi đến đây lập nên xã này. Trước đây họ đã xây dựng đình chùa, đến năm Hồng Đức 7 (1470) thì họp và lập Hương ước, các đời cứ tuân theo đó mà làm. Nay con cháu nối nghiệp tổ tiên sửa chữa lại chùa, làm cho cái đẹp của đời trước thịnh vượng đến đời sau.

Nguồn: T12, tập 20, N0 19275.

        NĂM 1471 (TÂN MÃO)

        Ngày 22 tháng 12 (22 tháng Một – Tân Mão)

 264. Ngự tiền Học sinh Dương Bích viết chữ bia Quận Thượng chúa Lê thị chi mộ chí

Văn bia do Trạng nguyên Nguyễn Thực soạn, dựng tại xã Trung Giản, tổng Chuyên Nghiệp, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, Thừa tuyên Sơn Nam (năm 1890 tổng Chuyên Nghiệp, tổng Mộc Phàm cùng huyện cắt sang Duy Tiên – Hà Nam) ghi về thân thế của Quận chúa Lê Quỳnh Cư – cháu Hoàng đế Lê Thái Tông, con gái trưởng của Lương Quốc, mất ngày 9 tháng Bẩy năm Hồng Đức thứ 2 (1471) khi mất mới 17 tuổi, an táng tại thôn Phù Vân xã trên.

Nguồn: T12, tập 12, N011302-03; V5, tr.130-134.

        NĂM 1472 (NHÂM THÌN)

        Trong năm

265. Dương Khai thi đậu Hương cống

Ông tự là Ngộ Chân, người xã Quỳnh Đôi, tổng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn Châu, Thừa tuyên Nghệ An, sau dời vào Lạc Xuyên, tổng Lạc Xuyên, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa cùng Thừa tuyên (nay thuộc xã Cẩm Lạc, Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh), không làm quan, dạy học ở nhà.

Nguồn: H3.

        NĂM 1477 (ĐINH DẬU)

        Tháng 3 (tháng Hai – Đinh Dậu)

 266. Dương Cẩn khắc văn bia do Hoàng đế Lê Thánh Tông đề

Khi đó, Dương Cẩn là Thượng y giám Nha đới cục Cục chính thần. Bia khắc ngay tấm đá trước cửa động Bạch Ác – còn gọi là chùa Bạch Á (nay thuộc xã Nga Thiện, Nga Sơn – Thanh Hóa). Văn bia do Thiên Nam Động chủ Lê Thánh Tông đề, Đô chỉ huy sứ Bùi Huấn viết chữ. Nội dung văn bia cho biết, sau khi lên ngôi, Hoàng đế về bái yết Sơn Lăng ở Lam Kinh, lúc trở về nhà vua cho dừng thuyền trước động đá ngắm cảnh, ngẫu hứng đề thơ lên vách núi.

Nguồn: T16, tập I, tr.41-43.

        NĂM 1478 (MẬU TUẤT)

        Ngày 21 tháng 6 (1 thán Sáu – Mậu Tuất)

267. Dương Bính, Dương Tĩnh thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Hồng Đức cửu niên Mậu Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký (Văn bia dề danh Tiến sĩ khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9) do Nguyễn Đôn Phục soạn, viết:

“Năm thứ 9 sau khi đổi niên hiệu Hồng Đức, quan Bộ Lễ theo điển chế cũ, thi Hội các Cử nhân trong nước, chọn hạng trúng cách tất cả 62 người.

Ngày 14 tháng Năm (năm Mậu Tuất, tức 5-6-1478) Hoàng thượng ngự hiên điện ra bài thi, xem xét bài đối đáp để đánh giá tài năng. Hoàng thượng dụ bảo danh hiệu cao nhất sĩ tử không đạt tới. Cho nên khoa này về hàng Tiến sĩ cập đệ không có đệ nhất danh [Đến ngày 1 tháng 6 (21-6-1478)] chỉ ban cho Lê Quảng Chí đỗ Đệ nhị danh; Trần Bích Hoành, Lê Ninh đỗ Đệ tam danh; còn lại ban cho Nguyễn Địch Tâm 9 người đỗ Tiến sĩ xuất thân và 50 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. Theo lệ tất cả đều được đề danh vào bia đá dựng ở nhà Thái học, nhưng Bộ Công chần chừ nên chưa dựng được. Bảy năm sau, đến năm Giáp Thìn (1484) Hoàng thượng xuống chiếu bảo phải truy dựng, sai thần là Đôn Phục soạn bài ký.

Kính nghĩ: Khí vận quốc gia quan hệ bởi nhân tài, nhân tài cao thấp cốt do nơi khoa mục. Thái Tổ Cao hoàng đế ngay từ khi sáng lập ra triều ta đã dùng kinh nghĩa luận sách để thi học trò, khoa mục khởi thủy từ đấy. Thái Tông Văn Hoàng đế nối chí kế nghiệp, mở mang kỷ cương, trong niên hiệu Đại Bảo mở khoa thi, nhân tài nối nhau xuất hiện, từ đó khoa mục đại chấn hưng. Nhân Tông Hoàng đế nối nhau theo phép cũ, không dám sơ xuất.

Hoàng thượng dấy nghiệp Trung hưng, khôi phục hết thảy những việc từng bị bỏ bễ, cứ ba năm mở một khoa thi, cách nhau rất đều, thứ tự ban ơn, chu tất hoàn hảo. Từ năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo (1442) tới nay, cả thảy 10 khoa, lựa được nhân tài cho quốc gia sử dụng đến vô cùng, tốt đẹp thịnh vượng lắm thay! Lại cho khắc tên vào nền đá để ghi việc tốt, truyền lại sự vinh hiển cho đời sau xem biết. Há dung cho hạng người không xứng đáng trà trộn trong đó, ắt phải cứu xét kỹ lưỡng. Bởi vì ý chính của triều đình cho dựng bia khắc tên là cốt mong cho những người tôi trung con hiếu ngày thường thì can ngay nói thẳng, tôn vua giúp dân, khi gặp việc thì vì nước quên nhà, gặp gian nguy thì dám quên mình, khiến người ta chỉ vào tên mà nói: người này trung, người kia thẳng, người này dám tiến cử người tốt, bài xích kẻ gian tà, giúp ích cho nước; người nọ trọn đạo làm tôi, không thẹn danh khoa mục, được như thế thì năm tháng càng lâu mà bia càng không mòn. Còn như mượn khoa mục để cầu sự ấm no, mượn khoa danh để làm lối tắt cho đường sĩ hoạn, chỉ lo cho riêng mình, không nghĩ tới việc nước, thì người ta sẽ chỉ tên mà nói: kẻ này gian, kẻ kia hãm hại người tốt, bè đảng gian tà, ô danh khoa mục, như thế thì càng lâu lại càng thêm rõ tì vết. Nay ý nghĩ sâu xa của việc dựng bia, há phải chỉ cốt lưu lại sự vẻ vang lâu dài mà thôi đâu!”.

Tại khoa thi này, họ Dương có hai Đệ tam Tiến sĩ:

Dương Bính, người xã Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc (nay thuộc xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội), làm quan tới chức Thừa chánh sứ. Ông là Tằng tổ của Dương Cảo.

Dương Tính, người xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây (nay thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc – Vĩnh Phúc), làm quan đến Công bộ Tả thị lang. Ông là ông nội của Dương Đôn Cương.

Nguồn: V2, tr.76-82; C1, tr.160, 166.

        NĂM 1479 (KỶ HỢI)

        Tháng 12 (tháng Một – Kỷ Hợi)

 268. Tạo dựng bia tại chùa Diên Khánh để ghi nhớ công lao vợ chồng Dương Kiện

Ngoài việc ghi lại đóng góp vào việc khai mở tục Cung tiến, gửi Hậu của ông bà văn bia còn cho biết bước phát triển trong gần hai thế kỷ tại một làng quê thuộc huyện Gia Bình – Bắc Ninh với biết bao việc làm đầy ý nghĩa khác.

Nguồn: T12, tập 5, N04486; V5, tr.169-178.

        NĂM 1481 (TÂN SỬU)

        Ngày 8 tháng 6 (21 tháng Năm – Tân Sửu)

 269. Dương Nghĩa Phương thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Hồng Đức thập nhị niên Tân Sửu khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Tân Sửu năm Hồng Đức 12 – 1481) ghi rằng, năm Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức (1481) là năm thư 54 Hoàng triều mở vận và năm thứ 22 Hoàng thượng trung hưng, mở khoa thi Hội đến năm nay cũng đã 11 năm. Khoa này các Cử nhân đến đua tài ở bộ Lễ đông đến hơn 2.000, chỉ tuyển chọn được 31 người, lựa chọn như thế thật là kỹ càng.

Ngày thi Đình, quan Hữu ti và các viên chấp sự mỗi người một việc. Vua ngự ở chính điện, đích thân ra đề văn sách. Sáng hôm sau, Hoàng thượng xem quyển chọn bài, lấy Phạm Đôn Lễ đỗ đầu, Lưu Hưng Hiếu thứ hai, Nguyễn Doãn Địch thứ ba, đều ban cho hạng Tiến sĩ cập đệ; những người còn lại ban cho các hạng Tiến sĩ xuất thân và Đồng Tiến sĩ xuất thân có thứ bậc khác nhau. Thứ lớp ban ơn y theo điển cũ. Những người được chọn vào viện Hàn lâm thì đặc cách cho thêm một cấp. Hoàng thượng đích thân sắc dụ sai quan Bộ Công dựng đá đề tên ở Quốc tử giám.

Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết:

“Mùa hạ, tháng Tư, thi Hội các Cử nhân trong nước, lấy đỗ bọn Phạm Đôn lễ 40 người.

Ngày 27, vua ngự điện Kính Thiên, thân ra văn sách hỏi về lý số, cho Phạm Đôn Lễ, Lưu Hưng Hiếu, Nguyễn Doãn Địch 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ; bọn Ngô Văn Cảnh 8 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Nguyễn Minh Đạo 29 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân (Phạm Đôn Lễ tự là Ngu Khanh, người huyện Ngự Thiên phủ Tân Hưng, ngụ ở làng Thanh Nhàn, huyện Kim Hoa, khi đỗ 27 tuổi, thi Hương, Hội, Đình đều đỗ đầu, tục gọi Tam nguyên Đôn Lễ).

Tháng 5, ngày 21, Tiến sĩ Phạm Đôn Lễ vào trong Đan Trì; vua ngự tại điện Kính Thiên; các quan Hồng lô truyền chế xướng danh; bộ Lại ban ân mệnh; bộ Lễ đem Bảng Vàng, nổi nhạc rước ra ngoài cửa Đông Hoa treo lên; xong rồi Ty Mã cứu đem ngựa tốt đưa Trạng nguyên về nhà”.

Về họ của Nghĩa Phương, bia Tiến sĩ Đề danh dựng tại Văn Miếu – Hà Nội năm 1484 ghi họ Thang (   ) còn Kim bảng lưu danh (Văn bia Đề danh Tiến sĩ từ khoa Nhâm Thìn – 1472 đến khoa Đinh Mùi – 1487) dựng tại Văn miếu Bắc Ninh ghi ông họ Dương (   ), người xã Cẩm Chương, huyện Đông Ngàn (nay thuộc thị xã Từ Sơn – Bắc Ninh).

Nguồn: Đ4, tr.692; V2, tr.93, 662.

        NĂM 1483 (QUÝ MÃO)

        Trong năm

 270. Dương Tá Thành thi đậu Tiến sĩ võ

Ông người xã Thần Đầu, tổng Đỗ Chử, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, Thừa tuyên Nghệ An (nay thuộc Kỳ Anh – Hà Tĩnh), làm đến Trấn thủ Thừa tuyên Sơn Nam.

Nguồn: H4, tr.97.

        NĂM 1484 (GIÁP THÌN)

        Ngày 16 tháng 4 (1 tháng Tư – Giáp Thìn)

 271. Dương Bang Bản (Lê Tung) thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ

Tháng Hai – Giáp Thìn, tổ chức thi Hội các cử nhân trong nước, lấy đỗ Phạm Trí Khiêm 44 người. Thi Đình được tổ chức vào ngày 1 tháng Ba (18-3-1484), văn sách hỏi về nhà Triệu Tống dùng nho sĩ. Ngày 1 tháng Tư cho Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Giác, Mai Duy Tinh ba người đỗ Tiến sĩ cập đệ, Ngô Văn Phòng 16 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Chu Đình Bảo 25 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.

Dương Bang Bản, người xã An Cư, tổng Đông Xá, huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam (nay thuộc xã Liêm Thuận, Thanh Liêm – Hà Nam), đỗ Tiến sĩ xuất thân (Đệ nhị Tiến sĩ), được ban Quốc tính, đổi gọi là Lê Tung.

Nguồn: Đ4, tr.697; C1, tr.182.

        Ngày 25 tháng 9 (15 tháng Tám – Giáp Thìn)

 272. Dương Chấp Trung, Dương Văn Đán, Dương Đức Nhan, Dương Nghĩa Phương được lưu danh vào bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu

Dương Chấp Trung lưu danh tại Thái Hòa lục niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ đề danh bi ký vì: “Nay Thượng hoàng để thay trời mở vận trung hưng, gánh vác đạo lớn, đề cao Nho học, suy nghĩ canh cánh bên lòng. Huống chi đã được liệt kê thánh hàm dưỡng sâu sắc, lại thêm mười năm ra sức chấn hưng tác thành. Trước đây 6 năm mới mở một khoa thi lớn, nay theo quy chế nhà Chu, chỉ 3 năm mở một khoa cũng không ngần ngại. Trước chọn kẻ sĩ chỉ lấy đỗ không quá hai ba chục người. Nay thì rộng chọn thực tài, không ngại số người trúng tuyển tăng lên gấp bội. Cho đến việc ban khen cất nhắc, đức ý nồng hậu, ơn vinh ban phong có thứ bậc khác nhau, tiết mục rành rẽ tự nhiên rực rỡ, vượt cả xưa nay. Cho soạn bài ký khắc vào đá tốt đặt tại cửa hiền để khuyến khích kẻ sĩ. Chế độ của Thánh thượng thật tốt đẹp thay!

Như vậy thì trong sự đầy đủ của nền văn minh triều ta, chế độ khoa cử khởi đầu từ năm Thuận Thiên mà chính thức bắt đầu từ năm Đại Bảo, tiếp tục thi hành vào đời Thái Hòa, mà thịnh nhất là đời Hồng Đức vậy. Nếu chẳng phải Thánh thượng làm hết trách nhiệm của người làm vua làm thầy, đích thân nắm quyền hành, thì làm sao có thể làm xong những việc mà tiên đế chưa làm xong, hoàn thiện những điều mà tiên thánh chưa làm đủ.

Con thánh cháu thần, ngước nối chí lớn, quy mô xa rộng, trăm đời sau vẫn còn biết được”.

Dương Văn Đán và Dương Đức Nhan thì được lưu danh vào Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký. Trong Hồng Đức nhị thập niên Tân Sửu khoa Tiến sĩ Đề danh ký do Nguyễn Xung Xác soạn mà Dương Nghĩa Phương được lưu danh có đoạn:

“Người người đều anh tài đó là do cái tâm dạy người không biết mệt của Văn Vương. Sao không trồng người? Đó là lời giáo huấn rất dễ hiểu. Hoàng thượng cổ vũ nhân tài, chấn hưng văn trị. Thơ Vực phốc tỏ đạo nhân từ, thơ Tinh nga ngụ lời giáo hóa, mặc dầu xưa nay khác nhau mà công dụng vẫn là một. Kẻ sĩ sinh ở đời này gặp gỡ đấng thánh minh, trang điểm tiếng tăm văn chương, tắm gội thấm nhuần giáo hóa; thừa buổi gặp hội gió mây, ngước trông vừng nhật nguyệt; lên đường vinh qui, bước chân vào hạng anh hùng; tên khắc bia đá, để lại lâu dài, há chẳng phải là vinh hạnh ư? Nhưng danh là bề ngoài của thực, tốt là đối tượng của xấu. Có danh có thực, há chẳng phải tốt sao? Có danh không thực, há chẳng phải xấu sao? Những người được đề danh vào bia đá này, cố nhiên phải lấy đạo nghĩa đức hạnh để tu dưỡng bản thân, phải dùng văn học mà trau dồi tâm tính; làm vị Trạng nguyên chân chính, làm vị Tiến sĩ chân chính, trên không phụ ơn tri ngộ của triều đình, dưới không phụ với sở học thường ngày, đừng như Công Tôn học thức a dua, phép canh tân gạt người, hoặc như Trại Lang đặt ra chỉ làm lụy cho khoa mục mà thôi. Vả chăng bia đá này dựng ở nhà Thái học là cốt để cho những người làm quan và những người làm việc từ chương chữ nghĩa mắt nhìn chăm chú, miệng đọc thuộc lòng, bồi hồi xem đọc, ngưỡng mộ sự tốt đẹp lớn lao, để cho nhân tâm có cơ được khích lệ, khiến cho ý nghĩa của bài văn này càng thêm lớn lao sáng tỏ. Điều đó đối với căn nguyên của đạo trị, đối với phong tục giáo hóa có quan hệ rất lớn vậy”.

Nguồn: V2, tr.37-61; 89-90..

        NĂM 1487 (ĐINH MÙI)

        Ngày 27 tháng 2 (14 tháng Hai – Đinh Mùi)

 273. Chùa Tam Bảo (Từ Liêm – Sơn Tây) ghi nhận công lao với nhà chùa của Sơn Tây Hiến sát sứ ty Dương Văn Đán

Tam Bảo tự bi dựng năm Đức Long thứ 3 (1631) cho biết, chùa Tam Bảo thuộc ấp nằm ở phía tây huyện Từ Liêm là nơi danh lam thắng địa nằm giữa vùng núi cao sông rộng. Xưa, vào ngày 14 tháng Hai năm Hồng Đức thứ 18 (1487) đất chùa dùng để thờ phật không phải chịu thuế là nhờ Sơn Tây Hiến sát sứ ty Dương Văn Đán, Sơn Tây Tán tri Thừa tuyên sứ Quách Đình Bảo cùng nhau sát khám, tâu bày đầy đủ về triều để vua ban sắc chỉ theo đó mà phụng sự.

Bia cũng nhấn mạnh rằng, cái gốc chính sự của quốc gia là ở ruộng đất. Ruộng tế làm dày dặn thêm chính sự của bậc quân tử. Ruộng đất cũng là điều thứ nhất của Tam Bảo dùng để cúng tiến nhà Phật.

Nguồn: T9, 1996, tr.426-432.

 

NĂM 1487 (ĐINH MÙI)

        Ngày 15 tháng 6 (4 tháng Năm – Đinh Mùi)

 274. Nguyễn Bảo Khuê – dòng dõi Đào Sư Tích, đỗ Đệ nhị Tiến sĩ

Bia Hồng Đức thập bát niên Đinh Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký (Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi năm Hồng Đức 18) do Thân Nhân Trung soạn ngày 15 tháng Tám – Đinh Mùi (22-9-1487) cho biết:

“Ngày mồng 4 tháng Năm – Đinh Mùi (15-6-1487), Hoàng thượng ngự điện Kính Thiên, loa truyền gọi tên người thi đỗ, các quan mặc triều phục chúc mừng, rước bảng vàng treo ngoài cửa Đông Hoa. Sĩ tử, dân chúng kéo nhau đến xem, đều bảo: đời thánh văn minh, nhân tài đông đảo, thật là cuộc gặp gỡ tốt đẹp của đời thịnh. Việc ban thưởng phẩm vật nghi thức y như điển cũ. Hoàng thượng cho ràng việc ban ân sủng chỉ vẻ vang nhất thời, còn họ tên phải khắc vào bia đá mới có thể truyền tới lâu dài. Bèn sai Bộ Công mài đá đề danh, lại sai thần là Nhân Trung viết bài ký ghi lại sự việc”.

Để có kết quả này, từ tháng Ba – Đinh Mùi (4-1487) triều đình đã cho tổ chức kỳ thi Hội các nhân sĩ trong nước, lấy đỗ Phạm Trân 60 người. Mùa hạ, tháng Tư, ngày mồng 7 (năm Đinh Mùi, tức 20-4-1487) vua thân đến ra đề văn sách hỏi về đạo trị nước; xem quyển xong, lại cho gọi các Tiến sĩ hạng ưu vào cửa Nhật Quang, thân xếp cao thấp. Lấy Trần Sùng Dĩnh đỗ thứ nhất, Nguyễn Đức Huấn, Thân Cảnh Vân đỗ thứ hai và ba, đều cho Tiến sĩ Cập đệ, Vũ Cảnh 30 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Phạm Trân 27 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Nguyễn Bảo Khuê, người xã Lý Hải, tổng Lý Hải, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây (nay thuộc xã Phú Xuân, Yên Lãng – Vĩnh Phúc) đỗ Đệ nhị Tiến sĩ. Ông là ông nội của Nguyễn Sư Phổ, Nguyễn Duy Tường mà về Nguyễn Sư Phổ, sử cũ ghi:

Nguyễn Sư Phổ: Người xã Lý Hải huyện Yên Lãng, đỗ Tiến sĩ năm Đoan Khánh, làm đến Hàn lâm viện Kiểm thảo. Ông vâng mệnh đi sứ, khi trở về, gặp lúc Mạc Đăng Dung bắt ép vua Chiêu Tông dời đến ở Bảo Châu, ông không theo, bị họ Mạc bắt. Tương truyền Sư Phổ nguyên là họ Đào, dòng dõi Trạng nguyên Đào Sư Tích”.

Nguồn: V2, tr.99-100; Đ4, tr.709; Đ3, tập 2, tr.1490.

        Ngày 22 tháng 9 (15 tháng Tám – Đinh Mùi)

 275. Nguyễn Bảo Khuê được lưu danh trên bia Đề danh Tiến sĩ ở Văn Miếu

Hồng Đức thập bát niên Đinh Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký do Thân Nhân Trung soạn, nhấn mạnh rằng:

“Trời mở thái bình thịnh trị muôn năm cho nước nhà, tất sinh hiền tài để giúp nước. Đó là vì sự hưng thịnh của trị đạo, giáo hóa có gốc ở sự thu dùng hiền tài. Có nhiều hiền tài hay không là do ở sự giáo dưỡng. Kinh thi có câu: “Hiền sĩ tuấn kiệt, sinh ở nước vua”. Lại có câu: “Chu vương tuổi cao, lẽ nào không trồng người”. Như vậy, mở nền trị bình lâu dài, nếu không có nhiều nhân tài thì sao mà làm được […].

Thần trộm nghĩ: Nhân tài phồn thịnh vẫn quan hệ ở khí chất biến hóa của trời đất, nhưng chủ yếu vẫn do ở nền giáo hóa của bậc thánh nhân. Bởi vì khí chất trời đất biến hóa thì nguyên khí phối hợp rồi lan tỏa bàng bạc khắp nơi, cho nên mới có số nhiều đông đảo. Phải nhờ có giáo hóa của thánh nhân thì văn đức mới được tôi luyện hun đúc, tạo nên cảnh tốt đẹp đượm đà. Khổng Tử nói: – Khoảng đời Đường Ngu là thời thịnh, đó là do khí chân nguyên hội hợp mà nên chăng? Kinh Thi nói: – Người xưa không biết chán, kẻ tài tuấn giỏi giang, đó là sự hun đúc văn đức chăng?

Nay khí hóa thuần nhất rộng tỏa, trị giáo sáng tỏ đẹp cùng trời đất, sự hưng thịnh sánh ngang đời Ngu, Chu. Nhân tài đông đảo hơn thuở trước, kén được người giỏi nhiều gấp mấy ngày xưa, đủ sáng soi cho những thành tựu của nền giáo hóa, là biểu hiện tốt đẹp của nước nhà. Kẻ sĩ được đề danh vào bia đá này, thật may mắn biết bao! Cho nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau, làm những việc hợp sở học để làm nên sự nghiệp to lớn quang minh, khiến thiên hạ đời sau phải nhón chân lên mà nhắc nhở thanh danh, mến mộ khí tiết. Ngõ hầu trên không phụ ơn triều đình dưỡng dục, dưới không phụ hoài bão thường ngày thì tấm đá khắc ra sẽ đời đời không mục vậy. Thảng hoặc có người ngoài có vẻ văn chương mà trong đức hạnh thiếu phần tu dưỡng khiến cho cái mà người ta đọc được trên bia không giống như dư luận mà họ nghe biết, việc làm trái với sở học, làm hủy hoại hạnh kiểm, điếm lụy danh giáo thì là vết nhơ cho tấm đá này. Thế chẳng phải ý nguyện triều đình trông mong ở kẻ sĩ, cũng chẳng phải là cách kẻ sĩ dùng để tự đối đãi mình.

Ôi! Khi nhỏ đi học, khi lớn thực hành, đọc hết kinh sách để đem ra áp dụng hết mức, người ta đều có chí hướng ấy. Vậy thì từ nay về sau, kẻ sĩ sinh ở đời này, đọc bài văn này, nhìn tấm đá này phải nên suy nghĩ thế nào? Kính cẩn chép vào đá, ngõ hầu tỏ ý với tương lai”.

Nguồn: V2, tr.99-100.

        NĂM 1490 (CANH TUẤT)

        Ngày 26 tháng 6 (18 tháng Năm – Canh Tuất)

 276. Dương Trực Nguyên thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ

Tháng Ba năm Canh Tuất (4-1490), triều đình cho tổ chức kỳ thi cho các Cử nhân trong nước, lấy từ Nguyễn Xao 54 người (Xao người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, thi Đình đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân). Tháng Tư năm Canh Tuất, số Trúng cách kể trên bước vào kỳ thi Điện. vua thân ra đầu đề văn sách. Sai Thượng thư Binh bộ Định Công bá Trịnh Công Đán và Thượng thư Hình bộ Lễ Năng Nhượng làm Đề điệu; Phó đô Ngự sử đài Quách Hữu Nghiêm làm Giám thí; Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung và Thượng thư Lại bộ Nguyễn Bá Kỳ làm Độc quyển. Vua xem quyển thi, xếp thứ bậc cao thấp, cho Vũ Duệ, Ngô Hoán, Lưu Thư Ngạn 3 người đỗ Tiến sĩ Cập đệ, Lê Tuấn Mậu 19 người đỗ Tiến sĩ Xuất thân, Lê Đình Quát 32 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Ngày 18 tháng Năm năm Canh Tuất (26-6-1490) vua ngự điện Kính Thiên, truyền loa xướng danh các Tiến sĩ kể từ Vũ Duệ; các quan mặc triều phục chúc mừng; bộ Lễ đem Bảng Vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa. Ngày 19, ban mũ đai y phục. Ngày 20 ban yến.

Dương Trực Nguyên, Đệ nhị Tiến sĩ (Tiến sĩ xuất thân) là người xã Thượng Phúc, tổng La Phù, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam (nay thuộc Tả Thanh Oai, Thanh Trì – Hà Nội).

Nguồn: Đ4, tr.714-715; C1, tr.213.

        NĂM 1492 (NHÂM TÝ)

        Tháng 5 (tháng 4 – Nhâm Tý)

 277. Dương Trực Nguyên được thăng Hiến sát sứ ty Hiến sát sứ Thừa tuyên Hải Dương

Hoàng đế Hồng Đức là người thích văn thơ. Một lần đến Lam Sơn làm thơ, Hoàng đế nhớ lại cơ nghiệp của Thánh tổ, trong bài thơ họa lại Dương Trực Nguyên có câu kết: “Lam Sơn chỉ xích thiên nam vọng/ Vạn cổ nguy nga sáng nghiệp công” (Trông lại Lam Sơn chừng thước tấc/ Công lao sáng nghiệp ngất muôn xưa). Hoàng đế phê: – Câu ấy có khí tượng dài xa!

Sau chuyến đi ấy, Dương Trực Nguyên được bổ dụng.

Tuy nhiên, ít lâu sau ông có tâu việc trái ý nhà vua, bị giáng đổi làm Hàn lâm viện Hiệu lý.

Nguồn: Đ4, tr.717.

        NĂM 1493 (QUÝ SỬU)

        Ngày 14 tháng 2 (8 tháng Giêng – Quý Sửu)

 278. Bồi thần Lê Tung mừng Hoàng đế lập Hoàng Thái tử

Hoàng tử trưởng của Hoàng đế Lê Thánh Tông húy là Tranh (hoặc Sanh, còn gọi là Lê Huy) sinh ngày 1 tháng Tám năm Tân Tỵ (26-8-1461), mẹ là con gái thứ hai của Nguyễn Đức Trung, được tuyển vào làm Sung nghi năm Canh Thìn (1460) ở cung Vĩnh Ninh – tức Trường Lạc Hoàng Thái hậu sau này.

Cùng dự lễ mừng với Lê Tung còn có Bồi thần Nguyễn Hoàng Thạc.

Nguồn: Đ4, tr.615, 718.

        NĂM 1494 (GIÁP DẦN)

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Dần)

 279. Hàn lâm viện Hiệu lý Nguyễn Bảo Khuê, Dương Trực Nguyên được tham gia họa vần tập thi ca Quỳnh Uyển cửu ca của Hoàng đế Lê Thánh Tông

Hoàng đế thấy hai năm Quý Sửu (1493) và Giáp Dần (1494) các giống lúa má được mùa, bội thu, bèn đặt các bài ca vinh để ghi điểm tốt gồm có các bài về đạo làm vua, tiết làm tôi, vua sáng tôi giỏi, tưởng xa đến người anh hiền kỳ tài, cùng viết chân viết thảo, chơi đùa thành văn, nhân gọi là tập thơ Quỳnh uyển cửu ca. Sai Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đông các Hiệu thư Ngô Luân, Ngô Hoán, Hàn lâm viện Thị tộc Chưởng viện sự Nguyễn Xung Xác, Hàn lâm viện Thị tộc Tham chưởng viện sự Lưu Hưng Hiếu, Hàn lâm viện Thị thư Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Đức Huấn, Vũ Dương, Ngô Thầm; Hàn lâm viện Thị chế Ngô Văn Cảnh, Phạm Trí Khiêm, Lưu Thư Ngạn, Hàn lâm viện Hiệu lý Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Tôn Miệt, Ngô Quyền, Nguyễn Bảo Khuê, Bùi Phổ, Dương Trực Nguyên, Chu Hoản, Hàn lâm viện Kiểm thảo Phạm Cẩn Trực, Nguyễn Ích Tốn, Đỗ Thuần Thứ, Phạm Nhu Huệ, Lưu Dịch, Đàm Thận Huy, Phạm Đạo Phú, cùng họa vần.

Nguồn: Đ4, tr.718.

        NĂM 1496 (BÍNH THÌN)

        Trong năm

 280. Dương Thế Thông thi đậu Hương cống

Thế Thông hiệu Mai Hiên, người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), phụ thân là Hương cống Dương Văn Khai – Giám sinh Quốc tử giám và là thân sinh của Chế khoa Ngự thí Dương Bàng.

Nguồn: H3.

        NĂM 1497 (ĐINH TỴ)

        Ngày 20 tháng 3 (26 tháng Hai – Đinh Tỵ)

 281. Dương Trực Nguyên được thăng làm Đông các Hiệu thư

Dịp đó, đại hạn, Dương Trực Nguyên dâng thư xin vua sửa đức để vãn hồi tai biến của trời.

Nguồn: Đ4, tr.729.

        Ngày 25 tháng 3 (1 tháng Ba – Đinh Tỵ)

 282. Tả ty Thiên giám lại Dương Tiến viết chữ cho bia Nga Mi tự bi

Theo văn bia do Tiến sĩ Nguyễn Giản soạn, Dương Tiến viết chữ thì chùa Nga Mi xưa thuộc xã Hoàng Mai, tổng Hoàng Mai, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam (nay thuộc phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai – Hà Nội). Từ thời Lý ngôi chùa này đã là một danh lam nổi tiếng, trải qua bao hưng phế bị đổ nát. Vào năm Quang Thuận 4 (1463) Cư sĩ Thuần Trung đã tự bỏ tiền ra tạo dựng lại chùa này. Sau lại có sư thầy Thanh Sán và Thanh Nhân Cư sĩ dẫn dắt trùng tu, khuyến hóa khiến cảnh trí của nhà chùa càng thêm đẹp đẽ.

Nguồn: V5, tr.301-311; T21, tr.60-69.

        NĂM 1498 (MẬU NGỌ)

        Tháng 4 (tháng Ba – Mậu Ngọ)

 283. Dương Trực Nguyên được thăng Đô cấp sư trung Lại khoa

Ngoài thăng chức, ông còn được cấp tiền bổng liêm khiết.

Nguồn: Đ4, tr.734.

        Trong năm

 284. Thống chế Vệ thần vũ Dương Triệt hồi hưu

Ông người xã Tuy Lộc, tổng Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Bình, đạo Thuận Hóa (nay thuộc xã Lộc Thủy, Lệ Thủy – Quảng Bình). Khoảng năm Hồng Đức (1470-1497) được triều đình sung làm Bình A Lực sĩ tại vệ Thắng Uy, sau có công lại được phong là Thống chế ở vệ Thần vũ. Vào năm Cảnh Thống nguyên niên (1497) được cho về nghỉ. Bấy giờ ở địa phương các phe đảng và hào cường tranh đoạt, hãm hại lẫn nhau nhưng riêng ông chỉ vui thú cảnh điền viên, dạy bảo con cháu một lòng đề cao trung hiếu.Dương Triệt hưởng thọ 80 tuổi.

Nguồn: Ô1, tr.141.

        NĂM 1499 (KỶ MÙI)

        Ngày 16 tháng 5 (16 tháng Tư – Kỷ Mùi)

 285. Dương Phấn Phi, Dương Đức Kỳ được xướng danh trên Bảng Vàng cửa Đông Hoa

Đầu tháng Tư năm Kỷ Mùi (5-1499), Hoàng đế Lê Hiển Tông ra sắc dụ cho Lễ bộ Thượng thư Vũ Hữu rằng: “Nhân tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí mạnh thì đạo trị nước mới thịnh. Khoa mục là con đường chính của người làm quan, đường chính mở thì chân nho mới xuất hiện. Cho nên ngày xưa dùng khoa cử lấy người tài giỏi phải đặt quy mô chia vị cho nghiêm, phải định thể lệ dán tên cho chặt, có lệnh cấm bảo nghĩa cho nhau, đối sách cho nhau, cốt để ngăn ngừa mầm gian, thu nhiều người giỏi nhằm cung cấp cho nhu cầu dùng người vô cùng của thiên hạ. Phép chọn kẻ sĩ của tổ tông ta bắt chước đời xưa mà làm, đến nay quy mô rộng lớn đã rất kỹ lại đầy đủ. Song phép lập đã lâu, thói gian, tệ xấu theo đó mà nẩy sinh, kẻ tầm thường thì lạm vào hạng thi đỗ, người thực học thì bị gạt ra ngoài vòng, lời bàn tán xôn xao, lòng học trò chưa thỏa. Trẫm giữ cơ nghiệp lớn, rạng tỏ đạo công, sùng chuộng lòng thành muốn vãn hồi phong tục thuần phác, ngăn cấm lề thói phù hoa, mau trừ bỏ thói tệ kiêu bạc. Để cho bậc hiền triết nối gót bước lên, việc phòng giữ phải đặt ra minh bạch. Nhắc rõ các điều cụ thể về quyền quy: thường thì phải rộng rãi, trong chia làm bốn khu, mỗi khu đều ngăn bằng rào thưa, bốn góc trong trường thi đều làm chòi, đến ngày vào thi lấy Nội thần Hiệu úy mỗi chòi một người đứng trên chòi để trông coi”.

Cùng tháng ấy, xuống chỉ cho thi Hội sĩ nhân cả nước. Bấy giờ có hơn 5.000 người dự thi, vua nói: “Phép cấm không nghiêm thì không thể nào ngăn chặn được lối cầu may, rũ bỏ không kỹ thì không lấy được người thực giỏi”. Liền cho Nghi tào định ra phép thi, cận thần ra đầu bài thi in ra đưa xuống từng lều, từng khu, các viên tuần xước phải thay nhau canh gác cả ngày, khảo quan ai có người thân vào thi thì cho hồi ty.

Lấy đỗ Trúng cách 55 người. Ngày 9 tháng Tư năm Kỷ Mùi (9-5-1499) thi Điện, vua ra bài Văn sách hỏi về “Nhân tài và vương chính”.

Sai Bắc quân Đô đốc phủ tả Đô đốc Hoa lâm hầu Trịnh Tốn và Lại bộ Thượng thư Trần Cận làm Đề điệu. Hình bộ Thượng thư Đinh Bộ Cương làm Giám thí. Đông các học sĩ Nguyễn Bảo, Hàn lâm viện thị giảng tham chưởng Hàn lâm viện sự Lê Ngạn Thần làm Độc quyển.

Ngày 16 tháng Tư năm Kỷ Mùi (16-5-1499) vua ngự điện Kính Thiên, quan Hồng lô truyền loa xướng danh, Lễ bộ đem Bảng Vàng yết ngoài cửa Đông Hoa. Danh sách tân khoa theo thứ bậc.

Có tên trên Bảng Vàng cửa Đông Hoa, họ Dương có:

Dương Phấn Phi, người xã Dương Tuyền, huyện Tây Quan, phủ Đoan Hùng, đạo Sơn Tây (nay thuộc Đoan Hùng – Phú Thọ).

Dương Đức Kỳ, người huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam (nay thuộc Duy Tiên – Hà Nam).

Cả hai ông đều giành được học vị Đệ tam Tiến sĩ.

Nguồn: Đ4, tr.738; T7, tr.162-168.

        Tháng 6 (tháng Năm – Kỷ Mùi)

 286. Dương Trực Nguyên thăng tiến

Ông từ Đô cấp sự trung Lại khoa được cử làm Phủ doãn phủ Phụng Thiên.

Nguồn: Đ4, tr.739

Ngày 14 tháng 11 (21 tháng Mười – Kỷ Mùi)

 287. Hoàng đế Lê Hiển Tông sắc dụ cho Thượng thư Lại bộ Trần Cận, Cấp sư trung Lại khoa Lê Tung về việc khảo khóa các quan

Trong sắc dụ gửi cho hai viên đại thần, Hoàng đế viết: Tước thưởng là để khuyến khích người đời, khảo khóa là để xét thực các quan. Thăng giáng người hay người dở, Ngu Thuấn do đó mà làm trọn mọi việc; tóm xét về danh về thực, Hán Tuyên do đó mà nên nghiệp trung hưng. Vì rằng ở trên đã có máy thần tình để cổ vũ, thì bên dưới tất mài giũa lấy tâm trí giỏi giang. Việc ưa ghét không công bằng, thì khuyên răn thế nào được. Nước nhà ta, đặt quan theo đời xưa, dùng người giúp chính sự, quyền tuyển cử đã công lại minh, việc khảo xét rất kỹ và đủ. Tại sao các quan lại cho là hư văn? Trưởng quan không biết người hiền người ngu, theo thể lệ mà chia hơn kém; Cai ty (Ty Phụ trách) không rõ kẻ hay kẻ dở, chi nhất khái cho là liêm năng. Thuyên tào (Lại bố) chỉ cân nhắc lấy lệ; Lại khoa cũng ít khi bác đi. Người cần lao hết sức cũng lâu năm mới được thăng lên; kẻ hèn kém làm gian mà ít ngày cũng được tiến trật. Quan trường nhũng lạm, bởi đó mà ra. Nay lúc ta lên ngôi buổi đầu, chính trị càng nên đổi mới. Sự lệ nên làm thế nào, dụ cho các ngươi được biết. Từ nay trở đi, các quan viên văn võ trong ngoài, tại chức đủ 9 năm không có tham tang can phạm gì, lệ được khảo khóa, thì quan giữ việc khảo xét theo như lệ trước mà xét kỹ sự thực. Viên nào có tài cán làm được việc, quả không phải là hạng tầm thường, theo người mà tiến lui, thì mới được xét vào hạng xứng chức, cho thăng thưởng như lệ. Nếu viên nào tuy tại chức đủ 9 năm, không tham tang can phạm, nhưng là người không có tài năng gì, nhờ người khác mà nên việc, thì không được khảo xét thăng thưởng; cùng là kẻ lười biếng hèn ngu như hạng cục phó Trân mỹ cục là Nguyễn Lao, nhẹ thì phải biếm, nặng thì phải giáng. Quan khảo xét dám có tình riêng mà khảo xét bậy, Lại bộ xét lại không rành, Lại khoa xét bác không đúng, thì giao cả cho Hình bộ theo luật trị tội”.

Nguồn” Đ4, tr.743-744.

        Ngày 31 tháng 12 (9 tháng Chạp – Kỷ Mùi)

 288. Nguyễn Bảo Khuê, Lê Tung được cử lên Xương Giáng, Thị Cầu đón các sứ đoàn nhà Minh sang viếng Hoàng đế Lê Thánh Tông

Ngày Canh Tý 15 (tháng Chạp – Kỷ Mùi) nước Minh sai Hành nhân Ty hành nhân là Từ Ngọc sang làm lễ viếng Thánh Tông Hoàng đế. Ngày Nhâm Dần 17, nước Minh sai Chánh sứ là Ty kinh cục Tẩy mã kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Lương Chừ, Phó sứ là Binh khoa Cấp sự trung Vương Chẩn mang sắc sang phong vua làm An Nam Quốc vương. Trước đây, tháng ấy ngày mồng 9, vua sai Binh bộ Thượng thư Cống Xuyên bá Lê Năng Nhượng, Thiếu bảo Trịnh Công Đán, Hình bộ Tả thị lang Nguyễn Khắc Cung, Cẩm y vệ Đô chỉ huy Thiêm sự tri Đình úy ty sứ Phạm Miễn Lân, Đông các Hiệu thư Phạm Trí Khiêm, Đại lý Thiếu khanh Lưu Túc, Thanh Hoa đạo Giám sát Ngự sử Vũ Đạt Đạo cùng Thông sự là bọn Vũ Nhân Tu, Nguyễn Khâm, Phạm Cận lên địa đầu nước ta; Phò mã Đô úy Trần Khuê, Hình bộ Hữu thị lang Bùi Nguyên Đạo, Công bộ Hứu thị lang Lê Nhạc, Hình khoa Đô cấp sự trung Nguyễn Bảo Khuê đi đến trạm Thọ Xương; Bắc quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Hoa Lâm bá Trịnh Quý Thuật, Công bộ Hữu thị lang Nguyễn Giản, Lại khoa Đô cấp sự trung Lê Tung, Hải Dương Thừa tuyên Tham nghị Nguyễn Hán Đình sang trạm Thị Cầu; Nam quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Phò mã đô úy Lâm Hoài bá Lê Đạt Chiêu, Hộ bộ Hữu thị lang Trần Sùng Dĩnh, Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử Hoàng Hãng, Yên Bang đạo Giám sát Ngự sử Trịnh Quỳ sang trạm Lã Khôi để ứng tiếp Lương Chừ, Từ Ngọc, theo như lệ cũ vậy. Ngày 23, bọn Lương Chừ, Vương Chẩn, Từ Ngọc đều đến trạm Thị Cầu. Hôm ấy vua sai Đông các Đại học sĩ Đàm Văn Lễ, cùng các Học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp, Bùi Nhân đến trạm Thị Cầu cùng với Lương Chừ bàn việc làm lễ. Ngày 24, Từ Ngọc đi từ Thị Cầu đến trạm Lã Khôi. Vua đi thuyền Tiểu Quang đến trạm đón tiếp. Khi vua về cung, Chừ đưa ra ngoài cửa trạm trông theo, bảo Bùi Nhân rằng: “Ngày nay thấy Quốc vương tuổi đã lớn, thực là tướng thánh nhân, tướng trường thọ, quả là phúc của nhân dân phương Nam. Sao mà học rộng và ứng tiếp công việc nhanh chóng như thế”. Khen ngợi mãi không thôi. Ngày 25, Từ Ngọc khởi hành từ trạm Lã Khôi đến bến Thịnh Liệt xuống thuyền. Vua đến điện Quỳnh Vân tiếp kiến. Vua về cung trước. Từ Ngọc đến điện Cần Chánh làm lễ viếng Thánh Tông Hoàng đế. Làm lễ xong, vua cùng Từ Ngọc làm lễ ra mắt nhau, và sai các quan đưa đến sứ quán. Ngày 17, Lương Chừ đến điện Kính Thiên làm lễ mở đọc chiếu thư. Lời chiếu thư đại khái nói “Phụng thiên thừa vận Hoàng thượng phán rằng: nhà Minh ta làm vua muôn nước, tóm trị các phương, thánh giáo rộng ban, gần xa thấm khắp. Nước An Nam ngươi ở về cõi Nam, phên dậu của ta, đáng khen là nước giữ lễ, rực rỡ cố tục Trung Hoa. Vua nước ngươi xưa tên là Hạo (Lê Thánh Tông), kính chăm lễ cống, giữ dân yêu nước, gần bốn mươi năm. Nay đã trọn đời, quốc thống nên còn nối. Thế tử là Tranh, đức tốt hơn mọi người, dân chúng đều quy phục, dâng biểu xin phong, lời lẽ thành khẩn. Đặc ân sai bọn Lương Chừ đem thù tiết sang phong làm An Nam quốc vương Ôi! Quý người trước có đức tốt, chọn con cháu giống đức xưa, dù xa gần nghĩa không phân biệt; nối theo chí của người xưa, làm theo việc của người trước, giữ trước sau lòng chớ đổi thay. Mong các kỳ cựu quan viên trong nước, cùng nhau cung kính, để đáp lại đức của ta vỗ yên người xa. Vậy nên ban xuống chiếu thư để mọi người đều biết”. Nghi chú lễ cũ không có mục dâng hương, mục nhảy múa tung hô; đến đây bọn Chừ, Chẩn đưa sang nghi chú có các mục ấy. Vua không theo, đều bảo cho bọn Chừ biết là tuân theo lệ cũ. Làm lễ xong, vua đến điện Cần Chánh làm lễ ra mắt nhau, và sai các quan đưa bọn Chừ đến sứ quán. Ngày 29, Lương Chừ ốm, vua thân đến sứ quán thăm, Chừ ra tiếp kiến. Ngày hôm ấy vua thết yến bọn Chừ ở điện Cần Chánh và cho vàng bạc tơ lụa theo thứ bậc khác nhau, bọn Chừ đều không nhận, cố từ chối xin về nước. Vua làm thơ để tiễn.

Nguồn: Đ4, tr.745-746.

        NĂM 1500 (CANH THÂN)

        Tháng 5 (tháng Tư – Canh Thân)

 289. Thăng Dương Trực Nguyên lên chức Đô đình úy

Khi làm Phủ doãn phủ Phụng Thiên, ông không ngần ngại trừng trị bọn cường hào, quyền quý, buộc chúng phải chùn tay. Hoàng đế được Lê Quảng Độ bảo cử và tâu bày là Dương Trực Nguyên có chính thuật cương nghị xứng đáng ở cương vị mới nên đã ban mệnh này.

Nguồn: Đ4, tr.747.

        NĂM 1501 (TÂN DẬU)

        Ngày 9 tháng 1 (1 tháng Giêng – Tân Dậu)

 290. Dương Trực Nguyên giữ chức Hữu thị lang Công bộ

Do việc trước khi Hoàng đế ngự Tây Kinh đã ban chiếu rằng, quan trông coi quan và thợ, khi đốc thúc làm việc công, hoặc có ai lười biếng bỏ thiếu, đáng trừng giới thì tuyên bố tội phạm của người ấy mà trừng trị theo như phép, không được dùng gậy to, chân tay, ngói gạch, dùi gỗ mà tự tay mình đánh đau. Dương Trực Nguyên về bộ Công để thực thi chiếu này.

Nguồn: Đ4, tr.749.

        NĂM 1502 (NHÂM TUẤT)

        Ngày 30 tháng 1 (3 tháng Giêng – Nhâm Tuất)

 291. Hình bộ Hữu thị lang Dương Trực Nguyên được cử làm Binh bộ Tả thị lang

Sở dĩ có mệnh này là vì Hoàng đế có sắc chỉ rằng: 1. Từ nay trở đi, các quan huyện châu các xứ phải sức cho các xã trưởng rằng phàm các quân nhân cục tượng trong bản xã, khi sắp đến kỳ đại tập quân lính mà lên phải đoan khai rõ ràng, biết rõ là kẻ ngoan ngạnh lười biếng, đến kỳ phiên cho báo cáo với quan huyện châu đem việc ấy tâu lên, giao cho bộ phụ trách trị tội. 2. Từ nay trở đi, các vệ ty sở có người trốn về làm nghề cũ và dân đinh già ốm, mỗi khi đến kỳ lên phiên, cho theo như lệnh trước mà làm việc nhẹ; còn người khỏe mạnh, nếu bị ốm không làm được việc, cũng có thể cho bản ngũ được nộp tiền, không được gian trá giả, bệnh.

Đến tháng Một cùng năm (12-1502), ông lại được cử làm Lễ bộ Tả thị lang.

Nguồn: Đ4, tr.752-753.

        Ngày 28 tháng 3 (1 tháng Ba – Nhâm Tuất)

 292. Dương Trực Nguyên làm Giám thị kỳ thi Hội, Đào Thúc Viện có tên trên Bảng Vàng.

Tháng Hai – Nhâm Tuất (3-1502) thi Hội các Cử nhân trong nước. Số đi thi là 5.000 người, lấy đỗ Trần Dực 61 người. Bộ Lại kê tên tâu lên. Vua thân ra đầu bài văn sách hỏi về Đế vương trị thiên hạ. Sai Nam quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Phò mã đô úy Lâm Hoài bá Lê Đạt Chiêu và Hộ bộ Thượngthư Vũ Hữu làm Đề điệu; Binh bộ Tả thị lang Dương Trực Nguyên và Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử Bùi Xương Trạch làm Giám thị; Lễ bộ Thượng thư Tả xuân phường Hữu dụ đức kiêm Đông các Đại học sĩ Đàm Văn Lễ, Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị tộc chưởng. Hàn lâm viện sự Nguyễn Bảo, Lễ bộ Tả thị lang kiêm Đông các Học sĩ Lê Ngạn Tuấn, Quốc tử giám Tế tửu Hà Công Trình, Tư nghiệp Hoàng Bồi, Thái thường Tự khanh Nghiêm Lâm tiến đọc quyển thi. Vua xem xong, ngày 1 tháng Ba (28-3-1502) cho Lê Ích Mộc (người xã Thanh Lãng, huyện Thủy Đường, khi trước làm Đạo sĩ, đến khi đỗ, vua sai tuyên đọc lời Chế thư, bưng lư đốt hương ra trước, bỏng tuột cả tay mà không biết), Lê Sạn, Nguyễn Văn Thái 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Cảnh Diễn, Lê Nhân Tế 24 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Phạm Khiêm Bính, Nguyễn Mậu 34 người đỗ Đệ tam giáo đồng Tiến sĩ xuất thân. Vua ngự điện Kính Thiên, Hồng lô tự truyền loa xướng danh. Hàng năm Bảng Vàng vẫn treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đến nay vua sai bộ Lễ bưng ra, nổi nhạc rước đem treo ở cửa nhà Thái học. Bảng vàng treo ở cửa nhà Thái học bắt đầu từ đây.

Kỳ thi này có Đào Thúc Viện, dòng dõi Đào Sư Tích, người xã Song Khê, tổng Phúc Tằng huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, đạo Kinh Bắc (nay thuộc thành phố Bắc Giang) đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Nguồn: Đ4, tr.752; V2, tr.118-130.

        NĂM 1503 (QUÝ HỢI)

        Ngày 25 tháng 1 (8 tháng Giêng – Quý Hợi)

 293. Dương Tình được cử coi sóc việc đê điều, chống lụt lội

Quý Hợi năm thứ 6 (1503), mùa xuân, tháng Giêng, ngày mồng 8, có sắc chỉ dụ cho Thanh Hoa Tán trị Thừa tuyên sứ ty Tham nghị Dương Tình rằng: – Ta rất lưu ý về việc nhà nông, ngươi coi binh dân phải nên hết sức. Đi thăm nom không lười biếng; chứa tháo nước phải theo thì. Chăm làm chính hay, để giữ công mãi. Kinh thư nói rằng: – Có phòng bị thì không lo ngại là thế đó. Trừ ra những việc đã tâu lên không kể, nơi nào bị hạn hay bị lụt, cần phải dự bị đề phòng trước về việc cày cấy: Các quan châu huyện kia, coi dân như người nước Tần nước Việt, ai béo ai gầy không bợn lòng đến. Ta mỗi khi sai nội thần đi khám đồng điền, thì thấy hoặc có chỗ ruộng đồng bờ thấp, hoặc đường đi bỏ rậm, hoặc bờ ruộng bị lở, hoặc thả vịt hại lúa, nước chứa chỉ được vài ngày, không thể lâu được, nắng chưa mấy ngày, ruộng cạn hết nước, đó đều là do người chia lo với ta không được người giỏi, phương pháp để ngừa chống chưa có kế hay. Than ôi! Bọn các ngươi mũ aó cho đẹp, bổng lộc cho nhiều, để làm cửa nhà cho giàu ư? Hay là để giúp việc cho vua ư? Ta một mình chăm sóc lo sợ, để cho các ngươi vui thú rong chơi. Huống chi năm nay gặp vận hạ nguyên, đương khi mạt kiếp. Kinh Huyền khu nói: Ngày đông chí gặp ngày “nhâm” thì bỏ đất ngàn dặm không trồng cây được. Kinh Địa mẫu nói: Năm Quý Hợi mà mưa nhiều nước quá, thì việc sửa đắp đê điều không cần kíp ư? Ngươi phải lập tức sửa làm các cống nước, xe guồng, khe nhỏ, đường lớn trong hạt, hạn trong 2 tháng phải xong. Ngươi phải thân đến kiểm lại, nếu hoàn hảo thì đặt vào hạng khảo bậc thượng, sửa đắp không tốt thì biên vào hạng không xứng chức, đề rõ ràng lên, để định thăng giáng. Nếu bọn ngươi vô tình không chịu đốc thúc, đến khi mưa dầm, lúa ruộng bị ngập, xét được đích thực, sẽ giao xét hỏi cả.

Quả nhiên, trong năm này trước thì đại hạn, sau thì nước to, núi Tản Viên và Tam Đảo đều bị lở.

Nguồn: Đ4, tr.755, 757.

        Tháng 5 (tháng Tư – Quý Hợi)

 294. Dương Trực Nguyên tâu xin đắp đê sông Tô Lịch

Theo đó, Lễ bộ Tả thị lang xin đắp trên từ xã Trát Kiều (tổng Thượng Hồng) xuống đến xã Cống Xuyên (tổng Đông Cứu) để phòng lụt và hạn lợi cho việc nông và khai cừ An Phúc xuống đến cừ Thượng Phúc (tổng La Phù) để tưới nước vào ruộng cho dân.

Các xã và tổng trên khi đó thuộc huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam (nay thuộc Thường Tín – Hà Nội).

Nguồn: Đ4, tr.756.

        NĂM 1504 (QUÝ HỢI – GIÁP TÝ)

        Ngày 14 tháng 1 (8 tháng Chạp – Quý Hợi)

 295. Dương Trực Nguyên được kiêm việc Hàn lâm viện

Chức Lễ bộ Tả thị lang của ông vẫn được giữ nguyên.

Nguồn: Đ4, tr.757.

        NĂM 1505 (ẤT SỬU)

        Ngày 25 tháng 3 (1 tháng Ba – Ất Sửu)

 296. Dương Đức Giản thi đỗ Đệ nhị Tiến sĩ

Ngày 18 tháng Hai năm Ất Sửu (13-3-1505) Hoàng đế cho mở kỳ thi Hội các Cử nhân trong nước lấy đỗ Lê Nại (người làng Mộ Trạch huyện Đường Yên) 55 người. Ngày 1 tháng Ba (25-3-1505) công bố kết quả thi Đình cho bọn Lê Nại, Bùi Doãn Văn, Trần Phi (người làng Chi Nê, huyện Chương Đức, là con Trần Khải) 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Tiếu Tượng, Trần Lỗi 16 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Phạm Đôn Thảo, Nguyễn Tú 36 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.

Dương Đức Giản, người xã Linh Quang, tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, đạo Thái Nguyên (nay thuộc xã Khai Quang – thành phố Vĩnh Yên) đỗ Đệ nhị Tiến sĩ. Ông là ông nội của Dương Tông, làm quan đến Đô cấp sự, về trí sĩ.

Nguồn: Đ4, tr.761; C1, tr.283; T29, tr.67.

        Ngày 19 tháng 6 (28 tháng Năm – Ất Sửu)

 297. Dương Trực Nguyên chuyển làm Hộ bộ Tả thị lang

Bên cạnh chức vụ mới, ông còn kiêm Chiêu Văn quán.

Nguồn: Đ4, tr.672.

        Ngày 25 tháng 6 (5 tháng Sáu – Ất Sửu)

 298. Lê Tung được cử làm Thừa tuyên sứ Thanh Hóa

Trước đó, ông giữ chức Đô cấp Sự trung.

Nguồn: Đ4, tr.672.

        NĂM 1507 (ĐINH MÃO)

        Tháng 12 (tháng Một – Đinh Mão)

 299. Dương Trực Nguyên, Lê Tung đi sứ sang nhà Minh

Mùa đông, tháng Một, sai sứ sang nước Minh, gồm Hộ bộ Tả thị lang Dương Trực Nguyên, Đông các Hiệu thư Chu Tống Văn, Hàn lâm viện kiếm thảo Đinh Thuận mừng Vũ Tôn lên ngôi; Lương Khản tạ ơn ban vóc lụa; Hồng lô Tự thiếu khanh Nguyễn Thuyên dâng hương; Công bộ Hữu thị lang Nguyễn Đạo, Hàn lâm viện Kiểm thảo Doãn Mậu Khôi, Hộ khoa Cấp sự trung Lê Đĩnh Chi tạ lơn làm lễ viếng, Thanh Hoa Thừa tuyên sứ Lê Tung, Hàm lâm viện Kiểm thảo Đinh Trinh, Giám sát Ngự sử Lê Hiếu Trung tạ ơn sách phong; Nghệ An Tham nghị Lê Uyên, Hàn lâm viện Hiệu lý Ngô Tuy, Giám sát Ngự sử Hoàng Nhạc tiến cống hàng năm.

Nguồn: Đ4, tr.764.

        NĂM 1508 (MẬU THÌN)

        Ngày 21 tháng 3 (1 tháng Ba – Mậu Thìn)

 300. Nguyễn Sư Phổ, Nguyễn Duy Tường đỗ Đệ tam Tiến sĩ

Mậu Thìn, năm thứ 4 (1508). Mùa xuân, tháng Hai, thi Hội các Cử nhân trong nước. Lấy đỗ Đỗ Dung (Dung người huyện Thu Trì, thi Đình đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân) 54 người. Đến khi thi Đình, cho bọn Nguyễn Giản Thanh, Hứa Tam Tỉnh, Nguyễn Hữu Nghiêm 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ; bọn Trần Tông 15 người đỗ Đệ nghị giáp Tiến sĩ xuất thân; Nguyễn Nghĩa Thọ 36 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.

Nguyễn Sư Phổ sinh năm Mậu Dần (1458), Nguyễn Duy Tường sinh năm Ất Tỵ (1485) – cả hai ông đều là cháu nội của Nguyễn Bảo Khuê. Tuy cùng thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhưng Nguyễn Duy Tường không nhận, chờ khoa thi sau giành học vị cao hơn.

Nguồn: Đ4, tr.764; T29, tr.68-69.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Mậu Thìn)

 301. Dương Trực Nguyên, Lê Tung đi sứ từ nước Minh về

Riêng Hộ bộ Tả thị lang Dương Trực Nguyên được vua ban cho hốt ngà và đi bạc.

Nguồn: Đ4, tr.765.

        NĂM 1509

        Ngày 22 tháng 7 (16 tháng Sáu – Kỷ Tỵ)

 302. Vợ chồng Dương Đường đóng góp vào việc tôn tạo chùa Đông Tác

Tam bảo tại chùa Đông Tác (nay thuộc phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa) tạo năm Đoan Khánh 5 (1509) cho biết, người đề xướng là Nguyễn Liệu hiệu Phát Tâm, người xã Đông Sơn, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên cùng vợ là Nguyễn Thị Trần, hiệu Hướng Đạo đều là những người ham làm điều thiện, yêu thích Phật Giáo, coi việc hóa duyên làm công việc (hằng ngày).

Ngày 9 tháng Chín năm Cảnh Thống thứ 3 (21-9-1500), ông bà đã xây cây cầu đá, khơi nước đồng Cách, thông Đông Kiều. Ngày 13 tháng Sáu năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Thống thứ 6 (12-4-1503), trồng hoa và cây bạch dong ở chùa Khám, thôn Đông Kiều. Tiếp đến, lại mời thân mẫu làm lễ khánh thành và cho đốt hết các khoán ước cho vay nợ.

Ngày 15 tháng Năm năm Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (3-6-1508) đắp núi đất, xây giếng đá gồm 20 khối đá, và mua một miếng đất bên phía nam để đổi một thửa đất bên phía đông bắc cúng Tam bảo. Ngày 23 tháng Sáu năm Kỷ Tỵ niên hiệu Đoan Khánh thứ 5 (29-7-1509), nhân dịp khánh thành, lại một lần nữa sẽ xóa bỏ các loại nợ riêng, vui vẻ vì mối thiện duyên đã hoàn thành. Tuy nhiên, ông bà vẫn e sau này khi ngày tháng trôi qua, cầu hư giếng tắc, hoa tươi điêu tàn, mà chẳng có người tiếp nối thì những mối thiện duyên này chẳng được viên mãn. Nghĩ vậy nên bèn thuê thợ đẽo đá để ghi lại việc lớn. Mong rằng, các thiện nam tín nữ về sau, thấy cầu hư hỏng thì tu bổ lại, thấy giếng bị tắc thì khơi thông, thấy cây cối điêu tàn thì bổ sung thêm. Những việc làm này cũng đều là thiện duyên cả, chứ đâu phải chỉ có những việc làm hôm nay mới là thiện duyên đâu? Đây chính là những việc phải nên dụng tâm phi phát tâm, chính là những việc phải nên phát nguyện trên con đường hướng đạo vậy.

Bia được khắc xong và tạo dựng vào ngày 16 tháng Sáu năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Đoan Khánh 5 (22-7-1509), trước ngày làm lễ khánh thành và xóa các khoản nợ 7 ngày. Ngoài vợ chồng ông bà Nguyễn Liệu và nhiều người khác đóng góp, có vợ chồng ông bà Dương Đường.

Nguồn: T16, tập 1, tr.51-56; V5, tr.537-542.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Kỷ Tỵ)

 303. Hộ bộ Tả thị lang Dương Trực Nguyên thăng chức

Chức vụ Đô ngự sử Ngự sử đài mà ông được nhận là chức vụ cuối cùng trên đường hoạn lộ của Dương Trực Nguyên.

Nguồn: Đ4, tr.767.

        Tháng 10 (tháng Chín – Kỷ Tỵ)

 304. Dương Đức Giản tâu bầy về chế độ khoa cử

Tháng Chín, Đô cấp Sự trung Lại khoa Dương Đức Giản tâu rằng: – Thần vâng xét năm Hồng Đức 7 có sắc chỉ rằng Quốc tử Giám sinh, Tam xá sinh người nào từ 30 tuổi trở lên thì bản quan mới được bảo cử bổ dụng. Năm thứ 8 có sắc chỉ rằng Nho sinh ở Sùng văn quán và Tú lâm cục do bản quan bảo kết khảo xét, người nào lâu năm, tài cán và thi Hội trúng trường đều được bổ dụng. Thần trộm nghĩ rằng: Giám sinh, Nho sinh chưa đến 30 tuổi mà vào học chưa đầy 15 năm, lấy thi Hội được trúng trường, thỉnh thoảng cầu may được bổ, thì có sự hỗn loạn không tiện. Cúi xin từ nay trở đi, các Giám sinh, Nho sinh từ 30 tuổi trở lên mà vào học đã đủ 15 năm trở lên thì bản quan mới được bảo tuyển bổ dụng như lệ. Người nào dám lấy tình riêng mà bảo cử người tuổi trẻ năm ít, thì các khoa và Ngự sử đài tâu hoặc trị tội, để răn những kẻ làm tôi mà lấy tình riêng bảo cử bậy và trừ các tệ cầu may hỗn loạn.

Ninh quận công Lê Quảng Độ tâu rằng: – Bọn thần trộm nghĩ lời nói của Dương Đức Giản cũng có lý thực, nhưng trong ấy vẫn còn chưa đủ, nay bọn thần xin bàn lại các điều như sau:

Vâng xét Giám sinh Quốc tử Giám, người nào thi Hội nhiều lần trúng trường, được 15 năm trở lên, tuổi cao trúng trường nhiều, mới được sung vào Thượng xá sinh mà dẫn tuyển bổ dụng cho làm các chức Mục dân, Thủ lĩnh, Bạn độc, Trưởng sử, Huấn đạo. Nếu trúng trường nhiều và đã đủ 15 năm mà chưa được sung vào Thượng xá sinh, cùng là người nào trúng trường một lần mà đã đủ 18 năm trở lên, thì cũng cho bảo tuyển, bổ làm các chức Cáp môn, Tự ban, Bạn độc, Trưởng sử, Giảng dụ.

Vâng xét con cháu các quan viên sung vào Nho sinh ở Sùng văn quán và Tú lâm cục, thi Hội trúng trường, tuổi cao trúng trường nhiều, đủ 15 năm trở lên, cùng là người nào chỉ trúng trường một lần mà đủ 18 năm trở lên, mới được bảo tuyển bổ làm các chức mục dân, thủ lĩnh. Nếu là người tuổi cao tài cán, không trúng trường mà đủ 25 năm trở lên, thì cũng cho bảo kết khảo thí, bổ các chức Tá nhị ở các châu huyện. Người nào đã được dẫn tuyển mà chưa đủ niên hạn, phải đợi khi đủ niên hạn mới được bổ dụng. Còn như thân thuộc dòng dõi của Hoàng hậu và con cháu của khai quốc công thần sung vào nho sinh ở Sùng văn quán thì vẫn theo lệ cũ”.

Nguồn: Đ4, tr.767-768.

        Đầu tháng 12 (đầu tháng Một – Kỷ Tỵ)

 305. Lê Tung cùng nhiều đại thần tham gia vào lực lượng của Giản Tu công Lê Oanh chống lại Lê Uy Mục

Chiếm được ngôi báu, Lê Uy Mục đêm nào cũng vào cung cùng với cung nhân uống rượu vô độ, ai say thì giết, quyền lực do ngoại thích điều khiển hết. Tôn thất và công thần bị ruồng bỏ, đuổi về Thanh Hóa. Giản Tu công Lê Oanh, cháu của Hoàng đế Lê Thánh Tông còn bị giam ở ngục, nhờ đút lót nên trốn được về Tây Đô, đến cửa biển Thần Phù được Nguyễn Văn Lang tôn làm minh chủ. Nguyễn Văn Lang rèn đúc giáo dài và cùng với các Đại thần là Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm và Thanh Hoa Tổng binh Thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn, Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Thì Ung dấy binh, sai Lương Đắc Bằng làm Hịch dụ các Đại thần và các quan, đại lược rằng:

“Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Thoắt đã gần được 5 năm, tội ác đến muôn vẻ. Giết hại người xương thịt; dìm hãm các thần liêu. Bọn họ ngoại được tin dùng mà phường đuôi chó tung hoành làm bậy, kẻ cương trực bị ruồng bỏ mà người đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi. Đánh thuế tỉ mỉ, tiêu tiền như bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính; bề tôi ngựa trâu, coi dân như rác, kiêu ngạo còn quá Ngụy Canh. Huống chi lại làm cung thất to, làm vườn hoa rộng. Bắt dân trồng cây, theo bánh xe đổ gò Hoa Cương nhà Tống; lấp biển làm điện, nối gót hôn mê cung A Phòng nhà Tần. Việc thổ mộc làm lại thôi, thôi lại làm, mệt nhọc dân Hải Dương, Kinh Bắc, bọn quý tộc ngạo lại ngược, ngược lại ngạo, quấy rối vùng phiên trấn tứ Tuyên. Nhân dân nhức óc, cả nước đau lòng”.

Lại làm bài Hịch rằng: – Đoan Khánh làm vua, họ ngoại chuyên chính. Tử Mô là phường ngu hèn nơi phố chợ, rối loạn triều cương; Thắng Xung là hạng trẻ con chốn hương thôn, càn làm uy phúc. Thậm chí đánh thuốc độc bà nội, sát hại các thân vương. Lấy lòng riêng mà giết nhân dân, không biết cùng cực; lấy thân thiết mà đòi tiền của, mặc sức tham lam. Bốn biển khốn cùng, muôn dân sầu oán.

Giản Tu công Lê Oanh giả xưng là Cẩm Giang vương (tức Lê Sùng, anh trai Lê Oanh) dựng cờ chiêu an của Cẩm Giang vương.

Nguồn: Đ4, tr.768-769.

        Ngày 29 tháng 2 (28 tháng Một – Kỷ Tỵ)

 306. Dương Trực Nguyên mất trong trận chống cuộc nổi dậy của Giản Tu Công

Tháng Một, ngày mồng 8, Giản Tu công Lê Oanh từ Tây Đô đem các dinh thủy bộ đều tiến. Quân thủy đến núi Thiên Kiện (Thanh Liêm – Hà Nam). Vua lấy hai thuyền nhẹ Hà Thanh và Hải Thanh rảo đến chùa Bảo núi Thiên Kiện, bắt được một viên tướng thủy dinh và giết cắt tai được 20 người binh lính đem về ngoài cửa Đông Hoa. Vua sai Phó tướng là Đông Nham bá Lê Vũ làm Tán lý, Ngự sử đài Đô ngự sử Dương Trực Nguyên làm Ký lục và Hiếu thị lang Phạm Thịnh, Trần Năng đem cấm quân và quan quân các vệ Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền để chống giữ, không được. Ngày 1, anh của Oanh là Cẩm Giang vương Sùng, em là Tĩnh Lượng công và Quyên cùng với Thọ Mai Phò mã Nguyễn Kính đều bị giết. Quân của Oanh còn dùng cờ chiêu an của Cẩm Giang vương để phủ dụ Lê Vũ về hàng. Lê Vũ lấy đầu của Cẩm Giang vương giơ cho xem và nói: – Đây là đầu của Cẩm Giang vương, còn nói dối gì nữa” rồi cưỡi voi chỉ huy các quân tiến đánh đến xứ Đồng Lạc, thua trận, không chịu khuất mà chết, những người khác như Dương Trực Nguyên, Phạm Thịnh, Trần Năng cũng chết ở Châu Cầu. Quan quân bị thua về. Ngày 26, các dinh quân của Oanh đều tiến đến các xứ Bảo Hà, Nhân Mục, Hồng Mai, Thiêu Thân. Vua ra cửa Thanh Dương úy lạo các lực sĩ điện Kiên Quang và tướng sĩ các vệ Cẩm y Kim ngô, lấy kiếm cho bọn Trình Chí Sâm, Lê Quảng Độ. Phát vàng bạc tiền của cho tù nhân hiện giam ở ngục Ngũ hình mỗi người 2 quan, sai đi đánh giặc. Các tù nhận tiền rồi đều về nhà cả. Lại vội vàng gọi quân. Vua sai trung sứ và hoa văn học sinh mỗi ty 2 người mang sắc và phù đến các đô ty Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bang đưa sắc và kháp phù, bắt lấy thổ binh các trấn mỗi trấn 5.000 người để phòng đánh giặc. Các người nhận sắc phù đi, vua cho mỗi người một chiếc giáo ngắn ngự tiền sơn son để giữ mình. Bọn ấy chưa đi đến các xứ Bồ Đề, Xuân Canh, thì quân của Lê Oanh đã tiến đến giáp thành, mọi người đều trốn. Hoàng hậu là Trần Thị Tùng trốn ra đến xã Hồng Mai, náu ở nhà dân rồi tự thắt cổ chết ở miếu chùa. Lê Quảng Độ cùng với Giản Tu công trong ngoài thông tin với nhau; bắn súng làm hiệu, giương gậy làm cờ, chặt cây làm binh khí để đánh lẫn nhau cho các quân kinh hãi, rồi bắt hiếp vua sang phương Bắc. Khi Giản Tu công đến thành Đông Kinh, được tin cha là Kiến vương và anh là Cẩm Giang vương, em là Tĩnh Lượng công Doanh, em út là Quyền đều bị giết, sai quan sửa việc tang và làm lễ tống táng. Ngày28, vua chạy đến phường Nhật Chiêu. Một vệ sĩ cũ đuổi theo bắt được, đem nộp cho Giản Tu công, giam ở cửa Lệ Cảnh. Giản Tu công cho người vệ sĩ ấy là bất nghĩa, sai giết đi. Tháng Chạp, ngày mồng 1 (31-12-1509), vua uống thuốc độc tự tử. Giản Tu công cho là vua khi trước giết hại cha mẹ và anh, em mình, cơn giận chưa nguôi, sai người lấy súng lớn để xác vào miệng súng, súng nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy tro tàn đem về chôn tại An Lăng ở quê mẹ là làng Phù Chẩn, giáng xuống làm Mẫn Lệ công (Có thuyết nói rằng: Khi quân khởi nghĩa đến sát Kinh thành, vua chạy ra thôn Cập Hối xã Đông Cao huyện Yên Lãng, bị người ở hàng chợ xã ấy đón về đem nộp cho Nguyễn Văn Lang. Văn Lang đem về quán Bắc sứ giết đi, bọn ngoại thích cũng bị giết hết).

Nguồn: Đ4, tr.769-771.

        NĂM 1510 (KỶ TỴ – CANH NGỌ)

        Ngày 3 tháng 1 (4 tháng Chạp – Kỷ Tỵ)

 307. Lê Tung được cử đi sứ nhà Minh

Ngày 1 tháng 1-1510 (2 tháng Chạp – Kỷ Tỵ, theo văn bia Cổ tích linh từ bi ký do Lê Tung soạn tháng Tám – Canh Ngọ, tức tháng 9-1510; còn Đại Việt sử ký toàn thư là ngày 4 tháng Chạp – Kỷ Tỵ) Giản Tu lên ngôi Hoàng đế, đại xá, đổi niên hiệu, lấy năm đó làm Hồng Thuận năm thứ 1. Ngày 3 tháng 1-1510 (4 tháng Chạp – Kỷ Tỵ) sai các đầu mục là Lê Quảng Độ, Lê Điêu, Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Lê Hưng Hiếu, Trình Chí Sâm, Trịnh Tuy, Lương Đắc Bằng, Đỗ Lý Khiêm, Đinh Cương, Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Lê Nại, Đàm Thận Giản, dâng biểu trần tình cho nhà Minh, lời biểu rằng: Đoan Khánh Lê Tuấn, tập phong tước vương, trải khoảng 4 năm, yêu dùng họ mẹ là bọn Khương Xung và Nguyễn Bá Thắng, ngang tàng bạo ngược, đảo lộn triều cương, tàn sát họ hàng, độc giết tổ mẫu, người nước khổ sở, dân chịu không xong. Bọn Xung Thắng quyền át trong ngoài, ác đảng ngày càng lan rộng, mưu cướp quyền nước.

Nguồn: Đ4, tr.772.

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Ngọ)

 308. Lê Tung và những người ứng nghĩa được xét công trạng

Sau khi cho xét bàn công lao của những người ứng nghĩa, nhà vua cho Nghĩa Quận công Nguyễn Văn Lang làm Nghĩa Quốc công, gia phong Thiệu Quận công Lê Quảng Độ làm Thiệu Quốc công, Lạng Quận công Lê Phụ làm Lạng Quốc công, Uy Quận công Lê Bá Lân làm Uy Quốc công, Hộ bộ Thượng thư Trịnh Duy Đại làm Văn Quận công, Điện tiền đô Kiểm điểm Thụy Dương hầu Trịnh Hựu làm Thọ Quận công, Phò mã Đô úy Lê Mậu Chiêu làm Diêm Quận công, Nguyễn Hoằng Dụ là con Nguyễn Văn Lang làm An Hòa hầu; Trịnh Duy Sản làm Mỹ Huệ hầu, Thanh Hoa Tổng binh Thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn (đổi tên là Bá Thuyên) làm Lễ bộ Thượng thư, Do Lễ bá Thanh Hoa Thừa tuyên sứ Lê Tung làm Lại bộ Thượng thư, Độ Thư bá Thanh Hoa Tham chính Nguyễn Thì Ung làm Ngự sử đài Đô ngự sử, Lương Văn bá Đàm Thận Huy làm Hình bộ Thượng thư, Hàn lâm viện Thị độc Tham chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng làm Lại bộ Tả thị lang.

Nguồn: Đ4, tr.773-774.

        Tháng 9 (tháng Tám – Canh Ngọ)

 309. Lê Tung soạn văn bia Cổ tích linh từ bi ký đặt tại đền thờ Cao Sơn

Đền được dựng tại xã Tử Trầm, tổng Tứ Lân, huyện Ninh Sơn, phủ Đoan Hùng, đạo Sơn Tây (nay vẫn còn trên núi Tử Trầm thuộc xóm San, xã Phụng Châu, Chương Mỹ – Hà Nội). Văn bia do Tiến thận Quang lộc Đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử Giám Tế tửu, Tri kinh diên Sự thần Lê Tung soạn, cho biết “Thánh tổ Cao Hoàng đế buổi đầu khởi nghĩa, tất có sự phù hộ lớn lao, họa phúc đều bởi do các bậc thần linh nổi tiếng, trời đất chí nhân, quỷ thần có đức. Về sau đền miếu được dựng xây, triều đình ban ơn lớn lao, để xuân thu tế lễ, đều là báo đáp công ơn của thần. Bỗng chốc Lệ Mẫu (tức Lê Uy Mục) thất đức hung bạo, ngoại thích chuyên quyền, trong triều can gián, chà đạp dân chúng, giết hại tôn thần. Trời oán dân giận mà không biết, dân chúng chống lại rời bỏ mà không hay.

Tháng Một năm Kỷ Tỵ (12-1509) Hoàng thượng tránh nạn ở Tây Đô, tập trung nghĩa binh để khôi phục công nghiệp lớn lao của Cao Tổ, của muôn triệu dân. Lúc ấy ở điện Trường Lạc người thân thuộc cùng nhau bàn bạc, dốc lòng trung thành, khai quốc công thần: Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Văn Lữ cùng kính cẩn vâng mệnh đi đánh dẹp. Cùng nhau tập hợp hào kiệt, nhóm họp dân binh, giúp cho cờ quạt đao binh đi làm việc lớn. Vượt qua khó khăn, Văn Lữ hành quân đến huyện Ninh Sơn (sau đổi là Yên Sơn). Núi rừng rậm rạp hoang vắng, có vực sâu, khoảng một mẫu yên tĩnh ngập nước, sâu không lường được, cây cối cành lá giao nhau, trên có một đền thờ lợp bằng cỏ tranh, trong đền dựng một cột đá đề chữ Cao Sơn Đại Vương. Văn Lữ nhìn thấy, sợ hãi mà khấn rằng: Đoan Khánh tàn ngược dân không sao sống nổi. Lòng người, mệnh trời đều trở về với người có đức. Nay Thánh thượng lấy con của Kiến Hoàng cháu của Thánh Tông lên làm vua. Nghĩ rằng tổ tông gian nan dựng nghiệp, thương muôn họ phải chịu cảnh đọa đầy. Vì sự duy trì của xã tắc mà dấy binh để trừ tàn khử bạo. Văn Lữ giúp nhà vua giữ yên thiên hạ. Thần như linh thiêng phù hộ cùng cứu giúp việc lớn. Công việc thành công Văn Lữ tâu với triều đình để tôn vinh công lao của thần.

Cầu xong, hàng ngũ chỉnh tề kéo đi, bề tôi và dân chúng không hẹn nhau mà mọi người đều tập trung đi theo, chuẩn bị giỏ cơm, túi nước để đi đón quân của nhà vua. Binh không phải khổ máu dây mũi gươm đao, dân thỏa nguyện mong chờ, như nắng hạn gặp mưa rào, giặc bị tiêu diệt, cung cấm sạch lầu, muôn năm bền vững. Đại đế, do sự linh thiêng của miếu mạo, Tam cương, cửu trù được bền vững dài lâu, sự nghiệp lớn lao được khôi phục.

Vận nước do đó lại được an, chưa đến một tuần mà đã thành công nhanh chóng. Được như thế là do đức thánh phù hộ, đạo trời và lòng người giúp sức, quỷ thần cũng tương trợ chăng.

Ngày 2 tháng Chạp năm ấy (1509) Hoàng thượng lên ngôi. Nhà vua vỗ về, thi hành nhân nghĩa để thể hiện sự sùng chuộng, muôn họ được bao hàm phẩm trật để tỏ lòng mến mộ. Văn Lữ cùng bách quan được thưởng công lớn. Nghĩ rằng công thần thật lớn lao. Nghe lời ngọc, ban sắc cho xã Tử Trầm, huyện Ninh Sơn. Sai quân dân xây dựng đền thờ, mệnh cho bộ Công dựng bia, sai thần soạn bài minh để lại mãi mãi…”.

Có một điều lạ và trùng hợp là, vào khoảng niên hiệu Hoàng Định (1602-1619), trên bến Bồ Đề xuất hiện một tấm bia từ huyện Phụng Hóa trôi đến. Mãi hơn 100 năm sau, vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1771), dân phường Kim Liên mới kéo tấm bia lên, trên trán bia thấy có dòng chữ lớn Cao Sơn Đại vương thần từ minh tịnh tự (Bài tựa và minh đền thờ Cao Sơn Đại vương) và lời lẽ trong lòng bia giống hệt như Cổ tích linh từ bi ký dựng ở núi Tử Trầm, đều do Lê Tung soạn vào cùng một thời điểm. Dân phường Kim Liên chỉ khắc thêm dòng ngày tháng dựng lại bia (1 tháng Tám năm Nhâm Thìn, tức 9-9-1771). Hiện bên trái đình Kim Liên vẫn còn tấm bia này.

Nguồn: T1, số 2/2005, tr.50-61; số 3/2007, tr.3-8.

        TRONG NĂM

 310. Lê Tung soạn nhiều Thần tích về Cao Sơn Đại vương ban cho một số địa phương

Với tư cách là Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ kiêm Tế tửu tri Kinh diên sự thần, lại là người chấp bút soạn văn bia về vị Cao Sơn Đại vương được thờ phụng ở Tử Trầm, trong năm 1510, một số nơi như xã Bối Khê (tổng Thịnh Đức, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam), thôn Thọ Khang, xã Đinh Loan (tổng Nghĩa Trai, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc), xã Xuân La (tổng Trà Lương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, đạo Hải Dương), xã An Trực (tổng Đồng Hải, huyện Thanh Quan, phủ Thái Ninh, đạo Sơn Nam) đều có Thần tích về Cao Sơn Đại vương do Lê Tung soạn.

Hiện, trong tàng thư thuộc sự quản lý của Viện Hán Nôm có một số thần tích về Trần Quang Khải Đại Vương (Trang Liệt, tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc), Thiên Tôn Thượng đẳng thần (Văn An, tổng Ngu Nhuế, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam), Điện Công (Mã Não, tổng Thụy Lôi, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam), Ỷ Lan thời Lý, Đào Hồng âm phù Hai Bà Trưng (Đồng Bào, Gia Lộc – Hải Dương), Sự tích 2 vị thần triều Lý (Đồng Xuyên, tổng Lang Tài, huyện Lang Tài, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc), Sự tích Lý Hải triều Lý, Nguyễn Phục triều Lê (Long Vĩ, tổng Trà Lương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, đạo Hải Dương), Sự tích thần Áp Quốc, Duyệt Tịch thời Lê Đại Hành (Đỗ Xuyên, tổng Lương Lỗ, huyện Thanh Ba, phủ Lâm Thao, đạo Sơn Tây), Sự tích Lý Phật Mã, Nhã Lang, Ả Lã Nàng Đê… (Bồng Mạc, tổng Xa Mạc, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, đạo Sơn Tây) ghi Lê Tung soạn vào các năm 1470-1472 có lẽ không phải vì tới năm 1484 sau khi thi đậu Tiến sĩ ông mới bước vào con đường hoan lộ, có vai vế và trọng trách với các bản Thần tích trên.

Nguồn: D2, Q. Thượng, tr.365-677.

        NĂM 1511

        Ngày 21 tháng 5 (5 tháng Năm – Tân Mùi)

 311. Nguyễn Duy Tường, Dương Khải thi đậu Đệ nhị, Đệ tam Tiến sĩ

Theo Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ Đề danh (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Tân Mùi năm Hồng Thuận 3) do Đặc tiến kim tử Vinh lộc Đại phu Thiếu bảo Thượng thư bộ Lễ, Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử Giám Tế tửu Tri Kinh diên sự Đôn Thư bá Trụ quốc Lê Tung soạn, cho biết:

“Trời mở vận trung hưng, năm đúng kỳ mở khoa thi lớn. Mùa xuân năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511), bộ Lễ kính theo lệ cũ, triệu tập sĩ tử tới kinh đô để đua tài, chọn được hạng ưu tú 47 người. Ngày 17 tháng Tư (năm Tân Mùi – tức 3-5-1511), Hoàng thượng đích thân ra bài văn sách, hỏi về đạo trị nước xưa nay. Sai Đề điệu là Suy trung Tán trị Minh kính Khiêm cung công thần Đặc tiến Khai phủ Kim tử Vinh lộc đại phu Bình chương quân Quốc trọng sự Thống quốc chính Thái tể Thái sư Thiệu quốc công thượng trụ quốc Lê Quảng Độ, Phụng trực đại phu Công bộ Thượng thư Tư chính Thượng khanh Trình Chí Sâm; Giám thí là Gia hạnh đại phu Hộ bộ Tả Thị lang Khuông nghĩa doãn Phạm Hạo, Tả Thị lang Bộ Lại Triều liệt đại phu Thu thận doãn Đặng Minh Khiêm cùng các quan hữu ty chia giữ các việc.

Sáng hôm sau, các viên đọc quyển là Phụng trực đại phu Lễ bộ Thượng thư Tư chính Thượng khanh Nguyễn Bá Nhậm, Phụng trực đại phu Thượng thư Ngự sử đài Đô Ngự sử Tư chính thượng khanh Nguyễn Thì Ung, Phụng trực đại phu Thượng thư Đông các Đại học sĩ Nhập thị Kinh diên Tư chính Thượng khanh Đỗ Nhạc dâng quyển lên đọc. Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ bậc cao thấp. Lấy bọn Hoàng Nghĩa Phú 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Bùi Doãn Hiệp 9 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Trần Doãn Minh 35 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.

Ngày mồng 4 tháng Năm (năm Tân Mùi – sớm hơn 1 ngày so với Đại Việt sử ký toàn thư), Hoàng thượng ngự điện Kính Thiên, cho truyền loa xướng tên người thi đỗ, trăm quan mặc triều phục chúc mừng. Bộ Lại vâng ban ơn mệnh, bộ Lễ vâng rước Bảng Vàng treo ở ngoài cửa nhà Thái học. Lại ban áo mũ cân đai cho các vị tân khoa, ban ơn cho dự yến tiệc, lễ đãi hiền đầy đủ cả lễ nhạc.

Đặc sai Dương Vũ Hiệp mưu Đồng đức Hiệu trung Khai quốc công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Tán lý Hiệp thuận Khai phủ Nghi đồng Tam ty Bình chương quân Quốc trọng sự Phụ quốc Thừa tướng Thượng tể Thái phó nghĩa quốc công Thượng trụ quốc Nguyễn Văn Lang sửa lại trường Quốc học, cất nhà bia mới ở phía đông và tây. Lại sai Tá lý công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Công bộ Thượng thư Chưởng lục bộ sự tri Hiển Phúc điện Uy Quận công Thượng trụ quốc Nguyễn Bá Lân trông coi việc dựng bia đề tên, sai từ thần soạn bài ký.

Trong kỳ thi này, Nguyễn Duy Tường giành học vị cao hơn kỳ thi trước 1 bậc. Dương Khải, người Vũ Ninh – Kinh Bắc (nay thuộc Quế Võ – Bắc Ninh) đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Nguyễn Duy Tưởng làm đến chức Tham chính, khi mất tặng Thị lang, phong Phúc thần. Dương Khải làm đến Thừa chính sứ, bị nhà Mạc bắt, trốn vào Thanh Hóa tiếp tục phục vụ nhà Lê, giữ chức Thừa chính sứ Quảng Nam đến khi mất.

Nguồn: V2, tr.131-139; Đ4, tr.778-781; C1, tr.311-314.

        NĂM 1512 (NHÂM THÂN)

        Tháng 4 (tháng Ba – Nhâm Thân)

 312. Lê Tung tiếp tục được gia tặng phẩm trật

Đến đây ông là Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu tri Kinh diên Đôn thư bá.

Nguồn: Đ4, tr.784.

        Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Thân)

 313. Triều đình truy tặng tước vị cho Dương Trực Nguyên

Do những công lao, đóng góp ông được truy tặng Ngự sử đài Đô ngự sử.

Nguồn: Đ4, tr.785.

        NĂM 1513

        Ngày 18 tháng 9 (30 tháng Tám – Quý Dậu)

 314. Lê Tung soạn văn bia Tiến sĩ đề danh, Nguyễn Duy Tường và Dương Khải có tên ở Văn Miếu

Đó là tấm bia Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh dựng theo chủ trương khôi phục lại lệ này bị bỏ bễ nhiều năm. Nhà vua ban sai Công bộ Thượng thư Chưởng bộ sự tri Hiển phúc điện Uy Quận công Nguyễn Bá Lân đứng trông coi việc làm bia đề tên, Thiếu bảo lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu tri Kinh diên sự Đôn Thư bá Lê Tung soạn bài ký, Trung thu Xá nhân Ngô Ninh viết chữ chân, Tri thượng bảo Giám các cục Nguyễn Huệ viết chữ triện.

Văn bia có đoạn:

“Kẻ sĩ ở đời được ghi tên vào tấm đá này thực may mắn biết bao! Nếu quả thật biết dồi mài trung nghĩa, cố gắng liêm cần để có tiếng là vị Trạng nguyên trung hiếu, là bậc quân tử ngọc vàng, thì mai sau các học trò nhà Thái học sẽ chỉ vào tên mà nói: Vị này vào hàng khoa bảng, vị này là bậc hiền tài, người hiền lương biết vậy mà lấy làm khích lệ. Thảng như có kẻ ngoài ngọc trong đá, bề ngoài như chim phượng mà tiếng kêu như cú diều, dua nịnh giống phường dựa cột, hèn nhát như lũ bó tay, thiên hạ đời sau sẽ chê cười nói: kẻ ấy tà học như hạng Công Tôn Hoằng, kẻ kia phản lại kinh sách cũng như Vương Anh Thạch, kẻ gian ác thấy đấy mà tự lấy làm răn. Được như thế thì tấm bia này dựng lên, trong chỗ ngợi khen còn có ngụ ý khuyên răn nữa.

Rực rỡ lớn lao thay quy mô chọn dùng hiền tài của liệt thánh. Kế thừa cao cả thay mực thước chọn dùng hiền tài của Thánh thượng ngày nay. Đó là vì muốn cho trời đất sinh hiền tài mà lập tâm, vì muốn nước nhà sử dụng được hiền tài mà lập pháp; và vì có ý mở ra cuộc thái bình muôn nghìn đời cho thiên hạ vậy”.

Nguồn: Đ4, tr.789; V2, tr.131-137.

        NĂM 1514 (GIÁP TUẤT)

        Ngày 11 tháng 5 (27 tháng Tư – Giáp Tuất)

 315. Lê Tung được cử trông coi kỳ thi Đình

Tháng Ba Giáp Tuất (4-1514), thi Hội sĩ nhân trong nước. Bấy giờ dự thi 5.700 người, lấy đỗ Nguyễn Bỉnh Đức (Bỉnh Đức trước tên là Giới, sau đổi là Ninh Chỉ, lại đổi là Ninh Bang, người ở phường Thịnh Quang, huyện Quảng Đức, thi Đình đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân, triều Mạc làm quan đến Thượng thư Thiếu sư Liêm Quận công), cộng 43 người.

Mùa hạ tháng Tư, ngày 27, vua thân ngự thi Điện, đầu đề văn sách hỏi về nhân tài. Sai Tả bình chương Quân quốc Trọng sự Nhập nội kiểm hiệu Thượng tướng Thái úy Lạng Quốc công Lê Phụ; Lại bộ Thượng thư tri Chiêu văn quán Tú lâm cục Đàm Thận Huy, Công bộ Hữu thị lang Lê Tản Tương, Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư Do Lễ bá Nguyễn Bá Thuyên, Hộ bộ Thượng thư tri Chiêu văn quán Tú lâm cục Cẩn Lễ nam Đoàn Mậu, Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tri Kinh diên sự Đôn Thư bá Lê Tung, Hộ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ nhập thị Kinh diên Đỗ Nhạc, chia nhau trông coi việc thi. Cho Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Chiêu Huấn, Hoàng Minh Tá 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Nguyễn Vũ 20 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Nguyễn Bỉnh Di 20 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Tháng Năm, có chiếu cho các Tiến sĩ mới là bọn Nguyễn Đức Lượng vào điện Thiên Quang làm bài ứng chế, vua sai làm bài ký điện Thiên Quang.

Nguồn: Đ4, tr.790; V2, tr.143.

        Tháng 10 (tháng Chín – Giáp Tuất)

 316. Lê Tung được sai viết Đại Việt Thông giám Tổng luận

Tháng Tư năm Tân Mùi (5-1511), với tư cách Binh bộ Thượng thư Tư nghiệp Quốc tử giám kiêm Sử quan Đô tổng đài, Vũ Quỳnh hoàn thành việc biên soạn bộ sách Đại Việt Thông giám thông khảo (Đại Việt Thông giám) chép từ Hồng Bàng thị đến Thập nhị sứ quân về trước gọi là Ngoại kỷ, từ đời Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu Thái Tổ Cao hoàng đế triều Lê gọi là Bản kỷ, cộng 26 quyển. So với Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn trước đó, nội dung và thời gian không khác biệt nhưng về phân kỳ, phân ranh giới Ngoại kỷBản kỷ có khác nhau.

Trên cơ sở bộ sách của Vũ Quỳnh, Lê Tương Dực đã sai ông soạn Đại Việt Thông giám Tổng luận để chỉ ra những điều cốt yếu nhất để tiện xem. Tuy nhiên, với bút lực của mình, Đại Việt Thông giám Tổng luận đã trở thành phần mở đầu không thể thiếu của các bộ Quốc sử, trong đó có Đại Việt sử ký toàn thư. Mở đầu bài tổng luận, ông viết:

“Thần nghe: Ngu điển tức là sách sử của nhà Ngu, từ khi Khổng Tử sửa sách Thượng thư để làm điển mô thì đạo tu tề trị bình của đế vương càng rõ; Xuân Thu vốn là sách sử của nước Lỗ, từ khi Khổng Tử làm kinh Xuân Thu để định khen chê thì quyền điển lễ mệnh thảo của thiên tử càng tôn. Cho nên các đế vương thánh minh trị thiên hạ, có chí ở trách nhiệm làm vua làm thầy, không thể không nghiên cứu học vấn của đế vương, mà có chí ở việc nghiên cứu học vấn của đế vương, thì không thể không biết rõ sự lý đời xưa đời nay. Xem như thế thì các sách sử làm ra cốt để làm rùa bói, làm gương soi cho vua các đời là bởi ý ấy.

Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ, học thánh cao minh, lòng đạo thuần túy, nối phúc tốt của công đức tổ tông, gặp vận hội lúc trời cho người phục, nghiệp to lớn đã thành, công trị bình đã định, mới chú ý việc thái bình, để tâm đến sách vở; có chí ở học vấn đế vương, nghiên cứu kỹ các sách thánh hiền. Xem các tập Thiên Nam dư hạ của Thánh Tôn Thuần hoàng đế, đọc sách các tập Lạc uyển dư nhàn của Đức Tôn Kiến Hoàng đế, mà hiểu đúng nguồn gốc của đế phạm; nhàn rỗi thì tùy việc mà thơ phú, lời nói răn ngừa, tức là bài ca kính trời của Ngu Thuấn; đồ dùng thì ngụ lý mà chế minh, để lòng tu tỉnh, tức là lời răn khắc bàn của Ân Thang. Phàm là văn ngang trời dọc đất, là đạo trị nước tề nhà, không gì là không thông suốt. Lại hàng ngày mở Kinh diên, tìm trị đạo. Bèn sai Binh bộ thượng thư Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quán đô tổng tài là Vũ Quỳnh soạn bộ Việt giám Thông khảo, chép từ Hồng Bàng thị đến mười hai sứ quân, tách làm Ngoại kỷ, từ Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu mới đại định của Thái tổ Cao hoàng đế của quốc triều, chép làm Bản kỷ, cộng 26 quyển. Lớn như đạo tam cương ngũ thường cho đến nhỏ như lẽ tinh vi của sự vật, không cái gì không chép hết. Lại sai Bí thư giám là bọn Hoàng Khu viết ra bản nữa, để truyền lại lâu dài. Bây giờ Hoàng thượng bệ hạ, lấy lòng sâu rộng mà bao trùm như trời đất, lấy trí sáng suốt mà xét rõ như mặt trời mặt trăng, muốn tóm tắt đại yếu để cho khi xem mà đạo cương thường của trời đất càng rõ rệt, đạo trị bình của đế vương càng sáng thêm, như giường lưới đã cất thì các mắt lưới đều căng ra, như gương sáng đã treo thì muôn hình tượng đều chiếu thấy, có quan hệ đến đời lớn lắm vậy. Bèn sai thần Lê Tung làm bài Tổng luận. Nghĩ thần học thức kém, kiến văn ít, sao đủ để bàn xét việc xưa nay mà phát huy chí lý. Song; đã lạm vâng minh chiếu, dám đâu không đáp lại để tuyên dương mệnh tốt của thánh thiên tử. Thần kính cẩn chắp tay rập đầu xin dâng bài Tổng luận như sau:

Thần nghe sách Chu Dịch nói rằng: “Có trời đất rồi sau mới có muôn vật, có muôn vật rồi sau mới có vợ chồng, có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi”, đạo cương thường bởi đấy mà đặt vậy; sách Đại học nói rằng: “Lòng có chính thì sau mình mới sửa được, mình có sửa thì sau nhà mới tề được, nhà có tề thì sau nước mới trị được, nước có trị thì sau thiên hạ mới bình được”, đạo trị bình bởi thế mà thi hành. Xem thế thì đạo trời đất không thể ngoài cương thường mà dựng quy tắc, thì đạo của đế vương há có thể ngoài cương thường mà làm chính trị được sao […]”.

Nguồn: Đ4, tr.30-43, 778, 791.

 317. Bình phẩm của Lê Tung trong Đại Việt Thông giám Tổng luận về nhà Lý và vai trò của Dương Cảnh Thông

Lý Thái Tố nhân Ngọa triều thất đức, hiệp điểm tốt sét đánh thành chữ, ứng mệnh trời thuận lòng người, thừa thời mở vận; có đại độ khoan nhân, có quy mô xa rộng, dời đô, định vạc, kính trời, yêu dân; tô ruộng có lệnh tha, phú dịch có mức độ. Bắc Nam thông hiếu, thiên hạ bình yên. Song thánh học chưa nghe, nho phong chưa định; dân gian một nửa là tăng ni, chùa chiền dựng đầy trong thiên hạ, không phải là đạo sáng nghiệp mở dòng vậy. Thái Tông trí dũng gồm hai, đánh đâu được đấy; có đức hiếu hữu, học tập lễ văn, đánh giặc giã, dẹp man nhung, cày tịch điền, khuyên việc ruộng, thân oan có chuông, việc hình có luật; là một bậc vua giỏi giữ nền nếp vậy. Song, say thơ kệ đạo Phật ở chùa Tiên Du, mê điệu hát Tây Thiên của nước Chiêm Thành không phải là đạo sửa sang việc nước chăm nuôi nhân dân vậy. Thánh Tông yêu nhân dân, trọng việc ruộng, vỗ người xa, yêu người gần, đặt khoa bác học, trọng lệnh dưỡng liêm, đặt quan Bí các, làm đường Minh luân, sửa sạng việc văn, chuẩn bị việc võ, trong nước đều yên tĩnh, là bậc vua hiền nối đức trước vậy. Song, xây tháp Báo Thiên nhọc sức dân, sửa cung Dâm Đàm phí của dân, đó là chỗ kém. Nhân Tông tính trời nhân hiếu, có tiếng đức tốt, trọng kén chọn danh thần, đặt khoa thi tiến sĩ, có quan hầu Kinh diên, xuống chiếu mở đường nói, cầu người hiền, nghe lời can, nhẹ thuế khóa, ít giao dịch, cho nên tự hưởng cõi thái bình, rất mực nên giàu thịnh, đáng gọi là bậc vua giỏi ở lúc thừa bình vậy. Song Lãm Sơn mở tiệc, để cho mẫu hậu dạo chơi. Quy Điền đúc chuông, bị bọn tăng ni lừa phỉnh, đó là chỗ sai. Thần Tông sửa sang chính sự, nhậm dụng hiền năng, đặt khoa Hoành từ, định lệnh binh nông, kể về mặt chính trị cũng là siêng năng. Song quá thích điềm lành, sùng thượng đạo Phật, đánh giặc cũng quy công cho Phật, dâng hươu cũng cho lạm tước quan, sao mà ngu thế! Anh Tông đặt ra trường giảng võ để nghiêm võ bị, làm miếu Khổng Tử để chấn văn phong, cày ruộng tịch điển, lập đàn Nam Giao, kể mặt chính trị cũng là kỹ càng. Song, không phân biệt được kẻ gian tà, không công minh trong việc thưởng phạt, yêu dùng kẻ gian thần mà mở đường tượng cước, tin sùng đạo Phật lão mà đặt khoa tăng đạo, sao mà tối thế? Cao Tông buổi đầu chuyên dùng các hiền thần là Tô Hiến Thành, Lý Kính Tu, cùng nhau mưu tính việc chính trị, có lệnh chẩn bần, có chiếu cầu hiền, cho nên từ năm Thiên Tư Gia Thụy về trước, chính sự còn khả quan. Đến năm Thiên Gia Bảo Hựu về sau, việc thổ mọc như lông dím, bọn giặc cướp nổi như ong, mà triệu chứng mất nước đã nảy từ đấy. Huệ Tông say đắm hoang dâm, giao chính sự cho quyền thần Tô Trung Tự, Trần Tự Khánh, vua yếu tôi mạnh, trời oán người giận, chính lệnh bạo ngược, hình phạt phiền hà, dân nghèo giặc nổi, mà cái điềm mất nước đã quyết định từ đấy. Hơn nữa, Chiêu Hoàng là vua đàn bà, gánh vác không nổi, họ Trần nhân đó mà dời ngôi nhà Lý, đáng tức biết bao!

Hoặc lại bàn thêm rằng: Triều Lý trải 8 đời vua, ngôi truyền hơn 200 năm, những bậc đáng khen là Thái Tổ có độ lượng đế vương, Thái Tông có tư chất trí dũng, Thánh Tông có lòng thương dân, Nhân Tôn có đức ơn dân. Song Thái Tổ lập hoàng hậu ba ngôi, tình vấn vít với lòng yêu, mà đạo nhà không chính; Thái Tông làm ra Nam sơn năm ngọn, đương tang trở lại vui chơi, mà đạo hiếu không còn; Thánh Tông theo lối cũ của Thái Tổ mà lập hoàng hậu quá chế độ; Nhân Tông nghe lời của mẹ đẻ, mà mẹ đích đem giam giết đi; còn như cấm con gái các quan lấy chồng trước khi sung tuyển, thì Thần Tông say đắm nữ sắc; yêu chuộng kẻ quyền thần dâm loạn, thì Anh Tông yêu dùng gian tà; Cao Tông lấy hoang dâm làm thích; Huệ Tông lấy tửu sắc làm vui. Đạo tu tề trị bình của Đế vương có như thế chăng? Bề tôi trong triều, thì có Lý Đạo Thành được thác cô, Tô Hiến Thành làm Phụ chính, cũng gần như trung ái của Y Doãn, Chu Công, cố nhiên đáng khen. Còn những bực như Đào Cam Mộc, Đào Thạc Phụ, Lương Nhậm Văn, Đào Xử Trung, Lý Đạo Kỷ, Liêu Gia Trinh, Kim Anh Kiệt, Tào Lương Hàn, Dương Cảnh Thông, Ngụy Trọng Hoằng, Lưu Vũ Nễ, Lý Công Bình, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Kính Tu, không biết can vua để nêu tục tốt, cho nên chính trị không được bằng đời cổ là phải. Đến như Đỗ Anh Vũ kiêu dâm, Đàm Dĩ Mông ngang ngược, có kể làm gì […].

Nguồn: Đ4, tr.36-38.

        NĂM 1516 (BÍNH TÝ)

        Ngày 2 tháng 5 (19 tháng Tư – Bính Tý)

 318. Dương Bảo phát hịch giúp nước đánh Trần Cảo

Trần Cảo vốn là viên quan coi điện Thuần Mỹ, người trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường (Hải Phòng), tự xưng là cháu chắt của Trần Thái Tông, là họ ngoại của Quang Thục Hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ của Lê Thánh Tông. Bên cạnh Trần Cảo có con trai là Trần Cung, Phan Ất – người Chiêm Thành, gia nô của Trịnh Duy Đại – Đinh Ngạn, Đinh Nghệ, Công Uẩn, Đình Bảo, Đoàn Bố. Tập hợp ban đầu của quân Trần Cảo thể hiện phần nào những mâu thuẫn của xã hội lúc đó.

Mùa xuân, tháng Ba năm Bính Tý (1516), Trần Cảo dấy quân ở chùa Quỳnh Lâm (xã Hạ Lôi, huyện Đông Triều, Quảng Ninh), chiếm cứ các huyện Thủy Đường (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đông Triều (Quảng Ninh). Chỉ tháng sau, quân Trần Cảo đã tiến sang Tiên Du, Quế Dương, Gia Lâm, đến bến Bồ Đề, nhằm vào Kinh đô.

Vốn bất mãn với Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản nhân dịp này cùng với Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm lấy cớ đi đánh Trần Cảo, điều quân về bến Thái Cực, đang đêm dẫn hơn 3000 quân các vệ Kim ngô, Hộ vệ vào cung. Vua Lê hốt hoảng tướng quân Trần Cảo ập đến, chỉ kịp cùng viên Thừa chỉ – kẻ suốt ngày đêm uống rượu, đánh bạc ở nội điện – lén tắt qua cửa nhà Thái học và rồi bị Trịnh Duy Sản giết chết cả vua lẫn tôi.

Nguyễn Hoằng Dụ đang án ngữ tại Bồ Đề, dẫn quân trở về Kinh đốt phá nhà cửa phố xá, giết chết Vũ Như Tô – viên Đô đốc kiêm kiến trúc sư coi các sở ở Công bộ và công trình Cửu Trùng Đài.

Nhân cơ hội Kinh thành vừa trống không, Trần Cảo tiến quân trở lại, chiếm được Kinh thành Thăng Long. Sự kiện này được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại như sau:

“Ngày 11, Trần Cảo lấy Kinh thành, tiếm đặt niên hiệu là Thiên Ứng, ra chầu làm việc, dùng Lê Quảng Độ coi việc nước. Khi ấy Đô lực sĩ là Thiết Sơn bá Trần Chân, người xã La Ninh huyện Từ Liêm, tập hợp các cựu dũng sĩ con em và hương binh 5, 6 nghìn người, nổi dậy ở chợ Hoàng Hoa. Cảo nghe thấy, bèn chia đường sai Phan Ất từ xã Bảo Đà huyện Thanh Oai tiến đi. Chân cũng từ xã Dư Dụ huyện Thanh Đàm kéo đến. Chân đem quân đón đánh trước, khi tiến đến Cồn Bắn, ra sức đánh nhau với Ất, khí giới hết cả, lấy vò lọ nhỏ để ném. Chân răng và miệng bị thương đau lắm, lại vì quân cô không có cứu viện, khó lòng ở lâu, bèn đêm rút về đóng ở chợ Hoàng Hoa. Khi ấy bọn Dương Bảo cũng có hịch giúp nước đánh giặc Cảo”.

Nguồn: Đ4, tr.795.

 

NĂM 1521 (TÂN TỴ)

        Tháng 4 (tháng Ba – Tân Tỵ)

 319. Nhiều người trong dòng họ Dương cung tiến ruộng Tam bảo cho chùa Đại Bi

Theo Công đức điền Tam bảo hiện còn tại Kiến Hưng (Hà Đông – Hà Nội) tạo tháng Ba năm Tân Tỵ, niên hiệu Quang Thiệu 6 (1521) thì khi đó tại thôn Mậu Lương Hạ, xã Thanh Oai Trung, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam đã ghi danh các quan viên, xã trưởng cùng nhiều già trẻ trong đó có các ông Dương Văn Nghi, Dương Văn Tuy, Dương Văn Tri, Dương Văn Bân, Dương Lịch, Dương Tuấn, Dương Văn Nhàn… cung tiến ruộng Tam bảo cho nhà chùa.

Nguồn: V3, tr.60-63.

        NĂM 1522 (NHÂM NGỌ)

        Ngày 7 tháng 9 (28 tháng Bảy – Nhâm Ngọ)

 320. Dương Kim Cao theo Mạc Đăng Dung bàn việc phế bỏ Quang Thiệu lập Hoàng đệ Xuân

Ngày 5-5-1522 (20 tháng Tư – Nhâm Ngọ), giặc ở Kinh thành nổi lên như ong, đốt cháy nhà cửa, phố xá khắp nơi. Cùng khi ấy, tại Đông Ngàn thuộc phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc, Lê Bá Cương và Lê Bá Hiếu cũng nổi dậy. Ngày 6-9-1522 (27 tháng Bẩy – Nhâm Ngọ), trước áp lực và mối đe dọa ngày một lớn của Mạc Đăng Dung, nhà vua phải chạy ra huyện Minh Nghĩa (sau này là Tùng Thiện – Sơn Tây). Ngày hôm sau Đăng Dung mới biết, đem quân đi đón chặn các chỗ quan yếu, kéo cờ ở Kinh thành, truyền lệnh cho các nhà ở phường phố không được kinh động. Lại sai Hoàng Duy Nhạc đem binh mã đuổi theo kịp vua ở huyện Thạch Thất. Vua đem quân huyện Thạch Thất chống lại, bắt được Duy Nhạc. Ngày hôm ấy, Đăng Dung vào kinh thành, tha cho Trình Chí Sâm và Nguyễn Thì Ung ra khỏi tù (trước đây, vua cho là hai người này về bè với Đăng Dung, đem giam ở điện Quỳnh Vân, chưa kịp giết, thì vua chạy ra ngoài) rồi cùng với Thái sư Lang quốc công Lê Phụ, Mỹ Quận công Lê Chu, Cẩm Sơn hầu Lê Thúc Hưu, Hoành Lễ hầu Phạm Gia Mô, Đoan Lễ hầu Dương Kim Cao, Quỳnh Khê hầu Vũ Hộ, Dương Xuyên hầu Nguyễn Như Quế bàn lập em vua là Xuân và buộc Hoàng đế Xuân ra lời sắc dụ rằng: – Ta là cháu của Đức Tôn Kiến Hoàng đế, con thứ ba của Minh Tôn Triết Hoàng đế, em ruột của Quang Thiệu Hoàng đế, nay vì đêm ngày 27 tháng Bẩy năm Quang Thiệu thứ 7, Quang Hiệu Hoàng thượng bị kẻ gian bắt hiếp phải thiên ra ngoài, triều thần là Thái sư Lạng Quốc công Lê Phụ, Thái phó Nhân Quốc công Mạc Đăng Dung và các Công, Hầu, Bá, Phò mã, Đô úy, các quan văn võ, cùng lòng suy tôn, đều nói rằng nhân dân không thể không người đứng chủ, ngôi báu không thể bỏ không lâu ngày, cùng xin ta nối giữ nghiệp lớn. Tạ vì Tôn Xã và nhân dân, nghĩa không thể từ chối được, đã tạm trông coi các việc trong cung rồi, các quan văn võ trong ngoài cứ giữ chức như cũ. Quân hộ vệ và tướng sĩ các dinh ở Kinh phải túc trực nghiêm cẩn, phòng giữ như phép. Nhân dân ở phủ Phụng Thiên và các phủ huyện xã đều nên ở yên, làm ăn vui vẻ, để hưởng phúc sinh toàn”. Ngày 30, Lê Chu và Nguyễn Như Quế đón Hoàng đệ Xuân sang Hồng Thị ở huyện Gia Phúc làm hành điện, và gấp sai quân dân đắp lũy Cẩm Giàng để phòng giữ.

Nguồn: Đ4, tr.813-814.

        Ngày 9 tháng 9 (30 tháng Bẩy – Nhâm Ngọ)

 321. Dương Khải cùng một số trung thần theo Quang Thiệu chống lại Mạc Đăng Dung

Khi đó Phó đô tướng Bắc Giang Phúc Sơn bá Hà Phi Chuẩn, Bình Hồ bá Nghiêm Bá Ký, Phúc Nguyên bá Nguyễn Xí, Phù Hưng bá Phạm Tại đã nhận được mật chiếu và văn phủ dụ của Quang Thiệu đế từ trước, bèn đem các con em ở Bắc Giang đều đóng quân ở sông Tây Kiều huyện Đông Ngàn, Lâm Xuyên bá Đàm Thận Huy, Chưởng Hàn lâm viện Nguyễn Hữu Nghiêm và Dương Khải đều ở cả đấy. Đăng Dung đốc các tướng cầm cự với Phi Chuẩn. Đăng Dung dụ Phạm Tại làm hướng đạo. Nguyễn Bá Ký thua chạy. Khi ấy, văn thần là Nguyễn Bỉnh Hòa, Phạm Chính Hoa, Nguyễn Bạt Tụy, Chử Sư Đổng cùng đến xã Lãm Sơn huyện Quế Dương, cùng với Phạm Khiêm Bính mưu đi theo Quang Thiệu đế, thấy Khiêm Bính đã ở dinh của Phi Chuẩn rồi, biết là việc không thành, bèn cùng nhau đến yết kiến Hoàng đệ Xuân.

Tháng Bẩy ngày mồng 1, Đăng Dung cùng với bọn Lê Phụ đem các quan cùng tôn Hoàng đệ Xuân lên ngôi Hoàng đế. Xuống chiếu rằng: “Trời lập vua là vì dân, vua kính trời để thương dân. Anh ta là Quang Thiệu Hoàng thượng, kính chịu phúc trời, nối theo tông tổ, dẹp yên loạn lạc, trở lại chính thống, ban ra ân đức để yên nhân dân, đến nay đã 7 năm, đêm ngày 27 tháng Bẩy năm nay, bị kẻ gian thần bắt hiếp thiên ra bên ngoài. Triều thần là bọn Lê Phụ lấy ta là con thứ hai của Minh Tôn Triết hoàng đế, em ruột của Quang Thiệu Hoàng thượng, đồng lòng suy tôn, hai ba lần khuyên mời lên ngôi. Ta lấy Tôn Miếu sinh dân là việc hệ trọng, cố ý từ chối không được, bèn kính cáo Tôn Miếu, lấy ngày mồng 1 tháng Tám năm nay lên ngôi, đổi niên hiệu làm Thống Nguyên năm thứ 1, đại xá thiên hạ cộng 32 điều”.

Tháng 9 (tháng Tám – Quý Mùi) Mạc Đăng Dung phế Quang Thiệu đế làm Đà Dương Vương, đày đi Tuyên Quang.

Nguồn: Đ4, tr.814, 818.

        NĂM 1526 (ẤT DẬU – BÍNH TUẤT)

        Ngày 19 tháng 1 (17 tháng Chạp – Ất Dậu)

 322. Dương Kim Cao được cử làm Đề lĩnh Tứ thành Quân sự vụ

Viên Đề lĩnh này còn được phong Đoan Lễ hầu. Ngày 14-3-1256 (12 tháng Hai – Bính Tuất) Cao lại được làm Lưu thủ Đông Kinh.

Nguồn: Đ4, tr.819-820.

        NĂM 1532 (NHÂM THÌN)

        Mùa xuân

 323. Dương Hạng thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ nhà Mạc

Tại khoa thi Hội, Nguyễn Thiếu, Bùi Vinh, Ngô Sơn Khoái đậu Đệ nhất Tiến sĩ (Tiến sĩ Cập đệ), Nguyễn Địch Khang, Hoàng Du, Dương Hạng, Lương Quý, Trần Dự, Trần Nguyên Khải đậu Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Lượng Bật 18 người đậu Đệ tam Tiến sĩ.

Dương Hạng, con trai Dương Trực Nguyên, sinh năm 1507, làm quan cho nhà Mạc đến chức Thị lang tước Vị Hủy bá, sau bị giáng làm Thừa chính sứ.

Nguồn: Đ4, tr.828-829; C1, tr.368-369

        Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Thìn)

 324. Mạc Đăng Doanh phong hoạn quan là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất thống quản ba phủ ở Thanh Hóa

Năm 1530, Lê Ý, con của Công chúa An Thái, cháu ngoại nhà Lê, đã khởi binh chống Mạc ở Da Châu (sau là châu Quan Hóa, Thanh Hóa), tự xưng làm vua, nhiều người theo về hưởng ứng, quân sĩ có đến vài vạn.

Mạc Đăng Dung và Đăng Doanh đã đích thân cầm quân đi đánh dẹp Lê Ý nhưng không thành công, sau cử Mạc Quốc Trinh ở lại đối phó. Khi Lê Ý trở nên tự kiêu, chủ quan khinh suất, Mạc QuốcTrinh đã đem thủy binh tinh nhuệ đến đánh úp tại trại Da Châu, bắt sống được Lê Ý, giải về Kinh sư xé xác. Ngay sau khi Lê Ý bị giết hại, năm 1531, bề tôi cũ của nhà Lê là Bích Khê hầu Lê Công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ Trường, Nguyễn Nhân Liên (Công Uyên người làng hải Lịch huyện Lôi Dương, Thọ Trường người làng Hà Nội huyện Nông Cống, Nhân Liên người huyện Chương Nghĩa xứ Quảng Nam) nổi quân ở Thanh Hoa. Bấy giờ Công Uyên giận họ Mạc không giữ đạo vua tôi, mới đem con em về Thanh Hoa nổi quân, cũng xưng là quân của nhà Lê, bắt người cướp của ở các quận huyện, đốt phá nhà dân. Hoặc có kẻ chết tại trận, hoặc có kẻ bị bắt đưa về Kinh, dân một phương chịu hại riêng, không được nghỉ ngơi, nhân dân đói kém, 1 thăng gạo trị giá 1 tiền. Đến sau có người Sơn Đông tên là Hùng Sơn, vì có tội với họ Mạc, đem con em vài trăm người trốn vào Thanh Hoa, dựng doanh trại, giữ được vài tháng, Đăng Doanh sai tướng đi đánh. Sơn đóng ở thôn Ngọc Huân, rồi ốm chết, quân tán loạn. Để tiếp quản và cai trị vùng đất Thanh Hóa đông người nhiều của, Mạc Đăng Doanh đã phong hoạn quan là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất (người huyện Hoằng Hóa) làm Đại tướng quân, sai đem binh mã thống quản ba phủ ở Thanh Hoa, cùng với quan Tam ty Tổng trấn binh dân một phương. Thấy vậy, Tây An bá Lê Phi Thừa (người xã Hương Thị huyện Yên Định vốn là Xá nhân) gièm rằng: – Chỗ đất Ái Châu núi sông hiểm trở, ruộng đất tốt mầu, binh lương nhiều đủ; vả lại quyền nên chia không nên cho chuyên, nếu chuyên quyền tất sinh họa loạn, lỡ xảy có biến sợ sau khó lòng kiềm chế, mà đất ấy sẽ không phải là của triều đình nữa. Thần xin xét kỹ lại, chớ để có sự hối hận về sau! Đăng Doanh bèn chia Thanh Hoa ra làm đôi, 7 huyện Thụy Nguyên, Yên Định, Vĩnh Phúc, Đông Sơn, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Quảng Bình thì giao cho Lê Phi Thừa quản thống, để khống chế Trung Hậu hầu. Đến khi Phi Thừa được quyền, càng thêm kiêu túng, rồi xin đổi lòng.

Nguồn: K3, tập 2, tr.107; Đ4, tr.832-833; Đ9, tr.276-277.

        NĂM 1535 (ẤT MÙI)

        Mùa Xuân

 325. Dương Mậu, Dương Xân thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc

Khoa thi Hội này, nhà Mạc lấy Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khắc Đốc, Nguyễn Thừa Hưu đậu Đệ nhất Tiến sĩ; Nguyễn Di Lượng 7 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Trùng Quang, 22 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Dương Mậu, người xã Lạc Thổ, cùng quê với Dương Như Châu, làm quan đến Thị lang tước Bá thời Mạc Đăng Doanh. Dương Xân, người xã Cao Hương, tổng Hào Kiệt, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, Vụ Bản – Nam Định), làm quan đến Hình bộ Hữu thị lang, tước Diên Hà bá của nhà Mạc.

Nguồn: D4, tr.833; C1, tr.378-384.

        NĂM 1537 (ĐINH DẬU)

        Tháng 5 (tháng Tư – Đinh Dậu)

 326. Lê Phi Thừa cướp phá vùng đất do Dương Chấp Nhất quản lý, quy thuận Nguyễn Kim

Kể từ tháng 1-1532 (tháng Chạp – Nhâm Thìn) công cuộc khởi dựng lại sự nghiệp nhà Lê được trao vào tay Nguyễn Kim – con trai của Nguyễn Hoằng Dụ – một danh thần của nhà Lê. Đăng Dung cướp ngôi, Nguyễn Kim lánh sang vùng Sầm Châu (Sầm Nưa thuộc Lào) nương nuy. Được vua Ai Lao lúc đó là Sạ Đẩu giúp đỡ, cấp cho đất và dân để nuôi dưỡng quân lính, chiêu nạp tướng sĩ, ngầm mưu khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim xây dựng căn cứ ở vùng núi tây nam Thanh Hóa thuộc biên giới Việt – Lào, thuận tiện cho việc qua lại, tiếp tế, ẩn náu. Năm 1531, Nguyễn Kim đã dẫn quân từ Ai Lao về Thanh Hóa. Mạc Đăng Dung sai quân đi đánh, bị thua. Đầu năm 1533, Nguyễn Kim tìm được một người con của vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, cho lập làm vua – tức vua Lê Tang Tông, niên hiệu Nguyên Hòa, người khởi đầu triều Lê Trung hưng, từ đó Nguyễn Kim được phong là Thái sư Hưng Quốc công, trông coi mọi việc quân binh, triều chính.

Nhận thấy đây là cơ hội thoát khỏi cái bóng của Dương Chấp Nhất, tháng 5-1537, Lê Phi Thừa tập kích vào vùng đất của viên hoạn quan ấy gây 1 tổn thất cho nhà Mạc rồi thu quân sang Lào theo Nguyễn Kim. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, Tây An hầu Lê Phi Thừa có ý bất bình, thường nói ra những câu phẫn uất, càng ngày càng kiêu ngạnh. Thái sư Nguyễn Kim sai người bóp cổ chết.

Nguồn: Đ4, tr.832-835

        NĂM 1538 (MẬU TUẤT)

        Mùa xuân

 327. Dương Duy Nhất, Nguyễn Hoành Xước thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc

Khoa thi Hội này lấy Giáp Hải, Trần Toại, Hoàng Sầm đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Phan Cảo 8 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Hoàng Thuyên 25 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ (Đại Việt Thông sử gọi là khoa thi Cử nhân).

Dương Duy Nhất, người xã Vĩnh Thái, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức – Sơn Tây (nay thuộc Hoàn Kiếm – Hà Nội) nhưng trú quán tại thôn Đông Hoa, xã Dị Sử, tổng Phá Lãng, huyện Lang Tài, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Đông Hương, thị trấn Thía, Lang Tài – Bắc Ninh). Nguyễn Hoàng Xước là con trai của Hoàng giáp Nguyễn Duy Tường, thân phụ của Tiến sĩ Nguyễn Thế Thủ và Cao tổ của Hoàng giáp Nguyễn Quang Luân.

Nguồn: Đ4, tr.833-834; Đ7, tr.278; T19, tr.72.

        NĂM 1539 (KỶ DẬU)

        Tháng 11 (tháng Mười – Kỷ Dậu)

 328. Dương Quang Bật có công trong triều chính của Mạc Đăng Doanh

Bia không tiêu đề, thường gọi là Bia Bà ghi về sự tích Đệ nhị Cung phi đời Mạc Thái Tông (1530-1540) do Nguyễn Tiến Thanh – Bùi Hoằng soạn tháng Mười – Kỷ Dậu (1539), trước dựng tại cánh đồng Đa Bang, sau chuyển về đình La Khê, tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Văn Khê, Hà Đông – Hà Nội) cho biết, Đệ nhị Cung phi là con gái Đô Lực sĩ Thái Sơn bá Trần Châu, quê ở làng này, được đón vào cung làm Phi tử cho Thái tử Mạc Đăng Doanh. Năm Nhâm Thìn (1532) sau khi sinh con, sức khỏe của bà bị hao mòn, bà trở về quê trị bệnh, được Bản cung Cung phó Dương Quang Bật, Ngự y Đàm Hữu Luân và Nữ quan Hồ Tiểu Ứng hết lòng chăm sóc nhưng bà không qua khỏi.

Nguồn: T1, số 6/207. Tr.72-75.

        NĂM 1540 (CANH TÝ)

        Tháng 12 (tháng 11 – Canh Tý)

 329. Dương Duy Nhất cùng Phái bộ nhà Mạc lên Nam Quan

Trước sự đe dọa của nhà Minh, đầu năm 1538 nhà Mạc sai Văn Trường bá Phạm Chánh Nghị mang thư cáo cấp đến Vân Nam, giải thích việc chấp chính của mình và phủ nhận gốc tích không rõ ràng của Lê Ninh “họ Lê không có con nối, khi Khoáng sắp mất có bàn với quân thần, cha con Đăng Dung đều có công với nước, vậy giao ấn tín cho y để giữ nước. Bởi thế cả nước suy tôn Dung lên ngôi. Sở dĩ không dâng biểu xưng thần và nộp cống là vì năm trước Trần Thăng (tức Trần Cung) chiếm cứ Lạng Sơn, nghẽn đường không qua được, về sau lại bị các quan giữ cửa ải của Thượng quốc đóng cửa không cho qua. Còn như Lê Ninh là con của tên loạn thần Nguyễn Kim, mạo xưng họ Lê chứ không phải là con trai của Huệ”.

Tháng 3-1539, Mạc Đăng Dung sai Nguyễn Văn Thái lên Nam Quan dâng biểu.

Mùa thu năm Canh Dần (10-1954), quân Minh do Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm Tổng đốc Quân vụ, Thượng thư bộ Binh Mao Bá Ôn làm Tham tán Quân vụ đến Quảng Tây. Bá Ôn truyền hịch phô trương thanh thế, lên giọng Hưng diệt kế tuyệt và ra giá “nếu ai mang quận huyện đến hàng sẽ được giao cho cai quản hành chính quận huyện đó, giết hoặc bắt cha con Mạc Đăng Doanh được thưởng 2 vạn lạng vàng, quan cao, tên tuổi được ghi công 2, 3 lần”, vừa dụ dỗ “cha con Đăng Dung muốn trói tay chịu tội, nạp đủ số hộ tịch, nạp cống, tuân theo mệnh sẽ được tha chết” với hạn định là “ngày 3 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 19 đến hàng”. Trước động thái đó, Đăng Doanh rất lo, liền cho tu sửa trại sách, luyện tập thủy quân, trưng cầu hết thảy các cựu thần lão tướng để cùng bàn việc nước, phục chức cho Thái bảo Vũ Hộ làm Tây quân Tả đô đốc Chưởng phủ sự, mời tới triều đình bàn chính sự, mặt khác Mạc Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và 40 bề tôi là Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vinh… qua trấn Nam Quan dâng biểu xin hàng, thuận lòng đem trả lại nhà Minh đất 4 động Tư Lẫm, Liễu Cát, Kim Lặc, Cổ Sâm vốn thuộc Khâm Châu do các thổ tù họ Hoàng cai quản, năm 1427, đã đem đất 4 động đó xin nội phụ vào An Nam. Nhà Lê cho vùng đất đó thuộc vào châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, nhưng các thổ tù họ Hoàng vẫn thế tập cai quản và nhà Minh vẫn ra sức chiêu dụ các thổ tù, đòi nhà Lê phải trả lại đất. Như vậy là nhà Mạc chỉ trả lại đất vốn của Trung Quốc cho nhà Minh, hoàn toàn không phải cắt đất đem dâng cho nước ngoài như lâu nay sử sách vẫn chép.

Nguồn: Đ4, tr.834; Đ3, tập 2, tr.1299-1230.

        NĂM 1541 (TÂN SỬU)

        Mùa xuân

 330. Dương Ức thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc

Kết thúc kỳ thi Hội, nhà Mạc cho Nguyễn Kỳ, Phạm Công Sâm, Nguyễn Thế Lộc đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Ngô Quang 4 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Phạm Nguyên 23 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Dương Ức, người Hóa Trung, tổng Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc phường Vinh Quang – thành phố Thái Nguyên), làm quan đến Thừa chính sứ.

Nguồn: Đ4, tr.835; Đ7, tr.280.

        NĂM 1543 (QUÝ MÃO)

        Mùa xuân

 331. Dương Chấp Nhất mang quân quy phục Lê Trang Tông tại Tây Đô

Sau một thời gian, Nguyễn Kim đã đem quân về chiếm cứ một số địa phương vùng Thanh – Nghệ, đưa Lê Trang Tông vào Tây Đô (1543), xây dựng các hành điện, hành tại ở Vạn Lại, Yên Trường (đều thuộc Thọ Xuân, Thanh Hoá). Đông đảo hào kiệt và nhân dân các nơi kéo về hưởng ứng, thanh thế càng mạnh. Đầu năm đó, với một lực lượng hùng mạnh, vua từ thành Tây Đô tiến quân. Tướng họ Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đem con em đến trước quân lạy chào ở cửa Nam thành Tây Đô. Ba quân dõng dạc cả mừng. Bấy giờ Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim còn ở Ai Lao chưa theo đi. Vua sai Tuyên Quận công Trịnh Công Năng mang chiếu thư về gọi. Nguyễn Kim bèn chỉnh đốn bộ ngũ, ngay ngày ấy lên đường, đến bái yết ở hành tại trên sông Nghĩa Lộ. Vua mừng lắm, gia thăng Thái tể, sai làm Đô tướng Tiết chế tướng sĩ các dinh chia đường đều tiến, dẹp yên dân miền Tây Nam, hễ đánh là thắng.

Nguồn: K3, tập 2, tr.122; Đ4, tr.836; Đ7, tr.280.

        NĂM 1544 (GIÁP THÌN)

        Mùa xuân

 332. Dương Bạt Tụy thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc

Khoa thi Hội năm này lấy vũ Kính 3 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ, Nguyễn Dực 14 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Dương Bạt Tụy, người xã Lôi Trạch, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng trấn Hải Dương (nay thuộc xã Hòa Bình, Vĩnh Bảo – Hải Phòng), làm quan đến Thừa Chánh sứ.

Nguồn: Đ4, tr.837; D7, tr.281.

        Mùa hè

 333. Dương Bàng cung tiến tiền của chuộc lại đất ruộng, ao chùa Đức Mục

Văn bia Kiều Trì thôn Đức Mục tự bi tạo năm Quảng Hòa 4, được dựng tại xã Hà Trì, tổng Hà Trì, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc Hà Đông – Hà Nội) do Tiến sĩ Nguyễn Tiến soạn, cho biết:

Phàm ở làng lấy hòa làm quý. Nếu hòa thuận ở làng thì tục làng mới tốt và lòng mới hướng cả về việc thiện vậy. Thôn Kiều Trì là làng quê văn vật của Thanh Oai ta. Nơi đây đất đẹp dân thuần, tục cổ. Bởi qua nhiều cuộc binh hỏa mà mốc đá tản mác, ruộng đất ao chùa có chỗ bị lấn chiếm. Muốn hoàn lại đất phúc, phải chờ những bậc đại phúc. May mà các vị đứng đầu trong giáp đã hòa lại thuận; vui vẻ lấy ân tình để cùng thương yêu nhau, ôn tồn lấy từ thiện để khuyến khích nhau.

Lại e rằng do lâu ngày mà thất truyền, bèn khắc vào bia đá. Chẳng những khiến người làng hiện nay nức lòng làm điều thiện, bỏ mối tham mà còn khiến cho muôn đời sau người trong làng nhìn vào cùng phấn khởi mà đi theo con đường thiện ấy. Thế thì quả phúc sẽ tròn. tục làng sẽ hậu. Há chẳng phải là do hòa thuận mà sinh ra vậy sao? Tôi tuy vụng về nhưng may mắn được ở làng quê này lại cùng mọi người chung lòng lạc thiện, đâu dám tự ý riêng, chính vì điều đó mà đặt tên chùa là Đức Mục.

Dương Bàng, thay mặt mấy gia đình ở giáp Phú Khê đã tham gia vào các việc làm kể trên.

Nguồn: V8, tr.70-73; V11, tr.90-92.

        Ngày 2 tháng 10 (26 tháng Tám – Giáp Thìn)

 334. Dương Đình Tuấn, Dương Ngọc Bảo được ghi danh cung tiến tiền của tu bổ chùa Đặng (Hiển Linh tự)

Hiển linh tự bi dựng tại chùa Hiển Linh, xã Thanh Đặng, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Thanh Đặng, Văn Giang – Hưng Yên) tạo vào thời điểm trên ghi rằng:

Toà Phật điện của chùa bị hư hỏng, đột nát. Ngày 24 tháng Mười năm Quý Mão (10-11-1543), học sinh Phan Đình Bảo và vợ là Tiền Quận phu nhân Thang Thị Uyển thấy Phật điện chùa cổ ở phía tây xã vốn rất anh linh, thường giúp sinh ra nhiều nhân tài, chức trọng. Liền bàn với ngài Tiền Hiệu lực Hậu vệ Chỉ huy đồng tri Thang Lặc và vợ là Lê Thị Lộ, cùng Vương Trị, nguyên Huyện thừa huyện Ý Yên và vợ là Thang Thị Phong đồng tâm đồng sức, bỏ gia tài, mua gỗ lim tu sửa Phật điện hoàn tất.

Vì thế dựng bia, kê họ tên và ruộng, đất Tam bảo.

– Tín chủ 4 vị: Thang Thị Uyển, người xã Thanh Quan; Lê Thị Lộ người xã Thanh Đặng; Thang Thị Phong tự Diệu Thiện, Phan Đình Bảo người xã Thanh Quyết.

– Tín thí 34 người, gồm: Dương Đình Tuấn, Dương Ngọc Bảo […].

Nguồn: V11, tr.87-89.

        NĂM 1545 (ẤT TỴ)

        Ngày 18 tháng 6 (20 tháng Năm – Ất Tỵ)

 335. Dương Chấp Nhất sát hại Nguyễn Kim

Hàng tướng Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất ngầm chứa hai lòng. Bấy giờ đại quân tiến đóng Yên Mô (nay thuộc Ninh Bình). Nhân trời nóng nực, Dương Chấp Nhất mời Thái tể Nguyễn Kim đến dinh của hắn, ngầm bỏ thuốc độc trong quả dưa dâng lên trước mâm cỗ. Thái tể tin lòng ăn dưa, bị thuốc độc, đến khi về trong lòng buồn bực rồi chết. Trung Hậu hầu đêm hôm ấy trốn đi, lại về với họ Mạc (Trước Trung Hậu hầu xuất thân là hoạn quan, trải thờ Mạc Đăng Dung, làm quan đến chức Chưởng bộ, nghe tin vua khởi quân khôi phục bờ cõi, bèn cùng bàn với họ Mạc dùng mẹo trá hàng, định muốn hại vua. Vì việc không làm được mới ngầm bỏ thuốc độc hại Thái tể). Vua xuống chiếu tặng Nguyễn Kim làm Chiêu huân Tĩnh công, thụy là Trung Hiến. Sai người rước linh cữu về Bái Trang huyện Tống Sơn làm lễ chôn rất hậu. Phong con trưởng là Nguyễn Uông làm Lãng Quận công, con thứ là Nguyễn Hoàng làm Hạ Khê hầu, sai coi quân đánh giặc.

Nguồn: K3, tập 2, tr.123-124; Đ4, tr.837; Đ7, tr.281.

        NĂM 1546 (BÍNH NGỌ)

 336. Dương Bảng thi đậu Chế khoa Ngự thí (Tiến sĩ) nhà Lê

Ông tự là Cát Phủ, hiệu Phúc Sơn, con trưởng của Thủy tổ Dương Thế Thông ở Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), từng đậu Giải nguyên khoa thi Hương năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Thống Nguyên 1 (1522). Thời Lê Trang Tông, tại khoa thi năm Bính Ngọ, niên hiệu Nguyên Hòa 14 (1546) tổ chức tại sách Vạn Lại, tổng Yên Trường, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Châu, Thọ Xuân – Thanh Hóa), Dương Bảng thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ (Thám hoa), làm quan cho nhà Lê đến chức Lại bộ Hữu thị lang.

Kỳ thi này không được sử sách ghi lại. Theo Quỳnh Đôi khoa danh trường biên thì địa điểm thi đặt ở Biện Sơn – Thanh Hóa. Theo Họ Dương Quỳnh Đôi và một số tài liệu khác cho biết, năm Ất Dậu (1885) làng bị đốt phá khi phong trào Cần vương nổi lên nên các sách mệnh của tiên tổ bị cháy cả. Năm Quý Sửu (1913) có ông Nguyễn Văn Giá – có vợ là cháu nội của Tiến sĩ Dương Thúc Hạp, khi làm quan tại Huế, được đọc sách vở ở Quốc sử quán thấy có cụ Cát Phủ trong danh sách Tiến sĩ thời Lê, bèn sao lại gửi về cho dòng họ Dương. Nhận được tài liệu, ông Dương Khánh Nghiên đời thứ 13, cho khắc vào gỗ ngày 4 tháng Năm năm Bảo Đại 19 (24-6-1944) để ghi nhớ. Nội dung như sau:

“Kính cẩn sao chép về sự trạng khoa hoạn của cụ tiên tổ đời thứ nhất.

Vào thời vua Lê Trang Tông chuyển triều đình về hành cung sách Vạn Lại. Sau khi lên ngôi được ba năm thì các vị anh hùng hào kiệt trong thiên hạ theo về rất đông. Năm Bính Ngọ (1546) nhà vua cho tổ chức thi và ra đề bài phú là Tu ki dĩ an bách tính (Tu dưỡng mình để vỗ về trăm họ) và bài luận là Thủ thiên hạ ư nhân tâm (Lấy được thiên hạ ở lòng người). Lấy đỗ Thám hoa Ngô Trọng Điển người ở Đặng Sơn xứ Nghệ An; Dương Cát Phủ người Quỳnh Đôi làm quan đến Hữu Thị lang, được gia phong làm Khiêm cung Kiệt tiết Tuyên lực công thần Lại bộ Gia Hạnh đại phu, tước Đốc Trung tử; lấy đỗ Hoàng giáp Lê Văn Vi ở làng Phan Xá huyện Chân Lộc, Phan Duy Thực ở Yên Thành; lấy đỗ Tiến sĩ các ông Lê Doãn Nguyên ở làng Đào Hoa huyện Đông Thành, Nguyễn Đình Nghĩa làng Xa Lang tỉnh Hà Tĩnh. Các ông Trần Đăng Dụng làng Đồng Luân huyện Nam Đàn, Phan Tiến Thọ làng Hương Cái huyện Hưng Nguyên, Phan Nhân Tường làng Vũ Liệt huyện Thanh Chương, Vũ Duy Nhượng làng Lương Trường, Bích Triều, Nguyễn Tống Ngọc ở Cát Ngạn trong sách Đăng khoa lục không thấy ghi chép, bi kí cũng không thấy có mà người đời sau cũng không thấy truyền, do vậy để tạm tồn nghi đợi tra cứu thêm.

Nguyên bản lưu trữ ở Quốc sử quán cho biết đến khoa Quý Sửu triều ta, triều đình mở khoa thi Hội lấy đỗ Tiến sĩ Nguyễn Văn Giả ở Tri Lễ, Đặng Sơn đã vâng mệnh đến Kinh thi, sao chép đưa về cho họ Dương, lại tuân theo sao lại vào bảng này.

Ngày mùng 4 tháng 5 Bảo Đại 19 (1944), cháu đời thứ 13 là Dương Khánh Nghiên cung kính trang hoàng lại dâng lên”.

Ngoài ra, tại nhà thờ họ Dương vẫn còn giữ được hai đạo sắc phong đề ngày 18 tháng Ba năm Khải Định 2 (9-4-1917) và ngày 25 tháng Bẩy năm Khải Định 9 (24-8-1924).

Nguồn: H3; T9, 2013, tr.452-456.

        NĂM 1547 (ĐINH MÙI)

        Mùa xuân

 337. Dương Phúc Tư, Dương Trí Tri, Dương Đôn Cương, Dương Văn An thi đậu các hạng Tiến sĩ nhà Mạc

Đây là khoa thi Hội do nhà Mạc tổ chức, họ Dương có nhiều người thi đậu và giành học vị ở tất cả các bậc:

Dương Phúc Tư, người xã Lạc Đạo, tổng Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Ngọc, xã Lạc Đạo, Văn Lâm – Hưng Yên), giành học vị Trạng nguyên (Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh) vào năm 43 tuổi. Làm quan cho nhà Mạc đến chức Tham chính, khi quy thuận nhà Lê vẫn giữ chức cũ. Sau về dạy học, đào tạo được nhiều người thành đạt. Dương Phúc Tư là ông nội của Dương Thuần, cố nội Dương Hạo, viễn tổ Dương Công Thụ (chú).

Dương Trí Tri, người xã Duy Liệt (còn gọi là Liệt Thượng), tổng Đỗ Chử, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Kỳ Phú, Kỳ Anh – Hà Tĩnh), đỗ Đệ nhị Tiến sĩ, làm quan đến chức Hàn lâm.

– Dương Đôn Cương, người xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc – Vĩnh Phúc), cháu của Dương Tĩnh, đỗ Đệ nhị Tiến sĩ, làm quan đến Hình bộ Hữu thị lang, tước Đạm Giang bá.

– Dương Văn An, người xã Tuy Lộc, tổng Đại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Bình, trấn Thuận Hóa (nay thuộc xã Lộc Thủy, Lệ Thủy – Quảng Bình, trú tại thôn Phú Diễn, tổng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc phường Phú Minh, quận Nam Từ Liêm – Hà Nội), thi đậu Đệ tam Tiến sĩ khi 34 tuổi, làm quan đến Lại khoa Đô cấp sự trung rồi thăng Thượng thư, Sùng Nham hầu, khi mất được tặng tước Quận công. Ông có tác phẩm nổi tiếng Ô Châu cận lục (1555).

Nguồn: Đ4, tr.838; Đ7, tr.286; C1, tr.407-413.

 338. Bài văn sách của Dương Phúc Tự

Để đạt được học vị Trạng nguyên với lời châu phê của Mạc Phúc Nguyên: “Điều đối thiết yếu, chân đại thủ bút, sĩ vị chân nho xuất thế tạo hành” (Trả lời thiết đáng, đúng là một cây bút lớn. Khi đã có bậc chân nho, đạo cứ thế mà hanh thông), Dương Phúc Tư đã thể hiện một cách hoàn mỹ tư duy kinh bang tế thế, đạo quân thần, phép tu thân xử thế của giới nho sĩ đương thời.

Trước khi đi vào trả lời từng câu hỏi của đề thi, Dương Phúc Tư nhấn mạnh về đạo trị nước:

“Thần từng nghe cái cốt yếu của việc trị nước không phải chỉ có một. Trị nước là phải có tâm ngay thẳng. Nhân nghĩa, giao xã, đồn điền, thủy lợi, lục nghệ, đồ thư học hiệu, văn chương đều là cái cốt yếu của việc trị nước. Cho nên trị nước không chỉ là một việc. Vậy nên tâm mình đã ngay thẳng thì việc trị nước sẽ êm thấm, tâm không ngay thẳng thì việc trị nước sẽ rối loạn. Tiếp đó, ông mới tra lời câu hỏi thứ nhất được hỏi là:

“Bậc đế vương cai trị thiên hạ tất phái lấy nhân nghĩa, giao xã, đồn điền, thủy lợi, lục nghệ, đồ thư, học hiệu, văn chương làm điều cốt yếu trong việc cai trị?”. Ông trả lời rằng: “Thần trộm nghe, về nhân nghĩa đã có ghi trong sách Chu thư, giao xã có chép trong sách Trung chuyện, cho nên việc nhân nghĩa, giao xã đáng là việc đầu tiên. Làm cho nước giầu dân đủ là việc đồn điền. Dân làm ruộng phải dựa vào thủy lợi. Vì vậy việc đồn điền thủy lợi cần phải phát triển; lục nghệ đều mang nghĩa lý sâu xa, đồ thư chứa sự thâm thúy của Lý học. Thế thì lục nghệ, đồ thư há không nghiên cứu sao? Trường học là cái gốc của nền giáo hóa, văn chương là tinh hoa của đạo trị nước. Thế thì trường học văn chương há không coi trọng được sao? Nhân nghĩa được thi hành thì sinh dân hưởng lợi. Giao xã dựng lên thì lễ nhờ được minh bạch. Đồn điền lập nên thì đủ quân lương. Thủy lợi phát triển thì tăng thêm của cải trong dân. Không có lục nghệ thì lấy đâu ra vật dụng từng ngày, không có đồ thư thì lấy gì để nghiên cứu phép lớn trị nước. Trường học phát triển thì qua đó nền giáo hóa được tốt đẹp lên. Văn chương phát triển thì thế đạo nhờ đó mà hưng thịnh. Những điều cốt yếu của phép cai trị thiên hạ của bậc đế tương đâu có ngoài những điều trên”.

Câu hỏi thứ hai: “Thế nào gọi là động? Thế nào gọi là tĩnh? Động, tĩnh đúng là có tương thông với nhau không? Thế nào gọi là hợp? Thế nào gọi là phân? Phân, hợp cái nào thì thích hợp? Có phương pháp hoàn thiện việc phòng thủ, giảm bớt sự vất vả của việc vận chuyển, làm cho đất nước đủ cái chi dùng, thực hiện phương pháp này có khó không? Trong thì Kinh đô, ngài thì các quận, xa nữa là nơi biên giới, ai là người có thể khai thác nguồn tài lợi ở những nơi đó?”.

Trả lời: “Thần trộm nghĩ: Nhân nghĩa có động có tĩnh. Cái dụng của điều nhân tuy hòa thuận niềm mỏng nhưng cũng có bao hàm cái ý vận động vượt lên, nên cái thế của nó lại thuộc về động. Cái dụng của nghĩa tuy là cứng rắn nhưng cũng có ý tuỳ thời mà quyền biến nên cái thế của nó là tĩnh lặng thuộc về âm… Ôi! Nhân thuộc động, nghĩa thuộc tĩnh. Điều này xem ra có vẻ không thông. Nhưng xét kỹ thì động đến cực điểm thì trở về tĩnh, tĩnh đến cực điểm thì trở nên động, một động một tĩnh là gốc lẫn cho nhau. Như vậy, nhân nghĩa, động tĩnh há không phải nương vào nhau mà lưu thông sao?…”.

Các câu hỏi tiếp theo về “Phân và hợp” Thịnh và suy” đều được thí sinh giải đáp theo phép biện chứng “Mâu thuẫn – Thống nhất”, “Biến và thông” của Lý học, được lý giải bằng hiện thực lịch sử. Cuối cùng bài văn Chế sách đưa ra kết luận như kiểu một “Kiến nghị” về đạo trị nước, lấy “Nhân nghĩa” làm đầu:

“Thần xin Hoàng thượng bệ hạ gắng thực hành nhân nghĩa, trước sau giữ được đạo nhân nghĩa. Khi nhân nghĩa đã được thực hiện rồi thì suy nghĩ thêm việc thực hiện nhân nghĩa. Khi nhân nghĩa đã được củng cố rồi thì suy nghĩ thêm việc củng cố nhân nghĩa. Thế thì không thể kể hết tác dụng của nhân nghĩa. Cái tốt đẹp của nền cai trị sẽ giữ luôn được tốt đẹp”.

Mở đầu bằng đạo “Chính tâm”, kết thúc bằng thuyết “nhân, nghĩa”, bài văn Chế sách đã biểu hiện rõ cả tâm và tài của tác giả, xứng đáng được nhận lời châu phê “Điều đối thiết yếu, chân đại thủ bút, sĩ vị chân nho xuất thế tạo hành”.

Nguồn: T19, tr.1-14.

        NĂM 1550 (CANH TUẤT)

        Mùa xuân

 339. Đào Minh Dương, Dương Thận Huy thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc

Kỳ thi này lấy Trần Văn Bảo, Trần Vân, Nguyễn Ninh Dương đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Lê Khâm 4 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Thừa Hưu 18 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Đào Minh Dương, còn có tên là Đào Dương Bằng, hậu duệ của Đào Sư Tích, quán tại xã Hộ Xá, tổng Hộ Xá, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, tấn Sơn Nam (nay thuộc Xuân Thủy – Nam Định), làm đến Thừa chánh sứ.

Dương Thận Huy, người xã Lan Giới, tổng Lan Giới, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là xã Lan Giới, Tân Yên – Bắc Giang), làm quan đến Thừa chánh sứ.

Nguồn: Đ4, tr.839; Đ7, tr.289; C1, tr.421.

        NĂM 1553 (QUÝ SỬU)

        Trong năm

 340. Tô Quận công Lê Quang Bí làm thơ vịnh Lê Ngột – con trai Lê Tung

Ông tự Thuần Phu, người thôn Trạch Xuyên, xã Thì Cử, tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Mộ Trạch, Bình Giang – Hải Dương), thi đậu Đệ nhất Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1526) nhà Mạc. Năm 1548, nhà Mạc cử một đoàn sứ sang nhà Minh, do Lê Tiến Quy làm Chánh sứ, Lê Quang Bí làm Phó sứ về việc cống hiến thường niên. Khi đến Nam Ninh, triều Minh ngờ là quan giả mạo, bắt phải chờ để tra xét minh bạch đã mới cho dâng lễ phẩm. Thế rồi gửi văn thư đi tra xét nhưng chẳng có hồi âm, Quang Bí cứ phải lưu tại sứ quán chờ mệnh lệnh. Phúc Nguyên thì vì lúc ấy trong nước nhiều nạn, bỏ khiếm khuyết việc cống hiến đã mấy năm liền nên cũng không dám tâu xin. Đến năm Quý Hợi niên hiệu Gia Tĩnh thứ 42 (1563), quan quân Lưỡng Quảng nhà Minh mới sai người đưa Quang Bí tới Bắc Kinh, Nhân dịp, Phúc Nguyên cũng sai hầu mệnh gửi cho Quang Bí 25 lạng bạc để thưởng lạo. Khi Quang Bí tới Kinh đô lại bị lưu ở xứ quán. Đến lúc này, viên Đại Học sĩ triều Minh Lý Xuân Phương, thương hại Quang Bí ở trong nước Minh đã l8 năm, lúc ra đi tóc mây xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ, như Tô Vũ đi sứ ngày xưa đến lúc bạc đầu mới được hồi quốc.

Khi Quang Bí trở về tới Đông Kinh, Phúc Nguyên tỏ lời an ủi, thấy sứ sự của ông giống hệt Tô Vũ bèn phong cho tước Tô Quận công.

Đằng đẵng gần 20 năm lưu lại quê người, lòng ông luôn nhớ về đất nước, nhân đó soạn ra tập thơ về chư vị tiền nhân quá vãng trong lịch sử học thuật được thờ phụng của bản xã, gồm 66 bài, gửi về quê nhà. Tập thơ được lấy nhan đề là Tư hương vận lục (Thơ nhớ quê). Trong số những bài đó, có một bài viết về Lê Ngột – con trai của nhà sử học Lê Tung (Dương Bang Bản) như sau:

“Đông vụ tây trì khẳng ngoại cầu

Bất từ tiểu chức lạc hưu hưu

Tự tùy cầm kiếm tam thiên lộ

Nhậm bả công danh nhất diệp châu

Khách lý ưu du tiêu tuế nguyệt

Sĩ trung tiêu sái hảo phong lưu

Tế nhân Trăn Vị âm công tại

Thiểu nhượng tiền hiền nhất địa đầu”.

(Rong ruỗi đông tây há đâu vì cầu kiếm vật ngoại thân

Không nề chức trách dù nhỏ, giữ lòng vui hớn hở

Bên thân mang lấy đàn và kiếm trải khắp ba ngàn lối đời,

Đối với công danh chỉ là một chiếc đò nhẹ

Giữa cảnh làm khách giữa đời, thong dong vui vẻ

rong chơi tuế nguyệt

Trong chốn quan trường thư thái hưởng thú phong lưu

[Như người xưa] cứu giúp trăm họ nơi sông Trăn, sông Vĩ,

âm công còn mãi

Chỉ nhường bước một chút so với những bậc tiền hiền

hàng đầu [trong sử]).

Nguồn: T14, tr.465.

        NĂM 1555 (ẤT MÃO)

        Ngày 22 tháng 7 (15 tháng Sáu – Ất Mão)

 341. Dương Văn An hoàn thành sách Ô Châu cận lục

Sinh thời, Dương Văn An sống và làm việc chủ yếu tại trú quán là xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm chứ không phải ở sinh quán là xã Tuy Lộc huyện Lệ Thuỷ, nhưng, dường như bất cứ lúc nào ông cũng nhớ về quê cha đất tổ, ưu ái đành cho nơi chôn nhau cắt rốn những tình cảm thật chân thành và nồng hậu. Chính những tình cảm thiêng liêng, cao cả và tốt đẹp đó đã thôi thúc ông, tạo ra nguồn cảm hứng và niềm say mê để ông viết nên cuốn Ô Châu cận lục rất đáng quý này. Ô Châu cận lục đã ghi chép những điều thiết yếu về Châu Ô. Điều thiết yếu theo quan niệm của Tiến sĩ Dương Văn An khi viết công trình này là tên phủ, tên huyện, tên châu và tên làng xã thuộc Châu Ô, phải chính xác là tên núi sông, tên bến đò, tên chợ quán và đặc biệt là tên các quan văn, quan võ, người trung nghĩa, bậc tiết phụ vốn là của Châu Ô.

Nguồn: O1, tr.9-11.

        NĂM 1563 (QUÝ HỢI)

        Ngày 12 tháng 5 (1 tháng Tư – Quý Hợi)

 342. Nhiều người họ Dương công đức tu tạo chùa Chân Tiên (Phúc Lâm tự)

Theo Trùng tu Phúc Lâm tự chung minh tinh tự (Bài minh và lời tựa về việc đúc chuông chùa Phúc Lâm) khắc trên quả chuông treo tại chùa Chân Tiên (phố Bà Triệu, Hai Bà Trưng – Hà Nội), đúc ngày 6 tháng Tư năm Thuần Phúc 2 nhà Mạc (15-5-1563) do Tiến sĩ Ngô Bật Lượng soạn ngày 1 tháng Tư cùng năm thì ngôi chùa xây dựng đã từ lâu vốn là một cổ tích, bảo sái nguy nga, thân vàng đột ngột, phía sau nước chảy, trước mặt hướng đông bắc (Dần Thân), vòng quanh phong cảnh tĩnh mịch, mọi vật đều tốt tươi nảy nở như cung Đâu Suất trời đất thế giới cõi tiên.

Nghĩa Quốc phu nhân Trần Thị Ngọc Sắt có tấm lòng hiền từ lớn lao. Lúc đầu bà đã bỏ của cải gia tài ra để làm được nhiều người ca ngợi. Một Thứ phi của Tuyên tông Hoàng đế đã bố thí 10 lượng bạc, Tuy Quận công Tạ Vĩnh Dịch cúng thí 5 lượng bạc. Nhờ có những tấm lòng vàng đó mà thiện nam, tín nữ đều vui vẻ noi theo. Chưa đầy trong một tháng mà của cải quyên góp được như suối chất thành núi, gạo thóc thu về thu được hơn 100 cân đồng. Vào năm Thuần Phúc thứ 2 năm Quý Hợi, ngày 6 tháng Tư, bèn tập thợ kim hoàn, trời đất hân hoan dựng lò mở khoá âm dương làm khuôn xây xung quanh vậy. Vàng dòng trong sạch nước ngưng tụ thành, một ngày mà tạo hoá phôi thai thành hình, xưa nay hiếm có, ở nơi ấy treo lên lầu báu, sớm khua, chiều đánh, đã trọn vẹn, tiếng kêu như tiếng sấm kình rộng khắp mọi người nghe thấy, khiến cho công đức boong boong chở khắp, dưới thì truyền lại phúc khánh há chẳng là vô cùng thay. Vả lại chuông đã thành mà bài minh thì chưa, bài tự ở ta, ta thường ghi bậc tiên nho có mà chăng thảo ra ghi chiêu để. Việc người có lòng làm thiện, không thể việc ấy ở trước mắt mình sao.

Bên cạnh sự cung tiến của hàng trăm người, bài minh chuông chùa Phúc Lâm đã ghi danh Kim Lê bá Dương Lực, bà Dương Thị Lẫm, ông Dương Công Chính đã công đức tiền của vào việc đúc quả chuông này.

Nguồn: V11, tr.508-514.

        NĂM 1565 (ẤT SỬU)

        Mùa xuân

 343. Dương Trí Dụng thi đậu Đệ nhất Chế khoa nhà Lê Trung hưng

Nhà Lê Trung hưng đặt Chế khoa để chọn nhân tài, cho Lê Khiêm 4 người đỗ Đệ nhất Chế khoa, Lê Nghĩa Trạch 6 người đỗ Đệ nhị Chế khoa.

Dương Trí Dụng, người xã Bạt Trạc, tổng Nga Khê, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Nhân Lộc, Can Lộc – Hà Tĩnh) sau khi thi đỗ, từng giữ Hộ bộ Hữu thị lang, Binh bộ Tả thị lang lãnh Thừa chánh sứ Sơn Nam

Nguồn: Đ4, tr.849; C1, tr.452-453.

        NĂM 1568 (MẬU THÌN)

        Mùa xuân

 344. Dương Thúc thi đậu Tiến sĩ (không rõ thứ hạng)

Đây là khoa thi Hội được tổ chức dưới triều Mạc, năm Sùng Khang 3, lấy Vũ Hữu Chỉnh đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Đỗ An 4 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Giáp Phong 12 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ. Năm này không thấy sử ghi nhà Lê mở khoa thi.

Trong tổng số 17 vị đại khoa đỗ kỳ thi đó, không có tài liệu nào ghi tên Dương Thúc. Tuy nhiên, theo Trùng tu tạo tác/ Thánh thượng tiền triều/ Lê Đại Hành Hoàng đế/ Bi ký tịnh minh dựng tại điện vua Lê, xã Trường Yên Hạ, tổng Trường Yên, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, đạo Thanh Bình (nay thuộc xã Trường Yên, Hoa Lư – Ninh Bình) ghi rõ văn bia do Nghĩa Khê hầu Dương Thúc, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, Thượng thư bộ Hình soạn năm Hoằng Định 12 (1611) nhà Lê. Cũng tại đây còn có bia Tiền triều Lê Đại Hành Hoàng đế miếu do Nguyễn Lễ, hiệu Thuần Khang, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, Tả thị lang bộ Lễ Đông các học sĩ, tước Nghĩa Khê hầu, soạn văn bia vào năm Hoàng Định 7 (1606). Như vậy, Dương Thúc và Nguyễn Lễ là bạn đồng khoa của kỳ thi Hội khoa Mậu Thìncủa kỳ thi Hội khoa Mậu Thìn (1586) thời Lê Trung Hưng.

Nguồn: T12, tập 16, N0 15859-62; 15870-71; V12, tr.672-674.

        NĂM 1572 (NHÂM THÂN)

        Ngày 21 tháng 5 (23 tháng Tư – Nhâm Thân)

 345. Nhiều tín thí họ Dương hưng công để đặt lại hướng chùa Nghiêm Quang

Nghiêm Quang tự bi tạo năm Sùng Khang 7 (1574) tại chùa Nghiêm Quang, xã Cối Xuyên (sau đổi là Hội Xuyên), tổng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc thị trấn Gia Lộc – Hải Dương) cho biết: Từ khi Đạo sĩ quán Bùi Sĩ Thanh vinh hiển về làng, lại cùng các thiện sĩ đồng lòng nhất trí bỏ hướng Khôn mà theo hướng Tốn để tu sửa lại chùa. Chọn ngày lành tháng Hai năm Nhâm Thân khởi công, qua tháng Ba, hoàn thành. Càng thấy quy mô đẹp đẽ, chế độ mới mẻ. Cột giường, điện gác cao vời vợi. Nhân đó tô tượng Phật.

Chùa Nghiêm Quang, trước âm u mà nay sáng sủa, cũng là điều dễ thấy. Huống chi, hình trạng của chùa ngày nay: họp bầy tiên để làm bạn, góp mọi của báu để sửa sang.

Bàn về địa thế, thì lên điện cao có thể nhìn suốt phía nam, mở cửa lớn có thể xem cả dòng nước phía đông và cả hình thế rộng lớn. Vịnh cảnh, thì có rặng trúc đầy như màn che, mai kín như gai mọc, trải dài từng khóm đến thôn Lương, thôn Quế.

Trải xem các nơi phúc địa, thực đây là một danh lam bậc nhất. Học vấn chỉ là một Hiệu sinh, tôi chỉ muốn ghi lại sự việc ngày nay, khắc rõ vào đá, lưu truyền lâu dài.

Đóng góp vào công việc trên, ở thôn Đức Phong có ông Dương Đức Chiếu; thôn Đại Liên và Mỹ Long có ông Dương Thuận, bà Dương Thị Phố.

Nguồn: T12, tập 13, N012812-3; V11, tr.198-204; V8, tr.140-145.

        NĂM 1573 (QUÝ DẬU)

        Ngày 14 tháng 11 (1 tháng Một – Quý Dậu)

 346. Huyện thừa Dương Hữu Độ cung tiến tu tạo chùa Đại Bi

Đại Bi tự bi do Quốc tử giám Trung xá sinh Nguyễn Trí Tri soạn tạo năm Quý Dậu, dựng tại chùa Đại Bi, xã Bối Khê, tổng Bối Khê, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay là thôn Song Khê, xã Tam Hưng, Thanh Oai – Hà Nội) ghi:

Chùa của hai xã Bối Khê và Hồng Khê thuộc huyện Thanh Oai là ngôi chùa rất danh tiếng.

Ở đây có pho Bồ Tát, chân tượng. Mỗi khi gặp hạn hán, úng lụt; đến cầu đảo đều được ứng nghiệm. Bởi thế từ xưa đã được coi là một nơi thiên định danh lam vậy. Trải lâu đời tượng hư hỏng. Nay có vị Thiền sư là Mậu Pháp cùng Huệ Tu vốn có lòng hiếu thiện, đã đứng ra bỏ tiền của tu sửa tượng Phật. Các ông trong làng xóm là Nguyễn Kim, Phạm Tán… lại cùng bỏ tiền của ra tư mua vật liệu mới.

Vật liệu đã đủ, nhằm ngày 16 tháng Một năm Giáp Tuất (10-12-1572) khởi công tu sửa. Không đầy một tháng mà công việc đã hoàn thành. Chế độ mới hơn, quy mô khác trước. Trong ngày lễ khánh thành, người làm việc thiện, nhà giàu có, cùng cúng tiến tài vật. Nhân đó mời thợ đá về khắc bia để ghi công đức.

Huyện thừa huyện Thanh Oai Dương Hữu Độ là một trong hàng trăm người cung tiến tu tạo chùa.

Nguồn: V8, tr.159-162; V11, tr.214-217.

        NĂM 1580 (CANH THÌN)

        Tháng 9 (tháng Tám – Canh Thìn)

 347. Tín vãi Dương Thị Biết cung tiến tu tạo chùa Đại Từ

Trùng tu Đại Từ tự bi do Nho sinh Tứ lâm cục Nguyễn Công Thường ghi, dựng tại chùa Đại Từ, xã Đông Phan, tổng Hương Đại, huyện Thanh Hà, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Tân An, Thanh Hà – Hải Dương) ghi:

Ngày Nhâm Thân tháng Kỷ Mão năm Canh Thìn (3 tháng Hai – Canh Thìn, tức 7-3-1580) sãi vãi và thiện nam tín nữ tu sửaThiêu hương, Tiền đường, các tòa Hành lang của chùa và tô tượng Hộ pháp, làm bàn thờ, đòn kiệu, mâm thờ. Công việc hoàn tất, khắc bia lưu truyền về sau.

Tháng Tám – Canh Thìn việc tu tạo hoàn thành. Tín vãi Dương Thị Biết cùng hàng trăm người có công được bia ghi danh.

Nguồn: T12, tập 12, N011448, tr.448; V8, tr.204-205; V11, tr.286-288.

        NĂM 1581 (TÂN TỴ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Tân Tỵ)

 348. Nhiều người họ Dương đóng góp tu tạo chùa Thuận Ứng

Tu tạo Thuận Ứng tự bi hiện còn trên núi Mã (thành phố Hải Phòng) dựng tháng Giêng năm Diên Thành thứ 4 nhà Mạc ghi rằng, có công tất được báo đền, khắc vào bia đá để truyền lại lâu dài các ông, bà – trong đó có Dương Văn Kiến, Dương Thanh Triệu, Dương Thời Trung, Dương Thanh Lan để con cháu biết sự đóng góp của mọi người trong việc góp tiền của tu tạo chùa Thuận Ứng.

Nguồn: T9, 2001, Tr.593-596.

        Ngày 3 tháng 3 (9 tháng Hai – Tân Tỵ)

 349. Hai ông Dương Doãn Dịch, Bùi Doãn Lộc hưng công tu tạo cầu đá Giao Tất

Tu tạo thạch kiều nhị xứ bi do Tiến sĩ Ngô Tào soạn tháng Giêng năm Bính Tuất (1586) ghi rằng:

“Từng nghĩ cầu có tên đã từ lâu. Hoặc bắc ở bể, hoặc bắc ngang sông, hoặc bắc ở bến để giúp đi lại tránh hiểm nghèo. Người ta nhờ đó mà mang ơn huệ.

Nay chùa Trùng Nghiêm của làng Giao Tất, ấp Gia Lâm là nơi có dấu tích cổ, cảnh trí thanh. Một tòa lâu đài sum xuê xây dựng trước mặt, bên phải lại có đình Kỳ Dương, bạn thơ rượu trong làng hội họp ở đấy. Phía trước là một dải nước sát nối đường Thiên lý, trên có cầu. Tuy vậy, quy mô nhỏ hẹp, người qua lại chưa được thỏa mãn. Nay có các tín sãi là Bùi Doãn Lộc, Dương Doãn Địch cùng phát lòng thiện, khôi phục cho đẹp hơn trước. Mua gỗ đá, thuê thợ về làm. Phía trên thì bắc sà lợp mái, phía dưới thì lát đá làm sàn. Khởi công vào ngày 9 tháng Hai năm Diên Thành thứ 4 (1581), đến ngày 5 tháng Năm thì hoàn thành. Chưa có mây sao có rồng, chưa có ráng sao có cầu vồng. Mỗi khi ngắm sóng gợn, lúc nhìn nước lặng như đi đường bằng phẳng trong không, bóng soi mồn một. Khách qua lại đề thơ, thi nhân mang rượu đến thưởng ngoạn. Người lọng dù, ngựa xe ngơi nghỉ, tiện lợi cho mọi người buôn bán. Hành khách ngại gió mưa, ẩn trú rất tốt. Sãi vãi đi lễ phật, sĩ tử thưởng xuân. Kẻ qua, người lại thấy lợi lạc. Phúc giúp cho người cho vật; công đức vô cùng xán lạn. Năm tháng còn mãi, nhân duyên tốt vậy, há chẳng đẹp sao!”.

Đóng góp vào việc này còn có các Tín thí Dương Hạch, Dương Thị Hy.

Nguồn: T12, tập 4, N03179, tr.180; V8, tr.268-270; V11, tr.379-382.

        NĂM 1582 (NHÂM NGỌ)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Nhâm Ngọ)

 350. Thôn trưởng Dương Công Pha tham gia dựng bia ghi công tu tạo chùa Viên Giác

Viên Giác tự bi do Nguyễn Đức Nhuận soạn, dựng tại chùa Viên Giác, xã Hương Lãng, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Minh Hải, Văn Lâm – Hưng Yên) ghi rằng:

“Thường nghe: Thuận An là xứ đẹp, chùa Viên Giác là danh lam. Phía sau có sông Thiên Đức, phía trước là dòng Tế Giang, tiếp với sông Nhị Hà mà liền Kinh kỳ đô thị. Thật là một nơi có đất phúc vậy.

Vào tháng Tư năm Sùng Khang thứ 10 (1575) già trẻ lớn nhỏ trong xã đúc chuông lớn. Đến tháng Tám năm Tân Tỵ, huyện sĩ Phạm Đạo, Phúc Thọ, Thịnh Phúc Nhiêu, Lê Phúc Kiều cùng phát lòng Bồ đề, dựng bè công đức. Thúc đẩy làm điều thiện coi là vui nhất cùng góp sức hoàn thành.

Gác chuông, Thượng điện cao ngất, Tiền đường nguy nga. Bên ngoài có hành lang dài, bên trong có lầu gác cao. Bên trái có đền thờ Thánh linh ứng, bên phải có cửa đình đông vui. Ai đến cầu nguyện, đều linh ứng, Âm phù đất Việt, dương báo phúc lành. Ở lòng, ở thân, ở con, ở cháu đều thấm nhuần công đức lợi lạc mà từ nhà ra nước tới thiên hạ cùng thấy cảnh Bồ đề sáng sủa. Khéo tạo nhân duyên được lâu dài mãi.

Nguồn: T12, tập 6, N05891-2, tr.892; V8, tr.214-219; V11, tr.302-305

        NĂM 1583 (QUÝ MÙI)

        Ngày 26 tháng 3 (6 tháng Hai – Quý Mùi)

 351. Nhiều người họ Dương hưng công tu tạo chùa Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc tự bi/ Tín thí do Phùng Khắc Khoan soạn, dựng tại chùa Vĩnh Phúc, xã Tín Chỉ, tổng Phú Hà, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Tín, Thọ Xuân – Thanh Hóa) cho biết:

“Chùa Vĩnh Phúc vốn là chốn danh lam thuộc đất Yên Trung, huyện Thụy Nguyên, được xây dựng từ triều trước, nhân dân cầu đảo đều vô cùng linh ứng. Sau này, tuy trải binh đao, nhưng hương hỏa thì vẫn hưng thịnh như xưa.

Nay có vị Trưởng lão ở xã Diêm Phố, huyện Thuần Hựu, phủ Hà Trung là Bùi Tất Thắng và các sãi có thiện duyên là Mai Đăng Đệ, Đồng Văn Hoa cùng nhau phát tâm Bồ đề, kêu gọi các danh gia, thiện tín trong thôn, cung tiến tài vật, xây dựng lại ngôi chùa mới trên nền chùa cũ. Bắt đầu khởi công từ tháng Chín năm trước, sau vài tuần chùa xây dựng đã hoàn thành. Lại tạc sáu pho tượng Phật, tuy chưa được tráng lệ như xưa, nhưng ở trong cửa rừng công đức cũng đã khơi dậy được điều thiện tâm “trưởng thiện tiêu ác” của người đời vậy.

Bèn đến xin ta làm bài văn để lưu truyền mãi mãi”.

Vợ chồng ông bà Dương Thọ Sơn, bà Dương Thị Mông cùng dân làng công đức tu tạo chùa.

Nguồn: T16, tập 1, tr.67-76.

        NĂM 1585 (ẤT DẬU)

        Ngày 20 tháng 3 (20 tháng Hai – Ất Dậu)

 352. Tín vãi Dương Ám công đức tạo tượng Phật chùa Phúc Khánh

Phúc Khánh tự tạo phật bi do Nguyễn Tập Hy soạn văn bia dựng lại chùa xã Bồng Lãng, tổng Do Nghĩa, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Sơn Vi, Lâm Thao – Phú Thọ) ghi lại việc hai xã Bồng Lãng, Lãng Thị tạo tượng như sau:

“Thường nghe: chùa là nơi thờ Phật, sở dĩ để chúc thọ Thánh đế, để tích tụ phúc hương ấp. Chùa làng trang nghiêm, nhưng tượng chưa hoàn bị. Lúc này, đạo đã đắc được chân pháp, có thể noi theo cổ xưa. Luôn ra tay phương tiện, rộng mở cửa tứ mã, ngày vun trồng âm đức, bẻ được cành quế năm chi. Nay muốn nối dài hậu duệ, cần noi gương theo tiên hiền.

Vào ngày 20 tháng Hai năm Ất Hợi, tín vãi Tì khâu Nguyễn Công Khanh, Lê Trọng Viễn, Lê Trí Viễn, Nguyễn Hiến, Nguyễn Tô, Lê Trọng, Nguyễn Tập, Lê Hữu Hằng, Lê Hữu Bang, Đỗ Vũ, Bùi Đình Chỉ, Bùi Đình Cương, Nguyễn Văn Hiển, Dương Ám, Lê Quang Bí, Lê Sĩ Trung, Lê Duy Năng, Bùi Sư Triết, Lê Ngọc Miễn, Lê Trọng Tùy, Nguyễn Cảm, Lê Đức Tú, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu, Lê Văn Ứng, cùng tu tạo 7 pho tượng Phật. Công việc hoàn hảo. Làm được việc này nhờ phương sách lớn. Người công đức ắt được phúc thọ, an khang. Do vậy ghi lại”.

Nguồn: T12, tập 8, N07692-3; V11, tr.361-364.

        NĂM 1586 (BÍNH TUẤT)

        Mùa xuân

 353. Nguyễn Thế Thủ thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc

Khoa thi này, nhà Mạc cho Nguyễn Giáo Phương đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Phạm Minh Nghĩa 3 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Văn Tảo 17 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Nguyễn Thế Thủ, con trai của Nguyễn Hoành Xước – cháu Nguyễn Duy Tường dòng dõi Đào Sư Tích ở Lý Hải – Yên Lãng, làm quan đến Tham chính, sau theo về nhà Lê.

Nguồn: Đ4, tr.871; C1, tr.499.

        Ngày 30 tháng 11 (20 tháng Mười – Bính Tuất)

354. Giám sinh Quốc tử Giám Dương Như Thiết làm Hội chủ trùng tu chùa Phượng Tường

Phượng Tường tự do Tiến sĩ Lê Hạng soạn, dựng tại chùa xã Kiên Cương, tổng Kiên Cường, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc) đã ghi danh toàn bộ những người công đức đợt trùng tu do Dương Như Thiết làm Hội chủ.

Đồng thời, vẫn Tiến sĩ Lê Hạng, tác giả văn bia Phương Tường tự bi ký soạn cùng thời điểm cho biết, chùa Phượng Tường danh lam huyện Bạch Hạc trở thành cổ tích, sau nạn binh đao. Nay được khôi phục lại. Tuy việc tu bổ đã thành, nhưng quy mô chưa hoàn bị. Việc tu bổ ấy tất chờ phương sách lớn, lực lượng lớn đảm nhận vậy. Tì khâu bản chùa pháp hiệu là Mậu Thiền, tự Đức Tâm và thái ông lão bà, thiện nam tín nữ vùng phụ cận thờ Phật thành tâm, vui làm việc thiện, bỏ tiền góp gỗ, mời thợ khởi công làm thượng điện, lại dựng tiền đường, xây thềm đá. Quy mô hơn cũ. Bày tượng điểm nhãn, sửa sang diện mạo. Rồi lại mua 2 sào ruộng cúng làm của Tam bảo, sửa đặt pháp hội, tạo khắc bia đá. Thật là nền phúc cao đầy, quả thiện viên mãn. Công đức như vậy khôn lường, lưu truyền mãi mãi. Bèn khắc hết thảy họ tên ra đây.

Nguồn: T12, tập 5, N04368-9; tập 15, N014288-9 ; V8, tr.260-263 ; V11, tr.371-374.

        NĂM 1587 (ĐINH HỢI)

        Ngày 27 tháng 4 (20 tháng Ba – Đinh Hợi)

 355. Nhiều người họ Dương cung tiến tiền của sửa chùa Sùng Ân

Văn bia do Tô Quý Kê soạn, cho biết, chùa Sùng Ân thuộc xã Phú Kê, tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Phú Kê, Tiên Lãng – Hải Phòng) vào năm đó tạo mới phật đá, sơn sửa lại các pho tượng cùng với chùa gác. Các ông bà Dương An Lương (Kỳ Vỹ), Dương Thôi Tự, Dương Thị Bộ (Tuấn Vĩ) cùng hàng trăm tín vãi dã hưng công vào việc trên.

Nguồn: V6, tr.42-57.

        NĂM 1589 (KỶ SỬU)

        Tháng 11 (tháng Mười – Kỷ Sửu)

 356. Dương Luân, Dương Tông thi đậu Đệ tam Tiến sĩ nhà Mạc

Khoa thi này, Mạc Mậu Hợp tổ chức vào tháng Mười, mùa đông năm Quang Hưng 12 lấy 17 người trúng tuyển.

Dương Luân, người Khê Triền (còn gọi là làng Chiềng, sau đổi là Trịnh Xuyên) tổng Đông Cao, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Nghĩa An, Ninh Giang – Hải Dương), sau theo về nhà Lê, làm đến Hiến sát sứ. Dương Tông người xã Linh Quang, tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Khai Quang – thành phố Vĩnh Yên), cháu nội của Dương Đức Giản, sau theo về nhà Lê, làm đến Thị lang.

Nguồn: Đ7, tr.350; C1, tr.301-303; T29, tr.77.

        Trong năm

 357. Địch Vũ bá Dương Khắc Quang đóng góp vào việc hưng tạo quán Tiên Phúc

Tiên Phúc quán bi do Bùi Thuần Phu soạn năm Đoan Thái 4 (trên thực tế phải là năm Hưng Trị thứ hai nhà Mạc vì kết thúc năm Đoan Thái thứ 2, tức hết năm 1587 nhà Mạc đổi gọi là Hưng Trị thứ nhất từ đầu năm 1588), dựng tại quán xã Thượng Chiểu, tổng Thượng Chiểu, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Tân Dân, Kinh Môn – Hải Dương) ghi rằng:

“Thường nghe chữ quán được tạo bởi chữ quan và chữ sá. Có các loại nhị quán, tam quán, tứ quán và lục quán là do người xưa đặt ra vậy. Nay nhìn quán này: vẻ kỳ tú tự nhiên như được tô vẽ, khí đất chung đúc linh thiêng. Mạch nước Kiệt Sơn một dòng đổ về, đỉnh Tú Lĩnh gối sau cao thẳm, dòng Hán Xuyên ba chi hội tụ, dải Ngân Hà đối mặt trong xanh. Nước triều lên, thuyền qua lại, cảnh tượng thật trù phú. Quả là một nơi tráng lệ bậc nhất của xứ Hải Dương, điểm tô cho ấp ta vậy. Bậc trí giả đi về hội họp, tiệc sen bày đẹp, chén vàng rượu ngọt, hết đỗi mừng vui lúc tương phùng, áo gấm hương đưa. Ngày mở hội, đường rộng, ngựa xe nhiều như chất đống. Kẻ sĩ về triều, thương nhân ra chợ, hết thảy rạng rỡ. Ngư dân thả lưới, mục đồng chăn trâu hết đỗi mừng vui. Bởi chưng cảnh vật nơi đây vô cùng tươi đẹp. Thực là thắng địa xứ Kinh Đông, độc nhất vô nhị vậy. Khi ấy có Thân Vương thường hay ngự tới, cùng Vương Phi hàng ngày qua lại, nên quán này mới được như vậy. Mấy ai lại không thành kính đến thăm: khiến cho tên quán càng hiển danh, di tích càng rạng rỡ.

Từ xa xưa, cổ nhân đã đến đây xây dựng, nhưng lâu ngày hư hỏng. Nay Thượng Quận chúa phát lòng thiện, bỏ tiền của, quyên tập chúng sãi, cho mời thợ về khởi công dựng quán vào năm Mậu Tý. Nhân nghĩa thêm rạng, đạo đức càng ngời, quy mô rộng lớn, chế độ mới tươi. Ngay cáo thành, ai nấy đều thấy công đức này lớn cùng trời đất, cao tày núi non. Được phúc lộc do Hoàng thiên ban dáng thì tuổi thọ kéo dài, cháu con đông đúc, phú quy nhường bao. Có được như vậy cũng chính là từ việc làm thiện ở đây vậy, Vì thế khắc lên bia đá để lưu truyền muôn đời.

Văn bia có ghi danh Địch vũ bá Dương Khắc Quang.

Nguồn: T12, tập 5, N04092; V8, tr.283-287; V11, tr.405-409.

        NĂM 1590 (CANH DẦN)

        Ngày 24 tháng 3 (19 tháng Hai – Canh Dần)

 358. Người họ Dương đóng góp vào việc dựng lại chùa Cam Lộ

Cam Lộ tự bi ký do Quốc tử sinh Dương Chuân, người xã Trình Viên, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Phú Túc, Phú Xuyên – Hà Nội)soạn. Văn bia cho biết:

“Chùa Cam Lộ ở xã Đường Hoàng Trung huyện Phú Xuyên là một danh lam. Chùa gần làn nước, lâu đài được ưu tiên ánh sáng riêng một cõi trong thế giới ba nghìn, hướng về mặt trời, hoa cỏ biếc tựa tiết xuân. Thật là cảnh đệ nhất của nước Việt Nam. Bụi bặm ở ngoài đời đều rũ sạch, thần tượng bên trong cùng sáng tươi. Thân thoát ra cảnh tục phàm như trúc thiêng mang dấu tích của Phật. Từ vô thành hữu, từ không thành sắc. Người cầu cúng thường được linh ứng. Quy mô đã lớn, là nơi các sư tăng sớm tối lễ Thánh, thì Kinh điển hàng ngày trì tụng há lại không dâng lễ cung kính sao?

Vào năm Bính Tuất niên hiệu Đoan Thái thứ 2 có vị Tì khưu trụ trì là Lương Hữu Tộ, Thích hiệu Pháp Thông và Kinh chủ Nguyễn Lệ, hiệu Phúc Ân, Trần Ngọc Toản hiệu Phúc Thọ, Đào Cao hiệu Phúc Long… cùng phát tâm tứ vô lượng, muốn gieo trồng quả phúc tương lai, bèn trước bỏ tiền của gia tư làm gương khuyến thiện rồi phổ khuyến các thiện nam tín nữ cùng mở rộng lòng quyên cúng độ kinh, mời thợ chọn gỗ, lượng khắc kinh, sao thành bản mới… Công gọt đũa, tay nghề cao, mực thước tốt, mượn tay bút khéo khắc lên gỗ thị đẹp đẽ, xếp thành tập gồm 10 chương để ban phát cho tăng đồ. Đó chẳng phải là cùng mọi người vui mừng hưởng ân huệ đến muôn đời sau mà vẫn còn sáng rạng sao?

Than ôi, thật tốt đẹp thay! Di cảo hoàn thành, công đức viên mãn, để lại nơi lan đài, thạch thất. Mọi người lại có ý muốn nhờ tôi viết bài tựa ghi lại việc tốt đẹp ấy để lưu truyền mãi mãi về sau.

Mặt sau bia lại ghi chùa Cam Lộ thuộc xã Đào Xá (nay thuộc xã Hoàng Long, Phú Xuyên – Hà Nội) như sau:

“Ôi, chùa Cam Lộ xã Đào Xá vốn là am cũ: Bên trái có sông Tô Lịch bao quanh, bên phải có gò cao uốn lượn; quán chợ la liệt ở trước, nhà cửa đông đúc phía sau. Thật là nơi đất linh, sản sinh hào kiệt. Vào triều vua Trần Minh Tông thuở trước có Nghiêm Trúc Linh thiền sư bỏ công xây dựng tượng Hộ pháp đặt ở hàng trước đã hoàn hảo như hiện tại. Sớm tối thắp hương chúc Thánh, hương thôn khang thịnh thái hòa. Nhưng bỗng gặp buổi binh đao, điện thờ hư hỏng, tượng Phật đỗ nát (…). Nay thái ông lão bà đứng ra dựng chùa (…)”.

Văn bia ghi danh ông Dương Văn Huy góp phần công đức với nhà chùa.

Nguồn: V8, tr.318-322; V11, tr.466-471.

        TRONG NĂM

 359. Thơ vịnh của Nguyễn Duy Tường, Dương Trực Nguyên được tuyển vào Khiếu Vịnh thi tập

Khiếu Vịnh thi tập do Thượng thư Lễ bộ nhà Mạc Hà Nhậm Đại sưu tầm và biên soạn – trong đó có bài Hý tường thi của Nguyễn Duy Tường như sau:

“Khoa đệ trùng đăng tứ hải văn

Quyên sinh nghĩa khẳng phụ vi thần

Tử tôn tích thế đăng nho tuyển

Thiên lý chiêu chiêu hiển tại nhân”

(Khoa bảng hai lần danh bốn biển,

                  Sống vì nghĩa chẳng ngại trung thần.

                  Con cháu đời đời khoa giáp bảng,

                  Lẽ trời rực rỡ tại hiền nhân).

Về Dương Trực Nguyên, Hà Nhậm Đại ghi: ông người xã Thượng Phúc huyện Thượng Phúc, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490), làm quan tới chức Ngự sử đài Đô Ngự sử. Niên hiệu Đoan Khánh, ông cùng với Nguyễn Văn Lang cầm quân trấn thủ địa phận Sơn Nam. Trực Nguyên chiến đấu ở vùng Châu Cầu. Ở đây ông đã tử trận cùng với Phạm Thịnh, Trần Năng.

Con ông là Dương Đính, đỗ Tiến sĩ dưới triều Mạc [trong danh sách các nhà khoa bảng lại ghi là Dương Hạng].

Sau khi Trực Nguyên mất, rất linh ứng nên được lập đền thờ như thần. Có thơ vịnh rằng:

“Lang tử Văn Lang nhất thú cầm

Ô Đài đài trưởng báo ân thâm

Châu Kiều kiều thượng hành nhân quá

Thùy thức đương niên tiết nghĩa tâm”.

(Chồn xứ Văn Lang loài thú cầm,

                  Chốn Ô Đài biết báo thâm ân.

                  Cầu Châu Kiều mấy người qua lại,

                  Ai biết nay người tiết nghĩa tâm).

Nguồn: T14, tr.358-361.

        NĂM 1591 (TÂN MÃO)

        Tháng 9 (tháng Tám – Tân Dậu)

 360. Vợ chồng bà Dương Thị Yên và gia đình cung tiến ruộng đất để mở hội

Nghênh Phúc bi ký dựng tại đình xã Lam Cầu, tổng Tông Đức, huyện Gia Lộc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Phạm Trấn, Gia Lộc – Hải Dương) ghi:

Vào những năm Hoàng triều Cảnh Lịch (1548 – 1553) thôn Đông Tây, ấp Lam tạm mở hội tiệc xuân ở xứ Ngõ La, chưa được ổn định.

Nay quan viên Nguyễn Văn Cự có ruộng mới đổi và ruộng mới mua gồm 10 sào 10 thước; đông giáp đường nhỏ, tây gần ruộng xã, nam gần ruộng chùa, bắc giáp đường lớn. Ông ủy thác cho gia đình cúng ruộng đó làm nền cầu đình Nghênh Phúc. Những mong lưu truyền muôn kiếp để cùng hưởng theo.

Hễ ai trí trá, quên báo đáp, cậy trông Thiên thần, Thỏ địa chiếu xét. Nay nhân đó khắc bia ghi lại đầy đủ nguyên do để truyền về sau.

Toàn gia tín chủ cùng chức danh kê ra sau đây:

Trí sĩ Nguyễn Văn Cự, Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1577) chức Gia hạnh đại phu, Thừa tuyên sứ Thừa tuyên sứ ty đạo Kinh Bắc.

Cha là Tham Nghị, hiệu Đạo Long, được phong là Hiển cung Đại phu. Mẹ hiệu Từ Giáo, phong là Thận Nhân. Vợ cả Phạm Thị Ngọc Viên, phong là Nghi Nhân, vợ lẽ Dương Thị Yên. Con trai cả Nguyễn Văn Hưng. Con gái cả Nguyễn Thị Ngọc Lễ. Con trai thứ Nguyễn Văn Khoa và Nguyễn Thị Huệ.

Nguồn: V11, tr.480-481.

        Tháng 10 (tháng Chín – Tân Mão)

 361. Tín thí Dương Bá Lai cung tiến trùng tu chùa Trịnh

Trịnh tự bi ký do Tiến sĩ Trần Đình Tuyên soạn, dựng tại chùa Trịnh Quang, xã Đồng Quỹ, tổng Bái Dương, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Nam Tiến, Nam Trực – Nam Định) ghi rằng:

“Trước ngày ở hương Đồng Quỹ, lí Tây Chân, lộ Thiên Trường có chùa Trịnh đã là cổ tích. Chùa ở giữa ranh giới dân cư hai thôn, đường thông bốn ngả. Phía trước có dòng chảy quanh co, phía sau là hoa cỏ tốt tươi, giếng nước xanh ngọt, thật là thắng cảnh chốn tùng lâm vậy. Trải qua nạn binh hỏa, pháp luân vẫn luôn chuyển, nhưng chỉ còn nền cũ. Một thời thái hòa bị ngưng trệ, tất sẽ được hưng khởi. Muốn sửa sang, làm mới, muốn phần hư hại được khôi phục lại, thì hẳn phải chờ có cơ hội trung hưng.

Nay gặp Thánh Thiên tử mong mỏi giang sơn được khôi phục, đất nước thêm mới tươi, phế lại hưng, chấn chỉnh tệ đoan, ban phúc cho dân. Có phúc lớn đó, cùng lực lượng lớn đó thì ích lợi lớn lao, gặp thời vận lớn lao vậy.

Nhân đó ở thôn Đại xã Đồng Quỹ huyện Tây Chân có Khang Phủ bá Đỗ Bá Lịch là tín sãi có phúc lớn, được nhờ phúc lớn của dân, được vui hưởng ân huệ của trời. Lại có lòng Bồ đề, đã quyên góp gia tài, thu tập đàn na, mời thợ về xây dựng. Thợ vung dùi phạt mộc, nhờ thần trợ giúp mà chẳng mấy đã thành. Từ không thành có, từ không thành sắc, mà lâu đài tráng lệ, tượng pháp bảo tòa nguy nga. Ông cúng đồng tốt phúc đáp khí để thức tỉnh lệ tục, giải thoát tâm cơ. Lại làm trụ cầu đá giúp xe cộ đi lại thuận lợi. Công việc viên thành chở che quả phúc Niết bàn, cứu độ từ hàng. Như vậy thì ngày ngày vi ca bố thí mà gieo thành nền thiện Bát nhã để lấy thiện duyên này mà khôi phục ngôi chùa cổ tích từng rất linh ứng này”.

Tham gia vào việc công đức còn có hàng trăm dân làng, trong đó có Tín thí Dương Bá Lai.

Nguồn: V11, tr.556-562.

        NĂM 1597 (ĐINH DẬU)

        Tháng 9 (tháng Tám – Đinh Dậu)

 362. Dương Văn Cán và các tướng thổ trước cũ của nhà Mạc chống lại triều Lê Trung hưng

Năm 1592, sau khi mở cuộc tấn công quyết định vào Thăng Long, đánh tan quân Mạc, về cơ bản kết thúc cục diện Nam – Bắc triều, Trịnh Tùng xưng chúa, xây dựng Vương phủ, thâu tóm trong tay mọi quyền hành và biến vua Lê thành bù nhìn. Thời gian này, Nguyễn Hoàng đem tướng sĩ ra yết kiến vua Lê, được sai đi đánh dẹp các dư đảng của nhà Mạc ở các vùng Sơn Nam, Hải Dương, Sơn Tây, Thái Nguyên… và lập được nhiều chiến công. Sự biến đổi của tình thế và vai trò nổi trội của Nguyễn Hoàng ở khắp cả trong Nam, ngoài Bắc đã làm cho mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Trịnh – Nguyễn phát triển đến mức không thể dung hòa được nữa.

Mặc dù phạm vi kiểm soát của nhà Mạc bị đẩy lùi ở vùng đồng bằng nhiều vùng thuộc Kinh Bắc, các thế lực địa phương vẫn ngả theo vương triều cũ. Vào tháng 9-1597, tướng thổ trước huyện Đông Ngàn là Thuần Quận công Trần Đức Huệ và con là Trần Đức Trạch tự xưng là Sầm Quận công kêu gọi đứng dậy, cùng với tướng thổ trước huyện Yên Thế là cha con Thế Quận công Dương Văn Cán, đều đem con em đêm trốn đi theo cha con họ Trần Tiết chế Trịnh Tùng chia quân sai con là chưởng Cẩm y vệ Hùng Lương hầu Trịnh Đào đi đánh, khiến cho Trần Đức Trạch, Dương Văn Cán phải đem con em chạy xa.

Bấy giờ nhân dân tứ chiếng bị làm phiền về việc cắt cỏ voi, lại bị người sở quản quấy nhiễu, dân khổ không chịu nổi, nhiều người đi theo tướng cũ của nhà Mạc.

Tháng 11-1597, tướng thổ trước ở Hải Dương là Thúy Quận công (không rõ tên) người huyện Thủy Đường, Lễ Quận công (không rõ tên) người huyện Nghi Dương, đều đem quân bắt người cướp bóc ở các huyện xứ Hải Dương, đánh úp giết chết tướng Tuần thủ là Huê Kiều hầu (không rõ tên) và huyện quan bản huyện. Lại có anh em Quỳnh Quận công và Thụy Quận công (đều không rõ tên) ở huyện Tân Minh tụ họp cùng liên kết với Thủy Quận công, Lễ Quận Công, có đến vài nghìn quân. Nhân dân các huyện xứ Hải Dương sợ tàn ngược đều phải thuận theo. Tháng 12-1957, Tiết chế Trịnh Tùng sai Đô đốc đồng tri Hào Quận công Nguyễn Miện, Mỹ Quận công Bùi Văn Khuê, Kế Quận công Phan Ngạn đem thủy binh với 50 chiếc thuyền đến Hải Dương đánh phá. Nguyễn Miện một mình tự kiêu khinh địch, cho là bọn giặc tàn không đáng lo, không bàn kế với các tướng, thân đem 4 chiếc binh thuyền bản bộ, khinh suất xông thẳng vào trong trận. Hào Quận công sai bắn súng lớn vào. Lễ Quận công bị đạn chết ở trong thuyền. Lính ở trong thuyền ấy mặc áo của Lễ Quận công thúc quân đánh bừa, lại đâm chết được Hào Quận công ở trong trận. Hai quân đánh giết lẫn nhau, quan quân bị chết cũng đến hơn 80 người, quân lính đều chạy. Gặp quân của Bùi Văn Khuê tiếp đến, lực lượng nổi dậy bỏ thuyền lên bờ chạy tan. Văn Khuê lấy được thủ cấp của Nguyễn Miện rồi về. Sau Văn Khuê lại đem quân đi tìm, lấy được thủ cấp của Lễ Quận công đem về Kinh nộp, sai đem bêu 3 ngày. Tiết chế Trịnh Tùng thưởng cho Văn Khuê 10 cân vàng, thăng Thiếu bảo.

Nguồn: Đ4, tr.903.

        NĂM 1598 (MẬU TUẤT)

        Ngày 5 tháng 10 (6 tháng Chín – Mậu Tuất)

 363. Dương Văn Cán cho vợ mang lễ vật về Đông Đô xin quy phục

Tháng 1-1598, Trần Đức Trạch chết trận ở Đại Từ (Thái Nguyên), tàn quân cũ của nhà Mạc bị đánh tan tác khắp Hải Dương, Sơn Tây, Yên Quảng và Kinh Bắc. Trong hoàn cảnh thế cô, lại bị bao vây tứ phía, lương thực và thuốc men thiếu thốn, đầu tháng Chín – Bính Tuất, Dương Văn Cán mới từ Tam Đảo – Đại Từ (Thái Nguyên) trở về Yên Thế đã sai vợ mang hai con voi bắt được của quân triều đình hồi tháng Chạp – Đinh Dậu (101598) cùng 2 con trâu về tận Đông Đô xin hàng phục. Vua y cho, sai về gọi chồng ra thú thì được tha tội.

Nguồn: Đ4, tr.904-906.

        Ngày 15 tháng 11 (17 tháng Mười – Mậu Tuất)

 364. Dương Văn Cán chính thức đầu hàng tại Đông Đô, tàn quân Mạc bị đẩy lùi ở nhiều nơi

Dù đã sai vợ về Đông Đô và được chấp nhận cho quy thuận nhưng đã quá thời hạn hàng tháng mà Dương Văn Cán chưa có động tĩnh gì, ngày 11-11-1598 Tiết chế Trịnh Tùng dâng biểu tâu sai Hữu tướng Hoàng Đình Ái thống lĩnh quân và voi cùng với Thái bảo Trịnh Đồng, Thiếu bảo Trịnh Bách, Đô đốc Lê Văn Hoan, Chỉ huy sứ Trần Tộ đem hơn 1 vạn quân đi đánh dẹp ở Lạng Sơn; Hữu thị lang Binh bộ là Nguyễn Vĩ làm quan Đốc thị; Thái phó Trịnh Đỗ thống lĩnh quân và voi cùng với Thạch Quận công Vương Trân, Thao Quận công Trần Chân, Tổng binh Thái Nguyên là Đức Trạch hầu Lại Thế Quý, đem quân đi đánh dẹp ở Thái Nguyên; Thanh Quận công Đặng Kính, Giao Quận công Nguyễn Hữu Giai đi đánh dẹp ở các huyện Sơn Dương, Đương Đạo; Bạt Quận công Phạm Doãn Sinh trấn giữ các nơi quan yếu ở phủ Lâm Thao để yên dân hạt Hưng Hóa.

Trước sức ép đó, ngày 15-11-1598, cha con Thế Quận công Dương Văn Cán tự về Đông Đô hàng phục. Ngay sau đó châu Định Hóa ở Thái Nguyên được Tổng binh đồng tri Dũng Quận công Hà Ích đem quân chiếm lại. Ngày 3-12-1598 (6 tháng Một – Mậu Tuất), Hoàng Đình Ái đến thành Lạng Sơn, sai Đô đốc Lâm Quận công Trần Phúc đem hơn 1.000 quân đánh phá châu Thoát Lãng. Bấy giờ quân của Mạc Kính Cung rải từ Long Châu đến Thất Tuyền, chống đánh. Trần Phúc tung quân ra đánh, chém được con của Vạn Quốc công, bắt được vợ con và đồ đảng, đốt dinh trại, thừa thắng đuổi dài thẳng đến dinh của Kính Cung. Kính Cung sai Phúc Vương đem vợ con lương thực chạy trước vào giữ Long Châu, đến nửa đường gặp phục quân của con trưởng Trần Phúc là Tráng Nghĩa hầu Trần Thiết nổi dậy đánh. Phúc vương và quân lính tranh nhau cướp đường chạy vào Long Châu. Trần Phúc sai thu quân về Lạng Sơn, cùng với Hữu tướng Thái úy Vinh Quốc công bàn trở về Kinh, đem con trai của Kính Cung dâng nộp.

Lợi dụng tình thế Trịnh Tùng lấn bấn, tháng 11-1600, nhân việc được điều đi đánh Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê ở cửa biển Đại An (Nam Định), Nguyễn Hoàng lại “đem cả tướng sĩ, thuyền ghe bản bộ, đi đường biển thẳng về Thuận Hóa, để Hoàng tử thứ năm là Hải và Hoàng tôn là Hắc ở lại làm con tin”.

Trở lại Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng quyết định dời dinh về Dinh Cát, đẩy mạnh việc xây dựng chính quyền riêng, chỉ nghĩ đến việc vừa lo phát triển kinh tế vừa lo củng cố quyền thống trị để thoát ly sự lệ thuộc vào họ Trịnh. Dần dần khu vực Thuận – Quảng trở thành vùng đất cát cứ của họ Nguyễn.

Nguồn: Đ4, tr.907-908.

        NĂM 1601 (TÂN SỬU)

        Trong năm

 365. Dương Lễ thi đậu Giải nguyên

Ông còn có tên là Dương Cẩn hoặc Dương Định, con trai của Dương Bảng, người làng Quỳnh Đôi, tổng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn Châu, trấn Nghệ An, đỗ đầu kỳ thi Hương khoa Tân Sửu nhưng dự 3 kỳ thi Hội chỉ trúng Tam trường. Không làm quan, ở lại quê dạy học.

Nguồn: H3

        NĂM 1606 (BÍNH NGỌ)

        Ngày 25 tháng 3 (17 tháng Hai – Bính Ngọ)

 366. Dương Nhân Lực, Dương Văn Luyện công đức trùng tu chùa Phúc Nương

Hưng công / Trùng tu Phúc Nương tự bi do Tiến sĩ Nguyễn Thạc Đức soạn, tạo năm Hoằng Định 7, dựng tại chùa Yên Thị, xã Yên Thường huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn đạo Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội), ghi:  văn bia ghi:

Các vị quan viên, trưởng làng cùng toàn thể nhân dân thôn Yên Thị trộm thấy, Phúc Nương tự là nơi thắng địa của đất Đông Ngàn, có núi non tạo vật bất biến, hình thế giống như hổ ngồi, thế nước hữu tình uốn lượn xung quanh như mình rồng bao bọc, phía nam có dải châu ngọc hội về, phía bắc, ngắm nhìn kỹ đều là khí chung anh hun đúc, người thiêng vật lạ, chư phật báo ứng, phúc ở nơi tụ họp, lộc ở chốn đạo pháp, cúng dàng có 5 mẫu đất ao đã được ghi chép trước đây. Nước Việt ta trải qua nhiều triều đại, sử sách và nền móng cũ vẫn y nhiên tồn tại, người lương thiện sao có thể bỏ được công việc đang làm? Như Tán trị Khai quốc công thần Thái sư Lương Quốc công Trung Dũng Vương Lê Thạch là tín thí, tích phúc nhiều như hằng hà sa số. Bảo Chính Suy trung Đoan nhã Tán Trị khai quốc công thần Thái úy Tán Quốc công Mục Chiêu Trưng Vương Lê Khôi trùng tu, tích phúc lớn lao như ngọn núi cao vời. Đến Thiếu bảo Vạn Quốc công Lê Quốc Trinh thi hành đại pháp, phát tâm khởi dấy lòng thiện, lập ranh giới ở bốn phía xa gần, dâng ruộng làm hương hỏa, cúng hoa quả, dâng hương…, cái thiện tỏa đến muôn đời con cháu, gìn giữ điều phúc lộc đến vô cùng, thọ khảo vô cương. Lại thấy Tiền Thiếu úy Bản quận công cũng tuân theo giáo pháp giữ nguyên mức thuế ruộng, tín cẩn tuân theo người trên thì cớ sao người dân ở dưới không thể hâm mộ và noi theo?

Nay trưởng thôn Yên Thị xã Yên Thường là Bùi Kim Lũ cảm thấy lo lắng rằng tai nghe không bằng mắt thấy, chiếu cáo chẳng bằng có phương cách. Bèn cho khắc vào bia đá để lưu truyền lại cho các thế hệ tương lai”.

Bia đã ghi danh hai ông Dương Nhân Lực, Dương Văn Luyện cùng hàng trăm người phát tâm hưng công.

Nguồn: T12, tập 3, N02514-15; T21, tr.91-98.

        NĂM 1611 (TÂN HỢI)

        Ngày 2 tháng 5 (20 tháng Ba – Tân Hợi)

 367. Nghĩa Khê hầu Dương Thúc soạn Trùng tu tạo tác/ Thánh thượng tiền triều/ Lê Đại Hành Hoàng đế/ Bi ký tịnh minh

Bia được tạo vào năm Hoằng Định 12 (1611) đặt tại đền thờ Lê Đại Hành ở Trường Yên (Hoa Lư – Ninh Bình) nhằm hết sức đề cao thánh tích và ca ngợi công đức của Lê Đại Hành Hoàng đế, Bảo Quan Hoàng Thái hậu và Ngọa Triều Hoàng đế. Nay chúa Bình An Vương nghĩ rằng xã Trường An Hạ là đất hưng vương của triều Tiền Lê, tưởng nhớ công đức của người xưa đã lệnh cho tu tạo điện vũ để phụng thờ. Tháng Sáu năm Tân Hợi (1611) hưng công làm các pho tượng vua Lê Đại Hành. Nay làm bài ký ghi lại việc này, ghi họ và tên chư vị thiện tín đã cúng tiến tiền của để trùng tu điện thờ và tạc tượng, gồm có các quan như Đặc tiến Phụ quốc Tướng quân Phong Quận công Bùi Thời Trung.

Nguồn: T12, tập 16, N015859-62; V12, tr.672-674.

        NĂM 1617 (ĐINH TỴ)

        Ngày 18 tháng 6 (16 tháng Năm – Đinh Tỵ)

 368. Con cháu Đô đốc Dương Giám dựng bia về việc dân làng Đồng Khê bầu ông làm Hậu thần

Đồng Khê xã đình bi được tạo dựng ngày 16 tháng Năm – Đinh Tỵ, niên hiệu Hoằng Định 18 (1617) cho biết, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Bắc quân Đô đốc phủ Tổng binh sứ Bái Dương hầu Trụ quốc Dương Giám ban 2 sào đất tư ở cửa đình cho dân làm đình và làm chợ. Quan viên, dân làng tôn bầu ông làm Hậu thần. Hàng năm các lễ nhập tịch cầu phúc ông đều được phụ tế tại đình, lễ xong đều có kính biếu. Khoán ước đã lập nhưng chưa kịp dựng bia, nay con cháu là Dương Tranh, Dương Thị Thạc đã thuê thợ khắc bia để lưu truyền cho hậu thế.

Nguồn: T12, tập 13, N012305-06; V12, tr.124.

        NĂM 1618 (MẬU NGỌ)

        Ngày 5 tháng 10 (17 tháng Tám – Mậu Ngọ)

 369. Sinh đồ Dương Minh Đạo soạn Thí điền thị bi ký

Bia dựng tại đình xã Vĩnh Duệ, tổng Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Đồng Quang, Gia Lộc – Hải Dương) ghi nhận Trùm lão Đặng Viết Hiền người bản thôn và vợ là Đào Thị Khuy đã cúng 4 mẫu ruộng cho thôn để làm chợ. Dân thôn cam kết sẽ cúng giỗ vợ chồng ông mãi mãi. Bia ghi vị trí diện tích ruộng. Có bài minh, họ tên những người ký nhận.

Nguồn: T12, tập 6, N05134-35.

        NĂM 1619 (KỶ MÙI)

        Ngày 14 tháng 4 (1 tháng Ba -Kỷ Mùi)

 370. Dương Trí Trạch thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Niên hiệu Hoằng Định thứ 20 (1619), Bộ Lễ theo điển cũ, tâu xin thi Hội sĩ nhân trong nước. Đặc sai Đề điệu là Tả đô đốc Lễ Quận công Trịnh Sâm, Tri Cống cử là Hình bộ Thượng thư kiêm Đông các Học sĩ Phương Lan hầu Nguyễn Thực, Giám thí là Ngự sử đài Đô Ngự sử Thụy Dương bá Nguyễn Danh Thế, Hộ bộ Tả Thị lang Lương Xuyên bá Phạm Hồng Nho đứng ra trông nom cùng trăm quan chia giữ các việc. Lúc bấy giờ sĩ tử đến Kinh ứng thí đông đến vài nghìn, chọn hạng xuất sắc được 7 người.

Đến khi cào Điện thí, đặc cách ban cho Nguyễn Lại một người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Bùi Cầu 6 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Tất cả 7 người đều được ban áo mũ cân đai, yến tiệc theo y phép cũ, ơn vinh theo thứ bậc, thảy đều theo quy chế, ân điển rất mực trọng hậu. Khoa mục từ đó thành việc thường xuyên, nhân tài theo con đường đó tiến thân, triều Lê ở thời kỳ này lựa chọn được nhiều người nhất. Nhưng lễ trọng dựng bia đá để tên tuổi vẻ vang thì chưa kịp cử hành. Làm việc đó cho rạng rỡ người trước, phấn chấn người sau chính còn chờ ngày nay vậy…

Dương Trí Trạch, người xã Bạt Trạc, tổng Nga Khê, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Nhân Lộc, Can Lộc – Hà Tĩnh), cháu nội của Dương Trí Dụng. Ông làm quan trải qua Bồi tụng, Tham tụng, Thượng thư bộ Lễ, Chưởng Hàn lâm viện sự, Thượng thư bộ Hộ hàm Thiếu bảo, Thượng thư bộ Lại, Quốc lão, Thái bảo, tước Bạt Quận công, từng đi sứ. Khi mất được tặng hàm Thái tể.

Theo Công dư tiệp ký, tại khoa thi này, một người ở xã Đông Khê, huyện Thanh Lâm nằm mơ thấy yết bảng ở đình làng ấy và có hai người trúng cách, đầu bảng là người làng. Người thứ nhất là Huấn đạo Dương Mô, người thứ hai là Giám sinh Nguyễn Tôn Cổ. Người ấy tỉnh dậy đem việc nói cho mọi người biết. Mọi người đều tin chắc khoa ấy Dương Mô và Tôn Cổ thế nào cũng đỗ. Đến khi yết bảng, hai ông ấy đều hỏng. Mọi người lấy làm ngờ, nhưng còn hy vọng sẽ đỗ khoa khác.

Được ít lâu, vùng ấy loạn lạc. Trong số 10 viên Cống sĩ ở trong làng chỉ có hai ông sống sót. Than ôi! Trong khi loạn lạc, mười người còn hai, việc đó đã có tiền định.

Nguồn: V2, tr.245-250; C1, tr.529-530; C6, tr.288.

        NĂM 1620 (CANH THÂN)

        Ngày 31 tháng 3 (28 tháng Hai – Canh Thân)

 371. Dương Bá Hữu viết chữ cho bia bản xã Phượng Dực

Thích Ca tự tu tạo thiết chuyên bi/ Hưng công cập tín thí bi ký do Tiến sĩ Bùi Văn Bưu soạn, dựng tại chùa bản xã, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Phượng Dực, Phú Xuyên – Hà Nội) ghi rằng: các Quan viên, Hương lão và Thiện nam, Tín nữ xã Phượng Dực cùng khách thập phương đã phát tâm công đức tiến cúng tiền bạc để xây bậc thềm đá cho chùa Thích Ca. Ghi họ và tên các vị hưng công, hội chủ và những người đã cúng tiến tiền bạc tu sửa chùa.

Nguồn: T12, tập 6, N011366-67.

        NĂM 1622 (NHÂM TUẤT)

        Ngày 22 tháng 3 (11 tháng Hai – Nhâm Tuất)

 372. Hương trưởng Dương Văn Cơ được ghi danh trong việc hưng công tu tạo chùa Phổ Linh

Phổ Linh tự bi do Tiến sĩ Nguyễn Lai soạn, dựng tại chùa Phổ Linh, phường Tây Hồ, huyện Quảng Đức (nay là làng Tây Hồ, phường Quảng Bá, Tây Hồ – Hà Nội) ghi rằng:

Phật là bậc thánh nhân ở nước Thiên trúc từ xưa chưa từng có. Đến đời Hán Minh đế rước vào Trung Quốc, vẽ tượng Phật ở dài Thanh Lương, lăng Hiển Tiết mà từ đó giáo lý của Phật mới bắt đầu. Trải đến triều Lý – Trần [], lệnh trên ban tín chiếu khắp thiên hạ các nơi danh thắng lập đền dựng chùa. Nhân thế, ở phường Tây Hồ huyện Quảng Đức có danh thắng tên chùa Phổ Linh. Ngắm coi đất ấy Chu Tước phía trước có hồ lớn, Huyền Vũ phía sau có dòng Nhị Hà uốn quanh; tả Thanh Long có đền Đại Bi chống phía nam Nghi Tàm, hữu Bạch Hổ có am Long Ân trấn ở phía bắc Quảng Bố. thế là khí anh linh thuần túy hội tụ vận hành khắp đất trời. Nhỏ thì ở khắp muôn vật, lớn thì hiểu rõ ở nhân tài, quả thật là danh lam đệ nhất trong thiên hạ. Quy mô thì đài vàng nhà báu, lầu các chênh vênh, lương đống điêu khắc tinh xảo huy hoàng. Tượng Phật thì Tam thế Di Đà tòa báu nguy nga ngời sáng. Sừng sững lâu đài uy nghi muôn vạn trượng, ba nghìn thế giới xa hẳn cõi trần. Phàm những điều đảo cầu đều hiển rõ linh ứng. Tuy là chùa cổ ở Quỳnh Lâm, danh lam ở Phả Lại cũng sao hơn được. Trải thời gian binh lửa chiến tranh, rường cột bị gió mưa vùi dập, tượng báu bị dầm nước bi thương. Người người trông thấy cảnh ấy, ai mà không dấy lòng hương hỏa xót xa.

Mừng thay, bản phường ta quan viên hương ấp lớn nhỏ, răn rè nhàn cư, cảm phát thiện tâm. Nên ngày 16 tháng Mười năm Mậu Ngọ (1618), chi tiền của, cầu thợ hay, chọn đất để dựng Phạn cung, điểm tô tượng Phật, bài trí phòng tăng. Chế độ quy mô còn hơn cả thời trước.

Lại ngày 13 tháng Một năm Canh Thân (1620), đại khai một đàn pháp hội lớn. Công ấy đức ấy, khắp dân ấp đâu đâu cũng có. Đúng là âm công đã tích dương báo ắt về. Dưới cội Bồ đề lại rạng ngời hào quang, rừng công đức thấm nhuần ơn huệ. Mừng năm năm thêm phú quý, ngày ngày đón vinh hoa. Lắm phúc như cát sông, khánh thiện lưu dành con cháu.

Hương trưởng Dương Văn Cơ được ghi danh trên tấm bia trên.

Nguồn: T21, tr.116-122.

        Trong năm

 373. Nho sinh Dương Hiến Đạo soạn Tạo Sâm Hạnh tự bi

Bia tạo năm Vĩnh Tộ 4, dựng tại chùa Hạnh Sâm, xã Đông Mô, tổng Nãi Sơn, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc Kiến Thụy – Hải Phòng) ghi việc sai vãi, thiện nam, tín nữ bản xã xây Thượng điện vào năm Đinh Mùi (1607), nhà Thiêu hương vào năm Mậu Thân (1608), mua 1 sào ruộng Tam bảo năm Kỷ Dậu (1609), làm Tam quan năm Canh Tuất (1610), làm Tiền đường năm Bính Thân (1616).

Nguồn: T12, tập 11, N010463.

        NĂM 1623 (QUÝ HỢI)

        Ngày 2 tháng 6 (5 tháng Năm – Quý Hợi)

 374. Nhiều người họ Dương được ghi danh trong việc hưng công dựng đền Mục Thận

Thần tự phụng sự điền bi do Huấn đạo phủ Quốc Oai là Hoàng Du soạn văn bia ghi rõ, trong số các hương trưởng phường Trích Sài, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Bưởi, Tây Hồ – Hà Nội) có các vị Dương Văn Vận, Dương Tất Thành, Dương Đình Thúc, Dương Văn Nguyên, Dương Tất Đình, Dương Thế Khanh, Dương Thế Khoa.

Nguồn: T21, tr.140-142.

        NĂM 1625 (ẤT SỬU)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Ất Sửu)

 375. Trạng nguyên Dương Liên qua đời tại Trung Quốc

Ông hiệu là Đại Hồng, tự Văn Nho, nguyên quán xã Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), rời Đại Việt sang Đại Minh khi cuộc chiến Nam – Bắc triều tuy bước vào giai đoạn cuối nhưng khốc liệt, cư ngụ tại vùng Ứng Sơn. Không rõ ông theo học ở đâu và dự thi khoa nào, chỉ biết sau khi đỗ Trạng nguyên triều Minh Thần Tông, niên hiệu Vạn Lịch (1573-1620), ông làm đến Cấp sự trung rồi thăng Tả phó Đô ngự sử trong thời Minh Quang Tông (1620-1621). Tháng Sáu năm Giáp Tý, niên hiệu Thiên Khải 4 thời Minh Hy Tông (1624) ông dâng sớ Ngụy Trung Hiền – viên hoạn quan gian hiểm, lộng quyền với 24 tội lớn nhưng lại bị nhà vua quở trách và truất chức. Tháng Bẩy – Ất Sửu (8-1625) ông qua đời. Khi Minh Tư Tông lên ngôi, niên hiệu Sùng Trinh 1 (1628), ông được phục chức, truy tặng Binh bộ Thượng thư. Ban thụy là Trung Liệt.

Năm 1718, Chánh sứ Nguyễn Công Hãng khi qua Ứng Sơn được dân bản địa kể nhiều về ông. Năm 1848, sứ thần Bùi Quỹ cũng ghi chép thêm sự tích về vị Trung Liệt, họ Dương ở Đại Việt sang, con cháu đông đúc, phần đông xuất thân văn võ, không ai sống thấp hèn.

Nguồn: H4, tr.42.

        NĂM 1627 (ĐINH MÃO)

        Ngày 25 tháng 11 (18 tháng Mười – Đinh Mão)

 376. Ghi danh bà Dương Thị Thu tại bia chùa Hưng Phúc

Hưng Giáo xã Hưng Phúc tự cổ tích danh lam tu tạo thạch bi dựng tại chùa Hưng Phúc, cho biết xã Hưng Giáo, tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Tam Hưng, Thanh Oai – Hà Nội) có các giáp Khang Tính, Đông Lộc, Đông Truyền, Tây Truyền, Đông Đô, Tây Đô, Tây Tính, Tây Lộc đều có người hưng công đóng góp tu tạo. Lại có rất nhiều hương sĩ, hội chủ góp tiền ruộng, trong đó có bà Dương Thị Thu, người xã Ma Nê, huyện Võ Nhai, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên bỏ tiền mua 1 sào ruộng cúng vào chùa.

Nguồn: V3, tr.40-46.

        Trong năm

 377. Nhiều người họ Dương tham gia hưng công làm cầu, dựng chợ phủ Hà Trung

Bia Trùng tu Phượng Hoàng thị vi kiều, thí Bản Phủ thị, Ngưu thị Vi Tam bảo thị (Sửa chợ Phượng Hoàng thành cầu, chợ Bản Phủ và chợ Trần thành chợ Tam bảo) dựng tại chùa Sùng Nghiêm, xã Duy Tinh, tổng Du Tràng, huyện Phong Lộc, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay thuộc thôn Duy Tịnh, xã Văn Lộc, Hậu Lộc – Thanh Hóa) ghi rằng:

Cầu bắc trên nước là để giúp người dân qua lại, chợ họp giữa ban ngày là để lưu thông của cải trong thiên hạ. Cầu Phượng Hoàng và chợ Bản Phủ giáp ranh ở khu đất cao giữa 2 thôn Vĩnh Phúc và Thuần Hựu, đất cao rộng thoáng, bằng phẳng, là nơi hành khách qua lại, hàng hóa bán buôn, thật là ấp Thang mộc. Từ thời trung đại đến nay thật là chốn đô hội lớn vậy. Cảnh đẹp tinh khôi, phong cảnh có nhiều đặc biệt, giờ sao con người không thể không nảy sinh cảm xúc cho được?

Kính nghĩ! Lão Hoàng Hoàng Thái Hậu, mẹ của Thế Tông Nghị Hoàng đế, là bậc mẫu nghi thiên hạ, cũng là người có tâm Thánh nhân trong giới Phật giáo, bèn từ nơi phúc địa này, phát vô lượng tâm, gieo trồng quả phúc cho tương lai. Lúc bấy giờ, (bà) gặp mặt quan viên và toàn thể nhân dân, cùng đồng lòng trợ giúp chi phí, tiền tích góp bao lâu quyên lại, mua gỗ lạt gạch ngói đủ đầy. Đến ngày 12 tháng Bẩy năm Hoằng Định thứ 15 (1614) thì quyên đủ, mới cùng hợp sức khởi công, dốc sức kỳ công tinh xảo, kiên trì bền bỉ xây dựng, làm nên cây cầu bắc ngang qua sông phía trên dòng nước.

Cầu được dựng trên nước là do người qua lại làm nên, vốn là chợ Bản Phủ đem cúng dàng làm chợ Tam bảo, để làm nơi mọi người trong thiên hạ tụ họp, hàng hóa trong thiên hạ buôn bán được giá cao, người ở người đi đều thuận tiện, hàng hóa mậu dịch mua bán trao đổi đều được thông suốt, thật vui vẻ thay, thật rộng lớn thay! Đối với ngày của Đế thì khắp nơi tốt đẹp, cao quý; với đạo của Vua thì con đường ấy là nơi tụ hội, là chốn tìm về. Vì thế mà nghiệp của Vua nhà ta muôn năm kéo dài mãi, công lao tích phúc to lớn là đây!

Do vậy, công đức của việc xây cây cầu đó, thí cái chợ đó há có thể đo lường được ư? Tấm lòng thiện nguyện nhiều như cát ngoài sông, trăm phúc nghìn lộc sẽ tìm đến với bản thân, đến với con cháu, sâu xa đều đặn, kéo dài mãi mãi, con cháu mãi nối dài, cơ đồ được củng cố, cho đến muôn vạn năm sau không dứt.

Các ông bà Dương Thị Tiệp, Dương Thị Ninh, Dương Thị Chính, Dương Thị Thày, Dương Viết Tống, Dương Đình Xuân cùng hàng trăm người có tên trên bia.

Nguồn: T16, tr.113-128.

        NĂM 1628 (MẬU THÌN)

        Ngày 13 tháng 5 (10 tháng Tư – Mậu Thìn)

 378. Dương Cảo thi đậu Đệ nhị Tiến sĩ

Tháng Hai – Mậu Thìn, triều đình tổ chức thi Hội sĩ nhân trong cả nước, lấy đỗ Giang Văn Minh 18 người. Tháng Tư – Mậu Thìn, thi Đình. Vua thân ra đầu đề văn sách hỏi về việc thiên hạ và chính sách của triều đình. Theo mô tả, các sĩ đại phu tập trung từ ngày hôm trước. Ngày hôm sau, Hoàng thượng lâm ngự Điện thí, hỏi về phép trị đạo xưa nay. Sai Đề điệu là Thái bảo Quỳnh Quận công Trịnh Đệ, Tri Cống cử là Binh bộ Thượng thư kiêm Ngự sử đài Đô Ngự sử, Thiếu phó Đường Quận công Nguyễn Danh Thế, Giám thí là Lại bộ Hữu Thị lang Lai Phong bá Nguyễn Tuấn cùng các quan hữu ti chia giữ các việc.

Đến khi dâng quyển đọc, Hoàng thượng sáng suốt ngự lãm, xét định thứ tự cao thấp. Ban cho Giang Văn Minh, đỗ Tiến sĩ cập đệ, Dương Cảo 3 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Đặng Phi Hiển 14 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Về danh hiệu Cập đệ thì từ khi khôi phục mới bắt đầu thấy có ở khoa này. Còn việc ban cấp áo mũ cho dự yến tiệc đều theo lệ cũ, tước trật chức vị nhất nhất đều theo quy chế đã lập thành. Chỉ còn việc dựng bia đề danh hồi đó chưa kịp làm. Cử hành việc ấy chính là ngày hôm nay vậy…

Đến nay Thánh thượng chạnh nghĩ các khoa thi Chế khoa, thi Tiến sĩ của bản triều được người rất hiền, nếu không dựng bia đề danh thì làm sao có thể nêu cao thịnh sự của Nho khoa, để người đời nay lớn lao trông vào. Bèn sai Bộ Công khắc đá, theo thứ tự đề họ tên từng người, dựng ở cửa nhà Thái học để tỏ ý ngợi khen khích lệ, giúp cho hậu thế có chỗ chiêm ngưỡng mà thấy được sự vẻ vang, để mà cố rèn mài danh tiết, gắng lên kính giúp hoàng gia, há chỉ để làm hư văn mà thôi đâu!

Ôi! Sự tôn trọng ngợi khen của triều đình thật đã là rất mực, kẻ sĩ sinh ở đời này mới thật vinh hạnh làm sao! Vả lại về khoa này trong số những người được dự đề danh trên bia đá này, đến một nửa đã qua đời. Nhưng con người của họ trung chính hay gian tà, người hiền hay kẻ xấu thì có chỗ không thể che giấu được. Đến nay hiện làm quan tại chức thì quả thật phải giữ một tấm lòng sắt đá trung thành, dân lời nói thuốc đắng kim châm để giúp vua giữ gìn quy củ; mưu lo ích nước, thi triển yên dân, làm rường cột quốc gia, làm bậc đại thần trụ dá miếu đường, giúp vua được như vua Nghiêu Thuấn, giúp đời được như đời Đường Ngu.

Dương Cảo, người xã Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội), làm quan đến Quốc tử Giám Tế tửu.

Nguồn: Đ4, tr.930; V2, tr.256-261.

        NĂM 1629 (KỶ TỴ)

        Trong năm

 379. Dương Phúc Toàn thi đậu Cử nhân

Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), thi đậu năm 18 tuổi. Về sau có dự các kỳ thi Hội vào các năm Nhâm Thìn (1651), Giáp Thìn (1664) nhưng chỉ qua Tam trường.

Nguồn: D7.

        NĂM 1630 (CANH NGỌ)

        Ngày 20 tháng 10 (15 tháng Chín – Canh Ngọ)

 380. Huyện sĩ Dương Hồng công đức tu tạo chùa An Tất

Tạo An Tất tự bi/ Phật tăng pháp dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc An Lão – Hải Phòng) ghi:

Huyện sĩ Mỹ Lộc hầu Dương Hồng tự Huyền Nghiêm và các vợ là Kỳ Khâu ny tự phu nhân Bùi Thị Tố hiệu Từ Nhân, Bùi Thị Tế hiệu Từ Duyên và 4 người thiếp khác đã phát tâm công đức tạo tượng Phật, trùng tu lại 5 gian Hậu đường, 2 gian cầu, hành lang chùa. Sau các tín chủ còn tiến cúng 6 mẫu ruộng vào chùa làm ruộng Tam bảo. Nay lập bia ghi việc làm công đức của toàn thể gia đình, ghi rõ số thước sào, vị trí của từng thửa ruộng tiến cúng.

Nguồn: T12, tập 12, No11116-17.

        Tháng 12 (tháng Một – Canh Ngọ)

 381. Dương Trí Trạch được cử làm Chánh sứ sang nhà Minh

Cùng đi sang Minh còn có Chánh sứ Trần Hữu Lễ, các Phó sứ Nguyễn Kinh Tế, Bùi Bỉnh Quân, Nguyễn Nghi, Hoàng Công Phu chia làm hai đoàn khác nhau.

Nguồn: Đ4, tr.932.

        NĂM 1631 (CANH NGỌ – TÂN MÙI)

        Ngày 16 tháng 1 (15 tháng Chạp – Canh Ngọ)

 382. Họ Dương làm Hội chủ, Hưng công tu tạo chùa Sùng Quang

Trùng tu Sùng Quang tự bi do Tiến sĩ Nguyễn Thực soạn văn bia đặt tại chùa Sùng Quang, xã Phúc Long, tổng Phúc Tằng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tăng Tiến, Việt Yên – Bắc Giang) là nơi cổ tích danh lam, vào ngày 15 tháng Chạp năm Canh Ngọ, cưu công tu tạo Thượng điện, Thiêu hương, Tiền đường, Hậu đường, tả hữu Hành lang, Tam quan, tường vây. Đến ngày 11 tháng Bẩy năm Tân Mùi (8-8-1631) thì công việc xong xuôi. Việc tu tạo được vẹn toàn như vậy là nhờ quan Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến kim sử vinh lộc Đại phu, Nội phủ giám, Tổng thái giám, Chưởng giám sự, Dương Nghĩa hầu Thân Thạc Vọng chủ trì. Vì vậy, bản xã cho tiên tổ ông được gửi giỗ tại chùa. Lại lập một ngôi Sinh từ bên cạnh để cúng thờ khi ông qua đời, truyền mãi đến vạn đời.

Kê Hội chủ, Hưng công, công đức.

Hội chủ: Chánh phu nhân của quan Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Nội phủ giám Thân Thạc Vọng Dương Thị Ngọc Yến.

Hưng công: Sư phụ Đại nguyên súy Thống quốc chính, Thanh Vương Trịnh Tráng Phủ sĩ Dương Kim Chi.

Nguồn: T12, tập 22, N031222-23; Đ12, tr.615-616

        Ngày 17 tháng 3 (15 tháng Hai – Tân Mùi)

 383. Vợ chồng bà Dương Thị Ý gửi Hậu tại đình Kim Sơn

Cung ứng điền thổ vi bi/ Bản xã đẳng sự cộng ký dựng tại đình xã Kim Sơn, tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội) ghi:

Vợ chồng ông Nguyễn Liễu và bà Dương Thị Ý đã nhiều tuổi mà không có con, nên mua 4 mẫu 4 sào 8 thước ruộng để xin gửi nhờ dân làng cúng giỗ về sau tại đền làng. Dân làng đồng ý và định lệ cúng giỗ ông bà hàng năm sau khi ông bà trăm tuổi.

Nguồn: T12, tập 4, N03982-83.

        Tháng 3 (tháng Hai – Tân Mùi)

 384. Bà Dương Thị Ngọc Kinh hưng công tu tạo chùa Long Đẩu

Trùng tu Long Đẩu tự/ Sơn thạch bi do Vương tử Nguyễn Tuấn Tài soạn, khắc vào mặt trước bia đá tháng Chạp – Canh Ngọ (1-1631) và mặt sau bia đá tháng Hai – Tân Mùi (3-1631) đặt tại chùa Long Đẩu, xã Đa Phúc, tổng Lật Sài, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Sài Sơn, Quốc Oai – Hà Nội) ghi rằng:

Chùa núi Long Đầu là một danh lam. Bên trái có hồ sen, trăng soi ánh vàng rất đẹp, bên phải có núi Đẩu cao vút tới trời sao. Sông núi thanh kỳ, địa linh nhân kiệt. Cảnh vật hữu tình, công đức vô biên. Có vãi Dương Thị Ngọc Kính, quán xã An Cương, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách xuất gia trụ trì chùa Thiên Phúc. Năm Canh Ngọ, tháng Hai vâng mệnh thánh chúa, phát ngân tiền, tập hợp quý quan bố thí tài vật, đứng ra hưng công sửa lại thượng điện, làm mới Tiền đường, Hậu đường, Thiêu hương, Tam quan và các tượng Phật, trang kim hết thảy, làm cho quy mô to lớn, phong quang hơn hẳn so với trước đây. Sau lại khắc bia lưu truyền công đức đến muôn đời con cháu.

Nguồn: T12, tập 2, N01229-31.

NĂM 1633 (QUÝ DẬU)

        Mùa xuân

 385. Dương Hưng thi đậu Hương cống

Ông người xã Lạc Đạo, tổng Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), hiệu Nghĩa Am công, làm quan đến chức Giảng dụ.

Lần lượt các năm tiếp theo dưới triều Lê, họ Dương Lạc Đạo còn có các Hương cống sau đây không rõ năm thi đỗ:

Dương Tuân (không rõ năm) em Tứ trường Dương Duệ và Dương Tống; anh tứ trường Dương Trình; cha các Hương cống Dương Triện và Dương Khuông (Dương Vịnh), ông nội các Tứ trường Dương Đình Trạch, Dương Công Cán và Dương Công Cổn; 26 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội trúng cách nhưng gặp sự cố, từ đó bỏ không dự thi. Làm quan đến chức Huấn đạo phủ Thượng Hồng, Tri huyện huyện Nam Chân. Từ quan về nghỉ, sau lại ra làm quan đến Thiêm Tri lại phiên, Công bộ Lang trung. Tước Huệ Địch bá. Thọ 77 tuổi. Sau khi mất được tặng Tự khanh, Thiếu bảo. Lúc nhỏ tên Quýnh, hiệu Đạo Thuần tiên sinh và Lỗ Hiên tiên sinh. Dương Trừng, cha Tứ trường Dương Tranh, anh trai Tứ trường Dương Quỹ, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, hiệu Tráng Am tiên sinh. Dương Vịnh, em Tứ trường Dương Triện, cha các Tứ trường Dương Đình Trạch, Dương Công Cán và Dương Công Cổn; ông nội các Tứ trường Dương Thiều, Dương Công Hiển và Dương Đình Thực; 15 tuổi đỗ Sinh đồ, 20 tuổi đỗ Hương cống, thi Hội 7 khoa đỗ Tam trường; làm quan đến chức Tri huyện các huyện Việt Yên, Đông Triều; thăng Tri phủ phủ Quốc Oai, Hiến phó sứ Sơn Tây, Tham nghị Hải Dương. Sau vì xử án chậm trễ nên phải chuyển sang làm Hiến sát phó sứ An – Quảng. Tước Bính Gia nam. Thọ 72 tuổi; hiệu Thọ Hiền tiên sinh; Dương Tranh, con thứ Nho sinh trúng thức Dương Trừng, cháu nội Tứ trường Dương Huệ, 30 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội nhiều lần đỗ Tam trường; làm quan đến chức Tri huyện huyện Tiên Minh; thọ 51 tuổi, hiệu Đạo Uyên tiên sinh. Dương Đình Miên, con thứ Tiến sĩ Dương Hồ, 39 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội đỗ Tam trường; lúc đầu nhận chức Tư nghiệp, dần thăng đến Tri phủ 2 phủ Thái Bình và Nam Sách, thọ 56 tuổi; giỏi văn thơ, dịch các sách lễ nghi, văn tế ra chữ Nôm lưu truyền trong dân. Dương Đình Trạch, con cả Hương cống Dương Khuông (Dương Vịnh); cháu nội Tứ trường Dương Tuân; anh các Tứ trường Dương Công Cán và Dương Công Cổn, 30 tuổi đỗ Tứ trường triều Lê; làm quan đến chức Điền bạ, Tri châu, Tri huyện huyện Chương Đức, thọ 71 tuổi (nhỏ tên Tiềm, hiệu Thọ Khoan Tiên sinh). Dương Công Cốn, con út Hương cống Dương Khuông (Dương Vịnh), cháu nội Tứ trường Dương Tuân, em các Tứ trường Dương Đình Trạch và Dương Công Cán, cha Tứ trường Dương Đình Thực; 33 tuổi đỗ Tứ trường khoa thi Hương triều Lê; làm quan đến chức Phụng thị Văn chức, Tri châu châu Động Cao, thọ 79 tuổi, hiệu Thọ Đoan Tiên sinh. Dương Doãn, con út Tiến sĩ Dương Hạo, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, hiệu Cương Đạt tiên sinh. Dương Thiếp, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, hiệu Khoát Đạt tiên sinh. Dương Tuy, con thứ 2 Nho sinh Dương Đình Chuẩn, em Giám sinh Dương Đình Quận, Giám sinh Quốc tử Giám. Dương Đình Chuẩn Giám sinh Quốc tử Giám. Dương Thiều, anh Tứ trường Dương Công Hiền, cháu nội Tứ trường Dương Khuông (Dương Vịnh), 23 tuổi đỗ Nho sinh trúng thức, hiệu Thanh Cần Tiên sinh. Dương Công Hiền, con thứ Tứ trường Dương Công Cán (Dương Đăng Cán), em Tứ trường Dương Thiều, anh Tam trường Dương Điền; cháu nội Tứ trường Dương Khuông (Dương Vịnh); 22 tuổi đỗ Tứ trường khoa thi Hương triều Lê, thi Hội 4 lần đỗ Tam trường, làm quan đến chức Huấn đạo, Tri huyện, Tri phủ phủ Lâm Thao, thọ 41 tuổi, húy Triệu, hiệu Chất Trực Tiên sinh. Dương Trị, con út Dương Cẩn, em Tứ trường Dương Đình Hiển, 22 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội 5 khoa đỗ Tam trường, làm quan trải các chức Huấn đạo phủ Từ Sơn, Tri huyện huyện Lập Thạch, thăng Tri phủ phủ Quốc Oai, dự kỳ khảo quan loại thượng khảo nên thăng Hiến phó xứ Sơn Nam, dần thăng đến Tham nghị xứ Sơn Nam, thọ 64 tuổi. Hiệu Hòa Hậu tiên sinh. Dương Xuyên, đỗ Tứ trường, hiệu Thọ Cách tiên sinh. Dương Tri, đỗ Tứ Trường, thi Hội nhiều lần đỗ Tam trường, làm quan đến chức Huấn đạo phủ Bắc Hà, thăng Tri huyện huyện Từ Liêm. Dương An, trú tại xã Hữu Lễ, tổng Cấp Dẫn, huyện Kỳ Hoa, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc Kỳ Anh – Hà Tĩnh), gốc người Lạc Đạo (Gia Lâm), đỗ Hương cử. Dương Công Cán, con thứ Tứ trường Dương Khuông; cha các Hương cống Dương Thiều, Dương Công Hiển và các Tứ trường Dương Điền và Dương Tuần; cháu nội Tứ trường Dương Tuân; em Tứ trường Dương Đình Trạch; anh Tứ trường Dương Công Cổn; 21 tuổi đỗ Tứ trường, 2 lần thi Hội đỗ Tam trường, làm quan trải các chức Tri huyện các huyện Gia Phúc, Nghi Dương; dự kỳ khảo quan đỗ loại Thượng khảo nên thăng Tri phủ 2 phủ Thiên Trường, Trà Lân, thọ 72 tuổi, sau khi mất được tặng chức Tự khanh, tước Dung Thông tử, gia tặng Tham chính, gia phong Thừa chỉ, bao phong Bình cách linh cảm Hoằng tế diên lộc phù hưu cương đoán công minh địch cát, gia ấm Khoan dung Đạt đức đại vương, lúc nhỏ tên quang. Dương Đình Thực, con Tứ trường Dương Công Cổn, cháu nội Hương cống Dương Khuông (Dương Vịnh), 40 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội 6 lần đỗ Tam trường, làm quan đến chức Tri huyện huyện Siêu Loại, thọ 70 tuổi, hiệu Đạo Trực tiên sinh. Dương Đình Doanh, con Nho sinh Dương Đình Kỳ, đỗ Giải nguyên triều Lê. Dương Đình Hiến, con thứ tư Dương Cẩn, anh Tứ trường Dương Trị, cha các Tứ trường Dương Đình Hán và Dương Dục, 19 tuổi thi một lần đỗ Tứ trường, 3 khoa thi Hội đỗ Tam trường, làm quan trải các chức Điển bạ, Tri huyện, Tự thừa, Tri phủ, Hiến phó sứ xứ Tuyên Quang. Dương Đình Lam, con Nho sinh Dương Đình Hoa, 24 tuổi đỗ Tứ trường triều Lê, thi Hội đỗ Tam trường, làm quan đến chức Tri huyện huyện Tiên Minh, Tham nghị xứ Sơn Tây. Dương Đình Quân, con trưởng Giám sinh Đình Chuẩn, Giám sinh Quốc tử Giám. Dương Duệ, anh các Tứ trường Dương Tốn, Dương Tuân và Dương Trình, cha Tứ Trường Dương Trừng và Nho sinh trúng thức Dương Quỹ; ông nội Tứ trường Dương Tranh, 23 tuổi đỗ Tứ trường, thi Hội đỗ Tam trường, làm quan đến chức Tri huyện huyện Yên Dũng, thăng Viên ngoại lang bộ Lại, tước Trung Thuận tử, hiệu Tuất Triết tiên sinh. Dương Đình Hán, con thứ Tứ trường Dương Đình Hiến, em Tứ trường Dương Dục, đỗ Tứ trường, thi Hội trúng Tam trường, làm quan đến chức Huấn đạo phủ Quốc Oai. Dương Đình Hoằng, đỗ Tứ trường triều Lê, làm quan đến chức Lang trung bộ Hình. Dương Duyên, con trưởng Tứ trường Dương Tuân, anh Tứ trường Dương Khuông (Dương Vịnh), đỗ Nho sinh trúng thức, hiệu Chuyết Hiên Tiên sinh. Dương Thiêm, con trưởng Tiến sĩ Dương Hạo, anh Nho sinh trúng thức Dương Y, đỗ Nho sinh trúng thức, hiệu Thiệu Hiền Tiên sinh. Dương Y, con thứ Tiến sĩ Dương Hạo, em Nho sinh trúng thức Dương Thiêm, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, hiệu Cương Đạt Tiên sinh. Dương Trình, em các Tứ trường Dương Duệ, Dương Tốn và Dương Tuân, đỗ Nho sinh trúng thức triều Lê, được làm Quan viên phụ, thọ 60 tuổi, lúc nhỏ tên là Đạt, hiệu Lãn Hiên Tiên sinh. Dương Tốn, em Tứ trường Dương Duệ, anh Tứ trường Dương Tuân và Dương Trình, đỗ Nho sinh trúng thức. Dương Dục, cháu nội Dương Cẩn, con thứ Hiến phó sứ Dương Đình Hiến, anh Tứ trường Dương Đình Hán, đỗ Nho sinh trúng thức. Dương Quỹ, con thứ Hương cống Dương Duệ, em Tứ trường Dương Trừng, đỗ Nho sinh trúng thức, hiệu Yên Sơn Tiên sinh.

Nguồn: K6, tr.396-402.

        Ngày 27 tháng 4 (20 tháng Ba – Quý Dậu)

 386. Dương Trí Trạch đi sứ về đến Đông Đô

Từ giữa tháng Ba – Quý Dậu, nhà vua đã sai Trần Vĩ, Nguyễn Tiến Dụng, Nguyễn Thọ Xuân, Thân Khuê lên tận ải Nam Quan đợi mệnh, đón tiếp sứ thần về nước. Thái bảo Quảng Quận công Trịnh Hàng được lệnh đem voi ngựa và binh lính các cơ đi hộ vệ.

Cả hai đoàn do Dương Trí Trạch, Trần Hữu Lễ về đến Đông Đô đã vào lạy chào nhà vua. Lần đi này, Phó sứ Bùi Bỉnh Quân chết trên đường trở về.

Nguồn: Đ4, tr.936.

        NĂM 1635 (ẤT HỢI)

        Tháng 11 (tháng Mười – Ất Hợi)

 387. Bà Dương Thị Thu công đức đúc chuông, sửa sang chùa Thiền Viện

Trùng tu Thiền Viện tự bi do Lê Phú Vinh soạn văn bia, dựng tại chùa Nhân Hiền, tổng Cổ Hiền, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Hiền Giang, Thường Tín – Hà Nội) ghi rằng:

Vương phi cung tần Nguyễn Thị Ngọc Liêu cúng cho bản xã là quê hương của bà tiền và ruộng để đúc chuông, sửa sang xây thêm lầu gác ở chùa Thiền Viện. Dân cảm ơn công đức ấy nên thờ bà như một vị sư tổ. Cha mẹ và em trai bà được phối hưởng. Bia còn ghi tên một số hội chủ có công đóng góp vào chùa như sư trụ trì Tống Thị Ngọc Chi, bà Dương Thị Thu ở đạo Kinh Bắc.

Nguồn: T12, tập 9, N08184-85.

        Tháng 12 (tháng Một – Ất Hợi)

 388. Thái bảo, Sùng Thiện bá Dương quý công được thờ phối hưởng tại đình Đồng Khê

Đồng Khê xã đình bi thuộc đình bản xã, tổng An Lương, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc thị trấn Nam Sách – Hải Dương) ghi rằng dân xã vốn sống ân tình. Những người có công với làng xóm như ông xã Lương, ông xã Võ, ông Lang tướng họ Nguyễn, Thái bảo Sùng Thiện bá Dương quý công, Trang nguyên Thượng thư bộ Hộ Trần tướng công… đều được phối hưởng tại đình của xã.   

Nguồn: T12, tập 13, N012310.

        NĂM 1636 (BÍNH TÝ)

        Mùa xuân

 389. Hội chủ xã Thổ Hà Dương Đức Oanh tham gia tân tạo, cung tiến huệ điền chùa Bà Già

Bia Cung phụng tiến huệ điền Bà Già tự tâm tạo bi ký dựng tại chùa Bà Già xã Phú Gia, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Phú Thượng, Tây Hồ – Hà Nội) ghi rằng, dựng bia để ca ngợi công đức, việc ấy đã có từ xưa. Chùa này dựng bia ghi việc cúng ruộng là để chúc hoàng đồ củng cố, mà tường sự thiện thánh của con người, làm nét đẹp cho muôn đời.

Nay Hội chủ của các xã Phú Gia, Thổ Hà gồm: Nguyễn Văn Lâm tên tự Phúc Thành; Dương Đức Oanh tên tự Huệ Đạo, tuyên pháp hiệu là Huyền Thông. Các ông cùng nhau phát tâm Bồ đề, trồng quả thiện, phàm khao đường quán cứu người công lao còn đọng mãi, tính toán để cứu được nhiều người.

Nay lại bỏ tiền nhà công đức cung tiến trên điện, ngoài thì mua đặt ruộng đất tại xứ Đồng Viên hiến làm. Ngày 20 tháng Mười hàng năm dâng oản, lưu lại muôn đời. Nhân duyên tố hảo, công đức tố hảo, nhân duyên như thế, thuê thợ khắc đá, nhờ ta làm bài văn bia, truyền lại muôn đời, ta nhân đó khen rằng:

Người có nhiều phúc, ắt nhận được nhiều phúc, đó là công danh rực rỡ vậy. Ghi chép về sự nghiệp vẻ vang, các đời công đức còn vọng mãi, có thể lượng được chăng? Nhân tố đó khắc vào đá để truyền lại mãi.

Nguồn: T21, tr.169-170.

        Trong năm

 390. Dương Văn Lý thi đậu Hương cống

Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), Tú tài khoa Kỷ Tỵ niên hiệu Đức Long 1 (1629).

Nguồn: D7

        NĂM 1637 (ĐINH SỬU)

        Ngày 16 tháng 12 (1 tháng Một – Đinh Sửu)

 391. Dương Hoảng thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Mùa đông, tháng Mười – Đinh Sửu, thi Hội cho các sĩ nhân trong nước, lấy đỗ Nguyễn Xuân Chính 20 người. Đến khi thi Đình, vua thân ra đầu đề văn sách, cho Nguyễn Xuân Chính, Nguyễn Nghi, Nguyễn Thế Khanh đỗ Đệ nhất Tiến sĩ; Nguyễn Hữu Thường 2 người đỗ Đệ nhị Tiến sĩ; Nguyễn Cẩn 15 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Tiến sĩ Đề danh ghi về khoa thi này cho biết, năm Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa thứ 3 lại theo thành lệ mở khoa thi Hội các sĩ nhân trong nước, đăng tên dự thi đông lên mấy nghìn, chọn hạng Trúng cách chỉ được 20 người. Ngày hôm sau vào Điện thí, Hoàng thượng thân ra đề thi văn sách, hỏi về đạo trị nước. Bấy giờ Đề điệu là Thái bảo Kiên Quận công Trịnh Quân, Tri Cống cử là Binh bộ Thượng thư kiêm Quốc tử Giám Tế tửu Thiếu phó Tuyền Quận công Nguyễn Duy Thì, Giám thí là Hộ bộ Tả Thị lang Mai Quận công Nguyễn Tiến Dụng, Lễ bộ Hữu Thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ vâng mệnh dâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng sáng suốt xem xét, định thứ bậc cao thấp. Sai xướng danh treo bảng để tỏ sự vinh quang cho các sĩ tử, ban cho tước trật để tỏ lòng ưu ái, ban áo mũ yến tiệc để tỏ hậu lễ. Bấy giờ sĩ tử và dân chúng trầm trồ ngợi khen, nối nhau kéo đến chật cả hai bên đường để đón xem, cho Bắc đẩu khôi tinh lại hiện ra ngày nay, ý nói thánh triều tôn Nho hơn cả thời xưa.

Dương Hoảng người Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), cháu nội của Trạng nguyên Dương Phúc Tư, sau đổi là Dương Hồ, làm đến Tả thị lang bộ Công, tước Thọ Lâm hầu, khi mất được thăng Thượng thư.

Nguồn: Đ4, tr.937; V2, tr.268-273.

        NĂM 1638 (ĐINH SỬU – MẬU DẦN)

        Ngày 13 tháng 2 (30 tháng Chạp – Đinh Sửu)

 392. Dương Trí Trạch cùng một số quan viên lên ải Nam Quan đợi mệnh

Ngày hôm đó, nhà vua cho Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu, Giang Văn Minh và các Phó sứ Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê dẫn đầu hai sứ bộ sang nhà Minh. Dương Trí Trạch, Trần Hữu Lễ, Nguyễn Thọ Xuân, Phạm Phúc Khánh, Nguyễn Quang Nhạc cùng lên ải Nam Quan đợi mệnh.

Nguồn: Đ4, tr.938.

        NĂM 1639 (KỶ MÃO)

        Ngày 23 tháng 8 (25 tháng Bẩy – Kỷ Mão)

 393. Các quan viên họ Dương phường An Hoa được ghi danh về việc hưng công tu tạo chùa Trấn Quốc.

Trần Quốc tự bi ký do Tiến sĩ Nguyễn Xuân Chính soạn, dựng tại chùa Trấn Quốc, phường An Hoa, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Yên Phụ, Tây Hồ – Hà Nội) ghi rằng:

Ôi! Việc làm văn khắc vào bia đá, sở dĩ là để ghi công đức lớn, sự nghiệp cao cho muôn đời, từ xưa đến nay đời nào cũng có. Nay xét thấy, chùa Trấn Quốc là cảnh đẹp phủ Phụng Thiên, danh lam đất Kinh kỳ, thường gọi là An Hoa, huyện tên là Quảng Đức, thật là một trong bốn thắng cảnh của trời Nam. Từ xưa dấu cũ vốn dựng ngoài bãi sông, chùa Phật sát với sông nước. Dân phường ấy vốn tâm sùng đạo huyền diệu, chí hâm mộ cảnh thiền lâm. Vào khoảng năm Hoằng Định thứ 16 (1615), mới chuyển vào phía sau trong đê, chọn đảo Kim Ngư bên hồ, là nơi cảnh đẹp. Năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624), xây dựng từ đê trở ra, làm thành đất làng, dựng nhà để ở, trồng trọt, bốn phía khơi rộng kênh mương, bên trong mở đường nhỏ để đi lại. Phường ta học tập theo việc thiện của người xưa mà vốn cũng là làng nhân nghĩa. Thế nên vun đắp nền tảng, mở rộng quy mô, tạo mới thượng điện, thiêu hương, tiền đường, cửa sau các tòa.

Đến năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) sửa sang thêm, (lúc bấy giờ có tám giáp nơi gần chợ, ba giáp có tiếng là làm việc thiện cùng tham gia). Năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ý trên đã thuận, lòng dưới hòa theo. Dân làng bàn bạc, chiếu tên tuổi phân suất, tùy theo nhân số ít nhiều trong hộ tịch, định ra hai giáp Đông, Tây quan viên bản phường là: Bế Hữu Tài, Nguyễn Thế Hựu, Dương Tuấn Đức, Dương Tuấn Lộc, Dương Tuấn Giám, Lê Văn Trụ, Đoàn Văn Tài […] cùng toàn phường mở rộng tâm vô lượng, vun trồng cây phúc cho tương lai. Xuất của cải ủng hộ kêu gọi tu tạo chùa.

Đến năm Dương Hòa thứ 5 (1639), cùng hưng công tu tạo Hậu đường, cửa gác ở phía trước, lại sửa sang Hành lang tả hữu, lẫn phía sau, phân định các dãy, các tòa. Đúng là đại quy mô, rất to lớn, sáng gấp trăm lần công đức của tiền nhân. Chế độ đổi mới, công phu viên mãn. Sắc vàng sặc sỡ, kèo cột tô chạm huy hoàng, xán lạn chiếu cả ngoài tòa đan song biếc. Bắc gần Nhị thủy, nam sát Đế thành, cảnh vật anh linh, người sinh ra hào kiệt. Thành chốn thế giới riêng biệt, thắng cảnh Kinh kỳ, thế nên nổi tiếng lúc bấy giờ. Việc ghi chép để truyền lại mai sau không thể không nhờ ở văn chương. Nay bản phường các quan viên trên dưới, ngày 25 tháng Bẩy năm Kỷ Mão (1639), thuê thợ khắc thành văn bia. Đại lược để hình dung công đức cao dày như thế vậy.

Nguồn: T12, tập 1, Ni245-46; T21, tr.182-189.

        NĂM 1640 (CANH THÌN)

        Khoảng cuối tháng 3 (đầu tháng Hai – Canh Thìn)

 394. Dương Hạo thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Tháng Giêng nhuận – Canh Thìn, triều đình mở khoa thi Hội cho các sĩ nhân trong nước. Đến đầu tháng Hai thi Đình, vua thân ra đề văn sách, làm lễ xướng danh. Theo mô tả của bia Tiến sĩ Đề danh, khi bước vào khoa thi Hội, kẻ sĩ văn học bốn phương hát thơ Lộc minh mà đến, cùng nhau tranh đua tài nghệ ở chốn xuân vi đông đến trên 6.000 người. Quan Hữu ty chọn được hạng trúng cách 22 người ghi tên tâu lên.

Dương Hòa lục niên Canh Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Canh Thìn, năm Dương Hòa 6-1640) do Dương Trí Trạch nhuận sắc, Nguyễn Văn Lễ soạn, cho biết:

Hôm sau vào Điện thí, Hoàng thượng ngự ở hiên điện đích thân ra bài văn sách. Sai Đề điệu là Thiếu bảo Lan Quận công Hoàng Nghĩa Phì, Tri Cống cử là lại bộ Tả thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ, hai viên Giám thí là Lễ bộ Hữu Thị lang Cẩm Lộc tử Nguyễn Bình, Ngự sử đài Thiêm Đô Ngự sử Phúc Xuyên nam Nguyễn Thọ Quyến chia giữ các việc.

Đến khi dâng quyển lên đọc, Hoàng thượng xét duyệt và định thứ bậc. Cho Phí Văn Thuật 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, Hoàng Vinh 20 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Ngày hôm đó, Bộ Lễ đem Bảng Vàng treo trước cửa nhà Thái học. Sĩ tử và dân chúng trong nước xúm đến xem bảng, đều vui vừng cho là văn vận hanh thông, chân Nho nối nhau xuất hiện thật là sự kiện lớn lao trong đời thái bình. Việc ban ơn theo thứ bậc đều theo lệ cũ.

Vả lại khoa này, những người có tài văn võ ra giúp thời thịnh sáng, cả trong triều ngoài phủ, trên bước đường làm quan trải thăang trầm thay đổi đều thận trọng giữ gìn chức vụ, luận bàn khoáng đạt đúng đắn, công danh sự nghiệp càng lâu càng rạng rỡ. Còn những kẻ trước sau sai khác, ngoài ngọc trong đá, ngoài cứng trong mềm, trước hay sau đở, thì về sau những người tới xem bia nàyy sẽ chỉ vào tên mà nói: người này là bậc quân tử chính trực, người kia là kẻ tiểu nhân gian tà, công luận rõ ràng, danh tiết nghiêm buốt, há chẳng nên thận trọng sao!

Thế thì bia đá này là cột trụ của danh giáo, nền tảng của cương thường, hễ ai nhìn vào sẽ thấy rõ chuẩn đích, trong lòng nảy ý tự răn đe, càng có ích cho cuộc thái bình thịnh trị ức muôn năm của nước nhà vững như Thái Sơn vậy”.

Dương Hạo, người Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), con trai Tiến sĩ Dương Thuần, làm quan đến Ngự sử đài Đô ngự sử, sứ thần sang nhà Minh.

Nguồn: Đ4, tr.938; V2, tr.275-280.

        Trong năm

 395. Dương Lễ thi đậu Hương cống

Ông người Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), đỗ Tứ trường, khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa 6 (1640) thi Hội bị hỏng. Làm quan đến chức Tri huyện huyện Văn Giang, hiệu Giản Đường Tiên sinh.

Trong danh sách các Hương cống đỗ vào thời Lê không xác định được thời điểm thi đỗ và không phải là người Lạc Đạo còn có:

Người xã Hương Canh (Kẻ Canh, Chợ Canh), tổng Hương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc phường Phương Canh, Nam Từ Liêm – Hà Nội) gồm có: Lương Đức Điền, làm đến Huyện thừa huyện Trung Sơn (?); người xã Ỷ La, tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc phường Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội) gồm có Dương Đức Viên, Dương Đăng Khôi, Dương Nguyên Huống; người xã Thụy Hà, tổng Đông Đồ, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Bắc Hồng, Đông Anh – Hà Nội) có Dương Danh, Giám sinh Quốc tử giám; người xã Vĩnh Phúc (sau chia làm hai xã Vĩnh Minh, Phúc Bồi tổng Tang Thác, huyện Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam – nay thuộc xã Quỳnh Hưng, Quỳnh Phụ – Thái Bình) là Dương Trinh Tín, Giám sinh Quốc tử giám, làm đến chức Tiền công lang Giảng dụ; người thôn Cẩm La xã Phong Lưu, tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, trấn An Quảng (nay là xã Cẩm La, Quang Yên – Quảng Ninh) là Dương Đình Sách, Dương Bách Tải đều là Giám sinh Quốc tử giám; người xã Đồng Tâm, tổng Đồng xá, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay là phường Đồng Tâm, Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc) là Dương Thế Huy, Giám sinh Quốc tử giám; người xã Cảo Thượng, tổng Cảo Thượng, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Phụng Thượng, Phúc Thọ – Hà Nội) là Dương Đình Tướng, Giám sinh Quốc tử giám.

Nguồn: K6, tr.397-586.

        NĂM 1642 (TÂN TỴ – NHÂM NGỌ

        Tháng 1 (tháng Chạp – Tân Tỵ)

 396. Dương Khánh Côn khắc bia Hưng Khánh tự [lưu] truyền/ Hoàng thượng vạn vạn niên

Dương Khánh Côn, người xã Gia Đức, tổng Dưỡng Động, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc Thủy Nguyên – Hải Phòng) được giao khắc tấm bia trên do Thân lộc Đại phu Tăng Đình Liêu soạn. Bia được dựng tại chùa Phúc Khánh, xã An Khê, tổng Trung Hành, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc Hải An, Hải Phòng) nói rằng: Chùa Hưng Khánh là một danh lam cổ tích trải qua mưa gió đã bị hư hỏng dột nát. Nay các xã Tây Khê, Lực Hành, Đông An, Thư Trung thuộc huyện An Dương hưng công để xây dựng lại thượng điện, hậu đường, hành lang tả hữu và tô sắc lại các pho tượng Phật, ghi họ và tên người đóng góp tiền của để trùng tu chùa Hưng Khánh.

Nguồn: T12, tập 12, N011042-43.

        NĂM 1643 (QUÝ MÙI)

        Ngày 9 tháng 3 (20 tháng Giêng – Quý Mùi)

 397. Hai bà Dương Thị Liễu, Dương Thị Ngọc Phú được ghi danh về việc công đức đất Tam bảo làm chợ.

Bia Tam bảo thổ thị bi tín thí ghi lại rằng:

Chùa Hưng Văn vốn là chốn cổ tích danh lam của triều trước, bên ngoài có đất Tam bảo để làm chợ. Các quan viên, hương lão, văn thuộc, tướng thần các xã thôn trưởng cùng mọi người trên dưới thôn Triền, xã Xuân Hy, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc (nay thuộc xã Xuân Phương, Sóc Sơn – Hà Nội) cùng nhau lập bia ghi về việc làm chợ.

Từng nghe: Tạc bia là để lấy dấu vết của tạo hóa, làm chợ là để lưu thông buôn bán, cho nên các đế vương xưa dựng nước, vua tôi ắt lấy nhân đức làm đầu. Chùa Hưng Vân vốn là chốn cổ tích danh lam từ triều trước, sau linh ứng mà có miếu đường, được phong Thượng đẳng. Bản xã cùng các vùng phụ cận cầu đảo đều được ứng nghiệm. Nay quan trên cho nhập ruộng công làm Tam bảo, cấp thêm ruộng để tăng trong chùa cùng các quan lại và nhân dân công đức ruộng tư làm chợ Tam bảo, đó là mọi người trong thiên hạ cùng làm điều phúc, dựng bia truyền lại mãi.

Nguồn: T21, tr.217-223.

        NĂM 1644 (GIÁP THÂN)

        Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Thân)

 398. Cống sĩ Dương Tự Cường vượt qua kỳ khảo hạch Sĩ vọng, đậu Đệ tam Tiến sĩ

Dương Tự Cường người xã Cáo Đỉnh, tổng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay là Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm – Hà Nội), đỗ Cống sĩ khoa thi Quý Dậu (1633). Do việc triều đình nghĩ đến việc nhiều người tài bị bỏ sót, nên sai mở Kỳ khảo hạch Sĩ vọng các Cống sĩ trong nước, người nào có đức vọng cho đỗ thứ hạng cao hơn rồi bổ quan chức ở các phủ huyện nên Dương Tự Cường được nhận học vị mới. Ông làm quan tới chức Tri phủ Hà Hoa.

Nguồn: Đ4, tr.940; T28, tr.97.

        NĂM 1645 (Giáp Thân – Ất Dậu

        Tháng 1 (tháng Chạp – Giáp Thân

 399. Đốc thị Dương Trí Trạch được cử đi đánh dẹp ở Cao Bằng

Tháng 6-1625, Mạc Kính Cung bị bắt, Mạc Kính Khoan xin đầu hàng nhà Lê, được cho làm phiên trấn giúp sức triều đình. Tháng 5-1638, Mạc Kính Khoan mất, Mạc Kính Vũ bỏ việc dâng nộp theo chức phận, đặt ra niên hiệu Thuận Đức dấy quân khắp nơi. Trịnh Tráng cho quân lên Cao Bằng bị thua liền mấy trận, lại gặp tiết trời oi nóng, lam chướng nhiều nên phải lui quân.

Tháng 4-1643 (tháng Ba – Quý Mùi) Trịnh Tráng thấy Thụy Quận công Nguyễn Phúc Nguyên ở Thuận Quảng chống mệnh triều đình, nên Chúa lại tâu xin vua thân đem lực lượng lớn đi đánh.

Từ sau khi đại quân rút về, Mạc Kính Vụ lại ra chiếm cứ sào huyệt cũ, nghe tin xe vua đi xa, lại chia quân làm 3 đường cướp vùng Tây Cạn ở Thái Nguyên. Viên Phụ đạo ở đó cáo cấp, lúc này Liêm Quận công, Hoa Quận công Nguyễn Danh Thế vâng mệnh lưu thủ kinh thành, trấn giữ từ chính, khống chế các nơi. Nhân tiện bèn sai Đồng Trụ bá Trịnh Nhân Liên làm giám quân, Phúc Ngạn tử Lưu Khanh làm Tham lý Quân vụ tiến lên Tây Cạn, chỉ huy các tướng biên giới chia làm 3 đường tiến đánh, phá được giặc ở núi Ngân Trường [Mỏ bạc], quân Mạc rút về, dân địa phương được yên ỏn.

Năm Giáp Thân, Phúc Thái thứ 2 đời vua Chân Tông [1644] tức là năm Sùng Trinh thứ 17 nhà Minh, Lý Tự Thành chiến được Bắc Kinh, vua Trang Liệt đế nhà Minh mất. Viên Trấn thủ xứ Liêu Đông là Ngô Tam Quế mời quân nhà Thanh vào. Quân Mãn Thanh kéo vào Trung Quốc, đánh đuổi quân Lý Tự Thành, rồi lên làm vua ở Yên Kinh. Đó là năm Thuận Trị thứ nhất [1644] đời vua Thanh Thế Tổ Chương hoàng. Năm ấy, Trịnh Tráng sai con thứ là Thái bảo Tây Quận công Trịnh Tạc làm Thống binh, Dương Trí Trạch làm Đốc thị, Phạm Công Trứ làm Tán lý, đi đánh Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng, giết được một viên Tỳ tướng của chúng, bắt được nhiều đồ đảng rồi về.

Nguồn: Đ7, tr.396-397; Đ4, tr.940; K3, tr.255.

        Trong năm

 400. Dương Oánh thi đậu Hương cống

Ông người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), thi đỗ Tú tài khoa Kỷ Mão (1639), dự 2 kỳ thi tiếp theo chỉ trúng Tam trường. Làm đến Tri huyện Thanh Chương.

Nguồn: D7.

        NĂM 1648 (MẬU TÝ)

        Ngày 7 tháng 2 (23 tháng Mười – Mậu Tý)

 401. Vợ chồng Đô đốc Trung quân Dương Bá Hợp cung tiến đúc chuông chùa Diên Phúc

Tân tạo chú Hồng chung Diên Phúc tự trên chuông chùa Diên Phúc xã Khúc Toại, tổng Chám Khê, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh) ghi rằng vào năm đó, nhà sư Minh Trực thấy nhà chùa chưa có chuông nên muốn làm phúc tạo chuông. Việc làm ấy liền nhận được sự công đức của vợ chồng Đô đốc trung quân Dương Bá Hợp và quý khách thập phương. Ngày 23 tháng Mười – Mậu Tý chuông đúc xong, khắc bài minh ghi danh những người đóng góp.

Nguồn: D3, tr.82.

        NĂM 1651 (TÂN MÃO)

        Trong năm

 402. Dương Minh Hiền thi đậu Hương cống

Ông là người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), làm quan đến Huấn đạo Nam An (?)

Nguồn: D7.

        NĂM 1653

        Tháng 12 (tháng Một – Quý Tỵ)

 403. Thụy Lĩnh tử Dương Đình Tuấn soạn văn bia Phụng lệnh dụ cung cấp Tam bảo tạo lệ bi ký

Bia tạo năm Thịnh Đức 1, dựng tại chùa Tư Phúc, còn gọi là chùa Côn Sơn, xã Chi Ngãi, tổng Chi Ngãi, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Chúc Thôn, phường Cộng Hòa, thành phố Chí Linh – Hải Dương) cho biết, theo Lệnh của “Thanh Vương (Trịnh Tráng) sức cho dân xã Chi Ngãi, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc ngay lập tức phải cung cấp nhân công thờ phụng Tam bảo cho chùa Tư Phúc ở Côn Sơn. Trong Lệnh nêu rõ chùa Tư Phúc cùng với động Thanh Hư là danh lam cổ tích của nước ta, là nơi các vị tổ Trúc Lâm như Điều Ngự Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang tôn giả đã từng đến thuyết pháp, trụ trì. Phần cuối bia ghi công đức của vị Nội phủ giám Đô thái giám, Chưởng giám Đề đốc Ninh quận công đã bỏ của nhà mua gỗ thuê thợ tu sửa chùa trong năm Thịnh Đức 1 (1653); sửa chữa Thượng điện, Tiền đường, đài Cữu phẩm liên hoa, nhà Thiêu hương.

Nguồn: T12, tập 19, N018797-98.

        NĂM 1654 (QUÝ TỴ – GIÁP NGỌ)

        Ngày 4 tháng 1 (16 tháng Một – Quý Tỵ)

 404. Dương Trí Trạch được ghi tên trong bia Đề danh Tiến sĩ do chính mình nhuận sắc

Hoằng Định nhị thập niên Kỷ Mùi khoa Tiến sĩ đề danh bi ký [Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi năm Hoằng Định 20 (1619)] do Mậu Lâm lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Lê Đình Lại soạn, Dương Trí Trạch – người đỗ Đệ tam Tiến sĩ khoa đó, nhuận sắc. Ở phần cuối bia, Dương Trí Trạch và Lê Đình Lại cho rằng:

“Vả lại xem khoa này được người như thế, phần nhiều là bậc đại tài kinh luân trị nước, là bậc thạc đức giúp đời chăn dân. Có người là bậc chân Nho thiên hạ không ai sánh nổi, có người là bậc thế thần nước nhà được cậy nhờ, có người vâng mệnh đi sứ lập công đối đáp bốn phương, người giữ việc hầu cận bàn mưu thì trù tính mưu kế chu toàn khiến cho thiên hạ được hưởng phúc yên vui, nước nhà được vững như bàn thạch. Lúc ấy người thiên hạ đi đường đều bảo nhau rằng: Triều ta lựa chọn được rất nhiều người thực tài.

Vả lại các vị ấy có nhiều cách cứu đời giúp vua, đâu phải đợi ai khuyên bảo! Thế mà vẫn luận bàn đúng đắn, cầm cân công bằng, vì vua vì dân, chẳng xiên chẳng lệch; không mưu ơn riêng, có tiết tháo như tùng bách chịu rét; một niềm quân thần, trung hiếu vẹn toàn; tiếng trung nghĩa vang dậy triều đình, công danh rạng ngời thiên hạ, sự nghiệp trải khắp biên cương. Như thế trên không phụ ơn thánh thiên tử ngợi khen, dưới không phụ công cả đời học tập mà sự nghiệp vang lừng tiếng thơm lưu truyền muôn thuở.

Nếu không được thế thì hành tích là trung chính hay gian tà, phân minh phải trái, dẫu một chút tì vết cũng không thể che giấu được, mười mắt nghiêm nghị xét xem, mười ngón tay cùng lúc chỉ vào, công luận thực nghiêm khắc, há chẳng nên thận trọng tự răn sao?

Thế thì việc Đề danh vào bia đá này, chẳng những là sự tốt muôn đời của nước nhà mà còn bổ ích cho con thần cháu thánh của hoàng gia lâu dài ức vạn năm hưởng phúc đến vô cùng”.

Nguồn: V2, tr.245-250.

 405. Dương Trí Trạch hoàn tất việc Nhuận sắc 25 tấm bia Đề danh Tiến sĩ dựng tại Quốc tử giám

Với tư cách là Dực vân Tán trị công thần, Lễ bộ Thượng thư, Hàn lâm viện Thị giảng, Tham chưởng Hàn lâm viện sự, Bạt Quận công, ông đã được giao trách nhiệm nặng nề nhuận sắc 25 tấm bia Đề danh Tiến sĩ dưới đây:

– Thuận Bình lục niên Giáp Dần (1554) Chế khoa Đề danh ký.

– Chính trị bát niên Ất Sửu khoa (1565) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Gia Thái ngũ niên Đinh Sửu khoa (1577) Chế khoa Đề danh ký.

– Quang Hưng tam niên Canh Thìn khoa (1580) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Quang Hưng lục niên Quý Mùi khoa (1583) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Quang Hưng thập nhị niên Kỷ Sửu khoa (1589) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Quang Hưng thập ngũ niên Nhâm Thìn khoa (1592) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Quang Hưng thập bát niên Ất Mùi khoa (1595) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Quang Hưng nhị thập nhất niên Mậu Tuất khoa (1598) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Hoằng Định tam niên Nhâm Dần khoa (1602) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Hoằng Định ngũ niên Giáp Thìn khoa (1604) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Hoằng Định bát niên Đinh Mùi khoa (1607) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Hoằng định thập nhất niên Canh Tuất khoa (1610) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Hoằng Định thập tứ niên Quý Sửu khoa (1613) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Hoằng Định thập thất niên Bính Thìn khoa (1616) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Hoằng Định nhị thập niên Kỷ Mùi khoa (1619) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Vĩnh Tộ ngũ niên Quý Hợi khoa (1623) Hội thí Đề danh ký.

– Vĩnh Tộ thập niên Mậu Thìn khoa (1628) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Đức Long tam niên Tân Mùi khoa (1631) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Dương Hòa tam niên Đinh Sửu khoa (1637) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Dương Hòa lục niên Canh Thìn khoa (1640) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Phúc Thái nguyên niên Quý Mùi khoa (1643) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Phúc Thái tứ niên Bính Tuất khoa (1646) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Quang Hưng thập nhị niên Kỷ Sửu khoa (1649) Tiến sĩ Đề danh ký.

– Khánh Đức nhị niên Canh Dần khoa (1650) Tiến sĩ Đề danh ký.

Nguồn: V12, tr.841-854; V2, tr.166-300.

 

NĂM 1655 (ẤT MÙI)

        Tháng 3 (tháng 2 – Ất Mùi)

 406. Dương Cảo soạn văn bia Vân La tự

Dương Cảo, người Hà Lỗ – Đông Ngàn, đỗ Đệ nhị Tiến sĩ năm 1628, Quốc tử giám Tế tửu. Văn bia do ông soạn được khắc bia dựng tại chùa Vân La, thôn Phù Lưu, xã Tiên Trà, tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Trung Nghĩa, Yên Phong – Bắc Ninh), ghi việc Thị nội giám, Trà lân hầu Trần Văn Lương được tôn phong là Phổ Huệ Bồ Tát đã cùng với vợ và con trai mua 2 mẫu 2 sào ruộng ở xứ Chùa cúng vào chùa nên được khắc bia thờ phụng, ghi vị trí diện tích số ruộng và cam kết thờ phụng của xã.

Nguồn: T12, tập 4, N03663; T9, 1997, tr.688-704.

        Tháng 6 (tháng Năm – Ất Mùi)

 407. Đĩnh Quận công Dương Công Mỹ đổi sang thành Ngô Công Mỹ được ghi nhận công lao tại Thái Thọ

Thụ am kiên đường lưu điền cung tự bi do Thượng thư bộ Lại Nguyễn Nghi soạn văn bia, dựng tại miếu Thái Thọ, tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Thái Sơn, Hiệp Hòa – Bắc Giang) cho biết:

Đĩnh quận công Ngô Công Mỹ, tặng Đô đốc Đồng tri, người xã Quế Trạo, huyện Hiệp Hoà, phủ Bắc Hà là người tuấn tú, có công giúp nhà Chúa, từng nhiều lần được thăng thưởng. Tuy vậy, ông vẫn nghĩ, vinh hiển ở đương thời không bằng lưu danh muôn thủa. Do vậy, ông đã đem bạc tinh, ruộng tốt biếu cho 3 xã: Quế Trạo, Đức Thắng và Thù Sơn, để dựng 2 ngôi am thờ, 1 bằng đá, 1 bằng gạch ngói, gồm 3 dãy, mỗi dãy 5 gian. Cho nên, quan viên, hương lão, cùng mọi người lớn nhỏ của 3 xã thuận lòng bầu cha mẹ và vợ chồng ông làm Hậu thần. Quan đân 3 xã dem số ruộng của ông tiến cúng là 44 mẫu chia nhau cày cấy, chỉ để lại 4 mẫu giao cho người trông nom quét dọn am làm ruộng hương hỏa.

Bia Hiển Khánh am ký vẫn do Nguyễn Nghi soạn cùng thời điểm, đặt tại lăng Chúa Đôi, cạnh miếu trên, lại cho biết thêm:

Nay xã Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà phụng thờ Thánh Vương phủ, Phó Vương phủ, lưỡng Triều Chưởng giám Tổng quản các xứ Kinh Bắc, Hiệp Hoà, Thái Nguyên, Kiêm tri Thị nội Thư tả nha môn Đĩnh quận công Ngô Công Mỹ, tặng Đô đốc đồng tri. Đĩnh quận công thể mạo đường đường, phong nghi lẫm lẫm… Hiển khảo được tặng Thái bảo An Hoà hầu, Dương quý công, tự Phúc Tâm phủ quân. Hiển tỷ tặng Chánh phu nhân, Ngô thị hiệu Từ Chính. Ông bà trộm nghĩ, hiển danh ở đời không bằng để tiếng lại cho đời sau, bèn tại bản quán, xã Quế Trạo, xứ Ngoài Làng dựng một am đá, đặt tên Hiển Khánh. Lại đem bạc vàng và ruộng tốt giao cho 3 xã Quế Trạo, Đức Thắng, Thù Sơn chia nhau cày cấy.

Nguồn: T12, tập 9, N08573-76; Đ12, tr.440-441

        Tháng 11 (tháng Mười)

 408. Các tướng Đàng Ngoài là Dương Hồ, Dương Quỳnh tham gia cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh lần thứ 5

Năm 1515, sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua Lê đưa lên thay thế, chỉ huy mọi việc. Để giữ vững quyền hành của minh, Trịnh Kiểm tìm cách loại trừ phe cánh của Nguyễn Kim mà trước hết là các con trai của ông. Người con đầu là Nguyễn Uông bị ám hại. Người con thứ là Nguyễn Hoàng lo lắng, tìm cách thoát khỏi mối đe dọa đó. Được sự gợi ý của Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hoàng nhờ chị (vợ của Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn đất Thuận Hóa. Nhận thấy Thuận Hóa đang gặp nhiều khó khăn, Trịnh Kiểm đã chấp thuận.

Năm 1558, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều anh em, bà con người Tống Sơn (Thanh Hóa – quê của ông) cùng các quan lại cũ của Nguyễn Kim; các nghĩa dũng Thanh, Nghệ vào trấn thủ Thuận Hóa. Năm 1570, Nguyễn Hoàng được giao cai quản luôn đất Quảng Nam. Sau khi ổn định tình hình ở đây, năm 1593, Nguyễn Hoàng đem quân ra Thăng Long giúp Trịnh Tùng trần áp các tàn quân của nhà Mạc và sau đó, năm 1600, vượt biển trở về Thuận Hóa.

Năm 1613, trước khi chết, Nguyễn Hoàng dặn lại con là Nguyễn Phúc Nguyên cố gắng bảo vệ dòng họ của mình.

Lên nối nghiệp cha, Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức lại chính quyền, tách khỏi sự phụ thuộc vào họ Trịnh, chỉ nộp thuế theo lệ. Năm 1620, họ Trịnh đem quân vào. Phúc Nguyên không chịu nộp thuế nữa. Năm 1627, lấy cớ đó, họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa. Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bắt đầu.

Sau 4 cuộc chiến xảy ra vào các năm 1627, 1630, 1643, 1648 cuộc chiến lần thứ 5 nổ ra vào tháng 3-1655 khi chúa Nguyễn Phúc Tần sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật mang quân chặn đánh quân Trịnh từ Bắc Bố Chính xâm lấn cướp bóc, tiến ra tận 7 huyện phía nam Nghệ An. Tháng 11-1655, sau khi tung nhiều cánh quân vào trận, sai Tả đô đốc Lungỹ Quận công Vũ Văn Thiêm đốc xuất thủy quân, chúa Trịnh cử Lại bộ Hữu thị lang Thọ Lâm nam Dương Hồ làm Đốc thị đem quân trợ chiến, đóng giữ vùng Chân Phúc.

Tháng 6-1656, quân Nguyễn đánh úp cửa biển Nam Giới, tiến vào Đan Nhai, bao vây Đại Nải. Trịnh Toàn đốc các tướng tiến đến, bày trận ra sức đánh. Đốc thị Dương Hồ khí trung nghĩa phát ra hăng hái, cưỡi voi lên trước, chỉ huy các quân tiến thẳng lên. Sau trận này, Dương Hồ được thăng Công bộ Tả thị lang Thọ Lâm bá; Dương Quỳnh làm Thự vệ sự.

Nguồn: Đ4, tr.947-949; K3, tập 2, tr.266-267.

        NĂM 1556 (BÍNH THÂN)

        Tháng 5 (tháng Tư – Bính Thân)

 409. Xã trưởng Dương Tướng Thần tổ chức lập bia Hậu thần cho người công đức

Bia được dựng tại đình Phú Kê, tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc thị trấn Tiên Lãng – Hải Phòng) ghi việc bà họ Nguyễn, hiệu Diệu Dung đã công đức 15 quan giao cho xã làm của Tam bảo.

Nguồn: V6, tr.92.

        Ngày 7 tháng 6 (15 tháng Năm – Bính Thân)

 410. Dương Trí Trạch soạn Chiêu Thiền tự tạo lệ bi

Bia tạo năm Thịnh Đức 4, đặt tại chùa Chiêu Thiền, xã Yên Lãng, tổng Yên Hạ, huyện Hoàn Long, phủ Phụng Thiên (nay thuộc quận Hai Bà Trưng – Hà Nội) cho biết về sự tích và phong cảnh chùa Chiêu Thiền, một danh lam thắng tích hạng nhất và là nơi sinh ra thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa được người đời ngưỡng mộ, xây dựng khang trang, nhiều lần trùng tu, trở thành nơi cầu chúc cho quốc thái dân an. Ngày 15 tháng Năm năm Thịnh Đức thứ 4 (1656), Hoàng thượng ban lệnh dụ cho phép dân xã Yên Lãng được làm tạo lệ phụng sự bản chùa, được miễn phu phen, dùng phúc lợi ruộng công và thuế dùng vào việc tu bổ chùa và sắm đồ tế lễ.

Nguồn: T12, tập 1, N0432-33.

        Tháng 6 (tháng Năm – Bính Thân)

 411. Tướng Đàng Trong Dương Trí tham gia vào cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh lần thứ 5

Sau khi Trịnh Toàn đến Quân thứ, đốc suất các quân tiến đến Thạch Hà, Đào Quang Nhiêu và Dương Hồ quản lĩnh quân bộ đóng ở Hương Bộc và Đại Nại, Xuân Quận công Lê Sĩ Hậu và Bùi Sĩ Lương quản lĩnh quân thuỷ đóng ở cửa biển Nam Giới, Vũ Văn Thiêm làm đốc suất đóng ở Đan Nhai, Nguyễn Hữu Tiến họp các tướng ở Na Khố, sai Dương Trí và Nguyễn Văn Kiều quản lĩnh quân thuỷ, Tống Phúc Khang và Phù Dương quản lĩnh quân bộ, chia đường tiến đánh.

Dương Trí tiến đánh ở cửa biển Nam Giới, Hữu Dật đốc suất quân bộ đánh tiếp, bắt được Xuân Quận công và 30 chiếc thuyền chiến. Dương Trí bèn tiến quân đến sông Lam, Phó tướng Văn Kiều đem quân thuỷ thẳng đến Đan Nhai, lại đánh phá tan được quân thuỷ của họ Trịnh, Văn Thiêm bỏ thuyền chạy, Trịnh Toàn hay tin, cả sợ, lui quân đóng ở Hoạt Độ. Ngay lúc ấy Phúc Khang và Phù Dương dẫn quân bộ bất thình lình kéo đến Hương Bộc bao vây toán quân của Đào Quang Nhiêu, Trịnh Toàn đốc thúc các quân đến cứu viện, Dương Hồ chỉ huy quân tiến lên phía trước. Quang Nhiêu có được quân cứu viện, bèn mở cửa thành ra đón đánh, hai cánh quân đánh khép quân của Phúc Khang.

Nguồn: K3, tập 2, tr.270.

        Tháng 11 (tháng Mười – Bính Thân)

 412. Bia Thụ Đức Quang từ bi ghi nhận Ngô Công Mỹ gốc họ Dương

Văn bia do Hương Lĩnh nam Vũ Trúc Am soạn, tạo năm Thịnh Đức 4 đặt tại Từ đường Đức Quang thờ Ngô Tướng công tại xã Như Nguyệt, tổng Hương La, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tam Giang, Yên Phong – Bắc Ninh) ghi rõ: Ngô Tướng công, húy Công Mỹ vốn họ Dương, làm quan tới chức Đặc tiến kim tử Vinh lốc Đại phu, Chưởng thái giám kiêm Tri thị nội thư tả, tước Đĩnh Quận công. Tiên tổ khảo được tặng phong Thái bảo Vĩnh Phúc hầu, Hiển khảo được tặng Thái bảo An Hòa hầu. Hiển tỉ được phong là An Hòa hầu chính phu nhân. Ông là người văn võ toàn tài, rất khiêm tốn, đức độ. Ngày lành tháng 10 năm Bính Thân, ông cho chọn đất tốt ở xứ Cửa Đình lập đền gọi là Đức Quang từ, lại cấp tiền bạc, ruộng thừa tự, hàng năm tổ chức cúng giỗ tiên tổ tại đền. Có cả ruộng ở xã An Vĩ (7 thửa), xã Hương La (8 thửa).

Nguồn: T12, tập 4, N03924-25.

        NĂM 1660 (CANH TÝ)

        Tháng 6 (tháng Năm – Canh Tý)

 413. Dương Trí Trạch tâu bày về việc thuế khóa, thi cử và trị nước

Về việc này, sử cũ chép rằng:

Tham tụng Dương Trí Trạch, Phạm Công Trứ đăng sở nói về việc thuê khoán làm trường và cung đốn các thứ cho trường thi Hương, nên đơn giản kiệm ước để bớt phí tốn cho dân. Lại dâng sớ nói về phép trị nước phải dùng cả văn lẫn võ “Đường lối trí trị là thưởng phạt cho đúng. Võ tướng thì chống ngăn quân giặc để bảo vệ nhà nước, biết ước thúc nghiêm minh, theo mệnh ra sức, để nên công việc, thì tùy thao công lao mà ban thưởng: hoặc người nào dùng dằng nhát sợ, hành quân trái luật, thì lấy quân luật trị tội. Đó là phép thường dùng để khuyên răn rất là nghiêm ngặt. Văn thần thì nên giúp vua thương dân, để tô điểm thái bình, nếu biết giữ thanh liêm, chăm việc, ngay thẳng, để xứng chức vụ, thì tùy theo chính tích mà khen thưởng, hoặc người nào thừa hành công việc, cùng là xét hỏi kiện tụng, nếu không đổi lỗi trước mà cứ uốn phép hối lộ, để chậm quá kỳ, xét xử không đúng, câu kết bè đảng, vì ân nghĩa riêng mà nhận lời thỉnh thác, làm nhiều nhũng tệ, đến nỗi nát chính hại dân, tội nhẹ thì xử giáng bãi, tội nặng thì xử theo quân luật, để bỏ hết thói tệ, cho nghiêm phép nước”. Vương nghe theo.

Nguồn: Đ4, tr.954.

        NĂM 1661 (TÂN SỬU)

        Mùa hè

 414. Hương lão Dương Chi, Sinh đồ Dương Nhữ, Dương Giáp Úy tổ chức bầu Hậu phật chùa Kim Cương

Nhà chùa thuộc xã An Cương, tổng Ninh Duy, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Khởi Nghĩa, Tiên Lãng – Hải Phòng) được Tín vãi Phạm Thị Ân góp 20 quan tiền, xã bầu làm hậu phật và khắc bia ghi nhận.

Nguồn: V6, tr.161-163.

        NĂM 1663 (QUÝ MÃO)

        Ngày 23 tháng 12 (25 tháng Một – Quý Mão)

 415. Ông bà Dương Văn Tại, Dương Thị Ngu công đức tu sửa chùa Chúc Thánh

Vĩnh lưu truyền Hậu thần Hậu phật tượng bi ký/ Nguyên cổ tích Chúc Thánh tự dựng tại chùa Chúc Thánh, xã Bồ Sao, tổng Mộ Chu, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc), mặt trước khắc ngày 25 tháng Một – Quý Mùi (23-12-1663), mặt sau khắc ngày 11 tháng Tư năm Bính Ngọ (14-5-1666) cho biết khi đó chùa tiến hành xây điện thờ và tượng Phật. Bia ghi danh sách những người đóng góp vào việc tu sửa chùa được bầu làm Hậu, trong đó một người được bầu Hậu thần (ông Dương Văn Tại, cúng 5 dật bạc và ruộng), 4 người được bầu Hậu phật (bà Dương Thị Ngu, Nguyễn Thị Liêu. Nguyễn, Thị Ngũ, Chu Thị Điêu, mỗi người cúng 3 dật bạc và ruộng).

Nguồn: T12, tập 5, N04971-72.

        Trong năm

 416. Dương Thời Cử, Dương Hữu Hưng, Dương Ngô thi đậu Hương cống

Các ông đều là người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An). Dương Thời Cử, Dương Hữu Hưng sau đều là Huấn đạo.

Nguồn: D7.

        NĂM 1666 (ẤT TỴ – BÍNH NGỌ)

        Ngày 5 tháng 1 (1 tháng Chạp – Ất Tỵ)

 417. Giám sinh Quốc tử giám họ Dương soạn văn bia Văn chỉ Gia Viễn

Giám sinh người xã Phú Gia, tổng Đa Giá, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, đạo Thanh Bình (nay thuộc Ninh Khánh, Hoa Lư – Ninh Bình). Văn bia được Đại lý tự khanh, Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1640) Hoàng Vinh, người xã Đại Hoàng, tổng Đại Hoàng, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Tây Lương, Tiền Hải – Thái Bình) nhuận sắc.

Bia mang tên Tạo tác Từ vũ thụ lập thạch bi ký được tạo vào năm Cảnh Trị 3, dựng tại Từ chỉ xã Điềm Xá, tổng Đại Hoàng, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên (nay thuộc Gia Khánh – Ninh Bình), ghi lại rằng, nhân thời thái bình, các vị chức sắc trong Hội Tư văn huyện Gia Viễn quyên góp tiên của để xây dựng văn chỉ tại xã Điềm Xá là nơi phát cả văn lẫn võ trong huyện, đồng thời xin được miễn trừ các khoản phu dịch của xã này để tổ chức tế lễ hàng năm, ghi tên người có đóng góp tiền của vào công việc này.

Nguồn: T12, tập 6, N05768-69.

        NĂM 1667 (ĐINH MÙI)

        Tháng 10 (tháng 9 – Đinh Mùi)

 418. Dương Hạo tham gia đánh dẹp Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng

Bấy giờ địa phương Cao Bằng còn bị Mạc Kính Vũ chiếm cứ, chống lại triều đình không chịu làm tôi, dân châu khổ sở. Chúa Trịnh Tạc bèn thân đem đại binh tiến theo đường Lạng Sơn, ủy cho Tiết chế phủ Thái úy Nghi Quốc công Trịnh Căn thống đốc các tướng tiến theo đường Thái Nguyên, Thái phó Lý Quốc công Trịnh Đống, Thiếu úy Vân Quận công Trịnh Kiều, Thiếu úy Hào Quận công Lê Thì Hiến, Thiếu phó Điện Quận công Trịnh Ốc, Đô đốc đồng tri Lộc Quận công Đinh Văn Tả, Lập Quận công Lê Châu làm Thống lĩnh các đốc suất; Tả thị lang Lễ bộ Dương Quận công Nguyễn Năng Thiệu, Tả thị lang Hình bộ Quế Hải hầu Lê Sĩ Triệt, Tả thị lang Công bộ Diên Lộc bá Dương Hạo, Hữu thị lang Binh bộ Nhuận Duệ bá Hồ Sĩ Dương, Hồng lô tự khanh Hải Sơn nam Nguyễn Danh Thực, Giám sát ngự sử Trương Luận Đạo làm Đốc thị, chia đường đều tiến thẳng đến Cao Bằng. Mạc Kính Vũ nghe tin đại binh đến, cùng với bè lũ chạy sang châu Trấn Yên nước Thanh. Quân các đạo đuổi theo để bắt, bắt sống được tộc thuộc trai gái của họ Mạc và đồ đảng cùng là người và súc vật, khí giới, tài vật không xiết kể. Những người đầu hàng trước sau rất nhiều. Đinh Tạc thể đức lớn hiếu sinh, đối với những người đầu hàng đều gia ơn, những người bị bắt hiếp đi theo đều khoan tha. Lại tuyên bố hiểu dụ rõ ràng, chiêu tập yên ủi nhân dân trong châu trở lại nghiệp cũ, tuân theo giáo hóa của triều đình.

Nguồn: Đ4, tr.975-976; K3, tập 2, tr.318.

        NĂM 1670 (KỶ DẬU – CANH TUẤT)

        Ngày 9 tháng 1 (18 tháng Chạp – Kỷ Dậu)

 419. Nho sinh Dương Đắc Nhuận soạn văn bia ghi việc đúc chuông chùa A Linh

An Linh tự/ Tạo chú hồng chung bi đặt tại chùa thôn Đông, xã Hà Lỗ, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Bắc Ninh (nay là chùa Hà Hương, thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội) giành để ghi tên những người tham gia đúc chuông chùa vào năm Mậu Thân (1668).

Nguồn: T12, tập 3, N03201-02.

        NĂM 1672 (TÂN HỢI – NHÂM TÝ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Tân Hợi)

 420. Tiến sĩ Dương Hạo soạn khoán ước, tôn Hậu thần

Tự sự bi ký/ Lập khoán ước tạo vào tháng Quý đông năm Cảnh Trị 9, dựng tại đình xã Gia Quất, tổng Gia Thụy, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc phường Thượng Thanh, Gia Lâm – Hà Nội) ghi rằng, ông Trần Văn Huệ, thụy là Chân Phúc, người Minh (Trung Quốc), sang ta ngụ cư ở Phương Thành du ngoạn đến xã Gia Quất huyện Gia Lâm. Ông gặp người con gái nhà danh gia là Hoàng Thị Huấn và đã cưới làm vợ. Sống ở địa phương, hai vợ chồng đã xuất ra 38 dật bạc để quan viên hương lão chuộc lại 12 mẫu 5 sào quan điền (mỗi dật bạc trị giá 8 quan tiền sử). Dân làng đội ơn và cam kết tôn bầu họ là Hậu thần cúng giỗ mãi mãi.

Nguồn: T12, tập 4, N03411-12.

        Tháng 4 (tháng Ba – Nhâm Tý)

 421. Dương Hạo được cử làm Đô ngự sử Ngự sử đài

Cùng được tin dùng còn có Nguyễn Văn Lê (người xã Dương Trai, tổng Đỗ Xá, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An) làm Lại bộ Tả thị lang; Nguyễn Mậu Tài (người xã Kim Sơn, tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc) làm Phó đô ngự sử; Lê Đắc Toàn (người xã Bình Hồ, tổng An Hồ, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An) làm Thiêm đô ngự sử.

Nguồn: L5, tập 1, tr.20-21; Đ4, tr.984.

        NĂM 1674 (GIÁP DẦN)

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Dần)

 422. Các Hương lão họ Dương tổ chức bầu Hậu thần

Tôn Hậu thần bi ký ghi rõ, bà Phạm Thị Khương người xã Cựu Đôi, tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc Tiên Lãng – Hải phòng), sau khi chồng quá cố, do gia cảnh dư giả sung túc nên đã bỏ ra 70 quan tiền sử giúp dân làng nộp thuế. Để đền đáp hậu ân, các Hương lão Dương Viết Tài, Dương Viết Chính, Dương Hữu Tài, Dương Văn Đệ cùng chức sắc và dân làng đã dựng bia, khắc bài minh ghi nhớ và suy tôn bà làm Hậu thần.

Nguồn: V6, tr.287-291.

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Dần)

 423. Quan viên, chức sắc toàn huyện Đông Ngàn dựng bia mừng hai con trai bà Dương Thị Cẩn thi đỗ Tiến sĩ đồng khoa

Đông Ngàn huyện hạ Vân Điềm Tán trị Công thần Nguyễn hầu do Tiến sĩ Vũ Duy Hài soạn, tạo tháng Trọng đông – Giáp Dần cho biết:

Bia này do quan viên chức sắc toàn huyện Đông Ngàn soạn lập để chúc mừng nhà họ Nguyễn nhân dịp Tán trị công thần Xuân Lĩnh tử Nguyễn Sùng và bà Dương Thị Cẩn có hai con là Nguyễn Khuê và Nguyễn Sĩ cùng thi đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670) niên hiệu Cảnh Trị 8. Một nhà anh em đỗ đại khoa chung một bảng, cha con làm quan đồng triều, đó là một vinh dự hiếm có. Ngoài lời chúc mừng đã ghi rõ làm thành tên bia, văn bia nhân dịp này lược kê gia thế các dời của nhà họ Nguyễn xã Vân Điềm: Tằng tổ của Nguyễn Sùng (tự Đạo Nguyên) là Nguyễn Bôn, được tặng tước Giáo Nghĩa hầu. Ông nội của Nguyễn Sùng là Lan Quận công Nguyễn Thực, Hoàng giáp khoa Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng 18 (1595). Cha của Nguyễn Sùng là Nguyễn Nghi, Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi niên hiệu Hoằng Định 20 (1619), tước Thọ Lĩnh hầu. Mẹ là Quận phu nhân Nguyễn Thị Du. Năm Quý Hợi (1623), Nguyễn Sùng mới 16 tuổi, theo ông và cha đi đánh Đàng Trong, có công, được bổ dụng vượt cấp, khi xét công được xếp hạng Tán trị Công thần, thăng chức đến Hình bộ Tư vụ. Năm Kỷ Dậu (1669) thăng chức Giám sát Ngự sử đạo Thái Nguyên, tước Xuân Lĩnh tử.        

Nguồn: T12, tập 4, N03208-11.

        Trong năm

 424. Dương Thời Nghi thi đậu Hương cống

Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), từng đỗ Tú tài năm Canh Tuất (1670). Về sau, vào năm Bính Tuất (1706) dự kỳ thi Hội chỉ trúng Tam trường.

Nguồn: D7.

        NĂM 1675 (ẤT MÃO)

        Ngày 4 tháng 5 (10 tháng Tư – Ất Mão)

 425. Giám sinh Dương Tiến Hiền soạn văn bia Diễn tự bi ký

Bia tạo năm Đức Nguyên 2, đặt tại đình Văn Giáo, xã Bá Hạ, tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên, đạo Ninh Sóc (nay thuộc xã Bá Hiến, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi việc: bà Dương Thị Liễu hiệu Từ Đức cúng 50 quan tiền và 1 thửa ruộng cho xã chi dùng vào quan dịch, lại cúng 1 thửa ruộng để lo việc hương khói sau này. Quan viên và dân làng thuận bầu bà làm Hậu thần và ghi lệ cúng giỗ Hậu thần hàng năm.

Một tấm bia khác đặt bên cạnh cũng có tiêu đề Diễn tự bi ký, tạo lập cùng thời ghi ông Dương Văn Quảng cùng vợ bà Đỗ Thị Vịnh đã cúng 10 quan tiền và một số mảnh ruộng cho xã, bản xã bầu ông bà làm Hậu thần. Có ghi lệ cúng tế Hậu thần hàng năm.

Nguồn: T12, tập 16, N015227-28.

        NĂM 1677 (ĐINH TỴ)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Đinh Tỵ)

 426. Hàng trăm người họ Dương hưng công tu tạo chùa Phúc Hưng

Trùng tu Hưng Phúc tự tạo năm Vĩnh Trị 2, do Tiến sĩ Lê Vinh Chuyết soạn, dựng tại chùa Hưng Phúc, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thuận Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Thiệu Dương – thành phố Thanh Hóa), ghi lại rằng: đất xã Dương Xá, huyện Đông Sơn nối liền với chùa Vương phủ, hưng lên điều phúc tốt lành. Nước chảy hội về ở phía trước, sông lớn bao bọc đằng sau, Ngũ Nhạc chầu ở phía nam, Tứ Sơn trấn ở phương bắc, muôn rồng tụ hội, vạn ngựa đến chầu, thật là cảnh đẹp đệ nhất, di tích linh thiêng đệ nhất vậy! Đời trước có ông tên Cự, đã nhiều lần tu sửa chùa nhưng các đồ vật còn khá đơn sơ, quy mô thì nhỏ hẹp, còn như muốn làm cho nó rộng rãi hơn thì phải hưng khởi đức ý lên, việc đại sự cần lắm một bàn tay vĩ đại, huy động toàn bộ lực lượng thì mới có thể thực hiện được.

Nay có các quan viên: Quản Thị hầu Kiên Tả đội Chánh đội trưởng Chỉ huy sứ ty Chỉ huy sứ Hữu thoa điểm Điều dương hầu Dương Đình Khoa, Đô chỉ huy Thiêm sự Linh Dương hầu Dương Cảnh Thọ, Chánh đội trưởng Khánh Dương hầu Dương Đình Thái, Đội trưởng Toàn Nghĩa bá Dương Đình Khôi, Dương Văn Dung, Dương Phú Thịnh, Dương Trục, Dương Khiết, Dương Tiến Bút, Dương Kính, Dương Văn Tiến, Dương Văn Tu, Dương Lương Phụ, Dương Thiệu Vệ, Dương Văn Chúng ứng hội phong vân, phù giúp Vương vận, chí công danh đã thỏa, đều từng hưởng ân quốc ban thưởng, tâm tư lương thiện, tự thấy ái mộ.

Các quan viên hương lão: Dương Cảnh Thọ, Hương lão Dương Phong, Dương Phú Cường, Dương Viên, Dương Yếu, Dương Phú Thọ, Dương Phan, Dương Tiến Dụng, Dương Nho, Dương Văn Thạch, Dương Đình Túc, Dương Đình Chính, Dương Tất Tố, Dương Thực; tín văn Dương Thị Yêu.

Giáp Hoàng Thượng: Dương Văn Vịnh, Dương Phê, Dương Học, Dương Bạt Khoa, Dương Thọ, Dương Tú, Dương Đình Phúc, Dương Tích Tương, Dương Văn Bản, Dương Đình Vinh, Dương Đình Tiến, Dương Thử.

Giáp Hoàng Hạ: Dương Đắc Toàn, Dương Bảo, Dương Thiêm, Dương Biện, Dương Bỉnh, Dương Văn Mỹ, Dương Đình Ý, Dương Tiến Chuyết, Dương Đình Lợi, Dương Văn Ấu, Dương Đắc Hậu, Dương Đình Luận, Dương Đình Diên.

Giáp Lan Thượng (…)

Giáp Lan Trung: Dương Hữu Quí, Dương Tất Đãi, Dương Mại, Dương Văn Lại, Dương Quân, Dương Thực, Dương Hữu Nhạn, Dương Bảo, Dương Bính, Dương Văn Tường, Dương Tất Nhậm, Dương Biên, Dương Đặc, Dương Tất Giai, Dương Thiện.

Giáp Kim Thổ: Dương Nghiễm, Dương Tính.

Giáp Kim Thượng: Dương Vinh, Dương Văn Túc, Dương Chức, Dương Khắc Khâm, Dương Văn Thông, Dương Đắc Thọ, Dương Đình Trúc.

Giáp Kim Hạ: Dương Thế Phủ, Dương Kim Ánh, Dương Đình Thân, Dương Văn Bưu, Dương Thế Hiền, Dương Thế Lộc, Dương Xuân Tiến, Dương Trí Hòa, Dương Đề, Dương Văn Tạo, Dương Nho Thuật, Dương Thuật.

Giáp Lỗii Thượng: Dương Quy, Dương Cơ, Dương Khắc Trung, Dương Đồ, Dương Nhân Thành, Dương Huy, Dương Bốn.

Giáp Lỗi Đông: Dương Tình, Dương Phú Đa, Dương Nhân Nhương, Dương Tiến Hiền, Dương Phú Mãn, Dương Đức, Dương Đống, Dương Khả Tri, Dương Phú Lộc, Dương Tiến Tích, Dương Phú Điền, Dương Nhân An, Dương Nhân Hải, Dương Thận, Dương Văn Giáo, Dương Tính, Dương Nhuệ, Dương Văn Hấp, Dương Chấn, Dương Phú Vệ.

Mọi người lớn bé già trẻ trong xã, cùng xuất của nhà không ai là không hoạn hỷ. Có người lấy tiền vàng, có người lấy châu ngọc, thi nhau được nộp trước; có người phát thóc lúa, có người phát tiền tài, lần lượt mang đến sau. […], vào ngày tốt lại quyên góp tiếp. Đến năm Bính Thìn (1676), lệnh cho thợ khởi công xây dựng. Vào ngày tốt, năm Đinh Tị (1677) lợp ngói xong xuôi, chế độ thay đổi, qui mô đẹp đẽ. 12 tòa lâu đài tựa ngọc, bốn mùa hoa cỏ tươi tốt, gió xuân thổi man mác, thắng cảnh thật vô cùng đặc biệt vậy.

Hưng công: Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Công bộ công trình Thanh Lại ti Lang trung kiêm Thủ hợp tướng thần lại Cẩm Dương tử Lê Công Thọ cùng vợ là Dương Thị Văn phát của cải cùng với 2 sào ruộng.

Người của bản xã công đức: Chánh đội trưởng An Khê hầu Lê Văn Quản cùng vợ là Ngô Thị Căng, Dương Thị Đoạt 1 quan tiền và 1 sào ruộng. Dương Văn Dung cùng vợ Lê Thị Trực, mẹ ruột là Lê Thị Lộc 3 mạch tiền. Dương Thị Cảnh 5 mạch tiền.

Chánh đội trưởng Điều Dương hầu Dương Đình Khoa cùng vợ Cao Thị Lĩnh, Quan viên tử Dương Tiến Dụng cùng vợ Dương Thị Thiệu 5 mạch tiền. Nho sinh Dương Viên cùng con gái là Dương Thị Phú, cháu là Dương Thị Khiêm 2 quan tiền. Dương Thị Liêm tên hiệu Diệu An 5 mạch tiền. Xã quan Dương Văn Thạch cùng vợ Nguyễn Thị Long 5 mạch tiền, Dương Thị Dự 5 mạch tiền.

Xã sử Nguyễn Văn Học cùng vợ là Dương Thị Nghiễm 5 mạch tiền. Con trai Chánh đội trưởng Dương Đình Thái cùng vợ là Trần Thị Tuyên 1 quan tiền.

Xã trưởng Dương Quang Trẫm cùng vợ và vợ chồng con trai là Dương Nho Vệ và vợ Dương Thị Lĩnh […].

[…] Tướng thần lại Khâm Bật nam Nguyễn Đình Úy cùng vợ là Dương Thị Thư người xã Bá Dương 6 mạch tiền. Chu Thị Điều cùng con trai là Dương [ ] và vợ Nguyễn Thị […].

Dương Đình Thân cùng con trai là Dương Đình Sách, Dương Đình Viện, Dương Đình Tiến, Dương Thị Chúng, Đội trưởng Toàn Nghĩa hầu Dương Đình Khôi cùng vợ Chu Thị Lí, Dương Đình Luận cùng vợ Dương Thị Cẩn, Kim Thế Vọng cùng vợ Lê Thị Nhũ tổng cộng là 5 mạch tiền. Lê Hữu Ngoan cùng vợ Dương Thị Thám 1 mạch tiền.

Trịnh Vi cùng vợ Dương Thị Hảo 2 mạch tiền. Dương Khắc Mi cùng vợ họ Dương 1 mạch tiền.

Cụ Hiển khảo Binh bộ Thanh Lại ti Lang trung Văn Lương tử Dương Trinh, vợ Dương Thị Liễn nguyên cúng một sào ruộng tại xứ Khả Như cúng làm của Tam bảo tại chùa Phúc Hưng.

Tiền Cai hợp Hợp sử Văn Duệ tử, Dương Công Khanh cùng vợ là Chu Thị Dụng cúng ruộng Tam bảo ở xứ [ ] Chùa, gồm 5 mảnh.

Nguồn: T16, tập 1, tr.167-188; T9, tr.370-380.

        NĂM 1680 (CANH THÂN)

        Tháng 3 (tháng Hai – Canh Thân)

 427. Dương Khoan Nghị cung tiến ruộng đất, tiền của cho chùa Khánh Vân

Tôn sư Hậu thần bi/ Lưu truyền bản thôn ước dựng tại chùa Khánh Vân tổng Hà Liễu, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Khánh Hòa, Thường Tín – Hà Nội) ghi việc ông họ Dương, tự Khoan Nghị người bản xã cùng vợ họ Nguyễn, hiệu Từ Hiếu, người làng Nhị Khê, tổng Cổ Hiền, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là xã Nhị Khê, Thường Tín – Hà Nội) có con trai thi đỗ Tiến sĩ, đã cúng vào chùa Khánh Vân 3 sào 3 thước đất, 1 mẫu ruộng, xuất 100 quan tiền sử để đúc chuông, lại xây 3 gian nhà gỗ lim lợp ngói cho miếu thờ Đại vương và 3 gian từ vũ xây gạch. Dân xã tôn bầu cha mẹ họ làm Hậu thần. Có quy định các thể thức cúng giỗ, mẫu văn khấn và ghi lại vị trí, diện tích các thửa ruộng.

Hiện, chưa tra cứu được tên tuổi, khoa thi của vị Tiến sĩ kể trên.

Nguồn: T12, tập 3 N02729-32.

        Tháng 6 (tháng Năm – Canh Thân)

 428. Lão nhiêu Dương Văn Dĩnh được bầu Hậu thần làng Cung Kim

Bia Sáng lập Hậu thần bi/ Hương hỏa lưu truyền dựng tại chùa Thượng Phúc, xã Cung Kiệm, tổng Bất Phí, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Nhân Hòa, Quế Võ – Bắc Ninh) ghi việc, vào năm Vĩnh Trị 5, Lão nhiêu Dương Văn Dĩnh bỏ ra 32 quan tiền để xây tòa Thiêu hương của chùa và cúng 2 thửa ruộng làm ruộng tam bảo nên được bầu làm Hậu phật. Bia có ghi họ tên những người khác cùng tham gia đóng góp tiền để sửa chùa nên cũng được bầu làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 5, N05362-63.

        NĂM 1681 (TÂN DẬU)

        Tháng 3 (tháng Hai – Tân Dậu)

 429. Vợ chồng bà Dương Thị Ban cung tiến sửa chữa chùa Nam Bảo

Hưng công Hậu phật bi ký tạo năm Chính Hòa 2, dựng tại chùa Nam Bảo, xã Du Lâm Ngoại, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Mai Lâm, Đông Anh – Hà Nội) ghi rằng, bà Dương Thị Ban, hiệu Từ Thành cùng chồng là ông họ Ngô, tự Phúc Tín xuất 100 quan tiền để làng tu sửa 4 dãy nhà chùa và gian Chính điện, được dân làng khắc bia ghi công và bầu làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 3, N02979.

        NĂM 1682 (NHÂM TUẤT)

        Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Tuất)

 430. Ông Dương Quang Phục tổ chức bầu Hậu thần làng Lai Hoa Thượng

Làng thuộc tổng Hà Đới, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Lai Phương, xã Tiên Thanh, Tiên Lãng – Hải Phòng) vào lúc có việc quan không tìm được nguồn tài chính thì được bà Phạm Thị Liệu, vốn lòng chất phác, luôn cảm điều nghĩa, đau đáu lòng nhân, không tiếc tiền của, luôn nghĩ việc dân đã cung tiến cho làng xã 45 quan tiền trang trải. Nhân đó, ông Dương Quang Phục cùng các bậc quan viên hương lão trong làng đã tổ chức bầu bà làm Hậu thần, khắc bia đá lưu lại muôn thuở.

Nguồn: V6, tr.359-362.

 

NĂM 1684 (GIÁP TÝ)

        Ngày 29 tháng 2 (15 tháng Giêng – Giáp Tý)

 431. Dương Công Độ thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Khoa thi Hội được mở từ tháng Mười – Quý Hợi (11-1683 – theo Lịch triều tạp ký); tháng Một – Kỷ Hợi (12-1683 – theo Đại Việt sử ký tục biên); mùa đông năm Quý Hợi (theo Chính Hòa tứ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ Đề danh ký do Nguyễn Kiều soạn văn bia) cho các cống sĩ trong nước. Đặc sai Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Thiếu phó Lộc Quận công Đinh Văn Tả làm Đề điệu, Bồi tụng Ngự sử đài Đô Ngự sử Hải Sơn tử Nguyễn Danh Thực làm Tri Cống cử, Bồi tụng Tả Thị lang Nhập thị Kinh diên Vĩnh Ngạn tử Nguyễn Công Vọng, Bồi tụng Hữu Thị lang Bộ Lại Nguyễn Viết Đương làm Giám thí, cùng các quan hữu ty chia giữ các việc.

Vâng mạng lấy những quyển hợp cách được đỗ là Phạm Quang Trạch 18 người. Ngày 1 tháng 2-1684 (16 tháng Chạp – Quý Hợi) chúa Trịnh cho phủ liêu truyền bảo các cống sĩ trong nước: nếu ai có tài học và danh vọng thì cho đến hạ tuần tháng Giêng năm sau, nộp quyển đi thi, ai đỗ thì được tùy tài bổ dụng, để mở rộng đường lối cầu hiền.

Chính Hòa tứ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ Đề danh ký, cho biết:

Chiếu trên ban xuống, kẻ sĩ trong nước náo nức chiếm tên bảng vàng, hát thơ Lộc minh đến ứng thí tất cả đến 3.000 người. Qua trường bốn, lấy hạng trúng cách được 18 người. Bảng mực nhạt vừa mới treo lên thì năm cũ cũng vừa sắp hết. Đến ngày tháng Giêng năm Giáp Tý (1684) vào sân lớn làm bài đối sách, Hoàng thượng định thứ bậc cao thấp. ban cho Nguyễn Đăng Đạo 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Nguyễn Đương Hồ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Trần Thiện Thuật 14 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Loa truyền xướng danh, treo bảng đề tên ở nhà Quốc học. Được ban áo xanh đai mũ, yến Quỳnh hoa bạc, sự đãi ngộ ân sủng chẳng kém gì các khoa trước.

Trời sinh hiền tài là muốn để dùng cho đời, bậc nhân quân trị nước điều cốt yếu cần rộng chọn hiền tài. Bởi vì hiền tài là khí dụng của quốc gia, khí dụng đủ thì điều khiển giao phó chẳng việc gì không được, chính sự không việc gì không làm nổi, mà cơ đồ không thể không vững chắc, thế đạo không thể không thịnh sáng vậy. Cho nên đời xưa trị nước, không gì gấp bằng cầu tìm hiền tài để tin giao công việc.

Hãy nói về khoa này, những người đỗ đạt bước chân vào đường sĩ hoạn, việc trong việc ngoài bao lần thay đổi, vất vả lo toan việc nước nhà, công lao nhiều ít đại khái đã thấy rõ. Nhưng bấm đốt ngón tay đếm lại, sau ba thập kỷ, tại chức chỉ còn một người, lên hàng Quốc lão một người, làm quan ở Ngự sử đài hai người, những người khác cũng từng được đeo đai đại thần của các triều. Đó là chỉ kể các vị đỗ thứ nhất, thứ ba, thứ tư và vị trưởng khoa, số còn lại đã cưỡi sao Cơ về trời, hồng bay mất dấu, thành người thiên cổ cả rồi, không còn nói gì được nữa. Nhưng những người hiện đang được tiều nay trọng dụng há không nhớ ơn lựa chọn của Tiên vương, cảm nghĩ sự biểu dương ngày nay mà cẩn thận bước đường về sau, mỗi ngày một tiến để khỏi hổ thẹn với khoa danh sao? Thảng hoặc không được như thế, chỉ nặng nghĩ lo riêng cho mình mà nhẹ lòng vì việc nước, cầu may cho được chu toàn, thích xu nịnh, né tránh việc mất lòng, ắt không tránh khỏi công luận mai sau, há chẳng đáng sợ hay sao?”.

Dương Công Độ, người xã Nhị Khê, tổng Cổ Hiền, huyện Thương Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là xã Nhị Khê, Thường Tín – Hà Nội), làm quan đến Quyền Tham chính.

Nguồn: L5, tr.94-96; Đ6, tr.26; V2, tr.361-367.

        Ngày 18 tháng 4 (4 tháng Ba – Giáp Tý)

 432. Xã trưởng Dương Đắc Danh cùng các Hương trưởng bầu Hậu thần làng Cựu Đôi

Làng Cựu Đôi, tổng Phú Kê, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Tiên Thanh, Tiên Lãng – Hải Phòng) lập Phong Hậu thần bi để ghi danh xã quan cũ là Nguyễn công tự Phúc Tài cùng vợ là Phạm Thị Duệ rộng lòng nhân ái, khí chất tốt lành, đã đem 300 quan chia cho người trong xóm ấp. Do đó ông bà được tôn phong làm Hậu thần.

Nguồn: V6, tr.398-401.

        Tháng 4 (tháng Ba – Giáp Tý)

 433. Dương Tự Lệ dự kỳ thi Sĩ vọng, đậu Đệ tam Tiến sĩ

Căn cứ vào chiếu lệnh do chúa Trịnh ban ngày16 tháng Chạp – Quý Hợi, đến tháng Ba – Giáp Tý (4-1684), kỳ thi Sĩ vọng được tổ chức, lấy Hà Tông Mục 26 người đỗ Đệ tam Tiến sĩ.

Dương Tự Lệ, người xã Cảo Đỉnh, tổng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay là phường Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm – Hà Nội), cùng quê với Dương Tự Cường. Sau khi đỗ Hương cống, ông lần lượt làm Tri huyện, Tri phủ, Hiến sát Phó sứ Kinh Bắc.

Nguồn: L5, tr.96; Đ6, tr.26; T28, tr.97.

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Tý)

 434. Các quan viên Dương Bá Thi, Dương Văn Khô lập bia Hậu phật cho người có công với làng Lật Dương

Hậu phật được dựng vào tháng Bính Tý năm Giáp Tý tại chùa Bà Trà, xã Lật Dương, tổng Kỳ Vĩ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Quang Phục, Tiên Lãng – Hải Phòng) ghi nhận 2 người họ Nguyễn có công với làng xã.

Nguồn: V6, tr.393-398.

        Trong năm

 435. Dương Công Giản, Dương Công Chưởng thi đậu Hương cống

Hai ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), có dự mấy kỳ thi Hội, chỉ trúng Tam trường.

Nguồn: D7.

        NĂM 1686 (BÍNH DẦN)

        Tháng 3 (tháng Hai – Bính Dần)

 436. Bà Dương Thị Phương được bầu làm Hậu thần xã Khắc Niệm Hạ

Hậu thần bi ký/ Phụng sự ước ký tạo năm Chính Hòa 7, dựng tại đình Khắc Niệm Hạ, tổng Khắc Niệm, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc thành phố Bắc Ninh) ghi việc quan viên hương lão xã Khắc Niệm Hạ bầu Hậu thần cho bà Dương Thị Phương người bản xã, vì bà là người nhân đức, thường bố thí cho người nghèo, bà lại đã cúng250 quan tiền, 2 mẫu ruộng cho làng. Bia khắc nguyên văn đơn bầu Hậu lập vào năm Ất Sửu (1685) ghi cam kết về nghi thức cúng giỗ hàng năm và họ tên những người ký bầu Hậu.

Nguồn: T12, tập 6, N05175-76.

        Tháng 11 (tháng Mười – Bính Dần)

 437. Hiệu sinh Dương Viết Giáo, Dương Viết Trí công đức xây đền Thánh hiền tại xã Ninh Duy

Thánh hiền từ bi ký do Giám sinh Quốc tử Giám Đỗ Tán soạn, cho biết trước đây hàng năm Hội Tư văn huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là Tiên Lãng – Hải Phòng) thường tổ chức tế lễ Thánh hiền nhưng chưa có Bái đường, chỉ lặng lẽ cảm công đức. Nhận thấy phải mở ra từ miếu để chấn hưng nếp Tư văn làm sáng ngời kim cổ rồi dựng bia cao ngất đẽo gọt chạm khắc để cho vạn đời được thấy, muôn thuở không dời. Để làm được là nhờ sự hưng công của các hiệu sinh – trong đó có Dương Viết Giáo, Dương Viết Trí.

Nguồn: V6, tr.442-651.

        NĂM 1687 (ĐINH MÃO)

        Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Mão)

 438. Bà họ Dương, hiệu Từ Hiếu cấp ruộng cho giáp Đông phường Thụy Chương

Nghĩa điền bi ký dựng năm Chính Hòa 8 dựng tại phường Thụy Chương, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc quận Tây Hồ – Hà Nội), bà là phu nhân của vị Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thiếu úy Phó tướng Tông Quận công, là người nhân hậu. Bà đã cấp cho giáp Đông phường Thụy Chương 3 mẫu, 1 sào, 2 khẩu ruộng và 1 cái ao để giáp cày cấy. Bản giáp nhớ ơn bà, định lệ cúng giỗ sau ngày bà trăm tuổi. Lễ vật gồm 1 con bò, 4 mâm xôi, rượu và cau trầu đủ dùng.

Nguồn: T12, tập 1, N030-3.

        Trong năm

 439. Dương Minh Thời thi đậu Hương cống

Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An)

Nguồn: D7.

        NĂM 1688 (MẬU THÌN)

        Ngày 4 tháng 10 (11 tháng Chín – Mậu Thìn)

 440. Ông Dương Hữu Đạo được ghi nhận công đức với xã Thạch Lựu

Theo tấm bia tạo năm Chính Hòa 9 dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu, tôntr Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) thì người bản xã là Dương Hữu Đạo bỏ ra 450 quan sử tiền để xã xây đình, dựng cầu với mong muốn báo đáp ơn sinh thành của cha mẹ, ông lại cúng 5 sào ruộng vào chùa làm ruộng Tam bảo. Toàn xã nhất trí bầu cha mẹ ông là Hậu phật, hàng năm vào ngày 15 tháng 11 và ngày giỗ kỵ làng sẽ sắm lễ vật đến cúng giỗ Hậu phật tại chùa.

Nguồn: T12, tập 12, N011132-34.

        NĂM 1689 (KỶ TỴ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Tỵ)

 441. Văn thuộc Dương Văn Tuyên công đức xây dựng chợ Gió (Lương Phong)

Tạo cấu tác thạch nhất hưng công quán thương gian Tam bảo lập bi dựng năm Vĩnh Thịnh 2 (Bính Thân – 1716) tại thôn Chợ, xã Lương Phong, tổng Đông Lỗ (Hiệp Hòa – Bắc Giang) cho biết, vào tháng Giêng – Kỷ Tỵ (2-1689) bản xã làm một khu chợ, chi phí rất tốn kém nhưng may nhờ các tín thí ở địa phương nhiệt tâm công đức nên việc xuôn xẻ. Mãi tới thời điểm này xã mới làm bia khắc ghi tên họ hơn 500 tín thí, trong đó có Văn thuộc Dương Văn Tuyên.

Nguồn: Đ12, tr.429.

 

NĂM 1690 (CANH NGỌ)

        Tháng 3 (tháng Hai – Canh Ngọ)

 442. Tiến sĩ Dương Công Độ được vinh danh tại làng Nhị Khê

Lịch đại khoa danh bi ký được dân làng Nhị Khê tạo dựng vào tháng Trọng xuân niên hiệu Chính Hòa 11, đặt tại Văn chỉ bản xã, đề danh 7 vị – trong đó tiền triều 6 vị: Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi (khoa Canh Thìn), Nguyễn Tố Giám (Thừa chính sứ xứ An Bang – theo Tộc biên), Ứng Ngạn Lương (khoa Ất Mùi), Nguyễn Trung Lượng (khoa Bính Thìn), Ngô Hồn (Hoàng giáp triều Trần) và đương đại 1 vị: Dương Công Độ (khoa Quý Hợi); đồng thời khắc tên 19 người từng dự Hội thí, trong đó có một số người con cháu của Nguyễn Trãi.

Nguồn: T12, tập 3, N02684-85.

        Tháng 9 (tháng Tám – Canh Ngọ)

 443. Dương Quang Lộc soạn văn bia cho Văn chỉ xã Trung Mầu

Bản hội Tư văn bi truyền/ Đệ niên xuân tiết tựu tế do ông soạn, tạo năm Chính Hòa 11, đặt tại Văn chỉ xã Trung Mầu, tổng Dũng Vi, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội) ấn định tiết xuân hàng năm cùng nhau hội họp tế lễ. Ngoại các vị đỗ đạt đã chép vào bia lưu truyền như Dương quý công tự Phúc Thịnh, Phủ sinh Dương quý công tự Phúc Hiền, Tiền thập lý hầu Dương quý công tự Phúc Thiện, nay giáp Tư văn Trung Mầu dựng bia ghi danh sách các vị Hậu hiền để lưu truyền phụng thờ – trong số này có các vị Dương Hữu Luận, Dương Hữu Di, Dương Hữu Tín.

Nguồn: T12, tập 8, N07110-11; T21, tr.488-493.

        NĂM 1691 (TÂN MÙI)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Tân Mùi)

 444. Bà Dương Thị Chính cùng chồng cung tiến tu tạo chùa Bảo Quang

Hậu thần hậu phật bi/ Công đức hồng chung bi ký do Sinh đồ Trịnh Tài Kham soạn, dựng tại chùa Bảo Quang, xã Diện Xuyên, tổng Phong Xá, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Phong Xá, Yên Phong – Bắc Ninh), ghi việc, Cai huyện Phượng Lộc hầu kiêm Kỳ Anh đại sĩ Nguyễn Như Cao người xã Thổ Hà và vợ là Dương Thị Chính đã cúng cho bản xã tiền để tu sửa điện thiêu hương, hành lang, tiền đường, hậu đường, tạo tượng Phật chùa Bảo Quang. Xã nhớ ơn bầu vợ chồng ông là Hậu thần Hậu phật. Ghi tên các hội chủ trong xã và các Hội chủ ở xã huyện khác đã đóng góp tiền của tu sửa chùa.

Nguồn: T12, tập 4, N03978-79.

        NĂM 1692 (NHÂM THÂN)

        Tháng 4 (tháng Ba – Nhâm Thân)

 445. Bà Dương Thị Trường cung tiến tu sửa đình vũ thôn Hương Giao

Dương gia tạo bia/ Bản thôn ưng bảo/ Thượng hạ cộng ký/ Vạn đại tuân tự là tấm bia 4 mặt, tạo năm Chính Hòa 13, dựng tại đình xã Hương Thịnh, tổng Gia Cát, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Quang Minh, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi việc bà Dương Thị Trường hiệu là Từ Thuận, ở thôn Hương Giao xã Gia Định huyện Hiệp Hòa phủ Bắc Hà, vợ cả ông Thập lý hầu là người khoan hòa, đức hạnh. Năm Kỷ Tỵ (1689) thấy đình làng vì lâu ngày bị hư hỏng dột nát, bản xã phải tu tạo bà đã cúng cho làng 200 quan tiền sử, 3 thửa ruộng sản lượng 20 gánh thóc để tu sửa đình. Quan viên, dân thôn tôn bầu bà làm Hậu thần và ghi lệ cúng giỗ hàng năm và vị trí, diện tích các thửa ruộng tiến cúng.

Nguồn: T12, tập 8, N07036-39; tập 10, N09068-71.

        Ngày 1 tháng 5 (16 tháng Ba – Nhâm Thân)

 446. Các xã quan họ Dương họp bầu Hậu thần làng Thạch Lựu

Bia Hậu thần nhị vị tạo năm Chính Hòa 13 dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Dương) ghi việc các xã quan Dương Văn Thuần, Dương Văn Thành, Dương Hữu Lễ, Dương Hữu Phỉ, Dương Tá Thoát, Dương Thế Triều, Dương Nhân Hậu, Dương Tiến Quý, Dương Hữu Tín, Dương Văn Áo, Dương Văn Định đã họp tại đình làng để bầu vợ chồng ông Lưu Văn Trữ làm Hậu thần vì ông bà đã cung tiến cho xã 60 quan tiền sử và 5 sào ruộng để chi dùng.

Nguồn: T12, tập 12, N011120-21.

        Tháng 9 (tháng Tám – Nhâm Thân)

 447. Ông Dương Tiến Tài cung tiến cột Thiên đài cho đình Đặc Mai (Đức Mại)

Dòng chữ Tạo/ lập/ Thiện/ đài hiện còn trên cột đá trước đình xã Đức Mại (văn bia ghi là Đặc Mai), tổng Mỹ Thái, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang (nay thuộc Lạng Giang – Bắc Giang) ghi lại sự việc trên cùng câu khấn cầu bình an.

Nguồn: T12, tập 7, N06073-76.

        Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Thân)

 448. Sinh đồ Dương Thế Thái, Dương Song Phong soạn văn bia cho chùa Lỗ Khê

Ân lưu vạn đại bi do hai ông soạn, tạo vào tháng Trọng Đông năm Chính Hòa 13 dựng tại chùa thôn Đông, xã Lỗ Khê, tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội) ghi việc, Ông Thượng thọ Kỳ Anh, kiêm Tri phủ sĩ, Trùm trưởng Trịnh Đăng Tiên cúng cho làng 20 quan tiền sử và 1 mẫu ruộng để xin dựng tượng Hậu phật. Dân làng đồng ý và định lệ cúng giỗ hàng năm. Ngoài ra, bia ghi họ tên người cúng tiến tiền của xây dựng một chiếc cầu ở trong thôn.

Nguồn: T12, tập 4, N03193-94.

 449. Ông họ Dương tự Phúc Định cùng vợ giúp xã Lai Hoa Thượng có tiền trả nợ

Hậu thần bi ký/ Bản xã bi ký tạo năm Chính Hòa 13 dựng tại đình xã Lai Hoa Thượng – còn gọi là Lai Phương, tổng Hà Đới, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (Tiên Lãng – Hải Phòng) ghi việc ông và vợ là bà Phạm Thị Hạnh hiệu là Diệu Ngân ở xã Lai Hoa Thượng huyện Tiên Minh phủ Nam Sách đã cúng cho xã 77 quan tiền sử để xã trả nợ. Quan viên, hương lão bản xã tôn bầu ông bà làm Hậu thần. Có ghi lệ cúng tế hàng năm và bài minh 28 câu ca ngợi cảnh đẹp của làng và công đức của Hậu thần.

Nguồn: T12, tập 10, N09359-60.

        NĂM 1693 (QUÝ DẬU)

        Tháng 6 (tháng Năm – Quý Dậu)

 450. Họ Dương thôn Khê Khẩu đóng góp với làng xóm

Sáp lập Hậu thần bi ký tạo năm Chính Hòa 14 dựng tại đình thôn Khê Khẩu, xã Lam Sơn, tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay gọi là thôn Chản Làng, xã Yên Sơn, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi nhận rằng, các vị hương lão ở hai giáp Đông và Tây thuộc thôn Khê Khâu xã Lan Sơn, như Dương Vĩnh Trường, Dương Hữu Tài, Dương Ngọc Dung, Dương Mậu Nhân, Dương Ức, Dương Mậu Tiến, Dương Phú Tài, v.v… đã họp bàn và ra kính cáo với toàn thôn rằng: vì gặp phải việc kiện tụng, không có tiền chi tiêu, ai đóng góp tiền của cho bản thôn sẽ được lập Hậu và khắc vào bia đá để lưu truyền về sau. Ghi họ và tên, tự hiệu của một số hương lão, Sinh đồ cúng tiền, ruộng vào mục đích trên như: Thập Lý hầu Dương Ý tự là Huyền Đan góp 100 quan tiền và 2 thửa 2 khóm cộng 16 sào ruộng; ông Dương Mậu Tiến tự là Phúc Tiên góp 100 quan tiền và 1 thuở 2 khóm cộng 4 sào ruộng, v.v… Có ghi những người chứng kiến ký tên.

Nguồn: T12, tập 9, N08032-35.

        NĂM 1694 (GIÁP TUẤT)

        Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Tuất)

 451. Các sãi vãi họ Dương đóng góp xây quán ngói chợ An Tất

An Tất thị/ Hoàng đồ hữu vĩnh phật đạo vô cùng tạo năm Chính Hòa 15, dựng tại chợ An Tất, xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi danh các sãi vãi Dương Thị Lâm, Dương Thị Lãng, Dương Thị Vinh, Dương Thị Chén và Dương Văn Tích đã đóng góp tiền của hưng công xây dựng 5 gian quán ngói chợ An Tất.

Nguồn: T12, tập 12, N011149-50.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Giáp Tuất)

 452. Dương Công Đương được Nguyễn Danh Nho, Ngô Sách Tuân lạm bổ vào chức Tự ban

Ông người phường Thái Cực, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên. Sở dĩ xảy ra một số rắc rối quanh con đường hoan lộ của ông vì Tả thị lang Lại bộ Nguyễn Danh Nho và Hữu thị lang Lại bộ Ngô Sách Tuân được giao trách nhiệm thuyên chuyển các chức quan, bị tố cáo là tư vị, nên nhiều người bị coi là lạm bổ.

Sau việc này, Dương Công Đương trở về chức vị cũ.

Nguồn: L5, tr.139-141; Đ6, tr.39.

        NĂM 1695 (ẤT HỢI)

        Tháng 12 (tháng Một – Ất Hợi)

 453. Tiến sĩ Dương Công Độ soạn văn bia Văn chỉ huyện Thượng Phúc

Thượng Phúc huyện khoa danh ký đặt tại Văn chỉ hàng huyện thuộc xã Văn Hội, tổng Thượng Hồng, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Văn Bình, Thường Tín – Hà Nội) ghi lại rằng:

Đất Thượng Phúc là nơi có truyền thống khoa bảng. Cha con anh em nối bước nhau. Trong sách ghi toàn huyện có 75 người đỗ đạt. Song khảo ở bia Văn Miếu (Hà Nội) và Đăng khoa lục chỉ thấy có 44 người. Nay Tư văn hàng huyện dựng bia, đặt ở xã Văn Hội, ghi họ tên chức tước các vị được thờ như: Bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh, làm chức Tư nghiệp, người xã Nhị Khê. Con là Bình Ngô khai quốc công thần Nguyễn Trãi cũng được thờ. Còn có Nguyễn Đình Tích làm Thị lang thừa chỉ v.v.. Hàng năm xuân thu nhị kỳ các quan viên áo mũ chỉnh tề ra tế. Xã An Duyên được giao trông nom văn chỉ, sinh đồ Trương Công Khuê quét dọn. Đến năm Bính Thân, Câu đương giám sinh Đinh Tông Thuyên, Tri huyện Hoài An Đinh Bá Thường cùng các quan viên, bỏ ra 300 quan để sửa tiền đường và nội đường văn chỉ. Công việc xong xuôi chiếu bổ các xã trong huyện phải nộp. Xã An Duyên vì trông coi văn chỉ nên được miễn đắp đê quan và công dịch khác. Nay xã lại đóng 50 quan vào việc tu sửa văn miếu, nên được miễn lệ nộp lễ mỗi năm 10 quan.

Ngoài ra, bia còn liệt kê một số nhân vật họ Dương – có người làm đến Nhập hội Hành khiển đời Trần, Dương Công Nguyên giữ chức Đô ngự sử, Dương Kỳ làm đến Lại bộ Hữu thị lang… cũng như việc cung tiến cho việc dựng bia này có Dương Công Độ góp 40 quan tiền cổ, Dương Công Tiến ở Quất Động, Dương Khuê ở Bãi Lăng.

Nguồn: T12, tập 9, N08196-97; V12, tr.831-832; T9/2009.

        NĂM 1696 (BÍNH TÝ)

        Trong năm

 454. Các bà Dương Thị Đạm, Dương Thị Vạn được tôn Hậu phật xã Tam Trạch

Đại Bi tự/ Hậu phật bi tạo năm Chính Hòa 17 dựng tại chùa Đại Bi, bản xã, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Trung Hòa, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi, chùa Đại Bi ở bản xã là một danh lam cổ tích, nhưng vì lâu ngày bị hư nát. Nay các ông bà Dương Thị Đạm, Nguyễn Thị Nghĩa, Dương Thị Vạn ở hai thon Phùng, Cảo thuộc bản xã đã cúng 30 quan tiền sử, một số ruộng cho làng tu sửa chùa, được tôn bầu làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 7, N06925-28.

        NĂM 1698 (ĐINH SỬU – CANH DẦN)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Đinh Sửu)

 455. Bà Dương Thị Nông được bầu Hậu thần xã An Liệt

Hậu thần bi ký tạo tháng Quý đông năm Chính Hòa 18, dựng tại miếu xã An Liệt, tổng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là xã Thanh Hải, Thanh Hà – Hải Dương) ghi việc bà cùng bà Vũ Thị Mai, mỗi người cúng cho xã 3 sào ruộng và 30 quan tiền nên được tôn làm Hậu thần và khắc bia ghi lại.

Nguồn: T12, tập 12, N011458.

        NĂM 1699 (KỶ MÃO)

        Mùa xuân

 456. Thư tả họ Dương soạn văn bia ghi nhận được sự đóng góp của nhiều người trong dòng họ ở làng Xuân Lan

Thư tả là người xã Vĩnh Thế (Tư Thế) cùng tổng Khương Tự với xã Văn Lan (Văn Quan), huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay đều trong xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) khi viết Huệ trạch tự/ Tân tạo hồng chung vào năm Chính Hòa 20, ngoài việc ghi lại sự kiện năm Quý Dậu (1693) mẹ con ông Thái bảo Vị Quận công Trịnh Liệu hợp sức cùng dân thôn đúc một chiếc chuông lớn đem từ Kinh thành về treo ở chùa; bia còn ghi những công việc năm Kỷ Mão (1699) thôn xây dựng gác chuông, trước thôn có việc kiện tụng về đường đi rước Phật, nay quan ở Ngự sử đài đã xét cho xã được đi đường thẳng từ xã Trà Lâm đến chùa Từ Kỳ trong ngày hội rước Phật và ca ngợi đây là nơi đất tốt, xuất hiện nhiều anh tài, nhân dân có lòng sùng đạo. Đặc biệt, các ông bà Dương Mán, Dương Văn Học, Dương Văn Chính, Dương Hữu Tốn, Dương Thị Hai, Dương Thị Hương, Dương Thị Cải, Dương Thị Hảo, Dương Thị Thiện, Dương Thị Biển đã phát tâm công đức tiền của cho các viện trên.

Nguồn: T12, tập 4, N03602-04.

        Trong năm

 457. Dương Công Trình thi đậu Hương cống

Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).

Nguồn: D7.

        NĂM 1700 (CANH THÌN)

        Ngày 13 tháng 4 (25 tháng Hai – Canh Thìn)

 458. Dựng bia ghi nhận công lao của Hội chủ Dương Thế Phúc với chùa Thanh Quất

Đồng Quất xã/ Thanh Quất tự được Tri phủ Đào Danh Tiên soạn, dựng tại chùa bản xã, tổng Thư Xá, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Tam Hồng, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi lại rằng:

Ngày 15 tháng Một năm Kỷ Mão (4-1-1700), Hưng công hội chủ Dương Thế Phúc tự Đạo Tín hiệu Đức An và hội chủ Nguyễn Tiến Phụng tự Minh Đạo hiệu Vạn Thế đã cùng chư vị thiện tín xã Đồng Tâm huyện Yên Lạc đóng góp tiền của tạo cột hương ở chùa Thanh Quất. Ngày 15 tháng Hai năm Canh Thìn (3-4-1700) thì công việc hoàn tất. Nay dựng bia ghi lại việc, ghi họ và tên các vị hưng công hội chủ, các vị thiện nam tín nữ đã công đức vào việc tạo dựng cột hương cho chùa Thanh Quất.

Nguồn: T12, tập 16, N015184-87.

        Tháng 9 (tháng Tám – Canh Thìn)

 459. Ngô Công Mỹ – gốc họ Dương được Kính sự từ vũ bi ký vinh danh

Bia do Tiến sĩ Nguyễn Công Đổng soạn, tạo năm Chính Hòa thứ 21, dựng tại Từ vũ xã Đồng Tân, tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là Văn chỉ thôn Quế Tân, xã Thái Sơn, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi rằng, xã Quế Trạo và xã Quế Sơn huyện Hiệp Hòa là nơi có nhiều nhân tài, nhiều người đỗ đạt và có thơ văn để lại cho đời, nhưng chưa xây dựng Từ vũ để tôn sùng việc học. Hai hội của hai xã đã chọn thế đất bên phải đình, cho xây dựng Từ vũ, phía trong một gian hai trái, bên ngoài ba gian hai trái theo hình chữ “Công”, trên lợp ngói. Bia cũng ghi một số thửa ruộng của Từ vũ và họ tên các vị Tiên hiền của địa phương gồm:

Nhập nội Thái truyền, Mai Quốc công, Minh Nghĩa công Dương tướng công.

Mậu Tuất khóa (1508) Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh, Đặc tiến kim tử Đại phu/ Lễ bộ Tả thị lang, kiêm Đông các Đại học sĩ Hoằng Phúc hầu, Hoằng tướng công, húy Sầm.

Kỷ Mùi khoa (1619) Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, đi sứ Bắc quốc, Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Hộ bộ Thượng thư, Trụ quốc trí sĩ, Hương Khê hầu, Nguyễn tướng công, húy Kính.

Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, phong tặng Đô đốc đồng tri Đĩnh quận công, Ngô tướng công, húy Công Mỹ.

Phong tặng Hiển cung đại phu, Lạng Sơn xứ Tán trị Thừa chánh sứ ty Tham nghị, Thái Sơn nam, Ngọ quý công, húy Công Tuấn, gia phong tặng Vũ Huân tướng quân Tham đốc Thần vũ tứ vệ quân vụ sự Phúc An hầu.

Phong tặng Hiển cung đại phu Thái Nguyên xứ Tán trị Thừa chánh sứ ty Tham nghị Phúc An tử, Ngọ quý công, húy Công Tuấn, gia phong tặng Vũ Huân tướng quân Tham đốc Thần vũ Tứ vệ quân vụ sự Phúc An hầu.

Phụng sai Thái Nguyên xứ Trấn thủ quan Cai quan, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Ty lễ giám, Tổng thái giám Bắc quân Đô đốc phủ Đô đốc Thiêm sự, gia phong tặng Tả đô đốc Phương quận công Ngọ tướng công huý Quế.

Nguồn: T12, tập 9, N08569-72.

        Tháng 11 (tháng Mười – Canh Thìn)

 460. Xã quan Dương Thế Đăng cung tiến trả công thợ dựng đình Cổ Mân

Tự sự/ Hậu thần/ Lưu truyền/ Bi ký tạo năm Chính Hòa 21 dựng tại đình xã Cổ Mân, tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Yên Sơn, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi việc xã quan Dương Thế Đăng đã cúng 200 quan tiền, 2 mẫu ruộng để dùng vào việc trả công thợ khi dựng đình nên được bầu làm Hậu thần.

Nguồn: T12, tập 9, N08044-47.

        Trong năm

 461. Dương Chi viết chữ để khắc bia Bản xã bảo trí

Dương Chi người xã Lương Quán, tổng Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Việt Hùng, Đông Anh – Hà Nội). Bia do ông viết chữ, Nguyễn Thiệu soạn văn, tạo năm Chính Hòa 21, dựng tại chùa xã Đường An, cùng tổng, huyện ghi việc vợ chồng ông Nguyễn Công Minh đã cúng cho làng 100 quan tiền, 1 mẫu 5 sào ruộng, được bầu làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 11, N010700.

        NĂM 1701 (TÂN TỴ)

        Tháng Hai (tháng Giêng – Tân Tỵ)

 462. Dương quý thị và chồng được con cái gửi giỗ vào chùa thôn Đãn Chàng

Thiên Đức tự/ Thiên Đài/ Công đức tạo năm Chính Hòa 22, dựng tại chùa Thiên Đức, xã An Xá, huyện Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Đồng Lĩnh, Hưng Hà – Thái Bình) ghi lại sự việc trên.

Nguồn: T12, tập 4, N03038-41.

        Trong năm

 463. Tri huyện Dương Quảng Hàn đóng góp xây dựng Văn miếu huyện Nghi Dương

Văn miếu/ Hương đăng/ Phụng sự đặt tại Văn từ hàng huyện tại xã Xuân La, tổng Trà Lương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Thanh Sơn, Kiến Thụy – Hải Phòng) ghi rằng:

Năm Chính Hòa 21 (1700) quan viên bản huyện xây dựng Văn miếu huyện gồm hai dãy tả hữu, một gian nghi môn và trồng cây xung quanh. Năm Tân Ty (1701) hoàn thành, dựng bia ghi lại để lưu truyền. Bia có ghi họ và tên, quê quán những người hưng công như: Huyện thừa huyện Nghi Dương Phan Công Nghĩa, Tri huyện Nghi Dương Dương Quảng Hàn, v.v.. Bia còn liệt kê các loại đồ thờ ở Văn miếu.

Nguồn: T12, tập 11, N010039-41.

        NĂM 1702 (TÂN TỴ – NHÂM NGỌ)

        Ngày 16 tháng 1 (19 tháng Chạp – Tân Tỵ)

 464. Bà Dương Thị Quyến công đức đúc khánh chùa Pháp Vân

Tu tạo bảo khánh đúc trên khánh đồng chùa Pháp Vân, xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội) ghi rằng, Hội chủ hưng công và người công đức xã Phù Ninh đã đúc một pho tượng A di đà vào ngày 2 tháng Một năm Kỷ Mão (22-12-1699), lại đúc một khánh lớn vào ngày 19 tháng Chạp năm Tân Tỵ (16-1-1702). Công việc hoàn hảo, liền soạn bài văn ghi khắc lên khánh.

Nay có chùa thiêng ở xã Phù Ninh huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn là một danh lam cổ tích. Ân trạch đem đến mọi điều tốt lành, âm công thì phúc đến dạt dào. Người người noi theo việc thiện, luôn sửa mình góp phúc; coi trọng việc đúc tượng Phật và làm khánh đồng, chẳng tiếc của cải. Cùng làm chùa, dựng cầu, mong được âm báo, cầu mệnh trời yên lành. Cậy nhờ đức Phật chứng minh, soạn bài văn khắc trên khánh để truyền lại đời sau. Kê hết họ tên người hưng công và công đức ra sau đây – trong số đó có bà Dương Thị Quyến.

Nguồn: V4, tr.186-192.

        Tháng 1 (tháng Chạp – Tân Tỵ)

 465. Bà Dương Thị Đài làm Hội chủ tu sửa chùa Khánh Nguyên

Hậu phật hưng công tạo năm Chính Hòa 22, dựng tại chùa Khánh Nguyên, xã Nghiêm Xá, tổng Triều Đông, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Nghiêm Xuyên, Thường Tín – Hà Nội) ghi rằng:

Bà Dương Thị Đài hiệu là Diệu Nhẫn người bản xã đứng ra làm hội chủ để tu sửa tiền đường ở chùa Khánh Nguyên, xây dựng bảo điện ở chùa An Vực, làm hương án ở chùa Long Hải, và xây dựng ba gian quán ở xứ Lai Tỉnh. Quan viên, dân làng hàm ơn, dựng bia kỉ niệm. Có bài minh 12 câu ca tụng công đức của bà.

Nguồn: T12, tập 9, N08293.

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Ngọ)

 466. Ông bà Dương Thị Bích được làng Vân Cốc bầu làm Ngũ lão, Hậu thần

Ngũ lão bi ký/ Tế văn thể thức do Tiến sĩ Hoàng Công Chí soạn, đặt tại đình xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi rằng:

Trùm quan Thị nội giám, Ty lễ giám, Tả giám thừa Lân Duệ hầu Nguyễn công, húy Thụy, người Bình Hồ, La Sơn, Hoan Châu, lấy bà Dương thị, huý Bích xã Vân Cốc, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, ông làm quan trong triều được Chúa tin dùng. Bà làm hầu vú cho Hoàng tử, Hoàng nữ được mến mộ. Vợ chồng ông là người nhân đức, cả vùng đều biết tiếng. Ông bà thường xuvên giúp dân trong lúc khó khăn, nay lại giúp 5 giáp trong xã 200 quan tiển sứ và 1 số ruộng để dân chỉ dùng vào việc công. Do đó, dân cảm kích, bầu ông bà làm Ngũ Lão, phối hưởng với vị Đại Vương phúc thần ban xã.

Một tấm bia khác là Hậu thần bi ký/ Tế văn điền ký vẫn do Tiến sĩ Hoàng Công Chí soạn cùng thời điểm, dựng lại điếm thôn Lũng, xã Vân Cốc kể trên, lại ghi chép rằng, quan viên, trùm trưởng, hương lão cùng toàn đân thôn Lũng, xã Vân Cốc, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang lập bia Hậu thần. Nguyên vì, bản thôn có trùm quan Ty lễ giám, Tả giám thừa, Lân Duệ hầu Nguyễn công, húy Thụy, quê La Sơn, Hoan Châu, lấy người bản xã Dương thị, húy Bích là người đức hạnh, trung cẩn, nhiều lần được triều đình ban thưởng. Ông bà đã cúng cho bản thôn 100 quan tiền sử và 1 số ruộng dùng làm của công. Do đó, toàn đân thôn bầu ông bà làm Hậu thần, quanh năm hương hỏa.

Nguồn: T12, tập 8, N07024-25; tập 10, N09932-33 ; Đ12, tr.580, 583.

        Trong năm

 467. Xã trưởng Dương Thịnh tham gia lập Giao ước cho xã Quang Biểu

Bia tạo năm Chính Hòa 23 đặt tại Văn chỉ xã Quang Biểu, tổng Quang Biểu, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Quang Châu, Việt Yên – Bắc Giang) ghi lại rằng:

Quan viên xã Quang Biểu, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà là Hữu Đề điểm Thuần Lộc bá Phạm Công Cửu, Trùm trưởng Nguyễn Đức Lập, Huyện thừa Nguyễn Tuấn Trường, Thái y viện Nguyễn Thế Sĩ, Đội trưởng Nguyễn Quang Tán, Nguyễn Thế Danh, xã thôn trưởng Nguyễn Nhân Cổn, Dương Thịnh, Phạm Như Đổ và 45 người nữa lập lời giao ước. Bản xã trộm thấy, lunh viên Phó tri thuỷ sư Ty lễ giám Thiêm thái giám, Quí Đường hầu Nguyễn công, lập Từ đường tại xứ Viên Trạo đời đời hương hỏa. Ông đã bỏ tiền mua đất ấy để làm Từ đường, và 2 sào ruộng làm ruộng huệ điền. Sau khi làm xong, giao ước với ấp ta, vây tường xung quanh, đến khi tế lễ, bản xã thông báo cho người đương cai đến quét dọn trước, tế xong thì đóng cửa để được nghiêm túc.

Nguồn: T12, tập 22, N031179; Đ12, tr.606.

        NĂM 1703 (QUÝ MÙI)

        Trong năm

 468. Bà Dương Thị Niểu cung tiến sửa chữa chùa Linh Quang

Linh Quang Hậu phật tạo năm Chính Hòa 24 đặt tại nhà chùa xã Nội Hoàng, tổng Phúc Tằng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là xã Nội Hoàng, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi lại rằng, chùa Linh Quang của bản xã là một cổ tích danh lam, nay cần phải sửa chữa. Bà Dương Thị Niểu, hiệu Diệu Kính đã cung tiến tiền giao cho nhà chùa dùng vào việc ấy. Sau bà lại xuất tiền đúc chuông, xuất ruộng cho tiểu tăng cày cấy, chi phí việc đèn nhang. Bởi vậy, bản thôn bầu bà làm Hậu Phật.

Nguồn: T12, tập 22, N035220-21; Đ12, tr.754.

 469. Vợ chồng bà Dương Thị Huyền và con trai công đức cây hương đá cho chùa Trù Chúng

Nhà chùa thuộc xã Phúc Chủng, còn gọi là Tân Chung, tổng Hà Châu, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Đồng Tân, Hiệp Hòa – Bắc Giang), có cây hương đá tạo dựng năm Chính Hòa 24 ghi rằng:

Quan viên, hương lão, xã Phúc Chủng, huyện Hiệp Hoà, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc, nước Đại Việt cùng các bậc trên dưới dựng cây Thiên đài. Công việc xong xuôi, kê tên các tín thí lưu truyền vạn đại: Ông (mờ tên), người thôn Xuân, xã Hồng Khê, huyện Duy Tiên, phủ Lỵ Nhận, đạo Sơn Nam, nước Đại Việt. Kiêm Tri phủ sĩ Ngô Công Diện, tự Phúc Tâm, vợ là Dương Thị Huyền, con Nguyễn Văn Anh thôn Lưu Xá, xã Quát Sơn, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên…, tổng cộng trên 200 người, người trong xã và các vùng lân cận.

Nguồn: T12, tập 22, N033297-00; Đ12, tr.410.

 470. Nhiều người họ Dương công đức tạo dựng cột đá chùa Trù Chúng

Tại 2 mặt cột đá tạo năm Chính Hòa 24 dựng tại chùa Trù Chúng ghi rằng, Quan viên hương lão 3 xã Bến Chuông, Mai Sơn, Kha Nhi thuộc 2 huyện Hiệp Hoà và Tư Nông của 2 phủ Bắc Hà và Phú Bình, thuộc Kinh Bắc, Thái Nguyên, nguyên vì chùa Trù Chúng, tiền triều cổ tích danh lam, hiện bị đổ nát, nay sửa chữa dùng gỗ tốt và cột đá cho được vững chắc, đã được các vị kê tên sau đây tiến cúng: Dương Thị Bản, Nguyễn Đức Tuấn, Dương Thị Vịnh, Nguyễn Thị Hoàng, Dương Công Khanh, vợ Chu Thị Đổ đều là người thôn Ngọc Đông, xã Kha Sơn cúng 1 đột đá. Dương Thị Hợp, Nguyễn Đình Dự, vợ Dương Thị Phiên cúng 1 cột gỗ.

Nguồn: T12, tập 22, N033301-02; Đ12, tr.411.

        NĂM 1704 (QUÝ MÙI – GIÁP THÂN)

        Ngày 10 tháng 1 (15 tháng Chạp – Quý Mùi)

 471. Nguyễn Quang Luân đỗ đầu hạng Đệ nhị Tiến sĩ

Khoa thi Hội tổ chức vào mùa đông, tháng Mười – Quý Mùi (11-1703).

Triều đình đặc sai quan Đề điệu, Tri Cống cử, Giám thí chia nhau giữ các việc. Sĩ tử hát thơ Lộc minh về kinh dự thi đông đến 3000 người, quan hữu ty chọn được 6 người – đỗ đầu là Nguyễn Tri Cung.

Tháng Chạp – Quý Mùi, các sĩ tử bước vào Điện thí – thi Đình, đầu bài ứng chế là Quân thần tương duyệt lạc (vua tôi vui thích nhau) làm theo thể ngũ ngôn, lấy vần hoan, hạn 25 vần và Kim thanh ngọc chấn (tiếng kim, tiếng ngọc vang lên) theo thể luận.

Nguyễn Quang Luân, sau đổi là Công Luân, cháu 6 đời Tiến sĩ Nguyễn Duy Tường – vốn gốc họ Đào dòng Đào Sư Tích, cháu 5 đời Tiến sĩ Nguyễn Hoằng Xước, cháu tằng tôn Tiến sĩ Nguyễn Thế Thủ, nổi tiếng thần đồng, đứng đầu hạng Đệ nhị Tiến sĩ (Hoàng giáp) lúc mới 21 tuổi.

Nguồn: L5, tập 1, tr.169; Đ6, tr.53; V2, tr.402.

        Tháng 3 (tháng Hai – Giáp Thân)

 472. Dương Quang Thọ, Dương Đức Nghinh công đức tu tạo chùa Diên Phúc

Cổ tích danh lam Diên Phúc tự/ Tạo tác thạch gia bi dựng tại chùa Diên Phúc, xã Yên Viên, tổng Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang) ghi việc Phổ Minh Thiền sư Nguyễn Pháp Lộc, tự Phúc Đương trụ trì tại chùa đã xuất 20 quan tiền cùng nhiều thiện nam, tín nữ khác, trong đó có 2 ông họ Dương kể trên cùng công đức xây thềm đá cho nhà Tiền đường, làm Tam quan.

Nguồn: T12, tập 7, N06230-31

        Ngày 28 tháng 6 (27 tháng Năm – Giáp Thân)

 473. Dương Đăng Triều soạn văn bia cho chùa Hoa Long

Tạo lập bi ký/ Nhất công đức được tạo năm Chính Hòa 25, dựng tại nhà chùa thuộc xã Lập Thạch, tổng Yên Xá, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Yên Thạch, Sông Lô – Vĩnh Phúc) ghi việc vào năm này được dân các xã Lập Thạch, Thiều Thạch, Văn Minh góp tiền để làm 3 gian Tiền đường, Thượng điện, Thiên hương – trong số đó có vợ chồng ông Dương Đăng Thiều đóng góp nhiều tiền của.

Nguồn: T12, tập 15, N015646-47.

        Trong năm

 474. Vợ chồng ông Dương Văn Nho được bầu làm Hậu thần xã Cổ Trai

Hậu thần bi ký tạo năm Chính Hòa 25 dựng tại đình thôn Đại, xã Cổ Trai, tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc Kiến Thụy – Hải Phòng) ghi việc ông bà đã cúng cho làng 80 quan tiền, 1 sào ruộng trị giá 20 quan tiền sử nên được hưởng đặc ân trên.

Nguồn: T12, tập 11, N010111-12.

        NĂM 1705 (ẤT DẬU)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Ất Dậu)

 475. Dương Đình Tướng thi đậu Hương cống, Dương Đình Trọng đậu Sinh đồ

Vào tháng này, nhân kỳ thi Hương, triều đình sức răn Hiệu quan ở các huyện khi phúc hạch học trò, người nào thực đỗ thì yết bảng ngay, tránh mơ hồ đỗ hay hỏng phải đua nhau chạy vạy, cầu cạnh, ngõ hầu làm cho phép khảo khóa được công minh.

Dương Đình Tướng, người làng Ngọc Hoạch, tổng Đông Lý, huyện Yên Định, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Định Tăng, Yên Định – Thanh Hóa).

Dương Đình Trọng, người xã Phượng Dực, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội).

Trong Khoa cử Việt Nam – Sinh đồ thời Lê, thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn các tác giả đưa tên 2 Sinh đồ Dương Đình Trọng (N00079 – tr.19 và N03181 – tr.377) cùng quê Phương Dực, thi đỗ cách nhau 30 năm (1705 – 1735) Không rõ có sự nhầm lẫn nào chăng?

Cùng quê ở Phượng Dực, cùng đỗ Sinh đồ còn có Dương Xuân, Dương Kỳ không rõ thời điểm.

Nguồn: N11, tr.67; K7, tr.16, 19, 377; Đ6, tr.55.

        NĂM 1706 (BÍNH TUẤT)

        Tháng 6 (tháng Năm – Bính Tuất)

476. Các ông Dương Tiến Lộc, Dương Văn Doãn đóng góp cùng xã Mỹ Cầu chuyển vị trí đình làng

Mỹ Cầu xã đình bi tạo năm Vĩnh Thịnh 2 cho biết:

Quan viên, hương lão, xã thôn trưởng cùng toàn dân thôn Thượng, xã Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang lập bia ghi việc. Nguyên do, bản thôn chuyển đình từ xứ Giếng Cầu đến xứ Cửa Nương, chi tiêu tốn kém. Nhân đó, các thiện tín đã công đức tiến cúng tiền của để dân thôn chi dùng, như: Cụ Dương Tiến Lộc, Phạm Thị Viết, Dương Văn Doãn (khoảng 200 vị). Do đó, toàn dân thuận tình cúng tế các vị khi mất.

Nguồn: T12, tập 9, N08241-42.

        NĂM 1707 (BÍNH TUẤT – ĐINH HỢI)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Bính Tuất)

 477. Người họ Dương hưng công tân tạo gác chuông chùa An Tất

An Tất tự tạo các chung bi dựng tại chùa xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi tên họ những người hưng công – trong đó có các ông bà Dương Tri Lễ, Dương Hữu Đạo, Dương Thị Mịch, Dương Lê Hương, Dương Nhân Mỹ, Dương Thị Trong, Dương Thị Quyển, Dương Thị Trăn, Dương Thị Thậm, Dương Thị Phùng, Dương Thị Huệ, Dương Văn Vân.

Nguồn: T12, tập 12, N011122-23.

        NĂM 1708 (MẬU TÝ)

        Tháng 6 (tháng Năm – Mậu Tý)

 478. Dựng bia ghi danh nhiều người họ Dương hưng công tu tạo chùa Dương Thiền

Dương Thiền tự bi ký dựng năm Vĩnh Thịnh 4 tại nhà chùa xã Quất Lựu, tổng Quất Lựu, huyện Yên Lãng, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi rằng, chùa trải lâu năm bị đổ nát. Nhà sư tự Như Bi Vô Trụ đến đây trị trì đã cùng Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Đương pháp hiệu Diệu Minh Châu và các thiện nam tín nữ đứng ra hưng công tu sửa phù đồ, đúc chuông, tạo pháp khí. Vào năm Nhâm Thân (1702) công việc trung tu chùa được hoàn thành. Đến tháng Năm năm Mậu Tý (6-1708) dựng bia để ghi tên các thiện tín đã góp công tu tạo – trong đó có các ông bà Dương Văn Khánh, Dương Văn Cung, Dương Văn Thu, Dương Thị Xướng.

Nguồn: T12, tập 16, N015107-08.

        TRONG NĂM

 479. Dương Như Mai đậu Sinh đồ

Ông người xã Phượng Dực, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội), đỗ Tam trường khoa Mậu Tý đời Lê Dụ Tông.

Nguồn: K7, tr.19.

 480. Dương Đình Hiển và anh em Dương Công Viên, Dương Công Thụy thi đậu Hương cống

Dương Đình Hiển người xã Phượng Dực (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội), con trai Hương cống Dương Đình Quý, thi Hương lần đầu đã đậu Giải nguyên. Năm 1748 thi Hội, chỉ trúng Tam trường. Làm đến Huấn đạo phủ Thông Hóa, Tri huyện Trung Sơn, Tri phủ Hà Trung. Tác phẩm để lại có Phượng Dực điểm thi, Phượng Dực phong cảnh phú, Nhập tàng quy mục lục nhị thể, Hưng Long tù bị lục, Văn hội bạ.

Dương Công Viện, Dương Công Thụy người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).

Nguồn: K6, tr.254; D7.

 481. Vợ chồng bà Dương Thị Nương hưng công tu tạo chùa Nham Hinh

Tân tạo Nham Hinh tự/ Thiên đài thạch cung tạo năm Vĩnh Thịnh 4, dựng tại chùa Nham Hinh, thôn Lạc Yên, tổng Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hoàng Vân, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi lại rằng, viên Thiện sĩ bản tự, người thôn Lạc Khang, xã Vạn Thạch cùng tổng là Nguyễn Tiến Dụng cùng vợ là Dương Thị Nương và gia quyến vào năm trước đã dâng một pho tượng đồng, cúng thửa ruộng nay lại hưng công dựng cây Thiên đài. Vậy khắc bia để ghi lại.

Nguồn: Đ12, tr.418-419; T12, tập 22, N033337-40.

        NĂM 1709 (KỶ SỬU)

        Tháng 9 (tháng Tám – Kỷ Sửu)

 482. Hiệu sinh Dương Quang Phục soạn văn bia chùa Vĩnh Long

Thiện sĩ tạo san hải hội kinh/ Sáng lập phật tượng bi tạo năm Vĩnh Thịnh 5, dựng tại chùa Vĩnh Long, xã Mai Thự, tổng Song Mai, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc An Dương – Hải Phòng) ghi việc năm Kỷ Sửu, các Thiện sĩ ở hai xã Song Mai và Mai Thự dựng bia, khắc kinh Hải Hội và dựng tượng ở chùa Vĩnh Long, kèm danh sách người hưng công.

Hiệu sinh Dương Quang Phục là Tiền Xã trưởng, Câu đương xã Mai Thự.

Nguồn: T12, tập 8, N07545-46.

        NĂM 1710 (CANH DẦN)

        Ngày 18 tháng 2 (20 tháng Giêng – Canh Dần)

483. Nhiều quan viên họ Dương ký kết Khoán văn phụng thờ Tướng công Lê Thì Hải

Vạn thế phụng tự bi ký/ Huệ điền tứ tiền đẳng số/ Phụng sự khoán văn do Tiến sĩ Vũ Thạnh soạn năm Vĩnh Thịnh 6, dựng tại Văn chỉ thôn Đông, xã Phú Hào, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Thọ Phú, Thọ Xuân – Thanh Hóa) ghi chép về người bản thôn là Thạc Quận công Tướng quân Lê Thì Hải, có nhiều công lao trong việc đánh dẹp họ Mạc ở Cao Bằng, tâm phúc của triều đình, cấp nhiều ruộng vườn và tiền của cho quê hương. Ân đức được ban quê nội xã Phú Hào, quê ngoại xã Xa Kích, cùng những xã trong tổng như Mỹ Hào, Tịnh Man An Phú. Các xã trong huyện như Kỳ Điện, Cẩm Lý v.v. cùng giáp Bắc, giáp Nam xã Bạc Liễm, giáp Bắc xã Phú Liễm; thôn Cốc Thuận, thôn Phú Thọ, xã Thượng Cốc; thôn Mật, xã An Khoái, thôn Cẩm Lý, thôn A Voi, thôn Thọ Vực, thôn Đa Niên xã Phú Dương ; giáp Bắc, giáp Nam, xã Tam Lư; giáp Bắc, giáp Đông, xã Bất Não; thôn Trung Chính, xã Thanh An quan viên hương sắc trên dưới đều được hứa lời vàng đá ban cho huệ điền và tiền cổ7.800 quan, đất vườn 891 mẫu để làm các khoản chi phí cần thiết, mua sính lễ đầy đủ phụng thờ:

Cha được vâng tặng Đặc tiên Phụ quốc Thượng tướng quân, Đô tổng binh sứ ty, tước bá Dương hầu, Lê Tướng công, tên tự là Phúc Ân, thụy Đức Diệu phủ quân.

Mẹ được vâng phong Chánh phu nhân, Lê quý thị, hiệu Từ Huệ cùng vợ cả trước đây của ngài họ Đào tên hiệu là Từ Thục thụy là Đoan Trực, cộng lại là bốn vị được đặt hai bên tả hữu Từ đường. Bên tả Từ đường phụng thờ cha mẹ, bên hữu Từ đường phụng thờ vợ của ngài, ngày húy nhật cùng đến thờ cúng. Vào các tiết sinh nhật của ngài đều đến chúc mừng. Hàng năm, vào ba ngày Tết Nguyên đán, bốn mùa tế lễ, Tết Đoan ngọ, Trung nguyên, Thường tiên, Lạp nhật, Trừ cứu… lễ bàn đầy đủ y như trong kê khai. Sau khi ngài qui tiên lại chuyển ngày sinh nhật chúc mừng thành ngày kỵ húy, lễ cúng nghìn vạn năm sau không được làm khác.

Các ông Dương Bá Ổ, Dương Bá Hạng, Dương Bá Trạch, Dương Văn Vạn, Dương Bá Tư, Dương Bá Thuần (quan viên giáp Bắc xã Phú Liêm), Dương Văn Ao (xã Thọ Vực) cùng hàng trăm người khác ký kết vào Giao ước này.

Nguồn: T17, tập 3, tr.466-569.

        Tháng 3 (tháng Hai – Canh Dần)

 484. Ghi nhận đóng góp của họ Dương với việc tu tạo chùa An Nhiên

An Nhiên/ Thiền tư/ Tạo lập/ Thiên đài tấm bia 4 cạnh tạo năm Vĩnh Thịnh 6 dựng tại chùa An Nhiên, xã Bá Hạ, tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Bá Hiển, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi việc, Ông Dương Thế Xứng tự Phúc Hưng và vợ bà Dương Thị Cần hiệu Diệu Kính cùng toàn thể gia quyến họ Dương vào năm Bính Tuất (1706) đúc chuông và khánh cho chùa An Nhiên. Tháng Hai năm Canh Dần (1710) lại cùng ông Dương Văn Giám tự Phúc Sùng và chư vị thập phương xây cột hương ở chùa An Nhiên. Ghi họ và tên các hưng công hội chủ, các thiện nam tín nữ đã cúng tiền xây dựng cột hương và cúng ruộng vào cùa làm ruộng tam bảo.

Nguồn: T12, tập 16, N015234 – 37.

        NĂM 1711 (CANH DẦN – TÂN MÃO)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Canh Dần)

 485. Bà Dương Điền, Dương Thị Cẩm hưng công xây dựng cầu đá Tang Đố

Hưng công tạo thạch kiều bi tạo tháng Quý đông – Canh Dần, dựng tại thôn Khánh Nhi, xã Tang Đố, tổng Tang Đố, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Vĩnh Định, Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc), ghi việc quan viên, hương lão, bản xã góp công của xây dựng cầu đá – trong đó có hai bà họ Dương, vợ cả và thiếp của ông Kiều Hữu Phấn và con trai đã đứng ra làm Hưng công Hội chủ.

Nguồn: T12, tập 15, N014407.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Tân Mão)

 486. Giải nguyên Dương Đình Hiển soạn văn bia Long Hưng tự bi lục

Bia tạo năm Vĩnh Thịnh 7 dựng tại chùa Long Hưng, xã Phượng Dực, tổng Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội) cho biết, trước đây tiền nhân đã phát tâm công đức xây dựng Tiền đường, Hậu đường, tả hữu Hành lang nguy nga, tráng lệ. Nay các Quan viên, Hương lão, Sãi vãi, Thiện tín lại hưng công xây 4 bức tường bao quanh. Vậy lập bia để ghi danh những người đóng góp.

Nguồn: T12, tập 12, N011366-67.

        Ngày 8 tháng 7 (5 tháng Sáu – Nhâm Thìn)

 487. Dương Lệ thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Tháng Ba – Nhâm Thìn, mùa xuân năm Vĩnh Thịnh 3 (4-1712), triều đình tuân theo thành pháp, mở khoa đại tỉ (tức thi Hội). Đặc sai Đề điệu là Thiếu phó Đông Quận công Trịnh Hoàn, Tri Cống cử là Tham tụng Hình bộ Thượng thư Khánh Sơn bá Nguyễn Thế Bá, Giám thí là Bồi tụng Lại bộ Tả Thị lang Nhập thị Kinh diên Nhân Thọ tử Nguyễn Đương Bao và Bồi tụng Công bộ Tả Thị lang Đồng Lĩnh tử Nguyễn Danh Dự cùng chấp sự các ty chia giữ các việc.

Số dự thi đến hơn 2.000 sĩ tử, lựa chọn hạng xuất sắc được 17 người.

Ngày 5 tháng Sáu năm Nhâm Thìn (8-7-1712) Hoàng thượng đích thân xét thi, định thứ tự cao thấp. Ban cho một người là Nguyễn Duy Đôn đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Từ Bá Cơ 16 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Sân rồng xướng tên, Bảng Vàng vinh yết. Ban áo xanh, mũ, đai để được đẹp thân, cho dự yến Quỳnh hoa bạc để tỏ ý hậu đãi. Ơn vinh đãi ngộ đủ sáng tỏ thịnh ý tôn Nho, khắc đá đề danh lại càng muốn nêu cao quy chế tốt đẹp của các triều trước.

Dương Lệ, người Lạc Đạo – Gia Lâm (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên), cháu đời xa của Dương Phúc Tư, làm quan đến Tả thị lang bộ Công, khi mất được tặng Thượng thư, tước Hầu.

Nguồn: V2, tr.419-424; L5, tập1, tr.205-207; Đ6, tr.62.

        NĂM 1714 (GIÁP NGỌ)

 488. Vợ chồng Giám sinh Dương Xuân Hòa – Dương Thị Chân công đức xây dựng Thiên đài thạch trụ tại chùa Phúc Duyên

Tạo tác/ Thiên đài/ Thạch trụ tạo năm Vĩnh Thịnh 10, dựng tại chùa Phúc Duyên, thôn Hóa Long, xã Ngọc Sơn, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Điềm Thụy, Phú Bình – Thái Nguyên), ghi họ và tên những người có công đức trong việc xây dựng Thiên đài thạch trụ trong và ngoài chùa thôn Hóa Long xã Ngọc Sơn huyện Tư Nông tỉnh Thái Nguyên như: Quốc tử Giám Giám sinh Dương Xuân Hòa tự Huyền Tiên hiệu Minh Phúc và vợ bà Dương Thị Chân hiệu Từ Tôn công đức tiền 1 quan 2 mạch, v.v…

Nguồn: T12, tập 11, N010483-85.

        NĂM 1715 (ẤT MÙI)

        Ngày 12 tháng 7 (12 tháng Sáu – Ất Mùi)

 489. Dương Bật Trạc thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Đầu xuân năm Ất Mùi, bộ Lễ chiếu theo điển lệ mở khoa thi Hội cho các cống sĩ trong nước. Bèn sai Trung quân Đô đốc phủ Đô đốc Trạc Quận công Trịnh Thực làm Đề điệu, Bồi tụng Binh bộ Thượng thư Thọ Lâm bá Nguyễn Đăng Liên làm Tri Cống cử, Bồi tụng Lễ bộ Hữu Thị lang Phạm Công Trạch, Bồi tụng Hình bộ Hữu Thị lang Nguyễn Đương Hồ làm Giám thí cùng trăm quan hữu ti chia giữ các việc.

Ngày mồng 10 tháng Ba (năm Ất Mùi, tức 13-4-1715) vào trường nhất. Bấy giờ số dự thi đông đến hơn 2.500 người. Vào đến trường bốn, chọn hạng xuất sắc được 20 người. Hữu ty ghi tên dâng lên. Bèn cho lính đưa voi tới cửa trường chở bảng mực nhạt ra treo ở đình Quảng Vân ngoài cửa Đại Hưng. Sĩ tử bốn phương kéo đến xem như mây tụ, tiếng hò reo như sấm dậy đất bằng, đều ngợi khen khoa thi Tiến sĩ này lại được nhiều người giỏi.

Qua ngày 11 tháng Sáu (năm Ất Mùi, tức 11-7-1715) vào Điện thi. Hoàng thượng đích thân ra đề thi văn sách, hỏi về điều cốt yếu của đạo trị nước.

Ngày hôm sau, quan Độc quyển nâng quyển đọc, Hoàng thượng xếp định thứ bậc cao thấp. Ban cho Bùi Sĩ Tiêm, Nguyễn Quý Ân 2 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; bọn Phùng Bá Kỳ 18 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Loa xướng tên người đỗ, bộ Lễ rước Bảng Vàng ra treo ngoài cửa nhà Quốc học. Kế đó lại ban áo mũ phẩm phục để được vinh hiển, ban yến Quỳnh hoa bạc để tỏ lòng sủng ái, ơn lớn đãi ngộ xem chừng chẳng khác gì thời trước.

Dương Bật Trạc, người xã Cổ Lễ, tổng Trung Lao, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam (nay là thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh – Nam Định), trước mang họ Đào dòng dõi Đào Sư Tích, đến đời ông đổi lại họ Dương gốc cũ.

Nguồn: V2, tr.425-429; L5, tập 1, tr.220-223; Đ6, tr.66.

        NĂM 1716 (BÍNH THÂN)

        Trong năm

 490. Tiến sĩ Dương Lệ soạn văn bia cho Từ đường họ Lê

Hoàng triều Giám sát Lê tiên sinh mộ chí minh tạo năm Vĩnh Thịnh 12 dựng tại từ đường họ Lê thuộc thôn Văn, xã Liêu Xá, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã cùng tên, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi về thân thế sự nghiệp của quan Giám sát Lê tiên sinh. Ông họ Lê húy là Hữu Hỷ người xã Liêu Xá huyện Đường Hào. Cha ông húy là Hữu Danh tự Xuân Am đỗ Hoàng giáp khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670). Mẹ họ Dương người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), từng giữ các chức Giám sát Ngự sử đạo Tuyên Quang. Năm Giáp Thân phụng sai Đốc đồng sứ Sơn Tây. Năm Bính Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706) bị cảm mạo đã từ nhiệm về kinh và mất ngày 5 tháng 10 tại quan xá ở Kinh thành.

Nguồn: T12, tập 11, N010788-91.

 491. Dương Tiến Lộc giao lại Từ đường, tiền của cho con cháu

Huệ ái chi bi tạo năm Vĩnh Thịnh 12, đặt tại chùa xã Phụng Pháp, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tân Mỹ – thành phố Bắc Giang) thì vào năm đó, quan viên thôn Khang Cù, xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang là Sinh đồ Hoàng Đình Bách, Sinh đồ Hoàng Danh Bích, Sinh đồ Hoàng Tiến Dưỡng lập bia ghi việc: ông Dương Tiến Lộc thôn Thượng xã Mỹ Cầu xuất ruộng và tiền, thổ trạch, 3 gian Từ đường giao cho các cháu ở thôn Khang Cù trông nom và cầy cấy, sau khi ông trăm tuổi, các cháu sẽ cúng giỗ ông tại Từ đường.

Nguồn: Đ12, tr.765.

 492. Nhiều người họ Dương công đức tu tạo chùa Phúc Duyên

Văn bia không có tiêu đề thứ nhất dựng tại nhà chùa thuộc xã Ngọc Sơn, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Điềm Thụy, Phú Bình – Thái Nguyên) cho biết chùa trải lâu ngày đã bị đổ nát. Các thiện nam, tín nữ đã cúng tiền, ruộng, gỗ để trùng tu chùa. Nay việc xong dựng bia ghi họ và tên những người có công đức trong việc tu sửa chùa, như: Thượng sĩ Đỗ Khoa và vợ là Dương Thị Chinh cúng 1 quan, vợ chồng Hương lão Dương Khắc Xuân cúng 1 cây cột, v.v…

Văn bia không có tiêu đề thứ hai cũng dựng tại chùa trên ghi rằng thôn Làng Lộng thuộc xã Nhã Lộng, cùng tổng huyện của trấn Thái Nguyên, được Hương lão Phủ sinh kiêm Trùm trưởng Dương Duy Trình và vợ bà Ngô Thị Khê cúng 1 cột đá, Hương lão Dương Khắc Thiệu và vợ cúng 1 cột đá, v.v…

Văn bia không có tiêu đề thứ ba, dựng cùng địa điểm cho biết, chùa chưa có cột hương, các Thiện sĩ Dương Xuân Huyên, Dương Quang Toàn đã hưng công làm cây cột đá cho chùa. Và ghi thêm họ và tên những người cùng đóng góp tiền của vào việc xây dựng cột hương chùa.

Nguồn: T12, tập 11, N010472-91, 10473-78, 10479-80.

        NĂM 1717 (ĐINH DẬU)

        Ngày 12 tháng 4 (2 tháng Ba – Đinh Dậu)

 493. Dương Bật Trạc được giao soạn thảo văn bia Đề danh Tiến sĩ dựng tại Văn miếu

Sử cũ ghi: “Mồng 2, tháng Ba (năm Đinh Dậu) tấm bia Đề danh các Tiến sĩ đỗ khoa Bính Tuất (1706), niên hiệu Vĩnh Thịnh, đã làm xong, đem dựng ở nhà Quốc học. Bài văn bia này là do Hàn lâm Hiệu thảo Dương Bật Trạc vâng mạng đứng soạn; Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu phó, Liêm Quận công Nguyễn Quý Đức vâng mạng nhuận sắc”.

Đúng ra, ngày hôm đó, hoàn thành việc khắc hai bài văn bia Đề danh Tiến sĩ dựng tại Văn miếu do Dương Bật Trạc nhuận sắc dưới đây:

Chính Hòa thập nhị niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Tân Mùi năm Chính Hòa 12-1691) nhấn mạnh:

“Khoa mục là cách của quốc gia kén chọn kẻ sĩ, mà khoa Tiến sĩ là quan trọng nhất. Từng khảo cứu thấy tên Tiến sĩ bắt đầu có từ đời Thành Chu, mà khoa thi Tiến sĩ thì bắt đầu mở ra từ đời Tùy, thịnh hành ở đời Đường, Tống. Ơn thưởng đãi ngộ, nghi lễ đủ đầy, thực là vẻ vang hết mức cho hạng khoa giáp. Nhưng để tỏ ý khích lệ ngợi khen, cả lễ văn đều chu đáo thì còn việc khắc bia, truyền lại tiếng thơm cho muôn đời thì quả thật chưa từng thấy vậy.

Kính nghĩ: Quốc triều ta như ngọc sáng giữa ban trưa, được mệnh trời ban ngọc lịch, mở nghiệp lớn giữ gìn thành pháp, kế thừa mưu lược hiển hách của liệt thánh, lấy đức nhân hậu mà vun đắp mệnh mạch quốc gia, lấy học thuật Nho giầm tô điểm nền thái bình. Nuôi dưỡng tác thành nhân tài, kiếm tìm hiền sĩ. Sáu năm mở một khoa bắt đầu từ khoa Đại Bảo (1442) mà việc kén chọn hiền tài có phép cách. Ba năm một khoa thì bắt đầu từ đời Quang Thuận mà nhân tài theo gió đến thêm đông. Đến đời Hồng Đức cho tạc đá khắc bia trước nhà Quốc học, cả nghi thức và lễ văn thật là đầy đủ. Rạng rỡ tinh hoa văn trị, chấn tác chí khí học trò, bồi đắp phong hóa ức muôn năm, còn gì có thể hơn thế nữa!

Từ đời Trung hưng về sau, gói buộc việc võ, mở rộng việc văn, kế thừa quy tắc chế độ cũ, khoa mục công cụ kén chọn hiền tài càng được khuếch trương, lệ khắc đá đề danh càng thêm đầy đủ, quy mô to lớn càng được lưu truyền đến vô cùng.

Nay thánh đế thánh vương tương ngộ, chăm lo trị nước, quý trọng Nho gia, tô điểm nhân văn, chạnh nhớ công lao của bề tôi đời trước, muốn nêu tên họ để biểu dương, bèn sai khắc bia những khoa còn thiếu để rạng tỏ sự tốt đẹp của đời, khuyến khích lớp hậu học hăng hái vươn lên, thật là một sự kiện rất trọng đại.

Từ chỗ hàn vi đạt tới vinh hạnh này, kẻ sĩ phải nên báo đáp thế nào? Hoặc lặng lẽ mà dâng mưu hay như ngọc báu, hoặc khảng khái bày tỏ tâm can; theo hầu trong cung phải giúp đức cho vua, giúp ơn cho dân; trấn nhậm một phương phải làm bình phong phên dậu. Người giữ chức cao phải đem khả năng bàn nói để hết chức phận can gián của mình, ngõ hầu trên không phụ ơn vua, dưới không thẹn với hàng khoa mục mà công danh sự nghiệp đời đời không mất vậy.

Nếu không được thế thì ngọc xước khó mài, vết nhơ không giấu, người đời sau chỉ trích chê cười, há chẳng nên thận trọng sao? Như thế thì bia đá này dựng lên không phải để xem cho đẹp, phô trương thịnh sự mà thôi, mà còn bồi đắp thế đạo đến vô cùng, công dụng há phải nhỏ đâu!”.

– Vĩnh Thịnh nhị niên Bính Tuất khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Bính Tuất năm Vĩnh Thịnh 2 – 1706) có đoạn:

“Ngày nay, Hoàng thượng trùng quang Thái học, lớn nối sự tốt đẹp của Tiên vương, công trị hóa rực rỡ, thịnh ý tôn thánh đạo trọng Nho khoa lại càng rất đặc biệt. Bèn tuân theo lệ cũ sai khắc họ tên các Tiến sĩ lên bia đá dựng ở cửa nhà Thái học, khiến cho việc cũ hơn sáu mươi năm gần đây chưa làm thì đến nay một sớm trở nên hết sức đầy đủ, ý khích lệ khen thưởng thật càng sâu sắc tha thiết.

Nay lấy khoa thi này mà nói: những người có tên trong bảng rồng hổ đều là các nhân tài. Có vị giỏi chính thuật được ủy trông coi chính sự một phương, có vị giàu đảm lược ra giúp trấn giữ nơi phên dậu. Có người tham gia dự bàn mưu lược ở miếu đường, có người giữ việc binh nhung, đều là những chức vị tôn quý mà nặng nề. Vậy thì việc báo đáp phải nên thế nào? Ắt phải gắng rèn mài liêm cần, trau dồi tiết hạnh, cứng rắn như vàng ngọc, chân chất trong sáng như ngọc vàng, làm việc thì phải đồng tâm hiệp lực, thờ vua thì giữ gìn chính đạo, vững như cột đá sừng sững giữa dòng, khác nào Vương Tăng nét mặt trang nghiêm đứng giữa triều đình; lo cho nước nhà yên vững tựa Thái Sơn thì phải được như Hàn Kỳ đức vọng hơn đời, giúp cho vua được như Nghiêu Thuấn, làm cho thế đại được ngang với đời Đường Ngu. Được như thế thì trên không phụ với danh tiếng được triều đình nghe biết, dưới không phụ những điều sở học lúc bình sinh, thế thì sự nghiệp công danh sẽ cùng tấm bia này lưu lại tiếng khen đến vô cùng vậy. Thảng hoặc ngoài vuông trong tròn, trước trinh chính sau hoen ố, danh thực không xứng nhau, lời nói việc làm trái ngược, tức là làm cho bia đá này bị tì vết, công luận nghiêm xét há chẳng đáng sợ sao?

Nguồn: L5, tập 1, tr.238; V2, tr.380-383; 407-411.

 494. Nhiều nhà khoa bảng họ Dương được vinh danh trên bia Đề danh Tiến sĩ.

– Dương Công Độ được vinh danh tại Chính Hòa tứ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ Đề danh ký, do Cẩn sự tá lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Nguyễn Kiều soạn, nhấn mạnh trời sinh bậc hiền tài là muốn để dùng cho đời bậc nhân quân trị nước điều cốt yếu cần rộng chọn hiền tài. Bởi vì hiền tài là khí dụng của quốc gia, khí dụng đủ thì điều khiển giao phó chẳng việc gì không được, chính sự không việc gì không làm nổi, mà cơ đồ không thể không vững chắc, thế đạo không thể không thịnh sáng vậy. Cho nên đời xưa trị nước, không gì gấp bằng cầu tìm hiền tài để tin giao công việc.

– Nguyễn Quang Luân được vinh danh Chính Hòa nhị thập tứ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ Đề danh ký do Cẩn lang sự Hàn lâm viện Hiệu thảo Thị nội Thư tả soạn, khẳng định một cách chắc chắn và rõ ràng về lợi ích của đạo học vì trị nước không gì gấp hơn việc cầu hiền, chọn kẻ sĩ ắt phải do đường khoa mục. Đặt ra khoa mọc vốn đã có từ xưa. Nhớ lại nước Việt ta từ triều Lý, Trần đã bắt đầu lựa chọn những người thông hiểu kinh sách vào hầu vua, vời người có văn học để bổ nhiệm. Đến năm Thiệu Bình thứ 13 mới bắt đầu đặt khoa Tiến sĩ, năm Kiến Trung thứ 8 (1232) mới định ra cấp bậc tam giáp. Nhưng định lệ nhất quán, quy cách chặt chẽ thì phải đến năm Long Hưng thứ 12 về sau mới thật đầy đủ. Thời bấy giờ hiền tài xuất thân từ khoa mục rất nhiều. Có người giúp mưu lược trị nước phò vua, có người đủ tài trừ gian dẹp loạn, giúp nên trị công to lớn, rộng mở cảnh tượng hưng thịnh thái bình. Hiệu quả của khoa mục lựa chọn nhân tài, công lao ích nước lợi dân của nho sĩ thực rất rõ ràng. Dùng khoa mục để chọn nhân tài như thế, há chẳng tốt đẹp hay sao?

Dương Lệ được vinh danh trong Vĩnh Thịnh bát niên Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh ký vẫn do Cẩn sự tá lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Nguyễn Kiều soạn, trong đó hết sức lưu tâm đến trọng trách của kẻ được tôn sùng, ghi nhận vì kẻ sĩ sinh ở đời, may mắn được đăng tên lên tấm đá này há chẳng vinh hạnh lắm sao? Cho nên phải nên noi theo chính đạo để giữ chính thân tâm, suy cứu học thuật để kinh bang tế thế, để nước nhà có chỗ dựa cậy như nhà Chu có cây cột vững, càng có nhiều hiền tài, nước nhà càng yên vững, như dân đất Bái đất Thương nhuần thấm mưa rào, khiến cho thiên hạ đời sau nhón chân ngưỡng mộ tiếng tăm rực rệt của mình, làm vẻ vang cho hàng ngũ nhân tài, ngõ hầu trên không phụ ơn triều đình khen thưởng, dưới không phụ hoài bão phò vua giúp dân, như thế thì những dòng khắc ghi trên bia đá này chẳng bao giờ mờ mòn. Thảng hoặc có kẻ đạo đức quanh co, co kéo cho bản thân mình, cái người ta thấy không giống như cái người ta nghe, việc làm trái với sở học, thì chẳng những hổ thẹn với mũ áo của người làm quan mà cũng không khỏi bị người đời sau chê cười, người ta sẽ chỉ vào chữ khắc họ tên mà coi như vết nhơ trên bia đá.

Đủ biết bia đá này dựng lên có quan hệ đến thế nào, có tác dụng rèn giũa nhân tâm, ngụ ý khuyên răn thưởng phạt, cổ vũ sĩ khí, theo câu ca đẽo ngọc mài vàng; bồi đắp mệnh mạch tư văn lâu dài như trời đất, giữ cơ đồ đất nước vững yên như Thái Sơn bàn thạch, há chẳng phải là nguồn gốc đoan chính công dụng lớn lao hay sao? Những ai xem đọc bia này nên hiểu ngụ ý sâu xa đó.

Dương Bật Trạc được vinh danh trong Vĩnh Thịnh thập nhất niên Ất Mùi khoa Tiến sĩ Đề danh ký do Cẩn sự lang Hàn lâm viện Hiệu lý Bùi Sĩ Tiêm soạn cùng vẫn nhắc nhở tất cả kẻ sĩ rằng, phải giữ mình trong sạch liên chính, giữ lòng trong trắng, lấy chính trực trung hậu mà đứng giữa triều đình, lấy đạo đức nhân nghĩa mà giúp chủ, khiến cho thanh danh lừng lẫy, sự nghiệp lỗi lạc, thì người đời sau sẽ chỉ tên mà khen ngợi. Thảng hoặc có người tâm đổi chí dời, lời nói việc làm trái ngược, chỉ nghĩ đến tiền tài quan tước, chỉ mưu đồ toan tính được mất, bên ngoài thì tỏ ra khí khái cương trực mà bên trong thì hèn nhát dua đời, việc làm trái với sở học, mà khi thành đạt thì xa lìa chính đạo, khiến cho danh tiết nhơ bẩn, xú uế sĩ phong. Như thế thì người đời sẽ chỉ tên mà chê cười, công luận nghiêm buốt, ngàn năm sáng rệt, há chẳng đáng thận trọng sao? Ôi! Quy chế khắc bia đặt ra đâu phải chỉ để người đương thời trông vào cho đẹp mắt, mà chính là để gửi gắm khuyên răn đối với hậu thế, sự hữu ích của nó đối với phong hóa thế đạo há phải là nhỏ đâu! Phàm những ai xem bia đều nên hiểu rõ ý nghĩa sâu xa đó.

Nguồn: V2, tr.361-427.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Đinh Dậu)

 495. Hiệu sinh họ Dương soạn văn bia Thạch phụng tự bi

Bia được dựng tại giáp Quy Mỹ, xã Mỹ Phúc, tổng Đào Quán, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Đào Mỹ, Lạng Giang – Bắc Giang) ghi lại rằng:

Bà Mạc Thị Ít là người trong làng đã xuất giá lấy chồng tại thôn Tạ xã Phụng Công huyện Yên Dũng. Nay bà cùng với con trai về quê mua 3 thửa ruộng góp cho làng. Quan viên, dân làng tôn bầu cha mẹ bà làm Hậu. Số ruộng này giao cho bản giáp cày cấy để thờ cúng cha mẹ bà. Ghi ngày giỗ của người được bầu Hậu và nghi lễ cúng tế Hậu hàng năm.

Nguồn: T12, tập 7, N06088; tập 12, N011080.

        NĂM 1718 (MẬU TUẤT)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Mậu Tuất)

 496. Dương Quán thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Mùa xuân (Lịch triều tạp kỷ: tháng Giêng; Đại Việt sử ký tiền biên: tháng Hai) – Mậu Tuất triều đình tổ chức khoa thi Hội cho các Cống sĩ trong nước. Sai Tá lý công thần Tiền hòa quân doanh Tây quân Đô đốc phủ Thự Phủ sự Thiếu phó Ứng Quận công Đặng Đình Tướng làm Đề điệu; Bồi tụng Ngự sử đài Đô Ngự sử Nhập thị Kinh diên thự Trung thư giám Cẩm Thượng nam Trương Công Giai làm Tri Cống cử, Bồi tụng Hộ bộ Tả Thị lang Tuần Thành nam Lê Anh Tuấn cùng Bồi tụng Lại bộ Hữu Thị lang Kế Vũ nam Nguyễn Mậu Áng làm Giám thí, cùng các quan hữu ty chia giữ các việc.

Bấy giờ sĩ tử dự thi hơn 3.000 người lựa chọn hạng xuất sắc được 17 người. Ngày tháng Sáu năm Mậu Tuất (7-1718) vào Điện thí, ban cho Vũ Công Tể đỗ Tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Tuyền, Ninh Địch đỗ Tiến sĩ xuất thân, Lê Hữu Kiều 14 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Gọi loa xướng tên người thi đỗ. Quan Bộ Lễ rước Bảng Vàng ra treo ngoài cửa nhà Thái học. Sau đó ban áo mũ cân đai, cho dự yến Quỳnh hoa bạc, cho dựng nhà ở để được vẻ vang về làng. Lại theo lệ được ban chức tước, mưa móc như từ trời cao ban xuống, ơn nhuần rất mực long trọng. Việc khắc đá đề danh thì đã có lệ cũ.

Dương Quán – cháu đời xa của Dương Phúc Tư, tằng tôn của Dương Thuần, em họ Dương Lệ, làm quan đến chức Giám sát.

Nguồn: V2, tr.431-436; L5, tập 1, tr.271, 280-282; Đ6, tr.69-70.

        Tháng 12 (tháng Một – Mậu Tuất)

 497. Ông Dương Tiến Lộc được bầu Hậu thần làng Mỹ Cầu

Mỹ Cầu xã đình bi tạo năm Vĩnh Thịnh 14 dựng tại đình Mỹ Cầu, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là xã Mỹ Cầu – thành phố Bắc Giang) ghi nhận việc Quan viên, Hương lão hai giáp Đông và Bắc thuộc thôn Thượng xã Mỹ Cầu cùng nhau lập bia đá ghi lại sự việc sau:

Ông Dương Tiến Lộc là người đức hạnh, tử tế với mọi người. Gặp năm mất mùa, thuế má nặng nề, dân không có tiền đóng, ông đã cúng 400 quan sử tiền và 1 thửa ruộng sản lượng 100 gánh, lại 1 thửa ruộng mạ để chi phí. Do đó, toàn dân thuận tình bầu ông bà cha mẹ và vợ chồng ông làm Hậu thần, quanh năm hương hỏa.

Nguồn: T12, tập 9, N08257-60.

        NĂM 1719 (KỶ HỢI)

        Ngày 5 tháng 3 (15 tháng Giêng – Kỷ Hợi)

 498. Sinh đồ Dương Đăng Quỹ viết chữ để khắc bia dựng tại chùa Vĩnh Phúc

Vĩnh Trung giáp tính danh ký/ Vĩnh Tây giáp/ An Vĩnh giáp tính danh ký do Sinh đồ Nguyễn Danh Giáo soạn văn bia; Dương Đăng Quý, người xã Ỷ La, tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây viết chữ vào ngày Vọng, tháng Mạnh xuân năm Vĩnh Thịnh 15. Bia dựng tại chùa Vĩnh Phúc, xã Quế Dương, tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay là xã Cát Quế, Hoài Đức – Hà Nội) ghi rằng:

Ba giáp An Vĩnh, Vĩnh Trung và Vĩnh Tây của xã Quế Dương đóng góp tiền của mua gỗ lim, ngói làm gác chuông, tam quan, điện thiêu hương và nhà trước sau cho chùa Vĩnh Phúc. Ghi tên các vị đóng góp, chia theo từng giáp, trong đó có các cung tần, xã trưởng, hương lão.

Nguồn: T12, tập 2, N01261-64.

        Tháng 3 (tháng Hai – Kỷ Hợi)

 499. Giám sinh Dương Bỉnh Khu soạn văn bia ghi việc vợ chồng Tín sĩ Dương Nghi cung tiến xây quán đá cho chợ Yên Sơn

Giám sinh là người bản xã soạn Tạo lập/ Thạch quán/ Bi ký vào năm Vĩnh Thịnh 15. Bia được dựng tại đình xã Yên Sơn, tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Yên Sơn, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi lại việc: Tín sĩ Dương Nghi tự là Pháp Trị và vợ Nguyễn Thị Ba hiệu là Diệu Bản người bản thôn cúng cho thôn 20 quan tiền. Sĩ phủ Nguyễn Văn Chiếu người thôn Tỉnh Cách xã Lãng Ngâm huyện Gia Định phủ Thuận An và vợ Đỗ Thị Tự hiệu là Diệu Tân công đức cho thôn 20 quan. cùng các thiện nam tín nữ góp tiền của tạo dựng hai ngôi quán 6 gian cho chợ làng. Nay dựng bia ghi lại làm kỉ niệm.

Nguồn: T12, tập 9, N08053-56.

        Trong năm

 500. Sinh đồ Dương Khuê tham gia cùng các văn thuộc, quan viên bầu Hậu thánh làng Quang Biểu

Hậu thánh bi ký tạo năm Vĩnh Thịnh 15, dựng tại đình bản xã thuộc tổng cùng tên, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Quang Châu, Việt Yên – Bắc Giang), ghi rằng, Cai quan Tri thị nội Thư tả Lại phiên, Tri công tượng Tiền tượng cơ Phó cai quan Thị nội giám, Ty lễ giám, Tổng thái giám Thự vệ sự Quán Quận công Nguyễn tôn công húy Ôn Hậu là người có công với xã dân nên được các văn thuộc, xã quan họp lại bầu làm Hậu thánh.

Nguồn: Đ12, tr.605-606.

 501. Nêu gương đức độ dòng họ Dương làng Hạ Lôi

Lưu truyền bi ký tạo năm Vĩnh Thịnh 15, dựng tại đình xã Hạ Lôi, tổng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Mê Linh, Yên Lãng – Vĩnh Phúc) ghi rằng:

Họ Dương ở xã Hạ Lôi là dòng họ lớn, tổ tông sống đức độ, sinh ra Dương Hữu Sủng, lúc nhỏ nghèo khổ sau làm quan đến Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Ty lễ giám Hữu Đề điểm, tước Bàn Thái hầu. Cha mẹ mất, anh em sống hòa thuận, đùm bọc lẫn nhau. Nay ghi lại việc này để con cháu biết được công đức của tổ tiên và không quên việc cúng giỗ.

Nguồn: T12, tập 11, N010078.

        NĂM 1720 (CANH TÝ)

        Trong năm

 502.

Nhiều gia đình họ Dương công đức tu tạo chùa Trù Chúng

Theo lời văn trên cột đá tạo năm Bảo Thái – Canh Tý để tại chùa Trù Chúng, còn gọi là Bến Chuông, tổng Hà Châu, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Tân Chung, xã Đồng Tân, Hiệp Hòa – Bắc Giang) thì vào năm ấy, Quan viên, Hương lão 3 xã Bến Chuông, Mai Sơn, Kha Nhi thuộc 2 huyện Hiệp Hòa và Tư Nông của 2 phủ Bắc Hà và Phú Bình, thuộc Kinh Bắc, Thái Nguyên nhận thấy rằng nguyên chùa Trù Chúng, tiền triều là một cổ tích danh lam, hiện bị đổ nát, nay sửa chữa dùng gỗ tốt và cột đá cho được vững chắc, đã được các vị kê tên sau đây tiến cúng: Người thôn Ngọ Đông, xã Kha Nhi Dương Tiến Đức, vợ Ngô Thị Tiểu, Dương Thị Cảnh; Dương Tiến Tượng, vợ Nguyễn Thị Thái; Lê Văn Quang, vợ Dương Thị Hiển cúng 1 cột đá 1 cột gỗ. Người thôn Ngô Xá, xã Mai Sơn Ngô Thị Thân, hiệu Điệu Hạnh cúng 1 cột đá 1 cột gỗ.

Nguồn: Đ12, tr.412.

        NĂM 1722 (TÂN SỬU – NHÂM DẦN)

        Ngày 4 tháng 1 (17 tháng Một – Tân Sửu)

 503. Dương Quán được ghi danh trong bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu

Đó là Vĩnh Thịnh thập tứ niên Mậu Tuất khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Tuất năm Vĩnh Thịnh 14 – 1718) do Mậu lâm lang Bồi tụng Hàn lâm viện Thị thư Vũ Công Tể soạn; Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Bồi tụng Đông các Đại học sĩ Trù Phúc hầu Đinh Phụ Ích nhuận sắc, nhấn mạnh:

“Tìm trong khoa mục là con đường bằng phẳng để lựa chọn nhân tài, mà gây dựng tiếng tăm thì cần nhất là ở lệ thường khuyến khích sĩ tử. Vái xem từ đời thánh triều lập quốc tới nay thường lấy khoa cử để khích lệ nho phong, mở mang văn trị. Ngước thấy ngày nay, thể chế quy tắc chặt chẽ, muốn có quả dưa to cũng phải lựa cả dây leo bìm bìm. Nhưng phép xét tuyển rất tinh, ơn đãi ngộ rất hậu, mà việc tạc đá khắc bia thì cốt nhất là để cho thanh danh lưu truyền mãi mãi. Kẻ sĩ được đăng tên vào tấm đá này thật là vinh hạnh biết bao! Vậy phải giữ tiết tháo cứng cỏi, giữ tâm chất thực chắc chắn, lấy chính trực trung hậu mà đứng giữa triều đình, lấy đạo đức nhân nghĩa mà giúp chúa, chẳng gỉ chẳng mòn, sừng sững như cột trụ ở miếu đường, làm nền tảng, làm ánh sáng, giữ yên xã tắc, công lao sự nghiệp không chỉ rạng rỡ ở đương thời mà phúc lộc còn truyền mãi muôn đời. Thế thì danh tiếng ấy cùng bia đá này sẽ lưu truyền hương thơm đến vô cùng vậy. Thảng hoặc có ai đó hành vi và lương tâm trái nhau, danh thực trái ngược, thì ngọc khuê có vết khó mài, tiếng nhơ khó giấu, công luận nghiêm xét, nghìn năm không quên, há chẳng nên cẩn thận ư?”.

Nguồn: V2, tr.431-441.

        Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Dần)

 504. Ông Dương Đắc Vi hưng công hội chủ cột hương đá chùa Thanh Trù

Thanh Trù tư ký/ Hưng công cấu tác/ Đồng tự công đức/ Công đức tạo năm Bảo Thái 3, dựng tại chùa xã Bắc Kế, tổng Thiện Kế, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Bá Hiến, Bình Xuyên – Thái Nguyên) ghi nhận:

Tháng Một năm Nhâm Dần (1722) các vị hưng công hội chủ ở xã Bắc Kế cùng nhau thiện tín thập phương đã đóng góp tiền của tạo dựng cột hương bằng đá ở chùa Thanh Trù. Ghi họ và tên các hưng công hội chủ các thiện nam tín nữ đã công đức tiến cúng tiền bạc để xây dựng cột hương cho chùa, như: ông Dương Đắc Vị, xã chính Tạ Thế Tuân, ông Tạ Văn Vĩ, v.v…

Nguồn: T12, tập 16, N015306-11; N5, tr.132.

        NĂM 1723 (NHÂM THÌN – QUÝ MÃO)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Thìn)

 505. Vợ chồng bà Dương Thị Điền được bầu làm Hậu phật xã Phương Lan

Bia không có tiêu đề, tạo tháng Quý đông – Nhâm Thìn, dựng tại chùa Trí Quả xã Phương Lan (Phương Quan), tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) cho biết: Quan viên, Hương lão thôn Thượng xã Phương Lan vì có việc kiện tụng với xã Văn Lan nên hao tổn khá nhiều tiền, đã theo lệ hương âm để thu nhưng chưa đủ. Vì thế bầu Hậu phật cho vợ chồng Phạm Văn Toàn, Dương Thị Điền để họ nộp cho thôn 150 quan cổ tiền và l mẫu ruộng. Các giáp thay phiên nhau cày cấy thu hoa lợi để cúng giỗ Hậu. Ghi quy định cúng giỗ.

Nguồn: T12, tập 4, N03605-07

        Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Mão)

 506. Dương Danh Giám viết chữ cho bia chùa Nam Xương

Nam Xương xã tự bi do Sinh đồ Nguyễn Thanh soạn, tạo năm Bảo Thái 4, dựng tại chùa Huyền Khuê, xã Nam Xương, tổng Thọ Xương, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc phường Thọ Xương – thành phố Bắc Giang) ghi tên họ và số tiền các Tín thí cung tiến dựng cây Thiên đài.

Nguồn: T12, tập 9, N08253 – 56.

        Tháng 3 (tháng Hai – Quý Mão)

 507. Vợ chồng ông Dương Khuông Liên được bầu làm Hậu thần thôn Văn Giàng

Tạo Hậu thần bi/ Bản thôn cứ y/ Vạn cổ bất di tạo năm Bảo Thái 4, dựng tại đình thôn Văn Giàng – còn gọi là Chản Sông, xã Vu Gián, tổng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tân Tiến – thành phố Bắc Giang) cho biết vợ chồng Dương Khuông Liên là người có lòng nhân hậu, hay cứu giúp người nghèo khó, nay cúng tiền, ruộng cho dân để chi dùng vào việc công. Do đó, quan viên, hương lão cùng toàn dân bầu ông bà làm Hậu Thần quanh năm hương hoả.

Hàng năm, đến ngày giỗ, dân thôn sửa cỗ cúng tế theo nghi lễ. Các tiết xuân thu, dân thôn phụng sự thần thì ông bà đều được phối hưởng…

Nguồn: T12, tập 9, N08164-66.

        Trong năm 

508. Vợ chồng Giám sinh Dương Chiêu Tuấn cung tiến vào chùa Phúc Linh

Phúc Linh tự tạo năm Bảo Thái 4 dựng tại chùa thôn Hộ Lệnh xã Triều Dương, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Nhã Lộng, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi rằng, do được làm bằng gỗ, nhưng sợ không kiên cố, một số hội chủ góp tiền xây 1 tòa điện đá. Nay công việc hoàn thành, ghi công đức những người đóng góp công của như: Giám sinh Dương Chiêu Tuấn và vợ là Nguyễn Thị Dĩnh cúng 1 cột đá v.v…

Nguồn: T12, tập 11, N010468-71.

 509. Vợ chồng Hương lão Dương lệnh công trợ phí sửa đình xã Cổ Dũng

Hậu thần bi kí dựng tại chùa thôn Trại Núi, xã Cổ Dũng, tổng Cổ Dũng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tiến Dũng, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi rằng: Dương lệnh công tự Phúc Du, chính thất Dương thị hiệu Diệu Xuân, tính trời ngay thẳng, tâm địa hiền từ, vào năm quý Mão (1723) bản thôn gặp việc tranh chiếm địa giới, dẫn đến việc chi phí nhiều tiền. Bản thôn đến nhà xin bà cấp tiền trợ phí. Bà đã cấp 100 quan tiển và trên một mẫu ruộng, giúp cho việc ấy. Bởi vậy, bản thôn bầu ông bà làm Hậu Thần. Ông bà lại cấp 30 quan cổ tiền, 1 mẫu 5 sào ruộng, 1 cái ao, 1 cái nồi đồng 20 tuổi để dân dùng vào việc cúng giỗ.

Nguồn: Đ12, tr.776.

 560. Bà Dương Thị Tôn xuất tiền, ruộng sửa chữa đình vũ Cổ Dũng

Hậu thần bi ký dựng tại chùa thôn Thượng, xã Cổ Dũng kể trên ghi rằng, các Hương lão danh cụ Lân, danh cụ Vu, danh cụ Chính, danh cụ Thiêm, danh cụ Bát và nhiều người khác thôn Thượng, xã Cổ Dũng, tổng Cổ Dũng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang lập bia ghi việc: bà Dương Thị Tôn bản thôn, xuất 400 quan tiền và 1 mẫu 1 sào ruộng giúp bản thôn dùng vào việc sửa chữa đình vũ, nên được bầu làm Hậu Thần. Bà còn tiến cúng 1 nồi đồng 30 tuổi, để dùng vào việc cúng tế, vì vậy, bà sống biếu, chết giỗ.

Nguồn: Đ12, tr.776.

 561. Nhiều cặp vợ chồng họ Dương hưng công tạo dựng Thiên đài, mua Hậu cho người thân ở Ngọc Cụ

Hội Phúc tự phật pháp tăng hung công thạch trụ bi tạo năm Bảo Thái 4, dựng tại chùa Hội Phúc, xã Ngọc Cụ, tổng Ngọc Cục, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Việt Ngọc, Tân Yên – Bắc Giang) ghi, Hương lão Nguyễn Văn Quế, Trương Văn Khang, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Văn Củ, thôn trưởng Trương Văn Ngạn, Nguyễn Hữu Dụng…, cùng các bậc trên dưới hưng công dựng cây Thiên đài.

Kê tên các hưng công hội chủ: Hà Văn Vĩ, vợ Dương Thị Thiện, con trai Hà Văn Cai gửi Hậu cho hiển khảo tự Phúc Tâm, hiển tỉ hiệu Từ Tính bằng 1 quan tiền cổ. Hội chủ hưng công Ninh Viết Thành, vợ Trương Thị Hiển, thân mẫu Vũ Thị Đường, con trai Ninh Văn Kính gửi Hậu cho hiển khảo tự Phúc Lương, vợ trước của hiển khảo hiệu Từ Tín bằng 2 quan tiền cổ, (và 5 gia đình nữa)…

Tùy duyên Hội chủ: Dương Công Toàn, vợ Dương Thị Dật gửi Hậu cho hiển khảo tự Phúc Lương, hiển tỉ hiệu Từ Quảng 7 quan tiền cổ. Tùy duyên: Ninh Văn Y, vợ Dương Thị Cửu công đức 5 mạch.

Nguồn: Đ12, tr.550.

        NĂM 1725 (ẤT TỴ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Ất Tỵ)

 562. Vợ chồng Dương Tri Lễ được bầu Hậu thần xã Thạch Lựu

Bia không có tiêu đề, tạo năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu, tổng Đại Phương Lan, huyện An Lão, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng), ghi việc:

Bản xã thiếu tiền chi dùng vào việc quan dịch, vì thế toàn thể quan viên xã thôn trưởng họp tại đình để chọn bầu cho vợ chồng ông Dương Trí Lễ và 2 vợ làm Hậu thần, Hậu phật. Ông bà đã chi ra 220 quan sử tiền cho xã chi dùng vào việc quan dịch. Có ghi họ và tên, ngày giỗ của các Hậu thần, vị trí các thửa ruộng cúng tiến và qui định cúng tế hàng năm. Ông Dương Trí Lễ lại cúng 2 sào l thước ruộng vào chùa làm ruộng Tam bảo. Số ruộng này giao cho nhà chùa canh tác, ngày rằm mùng 1 thắp hương thờ Phật và ngày 15 tháng 12 làm lễ kính tế Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 12, N011127-29.

        Tháng 3 (tháng Hai – Ất Tỵ) 

563. Họ Dương công đức cột hương tại chùa xã Đào Quán

Thiên đài bảo châu tạo năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa bản xã, tổng cùng tên, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Đào Mỹ, Lạng Giang – Bắc Giang) cho biết, khi dựng cây hương có tới hơn 200 vị hưng công, hội chủ, thiện nam, tín nữ công đức tiền của – trong đó có các ông bà Dương Duy Minh, Dương Quang Trạch, Dương Kim An, Dương Văn Nhã, Dương Thị Thạch, Dương Hội Yến, Dương Thị Ngoạn, Dương Thị Tuyên, Dương Thị Vinh, Dương Đức Sầm, Dương Luật, Dương Luận, Dương Thị Lai, Dương Thị Đài, Dương Thị Hệ.

Nguồn: T12, tập 12, N011072-75

        Tháng 5 (tháng Tư – Ất Tỵ)

 564. Xã trưởng Dương Trí Danh soạn Lập đoan bi ký/ Cúng điền

Bia tạo năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi việc:

Bản xã thiếu tiền chi vào việc quan dịch để nộp vào vụ hè. Quan viên hương lão xã Thạch Lựu họp tại đình để bầu ông Đào Hưng Long người bản xã và hai vợ: bà Dương Thị Minh, bà Dương Thị Đài làm Hậu thần. Vợ chồng Đào Hưng Long đã nộp cho xã 200 quan sử tiền và 1 mẫu 5 thước ruộng để xã chi vào việc quan dịch. Ghi các qui định cúng giỗ hàng năm. Ông Đào Hưng Long và 2 bà vợ lại cúng vào chùa 3 sào 5 thước ruộng làm ruộng Tam bảo. Hàng năm vào ngày rằm, mùng 1 và ngày kị nhà chùa đều làm lễ cúng giỗ vợ chồng ông Đào Hưng Long.

Nguồn: T12, tập 12, N011124-25.

        Tháng 11 (tháng Mười – Ất Tỵ)

 565. Xã trưởng Dương Trí Danh soạn Hậu phật bi ký

Bia tạo tháng Mạnh đông, năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa An Tất, xã Thạch Lựu (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng ghi việc bà Đào Thị Dậu, người bản xã cúng 2 sào làm ruộng hương hỏa, được bầu làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 12, N011118-19.

        Ngày 24 tháng 2 (21 tháng Một – Ất Tỵ)

 566. Nhiều quan viên họ Dương xã Vĩnh Thế bầu Hậu thần cho làng

Hậu thần bi ký dựng tại điếm xóm Nam bản xã, tổng Khương tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) ghi nhận các Đô sự Dương Tuyên Chứng, Tri huyện Dương Liên, Huyện thừa Dương Tông, Đạo phó Dương Tất Hiếu, Thôn trưởng Dương Duy Lơng, Dương Duy Thiện, Dương Đắc Phú, Dương Tuyên, Dương Tuấn, Dương Kiều và đại diện cho 9 giáp Hưng Hiền, Văn Thắng, Xuyên Dương, Kim Sơn (Dương Thế Trị), Phú Cốc, Ngọc Tinh (Dương Thế Trung, Dương Hoằng), Kim Cốc, Văn Hưng, Kim Bảng chứng kiến và bầu Tư Lễ giám, Tả Thiếu giám Nguyễn Đình Hiên được tặng Thái giám Hiên Nghĩa hầu – vốn xưa phụng sự trông coi nơi cung cấm, làm Hậu thần, phụng sự tế tự riêng ở miếu cùng giỗ cha mẹ.  

Nguồn: T23, tr.225-231.

        NĂM 1726 (ẤT TỴ – BÍNH NGỌ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Ất Tỵ)

 567. Ông Dương Đặng Khanh cùng vợ, con trai, con gái hưng công xây cột Thiên đài chùa thôn Quan Lạng

Bia không tiêu đề, tạo năm Bảo Thái 6, dựng tại chùa bản thôn, xã Cao Quang, tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Cao Minh, thành phố PhúcYên – Vĩnh Phúc) ghi lại sự việc trên.

Nguồn: T12, tập 7, N06654 – 55.

        Tháng 11 (tháng Mười – Bính Ngọ)

 568. Dương Đình Nghi [Nghĩa], Dương Công Tể thi đậu Hương cống

Mùa đông, tháng Mười – Bính Ngọ triều đình tổ chức thi Hương, tăng thêm ngạch lấy đỗ ở trường thi Phụng Thiên. Trước lấy 10 người nay lấy 20 người. Ban thành lệ lâu dài.

Dương Đình Nghi [Nghĩa], người xã Dương Xá, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay là xã Thiệu Dương – thành phố Thanh Hóa; Dương Công Tể người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu, Nghệ An) đều thi đậu.

Nhận thấy rằng, nhiều người thi đậu Hương cống là do có người gà văn, không phải học lực thật, lấy đỗ thì quá lạm. Một số con em nhà thế gia có học vị qua kỳ thi Hương không có thực tài. Do đó, Cảo Quận công Nguyễn Công Cơ đã tâu lên phủ chúa. Tháng Một – Bính Ngọ (12-1726) Trịnh Cương ra lệnh thi lại Cống sĩ các xứ ở lầu Ngũ Long. Kết quả là con của Tham tụng Lê Anh Tuấn, Tắc Quận công Phạm Công Trân, Văn Quận công Đỗ Bá Phẩm, Đổng Quận công Đặng Đình Giản đều bị trượt cả, cộng tất cả những người thi hỏng ở các xứ là 28 người đều đưa xuống đình thần xét hỏi.

Nguồn: Đ6, tr.97-98; L5, tập 2, tr.123-126; N11, tr.498; K6, tr.157.

        NĂM 1727 (ĐINH MÙI)

        Ngày 19 tháng 10 (2 tháng Chín – Đinh Mùi)

 569. Xã chính Dương Trí Danh soạn văn bia chùa An Tất

Bia không có tiêu đề, tạo năm Bảo Thái 8, dựng tại chùa xã Thạch Lựu (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi:

Quan viên, Hương lão, Xã trưởng xã Thạch Lựu cùng họp tại đình bàn về việc: Do bản xã có việc kiện tụng ở phủ, lại thêm quan dịch nặng nề mà không có tiền chi trả. Vì thế toàn xã có lời đoan ước: Nếu ai giúp xã có tiền chi vào việc quan dịch thì được tôn bầu làm Hậu thần, xã sẽ cúng giỗ hàng năm. Bản xã chọn vợ chồng ông Nguyễn Hữu Dư là người bản xã là gia đình nhân từ, thấy xã có khó khăn đã tự xuất ra 120 quan sử tiền để giúp xã. Vợ chồng ông được bầu là Hậu thần, Hậu phật hàng năm vào ngày giỗ làng sẽ làm cỗ bàn đem đến trước bia tại chùa cúng lễ và cho cha mẹ ông Dư được phối hưởng. Có quy định lệ cúng ế hàng năm. Ông Dư lại cúng vào chùa 1 sào 9 thước ruộng giao cho thiền tăng canh tác lấy tiền hương khói vào ngày rằm mùng 1 và cúng Hậu phật vào các ngày kị.

Đến ngày 22 tháng 10 (10 tháng Tám – Đinh Mùi) Xã chính Dương Chí Danh lại hoàn thành văn bia Hậu phật nhị vị cho biết bản xã có việc phải vay tiền, nay đến kỳ nhưng không có để trả. Xã bèn họp tại đình quy định: nếu ai giúp xã có tiền chi vào việc trả nợ thì được tôn làm Hậu thàn. Vợ chồng ông Nguyễn Thiện Năng là người bản xã đã xuất ra 120 quan sử tiền nộp cho xã và cúng 2 sào ruộng cho chùa để trở thành Hậu thần, Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 11, N011135-37, 11141-42.

        Ngày 21 tháng 11 (9 tháng Mười – Đinh Mùi)

 570. Tổng Thái giám Dương Đức Nhuận mất

Tự sư nghiệp bi ghi rằng Dương Đức Nhuận, sau đổi thành Nguyễn Đức Nhuận, người xã Trung Đạo, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, sau chuyển đến xã Đạo Khê cùng tổng huyện (nay thuộc xã Trung Hưng, Yên Mỹ – Hưng Yên). Phụ thân của ông là Điện thiếu khanh Nho Trung tử, mẫu thân là Nguyễn Thị Diệu Bích. Nhờ tổ tiên đắp nền phúc, đời đời để lại lòng nhân nên năm Đinh Mão (1687) ông được vào Vương phủ, tuy thăng đến Phó tri thị nội Thư tả Hộ phiên, Thị cận thị nội giám Tư lễ giám Tổng thái giám, Chuẩn Nghĩa hầu nhưng ông vẫn sống có nghĩa với làng nước. Nhớ công ông đã cúng cho dân 1 vạn 2 ngàn đồng tiền, 240 thước ruộng, dân xã đã bầu ông làm Phúc Thần, 4 mùa cúng tế.

Nguồn: T12, tập 8, N07299-300.

        NĂM 1728 (MẬU THÂN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Thân)

 571. Vợ chồng ông Dương Đức Vi được tôn Hậu phật xã Hùng Lãm

Hậu/ Phật/ Bi/ Ký tạo năm Bảo Thái Mậu Thân, dựng tại chùa xã, tổng Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hồng Thái, Việt Yên – Bắc Giang) ghi rằng, ông Dương Đức Vi cùng vợ là Thân Thị Bái người bản xã, đã cúng cho xã100 quan tiền và 1 mẫu ruộng. Quan viên, hương lão, dân làng tôn bầu ông bà làm Hậu phật. Ghi một số quy ước về lễ vật dùng vào ngày giỗ của Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 10, N09978-81.

        Tháng 10 (tháng 9 – Mậu Thân)

572. Nho sinh Dương Tri Cụ soạn bia Hậu thần cho xã Thiện Mỹ

Đới đức bi ký tinh minh tạo tháng Quý thu năm Bảo Thái 9, dựng tại đình xã Thiện Mỹ, tổng Ngọc Thành, huyện Hiệp Hòa, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Lương Phong, Hiệp Hòa – Bắc Giang), ghi rằng:

Quận công Trần Đình Ngọc có nhiều công đối với dân. Trong mấy năm Quý Tỵ, Tân Sửu ông đã cúng 500 quan tiền cổ, 9000 bát gạo cho dân khi bị lụt hoặc hạn hán và ba mẫu nửa sào ruộng để làm tự điền. Quan viên, dân làng nhớ ơn công đức của ông đã tôn bầu cha mẹ ông làm Hậu thần.

Bia cũng ghi việc vào năm Mậu Tuất (1718) ông còn bỏ tiền dựng lại ngôi chùa bị đổ nát, đúc lại quả chuông. Năm Đinh Mùi (1727) lại cho làm mới ngôi đình 7 gian 2 chái, cấp 3 mẫu ruộng làm tự điền. Dân bầu ông làm Á Phúc thần quanh năm hương hỏa.

Dương Tri Cụ, người thôn Hàn Lạc, tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Phú Thị, Gia Lâm – Hà Nội) là Nho sinh trúng thức.

Nguồn: T12, tập 10, N09203-06.

        NĂM 1729 (KỶ DẬU)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Dậu)

 573. Bà Dương Thị Sô được tôn Hậu phật tại xã Mậu Lương

Hậu phật tượng tạo năm Bảo Thái 10, dựng tại chùa bản xã, tổng Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay thuộc phường Kiến Hưng, Hà Đông – Hà Nội) ghi rằng, năm Kỷ Dậu (1729), bà Dương Thị Sô cúng cho bản xã 25 quan tiền và 2 mẫu ruộng. Quan viên hương lão và dân toàn xã đồng lòng bầu bà làm Hậu phật, hàng năm cúng giỗ theo quy định, lại ghi bản giao ước, họ tên những người ký bầu Hậu và vị trí, diênt các thửa ruộng. Mặt sau tạc tượng Hậu phật. Đến năm Cảnh Hưng thứ 7 (1746), bà Sô lại biện cỗ xôi thịt thết đãi toàn thôn và cúng thêm một thửa ao để thôn cam kết làm lễ cúng bà trước bia vào ngày 2 tháng Chạp hàng năm.

Nguồn: T12, tập 2, N01789-92.

        Tháng 12 (tháng Một – Kỷ Dậu)

 574. Bà họ Dương được bầu làm Hậu phật thôn Trình Hậu

Hậu phật bi ký tạo năm Vĩnh Khánh 1, dựng tại chùa Tam Giáo bản thôn, xã Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên) ghi việc, bà họ Dương hiệu Từ Chân, xuất gia quy y, đã cúng cho làng 5 sào 10 thước ruộng và một thửa ao nên được bầu làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 6, N05260.

        Trong năm

575. Dương Công Chính, Dương Chung Tú thi đậu Hương cống

Hai ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).

Nguồn: D7.

        NĂM 1731 (TÂN HỢI)

        Ngày 29 tháng 12 (1 tháng Chạp – Tân Hợi)

 476. Dương Công Thụ (Chú) thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Tháng 10 năm Tân Hợi, chuẩn lời tâu của bộ Lễ xin mở khoa thi Hội. Đặc sai Phó tướng Đề đốc Phương Quận công Trịnh Bật làm Đề điệu, Bồi tụng Lễ bộ Thượng thư Tri Hàn lâm viện sự Thiếu bảo Nông Quận công Nguyễn Hiệu làm Tri Cống cử, Bồi tụng Lễ bộ Tả Thị lang Lại Trạch hầu Phạm Đình Kính, Công bộ Hữu Thị lang Huy Luân bá Ngô Đình Thạc làm Giám thí. Qua bốn trường, lấy trúng cách bọn Nguyễn Bá Lân 12 người.

Qua tháng sau, vào ngày 15 tháng Một – Tân Hợi (13-12-1731) Điện thí. Đến ngày 1 tháng Chạp – Tân Hợi, xướng danh cho Đỗ Huy Kỳ đỗ Cập đệ, Xuất thân có thứ bậc khác nhau. Lại sai khắc đá đề danh để lưu truyền mãi mãi.

Dương Công Thụ (Chú), hậu duệ của Dương Phúc Tư, sau làm đến Tả thị lang bộ Lễ, khi mất tặng Thượng thư, tước Quận công.

Nguồn: V2, tr.457-460; Đ6, tr.128.

        NĂM 1732 (NHÂM TÝ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Nhâm Tý)

 577. Bà Dương Thị Lệnh mua Hậu cho song thân tại đình Liên Xương

Bia tạo năm Vĩnh Khánh 4, dựng tại đình bản xã, tổng Phi Mô, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Xương Lâm, Lạng Giang – Bắc Giang) ghi việc bà Dương Thị Lệnh đã cúng cho thôn Đại Ân bản xã 150 quan tiền sử, 9 thửa ruộng, 1 thửa ao xin Hậu thần cho cha mẹ. Bản thôn dựng bia ghi nhận.

Nguồn: T12, tập 7, 6091-94.

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Tý)

 578. Dương Quốc Bật thi đậu Hương Cống

Từ kỳ thi này, triều đình quy định:

“Văn kinh nghĩa trong kì thi Hương, thi Hội, thay dùng thể thức văn bát cổ, lệnh cho số đông sĩ tử học theo để các khoa thi Hương, thi đội về sau sẽ thi hành.

Bấy giờ Tể thần Nguyễn Công Hãng thích lối văn bát cổ, thường đem khảo hạch nho thần, ai trúng tuyển thì biểu dương, nhưng người học thường ngại vì thể ấy khó. Đến dịp Hãng mất hết chức vị, [việc ấy] chưa kịp thi hành mà bãi đi.

Chúa Trịnh Khương (Giang) ra chỉ dụ tôn sùng học sách kinh điển, cấm sách [chư] tử. Bấy giờ nghị bàn cho rằng: sách vở thánh hiền là ông tổ của văn chương. Gần đây theo lối học thuộc lòng, người đọc sách Kinh, Truyện chỉ sưu tầm tiểu chú mà phần nhiều bỏ sót chính văn. Người đọc sách Sử chỉ thiệp liệp sách ngoài mà bỏ quên sách Cương mục. Học thuật sơ lược, lỗ mỗ, cần phải ra sức chấn chỉnh để thay đổi tập tục của kẻ sĩ. Bèn ra lệnh sức cho người đi học từ nay sách Kinh, Truyện phải thuộc hết chính văn, còn như tập chú, tiểu chú thì chỉ chọn lấy phần tinh túy. Các sách [Tư trị] thông giám cương mục, Tả truyện cần phải đọc kĩ. Bởi thế việc học của nho gia mới bắt đầu có chỗ thống nhất”.

Sở dĩ biết được Dương Quốc Bật thi đỗ Hương cống kỳ thi này do do căn cứ vào Từ vũ bi ký do Giám sinh Nguyễn Duy Mai soạn, tạo năm Cảnh Hưng 6 (1745) dựng tại Văn chỉ xã Yên Viên, tổng Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là xã Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang), cho biết, Hội tư văn của xã Yên Viên huyện Yên Việt khởi công xây dựng Văn chỉ vào năm Canh Tuất (1740) đến năm Ất Sửu (1745) hoàn thành, ghi: lại họ và tên của các vị khoa mục đóng góp tiền, cột gỗ vào việc xây dựng văn chỉ, như các vị: Nguyễn Bá Tuấn, Nguyễn Đăng Đài, Nguyễn Kế Viên, đặc biệt có Hương cống Dương Quốc Bật đỗ khoa Nhâm Tý (1732) và các Hương cống Dương Danh Khuê, Dương Đình Khôi không rõ năm đỗ.

Nguồn: T12, tập 9, N08393-95; Đ6, tr.129.

        Tháng 5 (tháng Tư – Nhâm Tý)

 579. Các Tổng thái giám Dương Hữu Ân, Dương Công Trạch góp tiền trả nợ giúp dân thôn Khang Cù

Bia không có tiêu đề, dựng năm Vĩnh Khánh Nhâm Tý, đặt tại đình bản thôn, xã Phụng Pháp, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tân Mỹ – thành phố Bắc Giang) ghi rằng, quan viên thôn Khang Cù, xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang là Huyện thừa Dương Viết Tuyển, Phó sứ Dương Viết Tú, nho sinh Dương Bá Nho và những người khác, thấy bản xã thuế nợ đọng với số lượng nhiều, trong thôn người giầu, người nghèo không đồng đều, khó lòng phân bố nên đã cùng những người giầu trong xã bỏ tiền ra giúp dân nộp thuế, bởi vậy, dân xã lập bia ghi tên các vị: Tổng thái giám Hoàng Công Tiến, tự Phúc Nghiêm; Tổng thái giám Dương Hữu Ân, tự Minh Hách; Tổng thái giám Dương Công Tạo, tự Phúc Cương; Đô chỉ huy sứ Dũng Trạch hầu Hoàng Công Phú, tự Phúc Nhân; Nội giám Giám nhưng Hoàng Đạo Hiền, tự Phúc Hậu; Tri huyện Hoàng Luân, tự Phúc Tuy; Huyện thừa Dương Viết Tuyển, tự Phúc Khánh và khoảng 30 người khác đều có chức vị trong xã hội.

Nguồn: T12, tập 9, N08233-36; 35278-81.

        NĂM 1733 (NHÂM TÝ)

        Ngày 15 tháng 1 (10 tháng Chạp – Nhâm Tý)

 580. Xã chính Dương Trí Danh tiếp tục soạn văn bia chùa An Tất

Bia không tiêu đề, tạo năm Long Đức 1 dựng tại chùa xã Thạch Lựu (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng), ghi rằng:

Dân xã làm tờ khải kêu trình về việc quan huyện trước đây bắt phải xây dựng trụ sở cho huyện, dẫn đến hao người tốn của và sức dân không kham nổi lại không có tiền chi nộp. Nay Quan viên, Hương lão họp bàn tại đình qui định: Nếu ai giúp xã có tiền chi vào việc quan dịch thì được tôn bầu làm Hậu thần. Vợ chồng ông Nguyễn Đương Lộc người bản xã là gia đình lương thiện đã xuất 120 quan sử tiền nộp cho xã chi dùng, lại cúng 3 sào 7 thước ruộng vào chùa làm ruộng Tam bảo. Vì thế dân xã bầu vợ chồng ông là Hậu thần, Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 12, N011138-40.

        Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Tý)

 581. Dương Công Thụ (Chú) được ghi danh trong bia Đề danh Tiến sĩ dựng ở Văn Miếu

Tân Hợi khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Tân Hợi – 1731) do Tham tụng Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu bảo Thuật Quận công Phạm Khiêm Ích soạn, ghi danh toàn bộ 12 người thi đậu tại khoa này – trong đó có Dương Công Thụ.

Nguồn: V2, tr.457-458.

        NĂM 1734 (GIÁP DẦN)

        Tháng 9 (tháng Tám – Giáp Dần)

 582. Vợ chồng bà Dương Thị Chi đóng góp xây dựng Tam quan chùa xã Dương Quan

Bia không tiêu đề, tạo tháng Trọng thu năm Long Đức 3 dựng tại chùa bản xã, tổng Mỹ Thái, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Dương Đức, Lạng Giang – Bắc Giang) ghi danh những người góp tiền, như Nguyễn Tiến Đức và vợ Dương Thị Chi công đức 5 xâu tiền; những người góp cột đá, như Sinh đồ kiêm Xã quan Thân Huy và vợ Bùi Thị Điều, v.v… dùng làm 3 gian tam quan lợp ngói, làm nơi gửi giỗ cho gia tiên. Trong số đó có vợ chồng Nguyễn Văn Thận, người xã Hữu Lân huyện Yên Việt là người địa phương khác.

Nguồn: T12, tập 9, N08296-97.

        Tháng 11 (tháng Mười – Giáp Dần)

 583. Lập miếu tưởng nhớ công lao vợ chồng nhạc phụ họ Dương

Lập nhạc phụ/ Miếu di hương/ Tạo bi ký tạo năm Đức Long 3 đặt tại chùa xã Nội Hoàng, tổng Phấn Sơn, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là xã Nội Hoàng, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi việc, ngài Thân Thạc Vọng làm quan đến Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Nội phủ giám Tổng thái giám Chưởng giám sự Dương Nghĩa hầu ở phủ Chúa Thanh Vương, sau vào làm hầu ở Nội điện Vương thất. Ông là người có nhiều công lao với nước với dân. Bản xã có chùa Phúc Nghiêm là chốn danh lam cổ tự, ông bèn lập một ngôi miếu ở phía tây chùa để thờ cha mẹ vợ Nghĩa Xuyên bá họ Dương tự Văn Minh và phu nhân Dương thị Ngọc Yến hiệu là Chính Trực. Ông còn cúng cho xã một số ruộng sản lượng 190 gánh để dân cày cấy phụng thờ cha mẹ vợ ông ở miếu.

Nguồn: T12, tập 8, N07008-10.

        NĂM 1735 (ẤT MÃO)

        Tháng 9 (tháng Tám – Ất Mão)

 584. Dương Bưu soạn văn bia chùa xã Hỗ Đông

Thiên Mụ tự bi ký tạo năm Vĩnh Hựu 1, dựng tại chùa Thiên Mụ bản xã, tổng Hà Nhuận, huyện Kim Thành, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Hồng Phong, An Dương – Hải Phòng) ghi nhận, bà Dương Thị Dĩnh cùng một số bà trong xã đóng tiền xây cầu, dựng quán, tạc tượng Phật và Long thần cho nhà chùa.

Nguồn: T12, tập 8, N07631-34.

        Trong năm

 585. Dương Mại được chuẩn định là người có văn học

Trịnh Khương (Giang) vốn ưa thích văn nghệ, thường những khi ngoài buổi triểu hội, mời các bầy tôi thi tụng vào ăn yến trong lầu gác. Có lúc ở nhà Dưỡng Chinh, đình Bát Giác, Tây Tụng, Phượng Các cho các bầy tôi được xem, bàn bạc sách vở, nghiên cứu đúng rõ nghĩa văn. Hoặc cho xem phép viết chữ chân, thảo, triện. Hoặc hạn vần bảo làm thơ. Hoặc bảo tìm các bức thư, các bài kí, tụng, minh, châm, truyện, dẫn, chiếu, chế triều nay, đề vịnh cảnh vật. Ai thi trúng thì khen thưởng trước mặt. Lại sai biên tập thi văn nước ta, chia ra từng mục từng loại, rõ cả họ tên tác giả để khi xem được đầy đủ. Lúc bấy giờ có văn thần Cao Huy Trạc thù tụng rất hợp ý chúa. Các vị Nguyễn Công Thái, Vũ Công Tể, Nguyễn Trác Luân, Dương Mại, Nguyễn Đức Huy, Nguyễn Kiều cũng vì có văn học được chúa thân yêu. Quản Dĩnh ám tả được toàn bài Bình Ngô đại cáo được bổ làm Đốc đồng Sơn Nam. Như thế nho thần ai cũng được khích lệ.

Nguồn: Đ6, tr.142-143.

        Trong năm

 586. Dương Thời Nhiếp thi đậu Hương cống

Ông người xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).

Nguồn: D7.

        NĂM 1736 (BÍNH THÌN)

        Trong năm

 587. Vợ chồng Hiệu sinh Dương Sĩ Thạc được tôn làm Hậu thần xã Ngọc Sơn

Bia không có tiêu đề, tạo năm Vĩnh Hựu 2, dựng tại đình bản xã, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Điềm Thụy, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi rằng, do việc bản xã phải chi tiêu quan dịch và kiện tụng tốn phí nhiều nên đặt lệ bầu Hậu thần để lấy tiền trang trải. Hiệu sinh Dương Sĩ Thạc và vợ bà Dương Thị Ấn đã cúng cho làng 170 quan tiền để chi dùng việc công và 1 mẫu ruộng để lo việc hương khói. Quan viên, dân làng tôn bầu ông bà làm Hậu thần.

Nguồn: T12, tập 11, N010486-87.

        NĂM 1738 (MẬU NGỌ)

        Tháng 6 (tháng Năm – Mậu Ngọ)

 588. Vợ chồng bà Dương Thị Hương được tôn làm Hậu phật xã Thường Thắng

Hậu phật bi ký tạo tháng Trọng hạ năm Vĩnh Hựu 4, dựng tại chùa bản xã, tổng Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Thường Thắng, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi rằng, vợ chồng ông Đẩu Thọ bá La Nguyễn Khanh tự là Tính Ninh và bà Dương Thị Hương hiệu là Diệu Thanh, nguyên quán xã Cẩm Xuyên huyện Hiệp Hòa trú tại xã Thường Thắng đã xuất của cúng cho bản thôn 30 quan tiền và 2 mẫu ruộng. Quan viên dân làng tôn bầu ông bà làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 9, N08550-51.

        Ngày 7 tháng 9 (24 tháng Bẩy – Mậu Ngọ)

 589. Những người họ Dương ký kết Khế ước mua bán rừng ở Bình Tuyền

Bia không tiêu đề tạo ngày 1 tháng Hai – Tân Mùi, năm Cảnh Hưng 12 (26-2-1751) đặt tại đình xã Thanh Trí, tổng Thanh Trí, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Minh Phú, Sóc Sơn – Hà Nội) ghi lại Văn bản văn khế bán khu núi đất trồng rừng lấy củi của xã Khang Kiện huyện Bình Tuyền phủ Phú Bình cho xã Thanh Trí lập ngày 24 tháng Bẩy năm Vĩnh Hựu thứ 4 (1738) do quan Thiêm tri Hộ phiên Huân Trung hầu truyền xuống xã vào năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771). Xã Khang Kiện vì chịu tô thuế nặng nề không có tiền nộp nên các quan viên hương lão của xã là Dương Hữu Dụng, Dương Đăng Nho v.v… cùng toàn xã đã bán khu đất có cây để lấy củi cho xã Thanh Trí, với giá 72 quan đề nộp thuế. Có ghi ranh giới khu đất bán và họ tên những người kí vào văn khế. Đại diện cho bên mua là Tri phủ Dương Đăng Khoa.

Nguồn: T12, tập 7, N06993.

        Trong năm

 590. Bà Dương Thị Huề được tôn Hậu thần thôn Hộ Lệnh

Hậu thần bi ký tạo năm Vĩnh Hưu 4 dựng tại đình bản thôn, xã Triệu Dương, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay là xã Nhã Lộng, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi rõ lý do người được tôn làm Hậu thần vì đã cúng cho thôn một số tiền cùng với 5 sào 5 thước ruộng để chi dùng vào việc công.

Nguồn: T12, tập 11, N010466-67.

 591. Dương Khiêm Thuần thi đậu Hương cống

Ông người xã Du Xuyên, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa (nay là Do Xuyên, xã Hải Thanh, Tĩnh Gia – Thanh Hóa).

Nguồn: K6, tr.176.

        NĂM 1739 (KỶ MÙI)

        Tháng 9 (tháng Tám – Kỷ Mùi)

 592. Gia Lạc bá họ Dương soạn văn cho bia Hậu xã Phù Ninh

Phụng sự bi ký/ Vạn đại lưu truyền tạo năm Chính Hòa 6, đặt tại lăng Nguyễn tướng công tại xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm – Hà Nội) ghi lại công đức của vợ chồng ông Nguyễn Thọ Vực, tước Bình Gia tử. Ông bà đã đem tiền của, ruộng vườn tiến cúng cho bản xã để dùng vào việc công. Bản xã đã dựng bia kỷ niệm và bầu ông bà làm Hậu thần, Hậu phật.

Vị Tả đường Công bộ họ Dương đã thuật lại bối cảnh ra đời bài văn bia như sau:

“Mùa thu năm Kỉ Mùi (1739), nhân gặp khi rỗi việc triểu yết, tôi đến bên cửa sổ, tìm hứng thơ. Đang lúc tức cảnh sinh tình, thì bỗng có tám, chín cụ già ở ngoài gõ cửa muốn cầu kiến. Nên mới hỏi cho rõ nguyên do. Các cụ già này nói: lũ tôi bộc chúng con là người thôn Hạ xã Phù Ninh huyện sát cạnh. Trong ấp có Thái bà Thạch Thị Lựu vợ cả ngài Nguyễn Thọ Vực hàm Quang tiến thận lộc đại phu, chức Thiếu khanh ở điện Cổ Pháp, tước Bình Thọ nam. Bà là người luôn có lòng tốt với dân, được dân làng cam kết sẽ phụ thờ với Thần, Phật mai sau. Nay muốn ghi lại sự thực để lưu truyền dài lâu. Được nghe về tài văn chương của ngài, muốn trông cậy nơi ngài bài văn bia này.

Tôi đáp: Lệnh công và phu nhân của các vị đã cùng được phối hưởng ở miếu đình rồi. Nay lại muốn phụng thờ ở chùa Phật; hẳn là đã có quá nhiều công lao, đức lớn sao? Các già đồng thanh đáp: Lệnh công thì hết sức đôn hậu, rộng kết bạn bè; còn lệnh bà thì vô cùng hiền thục, chăm lọ lo moi việc. Chốn khuê phòng mẫu mực, tài hồ thie công thành. Bên ngoài có tài cao sánh với Tô, Lạn (Tô Tần và Lạn Tương Như), bên trong thì giỏi cai quản tựa Cung Hoàng (Cung Toại, Hoàng Bá). Cha con đều hiển đạt mà vẫn giữ được mình, khiêm tốn, giản dị. Anh em cùng nức tiếng thơm mà luôn hoà nhã, dễ dàng với mọi người; lại luôn khinh tài, trọng nghĩa, chặt chẽ đối với mình mà rộng rãi đối với người. Ban ruộng tốt để hậu hĩ dân sinh, cấp đấu to để dân thêm lúa gạo. Dân ấp chúng con được hưởng biết bao ơn huệ. Chỉ có những ai thất đức thì mới không nghĩ việc đền đáp. Còn tệ ấp chúng con vốn có cái tâm, lại trừ được vận hạn, tránh được hoạn nạn. Từ xa xưa dân ấp đã từng tôn gọi những Thần cứu nhân độ thế là Phật vậy. Lệnh công có nhiều công ơn, nay tôn là Thần và sau này sẽ là phúc Thần, còn Lệnh bà đức độ hiền thục, nay tôn là Phật sống và mai sau là thượng Phật. Tôn thờ ở điện Quỳnh Giao, nơi đất lành, vậy há chẳng được sao? Ta hết đỗi mừng vui về những lời vàng ngọc đó và vô cùng tôn quý những tục lệ tốt đẹp này. Nhân đó mà thuật lại sự việc để khắc lên bia đá, lưu truyền mãi mãi”.

Nguồn: T12, tập 3, N02489-92.

        Trong năm

593. Dương Lệ soạn văn bia dựng ở Từ đường họ Lê Liêu Xá

Lê triều Lê tướng công mộ chí tạo năm Vĩnh Hựu 5, dựng tại thôn Văn, xã Liêu Xá, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã cùng tên, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi lại sự nghiệp của ông họ Lê húy là Hữu Mưu người thôn Văn Xá xã Liêu Xá huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng xứ Hải Dương. Thân phụ ông là Lê Hữu Danh đỗ Hoàng giáp khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1679). Ông đỗ Tiến sĩ khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710), từng đảm nhiệm các chức vụ: Lễ khoa Cấp sự trung, Quốc tử giám Tư nghiệp, Hàn lâm viện Thừa chỉ. Sơn Tây xứ Thừa Chánh xứ Hữu Thị lang bộ Công. Ông mất vào ngày 9 tháng 5 năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu (1739) thị thọ 55 tuổi.

Nguồn: T12, tập 11, N010792-95.

        NĂM 1744 (GIÁP TÝ)

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Tý)

 594. Nguyễn Danh Phương cử Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng xây dựng ngoại đồn tại Úc Kỳ

Nguyễn Danh Phương quê xã Tiên Sơn, tổng Hội Thượng, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay trong phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc), vốn là nhà nho và mưu sĩ của phong trào Đỗ Tế, sau rời bỏ, lập lực lượng riêng, tự xưng là Ngũ Thập, dân gian gọi là Quận Hẻo, từ năm 1740 lập ra cung điện, bày đặt quan chế tại vùng núi Tam Đảo. Cuối năm 1744, Quận Hẻo mở rộng địa bàn sang vùng Bạch Hạc rồi lui về giữ vùng Thanh Linh (còn gọi là Thanh Lãnh, tổng Thiện Kế, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên – nay thuộc xã Trung Mỹ, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) lập đại đồn tại Độc Tôn – Ngọc Bội, trung đồn ở Hương Canh (nay là thị trấn huyện Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) và giao cho các thủ lĩnh người huyện Tư Nông là Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng về Úc Kỳ (còn gọi là Ức Kỳ, tổng Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên – nay là xã cùng tên thuộc Phú Bình – Thái Nguyên) xây dựng ngoại đồn trên một ngọn đồi thấp án ngữ con đường Thái Nguyên – Kinh Bắc, được nhiều sông suối vây bọc làm ngoại hào.

Nguồn: Đ6, tr.192, 214.

        Trong năm

 595. Dương Tất Thịnh đậu Sinh đồ

Ông người xã Thổ Hà, tổng Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang), hiệu là Viết Pháp, giữ chức Xã chính.

Nguồn: T12, tập 9, N08385.

        NĂM 1745 (ẤT SỬU)

        Tháng 3 (tháng Hai – Ất Sửu)

 596. Dương Công Thụ (Chú) được cử làm Tả Tư giảng cho Thế tử Trịnh Sâm

Con chúa Trịnh Doanh là Trịnh Sâm ra ở ngôi Thế tử. Chúa sai Phủ doãn phủ Phụng Thiên là Dương Công Thụ (Chú) và Cấp sự trung Nguyễn Hoán làm Tả, Hữu Tư giảng cho Thế tử.

Nguồn: Đ6, tr.197.

        NĂM 1746 (BÍNH DẦN)

        Trong năm

 597. Dương Đặng và Phan Linh soạn văn bia cho Hội Tư văn

Bia không có tiêu đề, dựng tại Văn chỉ xã Cảnh Thụy, tổng Tư Mại, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Cảnh Thụy, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi chép về hoạt động cũng như việc ấn định Hội Tư văn của 3 tổng Tư Mại, Cổ Dũng, Hương Cảo thuộc các huyện Yên Dũng, Yên Việt phủ Lạng Giang và Bắc Hà họp bàn hưng công xây dựng Từ chỉ để lấy chỗ thờ cúng các bậc Tiên nho và các vị Tiên hiền; họ và tên, quê quán những người được bầu làm Hậu hiền và Văn trưởng.

Nguồn: T12, tập 11, N010235-38.

 598. Dương Thế Khoa thi đậu Hương cống

Ông người xã Cảo Đỉnh, tổng Cổ Nhuế (nay thuộc Bắc Từ Liêm – Hà Nội), đồng tộc với Tiến sĩ khoa Sĩ vọng Dương Tự Lệ, Dương Tự Cường, làm đến Tri huyện các huyện Yên Dũng, Duyên Hà, Bảo Lộc.

Nguồn: T28, tr.110.

 599. Dương Bao Lai nổi dậy chống chúa Nguyễn tại Thuận Thành

Ông cùng Diệp Mã Lăng chiêu tập người Chăm trong vùng khiến Lưu thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Cường phải cho đắp lũy Cổ Tinh rồi thừa lúc nghĩa quân không đề phòng tổ chức đánh úp. Cả hai Thủ lĩnh đều bị bắt và giết hại.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.154.

        NĂM 1747 (BÍNH DẦN – ĐINH MÃO)

        Ngày 15 tháng 1 (5 tháng Chạp – Bính Dần

 600. Bà Dương Thị Sô được tạc tượng sau khi trở thành Hậu phật

Hậu phật tượng, mặt trước tạo năm Bảo Thái 10, mặt sau tạc tượng và ghi thêm thể lệ vào năm Cảnh Hưng 7 dựng tại chùa Mậu Lương Hạ xã Trung Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên (nay thuộc Thanh Oai – Hà Nội) ghi, năm Kỷ Dậu (1729), bà Dương Thị Sô cúng cho bản xã 25 quan tiền và 2 mẫu ruộng. Quan viên hương lão và dân toàn xã đồng lòng bầu bà làm Hậu phật, hàng năm cúng giỗ theo quy định. Có ghi bản giao ước, họ tên những người kí bầu Hậu và vị trí, diện tích các thửa ruộng. Mặt sau tạc tượng Hậu phật. Đến năm Cảnh Hưng thứ 7 (1746), bà Sô lại biện cỗ xôi thịt thết đãi toàn thôn và cúng thêm một thửa ao để thôn cam kết làm lễ cúng bà trước bia vào ngày 2 tháng chạp hàng năm.

Nguồn: T12, tập 2, N01789-92.

        Ngày 19 tháng 10 (16 tháng Chín – Đinh Mão)

 601. Dương Công Thụ được giao soạn văn bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu

Cảnh Hưng thất niên Bính Dần khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Bính Dần năm Cảnh Hưng 7 – 1746) được soạn khi ông đang giữ chức Tả tư giảng Thiêm sai Tri thị nội Thư tả Lại phiên, Hàn lâm viện Thừa chỉ, tước Đạo Phái bá; Nguyễn Công Thái nhuận sắc. Nội dung như sau:

“Sao Khuê mở vận thái, sao Đẩu hiện nhân tài, cầu hiền kén sĩ, khoa cử thịnh hành.

Hoàng thượng bệ hạ kế tục thể chế, giữ pháp độ lập thành, trọng đãi người hiền, chấn hưng trị đạo. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Thượng sư Thượng phụ Minh vương] tạo dựng mọi việc, lựa dùng nhân tài. Mùa xuân năm Bính Dần thi Hội cho các Cống sĩ trong nước. Đặc sai Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Tả hòa quân doanh Đô đốc phủ Đô đốc đồng Trì Thự phủ sự phó tướng Thụy Quận công Trịnh Tân làm Đề điệu, hành Tham tụng Lại bộ Tả Thị lang Nhuyễn Đình hầu Trịnh Ngô Dụng làm Tri Cống cử, Thiêm sai Công bộ Hữu Thị lang hành Phó Đô Ngự sử kiêm Đông các Học sĩ tả chính ngôn Thư Trạch hầu Vũ Công Trấn, Thiêm sai Công bộ Hữu Thị lang Ôn Trạch bá Vũ Khâm Lân làm Giám thí, cùng các quan bách ty trong ngoài chia giữ các việc.

Buổi ấy sĩ tử tới đua tài không dưới 2.000 người, số trúng tuyển là bọn Trần Danh Tố 4 người. Ngày 21 tháng Năm vào Điện thí. Hôm sau quan Độc quyển nâng quyển đọc, Hoàng thượng định thứ bậc cao thấp, cho Đoàn Thụ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, bọn Trần Danh Tố 3 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. Loa truyền gọi tên, Bộ Lễ treo Bảng Vàng ngoài cửa nhà Thái học. Việc ban áo mũ yến tiệc đều y theo lệ cũ.

Mùa thu năm Đinh Mão, quan bộ Công xin dựng bia đá Đề danh, vua y theo lời tâu, bèn sai thần soạn văn bia. Thần kính cẩn cúi đầu rập đầu dâng lời rằng:

Tính danh thêu lên cờ lệnh, khắc vào đỉnh vạc, các bậc tiên vương nêu cao công lao của các cựu thần. Nhưng tạc đá khắc bia, quy chế bản triều tôn Nho thì đời xưa chưa có, mà khoa thi Tiến sĩ thì từ trước đã có tiếng là chọn được nhiều hiền tài. Người thì giúp mưu lược từ thủa đầu sáng nghiệp, người có hoài bão lớn trong buổi thái bình, công kinh lược giúp đời đã thấy rờ rỡ. Cho nên từ xưa đến nay đời nào cũng coi trọng khoa mục. Khi chưa thi thì muốn cất nhắc đồng đều, cúng lễ ở các đến miếu để tỏ lòng chí thành. Khi đã đỗ thì ưu ái trọng hậu, lại khắc tên vào đá cứng để lưu truyền mãi mãi. Kẻ sĩ ở chốn nhà tranh vách đất, một khi được ghi tên ở bảng Long hổ, thân được dự vào hạng khoa danh thì phải làm thế nào để không hổ thẹn với tấm đá này. Bài ký trước có câu: Thuần chính cứng sáng thì bia đá vẻ vang, a dua dựa dẫm thì bia đá hổ thẹn, há chẳng đáng thận trọng lấy làm răn hay sao!

Thần đem điều ấy ghi vào bia này, chẳng những để rạng đời tỏ tới đời sau mà còn gửi ý khuyên răn đối với hàng sĩ phu nữa.

Thần kính cẩn dâng bài ký”.

Nguồn: V2, tr.481-483.

        Tháng 11 (thàng 10 – Đinh Mão)

 602. Dương Danh Huy thi đậu Hương cống

Kỳ thi Hương năm này, bãi bỏ lệ “tứ trường” khôi phục phép sáo thông khoảng 5 Bảo Thái (1721), bỏ lệ khảo hạch. Huyện lớn lấy 200 người, huyện vừa lấy 150 người, huyện nhỏ lấy 100 người. Người nào thông hiểu luật làm thơ đều được sung tuyển gọi là thứ thông, sau đó chọn lấy những người giỏi hơn kê tên riêng ra một danh sách thí ở hai ty Thừa, Hiến. Hai ty cộng đồng thi khảo hai lượt, ai trúng gọi là sảo thông, những người đã thi kì đệ nhất, đệ nhị, đệ tam được dự thi với hạng thứ thông. Người có học không bị bỏ sót cũng lần lượt được trúng tuyển. Đến năm Tân Dậu (1741) khôi phục lại phép thi tứ trường. Những kẻ nhờ thần thế và tiền tài mà đỗ lạm chiếm quá nửa. Đến nay triều đình ban rằng mở ra phép thi tứ trường thì con em nhà gia thế lấn lướt con em nhà nghèo hèn. Phép sảo thông còn tốt hơn. Sắc chỉ ban ra rồi đổi lại, ra lệnh bãi bỏ việc thi hai ty, theo như lệ từ năm Mậu Ngọ (1738) trở về trước, khảo hạch lấy người sảo thông. Những người có học đều được xét chọn.

Dương Danh Huy, người xã Phùng Cầu, tổng Phùng Cầu, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Thiệu Thịnh, Thiệu Hóa – Thanh Hóa).

Nguồn: Đ6, tr.203; N11, tr.498.

        NĂM 1748 (MẬU THÌN)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Mậu Thìn)

 603. Dương Công Thụ soạn văn bia Đề danh Tiến sĩ huyện La Sơn

Nguyễn đại danh bi/ Mậu Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh bi ký tạo năm Cảnh Hưng 9, đặt tại xã Lai Thạch, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc Can Lộc – Hà Tĩnh) ghi rằng:

Nước Việt ta, phép chọn kẻ sĩ không gì quan trọng bằng khoa thi Tiến sĩ. Trải các triều, nhiều người có tài năng được tuyển chọn đều thông qua khoa thi này. Bia ghi tên những người đỗ đạt như Nguyễn Hữu Cẩn, 36 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, làm quan Tri phủ La Sơn; Trịnh Xuân Thụ, Võ Miên, Nguyễn Huy Dận, Nguyễn Kỳ, Lê Trọng Tín đều đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; Hoàng Phạm Biến, Nguyễn Quốc Khuê, Lê Quang Thân, Phan Văn Nhuệ, Nguyễn Huy Ngạc, Nguyễn Trọng Đột, Trần Tiến đều đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ v.v…

Nguồn: T12, tập 20, N019310.

        Ngày 16 tháng 12 (26 tháng Mười – Mậu Thìn)

 604. Dương Công Thụ tiếp tục được giao soạn văn bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu

Cảnh Hưng cửu niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Thìn năm Cảnh Hưng 9 – 1748) được soạn và tạo dựng ngay khi kỳ thi kết thúc, nội dung ghi:

“Tiến sĩ được ban thứ bậc, ghi họ tên, khắc hành trạng là để làm sáng rõ quy mô lớn lao khích lệ kẻ sĩ, làm đẹp điển lớn trọng dụng Nho gia.

Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ sắp đặt kỷ cương bốn phương, nêu chuẩn mực cho muôn vật. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Thượng sư Thượng phụ Minh vương] hun đúc thành tựu, sáng suốt kinh luân, lập học hiệu nhà Hạ để trữ nhân tài, mở cung khuyết nhà Ngu mà người tài theo đến. Mùa xuân tháng Ba năm Mậu Thìn thi Hội các cống sĩ. Đặc sai Phó tướng Đô hiệu điểm ty Đô hiệu điểm Khanh Quận công Trịnh Kiều làm Đề điệu, Công bộ Thượng thư Liêu Đình hầu Lê Hữu Kiều làm Tri Cống cử, Hình bộ Hữu Thị lang hành Lễ bộ Tả Thị lang Lâm Xuyên bá Nguyễn Phùng Thì, Công bộ Hữu Thị lang hành Phó Đô Ngự sử kiêm Đông các Học sĩ Tả chính ngôn Thư Trạch hầu Vũ Công Trấn làm Giám thí, cùng các viên hữu ty chia giữ các việc.

Khi ấy người dự thi đông đến 3.000 người, viện quan chọn hạng xuất sắc được Vũ Miên 13 người.

Ngày 25 tháng Năm gọi vào Điện thí, quan Độc quyển dâng quyển lên Hoàng thượng ngự lãm, lấy đỗ hạng Cập đệ, Xuất thân có thứ bậc khác nhau. Bệ son loa truyền, tên yết cửa nhà Quốc học. Theo lệ cũ ban áo xanh đai thơm, yến Quỳnh hoa bạc, lễ nghi ưu đãi long trọng, ân điển chất chồng. Lại sai quan Bộ Công dựng đá đề tên, sai từ thần soạn bài ký.

Trộm nghĩ phép chọn kẻ sĩ ở nước Việt ta không gì trọng bằng khoa thi Tiến sĩ. Các đời đều sùng chuộng khoa cử, Nho sĩ được vẻ vang, các bậc hiển tướng danh thần cũng đều xuất thân từ đó. Nước nhà vì thế mà thu phục được nhân tài, vượt trăm vua mà hơn cả ngàn xưa vậy.

Kẻ sĩ được ghi tên vào bia đá này, ắt nên giữ lòng trong sạch, tiết tháo kiên trinh, giúp đời hành đạo, giúp vua ban ơn cho dân, ngõ hầu công danh sự nghiệp được khắc vào chuông đỉnh, thêu lên cờ hiệu, cùng với bia đá này soi tỏ mới không hổ thẹn với khoa danh. Thảng hoặc có kẻ quỳ gối uốn mình, tô vẽ giả dối, ngọc vết khó giấu, đá vết khó mài, công luận ngàn năm, há chẳng đáng sợ sao!

Thế thì dựng bia đá này chẳng phải riêng để bồi đắp nho phong mà còn để dồi mài sĩ khí, việc đó có quan hệ đến thanh danh giáo hoá thật lớn vậy.

Thần kính cẩn làm bài ký”.

Nguồn: V2, tr.484-487.

        NĂM 1749 (KỶ TỴ)

        Trong năm

 605. Dương Phúc Triệu được ban Tiến sĩ võ (Tạo sĩ)

Ông là con thứ 3 của Dương Quỳnh, quê xã Phong Phú, tổng Hạ Nhi, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Thạch Khê, Thạch Hà – Hà Tĩnh), được ban Tạo sĩ vào năm Cảnh Hưng 10.

Nguồn: H4, tr.97.

        NĂM 1750 (CANH NGỌ)

        Ngày 17 tháng 12 (19 tháng Một – Canh Ngọ)

 606. Các thủ lĩnh Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng rời bỏ hàng ngũ Nguyễn Danh Phương

Sau khi lập ra đồn trại, cung đình, Quận Hẻo tự xưng là Thuận Thiên Khải vận Đại nhân, cho thu thuế má, biến một vùng Tuyên – Thái thành giang sơn một cõi. Ngoài lực lượng mạnh đủ để binh cự với quan quân, những đồn nhánh, kho lương của nghĩa quân lại nhiều gấp bội. Nơi sở tại cày ruộng chứa thóc làm kế tử thủ. Lại khiến các sản vật ở thượng du như chè, sơn, tre, gỗ và trường mỏ ở Tuyên Quang, Hưng Hoá, Lúa thóc của báu tích chứa như núi. Các huyện thuộc Tam Đới, Lâm Thao, Đà Dương đều bị chiếm, đến đâu thắng lợi đến đó. Quan quân từng đánh nhiều năm không thắng nổi. Đến nay chúa tự làm tướng thân chinh.

Ngày 8 tháng Một – Canh Thân [6-12-1750] chúa Trịnh sai đem việc chính phạt tâu cho vua biết. Giờ Dậu xuất quân, đóng ở lầu Ngũ Long, triệu Hoàng Ngũ Phúc đến trước lầu ủy cho quyền Tri quân vụ (Tổng chỉ huy) coi quan binh. Ai dũng cảm, ai nhút nhát, ai có công, ai có lỗi đều được quyền xét xử. Nhân bảo Phúc rằng, sào huyệt của Nguyễn Danh Phương bốn mặt đều là núi, trong ấy có nhiều khe suối. Mặt trước Hương Canh lại bày đồn đài để làm phên che, đánh chưa dễ nhổ được. Đồn Úc Kỳ giáp Thái Nguyên, tướng giỏi của Phương là tên Trì giữ một góc ấy, tự cậy là hiểm, xa, không phòng bị lắm. Ta bất ngờ đánh vào chỗ ấy trước, để chặt tay trái của Nguyễn Danh Phương. Đánh một trận là xong. Úc Kỳ đã nhổ được, đồn giặc khác trông gió mà vỡ. Quan quân thừa thế đánh úp, làm gì chẳng thắng. Binh pháp gọi là Bỏ chỗ rắn đánh chỗ mềm, tránh chỗ thực đánh chỗ hư chính là thế đấy. Ngày mồng 10 chúa vượt sông tiến phát. Mật truyền cho các quân lên đường tiến đến Giang Dã. Ngày l1, đại quân từ xã Lực Canh đi sang Thái Nguyên, gấp đường cùng tiến. Tiến đến trấn sở Giang Dã (vùng Thượng Dã, Trung Dã, Hạ Dã huyện Thiên Phúc, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc) sai lấy thổ binh của phiên thần Thái Nguyên để sẵn sàng điều khiển. Ngày 12, đầu canh tư, tiến đến đồn Úc Kỳ. Chúa cưỡi Long mã chỉ huy tướng sĩ dựng lũy rào dài vây quanh cố thủ. Ngày 17, chúa sai làm thang cao, vọng lâu và chiến cụ. Ngày 18, chúa sai tướng đã quy hàng là Nguyễn Bá Trạc đem lính đội Tứ Thuận đánh áp sát lũy. Ngày 19, các thủ lĩnh Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng ngầm sai người đến cửa quân xin làm nội ứng. Chúa nghe cho. Ngũ Phúc bèn dặn Quế Võ bá Nguyễn Đức Hoành chọn lấy lính cảm tủ nhận buổi chiều lẻn vào góc lũy, dò xem động tĩnh. Lúc này Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng quả nhiên bí mật mở cửa ở góc lũy. Hoành đem quân đột nhập đánh rất dữ, phá được hơn 10 đồn, phóng lửa đốt phá đại đồn Úc Kỳ. Quan quân bốn mặt cùng bắn vào, khiến địch quân phải mở một đường máu ở sau lũy, muốn vượt qua mũi nhọn quan quân mà ra. Hai cánh quân bên hữu và phía sau của bọn Đàm Xuân Vực ra sức chặn đánh. Chúa đứng ở Vọng lâu kíp sai các dũng sĩ thân quân cưỡi voi, cưỡi ngựa tiếp chiến, địch quân bị thương chết nhiều. Quan quân thu được súng đạn, cờ xí, khí giới, thuyền, ngựa, trâu dê thóc gạo nhiều không thể kể xiết. Chúa lập tức tâu báo tin thắng trận, thưởng cho tướng sĩ 1000 lạng bạc, sai Tán lí Nguyễn Nghiễm, hiệp đồng với Đoàn Chú tra hỏi tù binh, cử Thiêm sai Vũ Trần Thiệu (trước có tên là Tự) cùng với Lưu thủ Thái Nguyên là Bùi Thế Đạt khám hỏi nỗi khổ của dân và đem sự thực tâu lên.

Ngày 23 [21 – 12 – 1750] chúa về đến hành tại ở xã Xuân Hi.

Nguồn: Đ6, tr.214-215.

        Trong năm

 607. Dương Đình Quý thi đậu Hương cống

Ông người giáp Đồng Thượng Tả, xã Phượng Dực (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội), con trai trưởng Giải nguyên Dương Đình Hiển, làm quan tới chức Tự ban, Tri châu Thượng Lang.

Nguồn: T12, tập 12, N0811352-53.

        NĂM 1751 (TÂN MÙI)

        Tháng 3 (tháng Hai – Tân Mùi)

 608. Dương Công Thụ được cử đi Sơn Tây xem xét đời sống dân tình

Các đoàn gồm Văn thần Nguyễn Tông Quai, Dương Công Thụ, Giám quan Nguyễn Bá Khánh, Nguyễn Đình Khôi chia đi các lộ Sơn Tây, Thái Nguyên, Kinh Bắc khám xét tình trạng nhân dân điêu tàn hao tổn và tuyên bố chỉ dụ. Lúc các đoàn từ tạ ra đi, chúa dụ rằng: – Nghịch Phương tàn phá, dân không được yên sống đã lâu rồi. Các khanh đi đến dân cốt trước hết tuyên bố ân đức, đề đạt dân tình, vỗ về cho dân yên nghiệp. Càng nên nghiêm cấm bọn đầy tớ tham lam; những việc ăn uống, đưa đón nhất thiết không được làm phiền dân! Cho các đoàn tiền phí hành trình là 200 quan.

Nguồn: Đ6, tr.219.

        Tháng 4 (tháng Ba – Tân Mùi)

 609. Triệu Dương Công Thụ về Kinh để khám hỏi các án kiện

Khi đó, Dương Công Thụ đang là Tri lại phiên được thăng Hành bồi tụng Phủ liêu cùng Thừa chính sứ Sơn Nam Trịnh Tuệ, Tham chính Kinh Bắc Lê Sĩ Bàng cùng được triệu về để trực ở điểm cửa tả làm việc trên.

Nguồn: Đ6, tr.220.

        Ngày 26 tháng 8 (18 tháng Bẩy – Nhâm Thân)

 610. Xã trưởng Dương Công Đương được ghi công xây dựng Văn từ xã Vĩnh Phúc

Tiên hiền bi ký/ Vĩnh Phúc văn giai tạo năm Cảnh Hưng 13, dựng tại Văn từ xã Vĩnh Phúc, huyện Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, lộ Sơn Nam (nay thuộc Quỳnh Phụ – Thái Bình) ghi việc các Hiệu sinh Bùi Đặng Nhậm, Bùi Đăng Trạc đã xây dựng văn chỉ của xã, soạn bài Tán văn, Tế văn nhưng sau đã thất lạc. Năm Đinh Mão (1747) Xã trưởng Dương Công Đương, Xã chánh Bùi Đăng Giai trùng tu Văn chỉ. Nay xã dựng bia khắc tên các vị Tiên hiền, Phủ sinh, Giám sinh của xã, bài văn Tán tiên hiền và các điều khoán ước quy định cho những người đi học được miễn quan dịch, thuế má, phu dịch v.v… Đồng thời dành ra 3 mẫu ruộng dùng để nuôi thày dạy học. Bia có đoạn khắc tiếp nối họ tên các vị Tiên hiền được bổ sung vào các năm Tân Tị và cả thời kì thuộc triều Nguyễn về sau.

Nguồn: T12, tập 5, N04147 – 49.

 

Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Thân)

 611. Dương Công Thụ được cử làm Giám thí kỳ thi Hội

Kỳ thi Hội năm này, triều đình đã cử Đô đốc Thiêm sự trí sĩ khởi phục ngũ lão Vinh Quận công Đặng Đình Trứ làm Đề điệu, Nhập thị Bồi tụng Phó Đô Ngự sử Bảo Lĩnh hầu Trần Danh Ninh làm Quyền Tri Cống cử, Bồi tụng Hàn lâm viện Thừa chỉ Đạo Phái bá Dương Công Thụ làm Giám thí. Qua bốn trường, lấy trúng cách Lê Quý Đôn 6 người.

Nguồn: V2, tr.489.

        NĂM 1753 (QUÝ DẬU)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Quý Dậu)

 612. Dương Danh Giám viết chữ bia chùa Huyền Khuê

Bia không có tiêu đề, tạo năm Bảo Thái 4, dựng tại chùa xã Nam Xương, tổng Thọ Xương, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, lộ Kinh Bắc (nay thuộc phường Trần Nguyên Hãn – thành phố Bắc Giang) ghi danh các vị hưng công, hội chủ ở ba giáp thuộc hai xã Đông Nham, Nam Xương đã đóng góp tiền dựng cây hương cho chùa.

Nguồn: T12, tập 9, N08253-56.

        Ngày 13 tháng 6 (12 tháng Năm – Quý Dậu)

 613. Dương Công Hồng được triều đình Sắc phong Phấn lực tướng quân

Ông người làng La Cả, tổng La Nội, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội) được sắc phong vào năm Cảnh Hưng 14 nhờ có công đánh dẹp nội loạn.

Nguồn: T9, 1996, tr.85-94.

        Trong năm

 614. Dương Huân đậu Hương cống

Ông người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An). Năm Nhâm Ngọ (1762) thi hộ người khác bị phát giác, truất quan sung làm lính. Sau, đổi tên là Dương Hồng Cách để đi thi. Năm Ất Dậu (1765) đỗ Tú tài. Năm Mậu Tý (1768) đổi là Dương Vân, thi đỗ Giám sinh, làm đến Huấn đạo phủ Thăng Hoa. Tác phẩm có Hữu Liễu thi tập.

Nguồn: D7; K6, tr.389.

 615. Dương Đức Hiệp, Dương Tiến Mưu đậu Sinh đồ

Hai ông người thôn Cẩm La, xã Phong Lưu, tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, trấn An Quảng (nay thuộc xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh).

Nguồn: K7, tr.321.

        NĂM 1754 (GIÁP TUẤT)

        Tháng 4 (tháng Ba – Giáp Tuất)

616. Định lại phép chọn bổ quan chức ở bộ Lại theo lời tâu của Dương Công Thụ, Nguyễn Vĩ

Hai người tâu rằng: – Từ trước tới nay việc chọn bổ, hoặc theo cũ hoặc đổi mới khác nhau! Chúa Trịnh bèn ra lệnh từ nay các ấm tử, con quan nhị phẩm việc sơ thụ đều theo lệ định năm Nhâm Dần niên hiệu Bảo Thái (1722). Các chức Chánh, Tòng chiếu tư cách và quân công xét thực, trao cho chức quan văn trong nội điện hoặc phủ chúa. Ai dự trúng trường mới được thực nhiệm chức ở huyện, còn việc khảo xét công trạng các quan trong ngoài đều lấy thời hạn 6 năm một lần.

Nguồn: Đ6, tr.233.

        Tháng 5 (tháng Tư – Giáp Tuất)

 617. Dương Trọng Khiêm, Dương Sử thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Mùa xuân tháng Ba năm Giáp Tuất, chuẩn lời tâu của bộ Lễ xin mở khoa thi Hội. Đặc sai Hậu trung quân doanh Phó tướng Hữu Hiệu điểm Nghiêm Quận công Trịnh Miên làm Đề điệu, Tuyên lực công thần Bồi tụng Binh bộ Thượng thư trí sĩ phục dụng Nhuệ Xuyên hầu Ngô Đình Oánh làm Tri Cống cử, Nhập thị Bồi tụng Công bộ Tả Thị lang Bảo Lĩnh hầu Trần Danh Ninh, Nhập thị Bồi tụng Chính thủ Hiệu dực cơ nghị quan Hình bộ Hữu Thị lang hành Ngự sử đài Phó Đô Ngự sử Xuân Lĩnh hầu Nguyễn Nghiễm làm Giám thí. Qua trường bốn lấy trúng cách được Phan Cận 8 người. Qua tháng sau Điện thí, ban cho Nguyễn Tông Trình đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.

Dương Trọng Khiêm (sau đổi là Trọng Tế), Dương Sử đều là người xã Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên).

Nguồn: V2, tr.492-493; Đ6. Tr.232.

        Trong năm

 618. Dương Chi thi đậu Hương cống

Ông người xã Đức Thịnh, tổng An Dương, huyện Hưng Nguyên, phủ Anh Đô, trấn Nghệ An (nay chưa rõ thuộc đâu), làm đến Thị nội văn chức.

Nguồn: T12, tập 8, N07899; K6, tr.547.

        NĂM 1755 (GIÁP TUẤT – ẤT HỢI)

        Ngày 14 tháng 1 (3 tháng Chạp – Giáp Tuất)

 619. Ông bà Dương Kế Hưng được tôn Hậu phật xã Trung Đạo

Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 15, dựng tại chùa Sùng Khánh bản xã, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã Trung Hưng, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi rằng, sau khi ông Dương Kế Hưng và vợ là Nguyễn Thị Lam mất, con dâu của ông bà Dương Thị Việt có người cháu là Dương Thị Ngôn đã cúng cho xã 35 quan và 2 sào ruộng để xin cho hai người làm Hậu thần. Dân xã ưng thuận lập bia kỷ niệm và hàng năm cúng giỗ. Bia ghi họ tên những người ký bầu. Mặt trước là bài vị của hai Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 7, N06908-09.

        Trong năm

620. Họ Lê lập bia ghi nhận công sinh thành của bà con gái Thượng thư Dương Hồ

Hoàng giáp Lê công Từ đường ký do Tiến sĩ Lê Hữu Kiều soạn văn bia, Tiến sĩ Lê Trọng Biểu, Bảng nhãn Lê Quý Đôn, Tri phủ Lê Hữu Cẩn hiệu đính, tạo năm Cảnh Hưng 16, dựng tại Từ đường họ Lê, thôn Văn, xã Liêu Xá, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã cùng tên, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi lại thân thế sự nghiệp của Hoàng giáp họ Lê húy Hữu Danh hiệu Xuân Am, đỗ Hoàng giáp Tiến sĩ năm Canh Tuất (1670), khi đó mới 29 tuổi. Ông từng đảm nhiệm các chức Hàn lâm viện Hiệu Lý, Hiến sát xứ Sơn Tây. Ông lấy bà họ Trần người cùng thôn, sau lấy bà họ Dương con gái của Thượng thư Dương Hồ sinh được 10 người con trai, 2 người con gái, các con ông đều đỗ đạt thành danh. Năm 65 tuổi ông xin về hưu được thăng làm Thượng thư Bộ Lễ.

Nguồn: T12, tập 11, N010801-02.

        NĂM 1756 (BÍNH TÝ)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Bính Tý)

 621. Dương Trọng Khiêm, Dương Sử được ghi danh trong bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu

Giáp Tuất khoa Tiến sĩ Đề danh ký (Văn bia Đề danh Tiến sĩ khoa Giáp Tuất – 1754) do Lê Quý Đôn soạn, Nguyễn Công Thái nhuận sắc, ghi danh 2 ông.

Nguồn: V2, tr.492-493.

        Trong năm

 622. Cựu sinh đồ Dương Như Trác cùng Hội Tư văn xây dựng Văn chỉ tổng Bá Hạ

Tư văn bi kýGiáp Tuất niên Bá Hạ tổng Tư văn bi ký đều do Sĩ nhân Vũ Văn Trạc soạn, tạo năm Gia Long 13 (1814) dựng tại Văn chỉ xã Bá Hạ, tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Bá Hiển, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi rằng, tổng Bá Hạ là đất học nhiều người đỗ đạt nhưng từ trước đến nay chưa có Văn chỉ, hàng năm cúng tế tiên hiền các văn thân thường nơi đất cao ráo sạch sẽ để làm lễ. Vào năm Bính Tí (1756), Cựu sinh đồ Dương Như Trác cùng hội Tư văn đã chọn được mảnh đất đẹp để xây Văn chỉ bản tổng để làm nơi thờ cúng cố định. Công việc hoàn tất bèn dựng bia ghi lại việc này để lưu truyền hậu thế.

Nguồn: T12, tập 16, N015524-25.

        Trong năm

 623. Dương Hữu Tông, Dương Tố Pháp đậu Sinh đồ

Hai ông cùng quê ở thôn Cẩm La, xã Phong Lưu, tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, trấn An Quảng (nay là xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh).

Nguồn: K7, tr.325-326.

        NĂM 1757 (ĐINH SỬU)

        Mùa xuân

 624. Bà Dương Thị Liêm được tôn Hậu phật chùa Quỳnh Lâm

Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 18, dựng tại chùa thôn Ngọc Mạch, xã Hương Canh, tổng Hương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc Nam Từ Liêm – Hà Nội) ghi: do bà Dương Thị Liêm xuất của nhà 10 quan tiền cùng 4 sào ruộng cúng cho chùa nên thôn đã tôn làm Hậu phật, lập bia ghi lại nghi thức cúng tế và khắc bài vị cho bà.

Nguồn: T12, tập 2, N01565-66.

        NĂM 1758 (MẬU DẦN)

        Trong năm

 625. Dương Khải công đức xây dựng đình Vĩnh Thế

Ông quê ở bản xã, tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Tư Thế, xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh), làm tới chức Tán trị Lạng Sơn.

Nguồn: T23, tr.212.

 626. Dương Thế Cử thi đậu Hương cống

Ông người xã Cáo Đỉnh (nay thuộc Bắc Từ Liêm – Hà Nội), làm đến Án trấn xứ Nghệ An sung Phó sứ Tri hình phiên. Trí sĩ năm 1786, thăng Thái bảo Tri hình phiên, tước Uẩn Trung hầu.

Nguồn: T28, tr.110.

        NĂM 1759 (KỶ MÃO)

        Ngày 21 tháng 5 (25 tháng Tư – Kỷ Mão)

 627. Dương Tướng Kiều soạn văn bia ghi lại công đức của Dương Khải

Hậu thần bi ký/ Bản xã ước lệ tạo năm Cảnh Hưng 20, dựng tại đình xã Vĩnh Thế (nay là thôn Tư Thế, xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) ghi nhận việc Thiếu Thiêm sự Thế Thọ bá Dương Khải và con là Tham nghị Thừa chính sứ ty Dương Khôi được dân làng tôn làm Hậu thần với tấm lòng ái chi như thân, kính chi như thần (yêu Thần như cha mẹ, kính Thần như thánh thần) vì đã giúp dân làm lại đình làng, cúng thêm 100 quan cổ tiền và 3 mẫu ruộng tốt.

Nguồn: T23, tr.219; T12, tập 4, N03588-90.

 

Ngày 25 tháng 6 (1 tháng Sáu – Kỷ Mão)

 628. Vợ chồng bà Dương Thị Chuẩn trở thành Hậu thần xã Thạch Lựu

Tạo Hậu thần bi nhị vị lập năm Cảnh Hưng 20 dựng tại chùa An Tất bản xã (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi việc xã cần tiền nên bán Hậu cho những người nạp cho xã 100 quan sử tiền trở lên. Vợ chồng bà là bậc kỳ lão đã thiên tâm nên trở thành Hậu thần của Thạch Lựu.

Nguồn: T12, tập 12, N011147-48.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Kỷ Mão)

 629. Hoàn thành Từ đường thờ phụng Tiến sĩ Dương Công Thụ

Thần đạo bi ký do Nguyễn Nghiễm soạn, tạo năm Cảnh Hưng 20, dựng tại đình xã Lạc Đạo (nay thuộc Văn Lâm – Hưng Yên) cho biết

Nay ở bản xã, có ông họ Dương húy là Công Thụ, tự là Nhữ Lâm, hiệu Nhu Thuần, được ban thụy là Ôn Nhã, đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi đời Vĩnh Khánh, làm quan thăng đến Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Nhập thị bồi tụng, Tả tư giảng, Hữu thị lang bộ Lại, kiêm Quốc tử giám tư nghiệp, tước Đạo Phái bá. Ông là người giỏi văn chương, đạo đức siêu phàm, hưởng thọ 58 tuổi, được truy tặng Thượng thư bộ Công, tước Đạo Phái công. Vì ông có công với dân xã, nên khi mất được dân xã chọn đất tốt dựng từ đường, hai người vợ của ông cũng được phối hưởng ở đấy.

Nguồn: T12, tập 6, N05262-63.

        NĂM 1762 (NHÂM NGỌ)

        Trong năm

 630. Nhiều người họ Dương đậu Sinh đồ

Đó là người xã Thổ Hà (nay là xã Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang) Dương Đăng Liên, hiệu Khanh Tương; người thôn Cẩm La (nay là xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh) như Dương Đình Đĩnh, Dương Khiêm Nhu, Dương Doanh Đạt, Dương Hữu Trí, Dương Tăng Thọ.

Nguồn: K7, tr.299, 322-323.

        NĂM 1763 (NHÂM NGỌ – QUÝ MÙI)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Ngọ)

 631. Người họ Dương công đức xây dựng Sinh từ Hoàng Ngũ Phúc – người được Dương Quốc Cơ nuôi dưỡng, rèn cặp

Tân kiến Đại tư đồ Hoàng Thai công Sinh từ bi ký do Nhữ Đình Toản soạn, Nguyễn Nghiễm nhuận sắc, tạo năm Cảnh Hưng 23, ghi rằng:

Mùa đông năm Nhâm Ngọ, tôi rảnh việc công, nghỉ ngơi ở dinh thự riêng. Có khách quan thân cùng một đoàn kỳ mục tới nhà xin yết kiến. Hỏi quê quán thì ra là các vị ở xã Phụng Công huyện Yên Dũng, phủ lộ Lạng Giang. Xem danh thiếp thấy ghi thôn Khang Cù có Dương Hữu Đức, Dương Hữu Tài, Dương Hữu Hoằng, Dương Viết Hán, Dương Bá Nho, Dương Đình Lê, Dương Viết Tiến, Dương Đình Sênh, Dương Công Trực, Dương Viết Bình, Dương Công Quỹ, Dương Hữu Lộc cùng nhiều vị họ Hoàng, Thân, Đào, Nguyễn; thôn Lc Nậu có Dương Huy Tính, Dương Hữu Tự, Dương Viết Tuyền cùng nhiều vị họ Nguyễn, Đào, Ninh; thôn Đông có các vị họ Nguyễn, Lương, Bùi, Đào; thôn Tự có các vị họ Phạm, họ Hoàng, họ Lương, họ Nguyễn; thôn Đống […]. Tóm lại toàn là các vị tai mặt trong xã. Hỏi xem lý do vì sao đến đây thì biết dân bốn thôn trong xã xây dựng Sinh từ thờ Hoàng Thai Công là người của bản xã được Đương triều suy tôn là Suy trung tán trị, Tuyên lực Công thần Trung dũng, Hữu khuông đẳng, Doanh Cơ trưởng Doanh quan, Chưởng phủ sự tham dự triều chính, Đô đốc phủ Tả đô đốc, Đại tư đồ Việp Quận công, nay đến xin văn dựng bia. Tôi vờ ngạc nhiên mà nói rằng: – Có việc đó sao? Các quan Mục thú hiền tài đời xưa làm điều chính sự có lòng nhân huệ mới đủ để được lập sinh từ. Nay dân làng lại làm như vậy là cớ làm sao?

Mọi người vội bước lên chắp tay thưa rằng: – Cây lớn sum xuê thì bóng nó tỏa ra che khắp để mọi người được nhờ. Nay ấp tôi được che chở và mang ơn của Ngài đã từ lâu. Tổ tiên của Ngài đã nhiều đời làm điều nhân đức nổi tiếng trong dân. Đến nay Ngài vẫn dựng nghiệp lớn lao kiệt xuất hơn người, nhờ đức tính diệu kỳ sông núi ban cho mà làm nên công lao vĩ đại, uy thanh tỏa sáng, soi tới xóm làng. Từ năm Giáp Tý lại đây, giặc cỏ, giặc sông giày xéo nơi xóm làng nghèo dân khó như một trận cuồng phong làm cho sẻ đàn tan nghé. Ngài vì thế mà sửa sang rào lũy, tập hợp trai tráng vây quanh ấp, biết nơi hiểm yếu, đủ sức chống giặc mà duy trì sự bình yên. Nhớ khi xưa nhờ có Ngài thống lĩnh ba đạo, xoay chuyển chiến cuộc mà phía Bắc nhổ lũy Xương Hà, triệt đồn Như Thiết rồi dẫn đắt dân lưu vong giúp họ được đoàn tụ. Sau kỳ hoang phế sợi chỉ hết sạch như chùi, mới đầu trở lại nơi ấy dân cư còn ít nhưng định ngạch hàng xã vẫn theo như chế độ thời bình khi trước mà thu thuế theo số nhân khẩu, số lượng lớn không thể kham nổi. Ngài thương dân vai mang mọi việc, tâu xin thiên đình mở lượng ưu ái tới cả chim muông, cho phép sát nhập ấp Lực Nậu bên cạnh lại thành một xã bốn thôn, bớt đi số dân đinh không có thực, tha cho họ những suất không thực đó, Ngài còn tặng biếu nhiều người điêu đứng bệnh tật giúp họ chấm dứt được nỗi khốn cùng, chẳng phải Ông đã che chở cho họ đó sao. Bản ấp ở miền thượng lộ Bắc Giang xưa là nơi trừ mật, bỗng chốc trải qua nhiều sự kiện, của cải nhân lực đã cạn kiệt, quan mục thì như hổ, quan lại như rắn không biết trông cậy vào đâu, Ngài dựa vào công lớn dẹp giặc được thực phong làm thế nghiệp phụ mẫu đã lo lắng cho dân đêm ngày, thu thuế không vượt ngoại lệ, quan lại dịch không phải vất vả vì việc gì khác, lợi thì phát huy, hại thì trừ bỏ. Ngài thường chú tâm tới những nỗi nguy cấp đối với dân. Con đê công quanh tổng trước có cửa cống, lâu ngày đổ nát mà tắc lại, nước to không lối thoát chảy, mảnh đất phì nhiêu sắp thành hoang phế. Ngài đã đề đạt đích thân lãnh nhận việc này, bỏ công xây đắp gâp rút làm ngay, đến nay tiêu thoát tùy thời hạn úng không lo, vạn khoảng đất đã thành ruộng canh tác. Người trồng lúa mùa thu hát ca ngâm vịnh về cây lúa đã là một sự nghiệp hiện thực sung túc. Cái nhân đức của Ngài nổi bật nhất ở chỗ biết cùng vui buồn với dân khi no đói, thăm người đau yếu viếng thăm nhà có tang, thương người cô độc xót người nghèo khổ, ngăn ngừa kẻ kiểu ngạo, răn đe kẻ du tình, cấm uống rượu cờ bạc mà chấm dứt việc tranh giành kiện tụng. Việc giáo huấn đức khiêm nhường truyền đến khắp thôn xóm. Thế rồi Ngài lại tìm nhà nho kỳ cựu mời về mở trường Tây thục, đào tạo nho sinh. Công giáo huấn của Ngài trong từng ngõ xóm không ai không biết rõ, đến nay Nho sinh nhan nhản, tiếng đọc bài râm ran. Trận bút đua tranh, trường thi mở lối lên nho quán mà chấn động biền lâm, thật xứng là một ấp văn hiến. Đều là do công lao hun đúc của Ngài mà nên vậy. Dân về sau tận tâm tận lực với thần. Dựng miếu đình làm nơi cúng tế, tạo xa giá làm nghi thức phụng thờ Thần yên nghỉ ở đó, dân vui với thành quả của mình […].

Ngày khánh thành ai nấy đều nói chung một lời tốt đẹp. Đầu mỗi năm ở đây sẽ là nơi mở lễ chúc phúc sang trọng. Sau khi Ngài mất, ở đây sẽ là nơi mở lễ dâng hương để tỏ lòng thành kính, may ra có thể báo đáp được một hai trong muôn vạn phản đối với Ngài. Hôm nay đến đây định nhờ vào một cây bút để cho con cháu chúng tôi làm theo mãi mãi vẻ sau!

Tôi bước lên nói với các vị ở xã Phụng Công rằng: – Từ xưa có ba thứ bất hủ là lập đức, lập công và lập ngôn. Công và đức của Ngài hẳn là cái được dân ngưỡng mộ mà tôn sùng, tôi đâu có tiếc lời. Tôi vốn biết Ngài là người giữ điều thành thực trong lòng gửi sự trung tín ở nước. Ngài đối với dân làng tôi không biết được, nay theo các vị nói vậy thì ân huệ của Ngài đã xuống tới dân mà dẫn dắt dân theo con đường lễ, chẳng phải là đạo của người quân tử có bốn đó sao”.

Nguồn: T12, tập 9, N08228-29.

        Tháng 3 (tháng Hai – Quý Mùi)

 632. Quan Thị nội Dương Danh Tiệp được làm Hậu thần xã Khang Cáo

Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 24 dựng tại đình xã Khang Cáo (còn lọi là Cáo Đỉnh, nay thuộc Bắc Từ Liêm – Hà Nội) ghi rằng, Quan Thị nội Thư tả Lại phiên Uẩn Trung hầu Dương Danh Tiệp là người đức độ, thường chu cấp tiền của cho người nghèo. Ông còn cung hiến cho làng 100 quan tiền và 4 mẫu ruộng. Dân làng đã họp bàn bầu cha mẹ và vợ chồng ông làm Hậu thần.

Nguồn: T12, tập 2, N01062-63.

        Ngày 10 tháng 10 (4 tháng Chín – Quý Mùi)

 633. Dương Thị Ngọc Hoan sinh Trịnh Tông

Dương Thị Ngọc Hoan, người xã Long Phúc, huyện Thạch Hà, có chị làm phi của ân vương Trịnh Doanh, đẻ ra Thụy quận công Trịnh Lộ, được Ân vương rất yêu. Ngọc Hoan do đó mà được vào hầu thế tử Sâm. Từ khi vào phủ, bà ít được tiến ngự. Một đêm mộng thấy thần cho một đoạn vóc hoa thêu hình đầu rồng, liền nói với nội thị là Khê Trung hầu Chu Xuân Hán. Hán cho là điềm sinh quý tử. Ngày hôm sau Sâm cho Hán triệu phi tần tên là Ngọc Khoan, Hán cố ý giả nghe lầm, đưa Ngọc Hoan vào. Sâm thấy đã không thích, nhưng đã gọi đến không nỡ đuổi ra. Lại gọi Hán đến mắng. Hán đập đầu tạ tội nhân đem chuyện nằm mộng của Ngọc Hoan nói với Trịnh Sâm. Sâm lặng im. Ngọc Hoan một lần tiến ngự, có thai, đến đây sinh ra Trịnh Tông. Sâm nghĩ: Rồng dù lạ tượng trưng cho vua nhưng thêu ra, không phải là rồng thực, và lại chỉ có đầu không có đuôi, không phải là điềm hoàn toàn tốt. Lại nhớ lại đời trước có Trịnh Cối và em chúa bấy giờ là Trịnh Lệ cũng đều do phi tần người xã Long Phúc sinh ra, sau đều mưu phản nghịch, nhưng không thành. Ý Sâm càng không thích. Lúc ấy các quan văn võ vào mừng. Sâm chối là không phải vợ đích sinh ra, không nhận lễ mừng.

Nguồn: Đ6, tr.266-267.

        NĂM 1764 (GIÁP THÂN)

        Mùa hạ

 634. Các ông Dương Huy Ánh, Dương Huy Nghi công đức dựng bia làng Trung Nghĩa

Trung nghĩa ký bi do Tiến sĩ Nguyễn Huy Cận soạn, tạo năm Cảnh Hưng 25, dựng tại đình Phú Thị, tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội) cho biết:

Trung Nghĩa là một cái tên đẹp; ấp ta sao mà có được cái tên như vậy? Từ năm Canh Tuất (1730) đến năm Ất Sửu (1745), quân phỉ thường đến cướp phá làng ta, gây nên khói lửa ngập tràn, tiếng trống mõ trấn động suốt đêm; triêu binh thu lương, tin đồn thất thiệt. Dân địa phương đua nhau chạy giặc, chẳng một ai dám đứng ra đương đầu; đã nhiều lần như vậy. [Nhưng nay đã khác], hôm trước bản ấp tập hợp hương đinh, theo quân binh tiến đánh tiễu trừ bọn cướp; hôm sau lại cùng bản tổng đào hào đắp lũy, giữ vững đồn lũy để phá thế giặc; giữ an ninh làng xóm. Năm Bính Dần (1746) kính phụng Khải chỉ của Vương Thượng, cho quan phủ dụ đem Chỉ chuẩn cho được khen thưởng, gia đặc ân ban cho biển đề 3 chữ “Trung Nghĩa Lý” (làng Trung Nghĩa). Thật vui mừng lắm thay! Ôi, cơ hội mở ra tốt đẹp vậy! Có lẽ mảnh đất giữa ấp ta, vốn là ngôi đất đầu rùa hội tụ, ngưu cước phân anh; chung đúc nên nhiều bậc trượng phu, sinh ra nhiều người trai tài. Chẳng phải là danh thần đầu triều trở lên, thì cũng là những bậc túc nho xuất chúng; họ nêu cao cương thường điển tắc, được cảm hóa bằng Thị, Thư, Lễ, Nhạc; gần gũi với cái đẹp, mà noi theo Nho đạo; coi trọng phép tắc, chuyển hiếu thành trung; vì nghĩa cả mà phấn phát nhân tâm, lũ con em trong làng đều cùng đồng lòng chiến đấu. Thật vậy, một mai có người hỏi rằng: Ai là người chẳng vì nghĩa quên mình, sát cánh bên nhau, cùng giáp binh phu đem cung nỏ, vác câu liêm xông pha nơi trận mạc; hăng hái truy đuổi tàn quân. Phàm là cái gì để có thể giết giặc thù, báo đáp ân vua; thì dù kiếm lớn hay thương dài cũng đều xung trận. Phía trước là lũy cao hào sâu, che chắn mọi bề; cũng không thể ngăn được bước tiến quân đi. Vào đúng thời điểm đó, giữ vững [ ] [ ] để lại tiếng thơm trăm đời. Ô hô! Đương lúc thế trận cam go, các vị quan lớn đương triều trong ấp ta nay đã nghỉ quan, nhưng vẫn hiệp lực cùng nhau với dân làng chống giặc như quan Hiệp thống Đông Dương Tham tụng Tư Mã Nguyễn Huy Nhuận; quan Tham mưu Tây kiểu Thừa chỉ Nguyễn Huy Thuật; quan Hiệp đồng thang ấp Thự Tham chính Nguyễn Huy Dận đã từng tham gia triều chính, xông pha trận mạc; tài năng san núi bạt đồi băng sông, tinh thông võ đạo, khí phách tráng liệt; thấu cả nhật nguyệt, giữ yên sơn hà. Tỏ rõ mưu lược trước công chúng, dẫn dắt mọi người chúng ta. Cũng là để làm rõ những điều tai nghe mắt thấy, phong thái trung nghĩa; mà gia cảnh vẫn chỉ là đạm bạc mà thôi. Chính vì thế, gọi làng ta là Trung Nghĩa, cái tên đó thật xứng danh mà thấu tình. Người xưa có thơ rằng:

Danh tướng mãi còn cùng trời đất,

Tên tuổi ngời sáng cùng trăng sao.

Cái vẻ đẹp đó, ngày nay đã lấy làm Tư văn, ghi chép thành Tư biểu vậy. Chẳng những để tỏ rõ sự khuyến khích của Hoàng Vương, mà còn tỏ rõ sự tôn kính của làng xóm; và cũng là để soi sáng mãi đến vô cùng. Cho nên làm bài minh văn rằng:

Lúc quân phỉ, bức quanh làng,

Sáng khói lửa, chiều tù vang.

Rối như tơ, sôi như canh,

Duy ấp ta, trợ chiến chinh.

Mọi người dân, rào quanh làng,

Tiếng trống báo, tiếng roi ngựa.

Đuổi tướng giặc, giết địch binh,

Tập hợp lính, xếp bày đinh.

Kính vua ta, báo triều đình,

Gió lớn gào, nhuệ khí tranh.

Vàng thua cứng, đá kém trinh

Ai dám cùng dân ấp,

Ai dám quyết giữ thành.

Phẩm trật vua khen thưởng.

Rực sáng biển nêu danh,

Khảng khái triệu anh hào,

Tiếng để đời vang vọng.

Ôi! Cái tên Trung Nghĩa muôn năm còn mãi. Chúng tôi, những người dân lành nhớ mãi câu chuyện này, nên ghi lại vào văn bia”.

Nguồn: T12, tập 4, N03162-3163; T21, tr.767-776.

        NĂM 1765 (ẤT DẬU)

        Ngày 11 tháng 6 (23 tháng Tư – Ất Dậu)

635. Bà Dương Thị Đôi được tôn làm Hậu phật

Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 26, dựng tại chùa Bảo Sái, xã Vị Trù, tổng Quất Lưu, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay là xã Quất Lưu, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi nhận bà được tôn làm Hậu phật vì đã cùng các bà Phạm Thị Viết, Ngô Thị Lung cúng tiền và 3 sào ruộng để lo việc hương đăng cho nhà chùa.

Nguồn: T12, tập 6, N015114.

        Tháng 10 (tháng Chín – Ất Dậu)

 636. Vợ chồng Huyện thừa Dương Công Tá được tôn Hậu phật xã Trung Đạo

Hậu phật bi ký (1) do Đồng Tri phủ Dương Khuê soạn, tạo năm Cảnh Hưng 26, dựng tại chùa Sùng Khánh bản xã (nay thuộc Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi rằng, ông Dương Công Tá, Huyện thừa huyện Vĩnh Khang cùng các bà vợ là Dương Thị Diệu, Trần Thị Bính là những người hiếu thảo. Năm Ất Dậu cúng 25 quan tiền giúp sửa đình thờ thần nên cha mẹ ông được bầu làm Hậu phật. Sau đó họ lại cúng 6 sào ruộng làm ruộng hương hỏa. Có ghi thể thức cúng giỗ hàng năm và vị trí diện tích ruộng. Mặt sau là bài vị hai Hậu phật.

Hậu phật bi ký (2), cùng người soạn, tạo cùng thời điểm và dựng cùng địa điểm cho biết thêm, vợ chồng ông bà họ Dương đã kể ở trên lại cúng 25 quan tiền cho làng sửa đình và 1 thửa ruộng làm ruộng hương hỏa. Dân làng nhớ ơn, bầu cha mẹ vợ của ông làm Hậu phật. Có ghi thể thức cúng giỗ hàng năm. Mặt trước là bài vị Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 7, N06910 – 13.

        Tháng 12 (tháng Một – Ất Dậu)

 637. Sinh đồ xuất thân tiểu tăng họ Dương soạn văn bia Hậu giáp cho xã Yên Viên

Hậu giáp bi ký tạo năm Cảnh Hưng 26 dựng tại điếm Giáp Thượng bản xã (Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang) cho biết bà Nguyễn Thị Phó, hiệu Từ Đoan vợ ông Nguyễn Công, tự Phúc Huệ, là người hiền hạnh, gia đình tuy không giầu, nhưng lại có lòng tốt. Năm Ất Dậu (1745) bà cúng 50 quan tiền sử và 5 sào ruộng cho dân xã, xin được gửi giỗ. Do đó, toàn dân bầu ông bà làm Hậu giáp và cho tổ tiên 2 bên nội, ngoại được phối hưởng.

Nguồn: T12, tập 9, N08391-92.

        Trong năm

 638. Vợ chồng bà Dương Thị Huân hưng công tạo đúc chuông chùa Thiên Đài

Thiên Đài tự chung khắc trên chuông chùa Thiên Đài, xã Hả Hộ, tổng Hả Hộ, huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hồng Giang, Lục Ngạn – Bắc Giang) cho biết nhà chùa lâu năm vắng tiếng chuông, may nhờ có vợ chồng ông bà người thôn Kép, xã Hả Hộ bỏ tiền của hưng công tạo đức. Việc làm đó lôi cuốn được nhiều nam nữ thiện tín hưởng ứng/

Nguồn: Đ12, tr.535.

        Trong năm

 639. Dương Thành thi đậu Hương cống

Ông người xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An).

Nguồn: D7.

        NĂM 1766 (BÍNH TUẤT)

        Trong năm

 640. Tổng thái giám họ Dương, tự Thế Khanh được tôn làm Hậu thần

Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 27, dựng tại đình thôn Na Mô, xã Úc Sơn, tổng La Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc thị trấn Hương Sơn, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi việc quan Ty Lễ giám Tổng thái giám Đồng Thọ hầu là người tài năng, đức độ, cúng nhiều tiền ruộng cho bản xã, được uan viên và dân chúng yêu quý tôn làm Hậu thần.

Nguồn: T12, tập 11, N010646-47.

        NĂM 1767 (ĐINH HỢI)

        Tháng 3 (tháng Hai – Đinh Hợi)

 641. Tiến sĩ Dương Sử soạn văn bia cho Sinh từ xã Phú Đa

Phúc thần Sinh từ bi ký tạo năm Cảnh Hưng 28 dựng tại Sinh từ xã Phú Đa (Phú Hoa), tổng Tang Đố, huyện Tiên Phong, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay là xã Phú Đa, Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc) ghi về hành trạng và công đức của Lãng Phương hầu Nguyễn Đài công là người chí hiếu với cha mẹ, mẹ ông được phong tặng Quận phu nhân, mẹ bị ốm, hằng đêm ông dâng hương cầu sức khỏe cho mẹ. Khi dân gặp cảnh lưu tán khó khăn, ông cấp ruộng, trâu bò giúp dân qua cơn bĩ cực. Lại mở trường dạy học, cung tiến ruộng học điền 5 mẫu và giúp đỡ địa phương được miễn sưu thuế, binh dịch. Cấp 600 quan cổ tiền làm tiền tuất táng cho các cụ phụ lão, lại cho 2000 quan để xây chùa Phật câu phúc cho dân v.v… Dân nhớ ơn công đức đã tôn bầu ông làm phúc thần, xây sinh từ để đời đời thờ cúng và lập bia ghi lại công trạng của ông lưu lại cho muôn đời.

Nguồn: T12, tập 15, N014533.

 642. Thuộc viên Dương Đình Kim được làm Thủ từ xã Phú Đa

Phúc thần điều lệ bi, tạo cùng thời điểm và dựng cùng địa điểm ghi rõ rằng, Bản xã đã xây dựng 1 dãy 5 gian tiền đường của Sinh từ và nghi môn để làm nơi thờ cúng. Giao cho Bá hộ Nguyễn Đình Thước và thuộc viên Dương Đình Kim làm Thủ từ. Bản xã thuận tình miễn trừ sưu sai tạp dịch thuế khóa cho hai vị này để họ lo việc quét dọn và hương khói tại sinh từ. Lại đặt ra các thửa ruộng tự điền của sinh từ, giao cho dân thôn canh tác, lấy tiền hoa lợi lo việc cúng tế hàng năm.

Bên cạnh đó, Từ đường điều lệ bi dựng tại sinh từ vào năm ấy cũng ghi, Bản xã đặt ra các ruộng tự điền giao cho các tộc trưởng lo việc canh tác lấy tiền lo việc hương khói cúng lễ. Các tộc Trưởng không được tự tiện bán các thửa ruộng này.

Nguồn: T12, tập 15, N014531-32.

        Ngày 15 tháng 11 (24 tháng Chín nhuận – Đinh Hợi)

 643. Dương Trọng Khiêm tố cáo âm mưu phản loạn của Trịnh Lệ.

Thiệu Quận công Trịnh Lệ (em chúa Trịnh Sâm) mưu phản, việc phát giác, sai giam lại. Giết đồ đảng của y là Phạm Huy Cơ (Cơ người xã Đông Bình, huyện Gia Định nay là Gia Bình, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Sửu [1757] đời Cảnh Hưng) và thưởng cho người cáo giác. Trịnh Lệ là người thông tuệ mưu trí. Lúc còn Ân vương, thường có chí cướp ngôi đích. Trước Trịnh Lệ học Phạm Huy Cơ. Cơ có tội bị mất quan, mang lòng oán hận, ngầm xui Lệ làm việc trái phép, dựng bè đảng vây cánh, dẫn Tiến sĩ Dương Trọng Khiêm, Giải nguyên Nguyễn Huy Bá làm gia khách, mưu định đến ngày 24 tháng ấy khởi sự. Khiêm và Bá bèn đến nhà nội giám Thiều Trung hầu Phạm Huy Đĩnh tố cáo. Đĩnh lập tức đến nói với chúa Trịnh Sâm. Chúa sai họp các đại thần hội họp tra tấn. Phạm Huy Cơ biết không thể thoát tội được, thú nhận. Trịnh Lê dâng tờ khai còn che đậy nhưng sự tình làm phản đã bị lộ cả. Trịnh Sâm vốn thương yêu em, làm thư dẫn dụ, lời rất khẩn thiết. Trịnh Lệ thẹn và sợ, xin chịu chết. Đình thần bàn cho Trịnh Lệ chỉ tội chết chém. Cơ phải tội giảo bêu xác. Án đã làm xong, Trịnh Sâm xuống chỉ cho Trịnh Lệ khỏi chết, chỉ giam tù thôi. Phạm Huy Cơ phải tội chém. Dương Trọng Khiêm trước vì khiển trách bị bãi chức, đến nay được thưởng phục chức lại thăng hai cấp. Nguyễn Huy Bá thăng năm cấp.

Đoàn Nguyễn Thục họp các quan ngự sử lại, hặc tội Trọng Khiêm trước đã cùng với Lệ và Cơ tư thông, về sau mới cáo giác, đem công bù tội, không nên thưởng cho thăng cấp. Chúa bèn tước hai cấp thăng của Trọng Khiêm, thưởng cho Thục 30 lạng bạc.

Nguồn: Đ6, tr.302-303.

        Trong năm

 644. Vợ chồng các ông Dương Nhân Lễ, Dương Thạch Hữu được tôn Hậu thần

Hậu thần bi ký/ Lập đoan ký/ Minh vu hậu tạo năm Cảnh Hưng 28, dựng tại đình thôn Đoài, xã Cổ Trai, tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Ngũ Đoan, Kiến Thụy – Hải Phòng) ghi việc dân thôn Đoài xã Cổ Trai hưng công xây dựng Thiên trụ cần nhiều tiền. Nay các thí chủ (ông Nguyễn Khắc Huy và vợ Vũ Thị Sảo, ông Dương Nhân Lễ và vợ Nguyễn Thị Đàn, ông Nguyễn Công Trọng và vợ Nguyễn Thị Đôi, ông Dương Thạch Hữu và vợ Nguyễn Thị Đan, ông Võ Bách Tuế) mỗi người bỏ ra 50 quan tiền cho làng chi dùng và 2 sào ruộng làm ruộng tế tự cho xã. Quan viên, hương lão, dân xã tôn bầu các ông bà làm Hậu thần. Ghi ngày giỗ của Hậu thần, vị trí, diện tích các thửa ruộng cúng và thể lệ cúng giỗ Hậu thần hàng năm.

Nguồn: T12, tập 11, N010107-10.

        NĂM 1768 (MẬU TÝ)

        Ngày 13 tháng 4 (27 tháng Hai – Mậu Tý)

 645. Vợ chồng Đồng Tri phủ Dương Tá Trung mua Hậu cho người thân tại chùa Sùng Khánh

Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 29, dựng tại chùa Sùng Khánh, xã Trung Đạo, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Trung Hưng, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi rằng, vợ chồng Đồng Tri phủ nghĩ đến cô ruột Dương Thị Thanh chết sớm, không có con cái thờ tự nên đã cúng cho xã 10 quan tiền, 3 sào ruộng để gửi giỗ, được xã chấp nhận, dựng bia ghi lại.

Nguồn: T12, tập 7, N06903-04

        Tháng 4 (tháng Ba – Mậu Tý)

 646. Người họ Dương xã Bắc Hải viết chữ bia Văn chỉ xã Chương Dương

Văn vận đại hạnh/ Phương danh bất hủ do Tri huyện Gia Viễn Đào Duy Tín soạn văn, tạo năm Cảnh Hưng 29, dựng tại Văn chỉ bản xã, tổng cùng tên (nay là xã Chương Dương, Thường Tín – Hà Nội) ghi, xã Chương Dương hồi trước đã dành 2 sào ruộng và 1 thửa đất dựng thành Văn từ để thờ phụng các vị Tiên hiển. Nay Hội Tư văn cùng các quan viên bản xã hưng công tu sửa lại Văn từ, dựng bia ghi danh sách các vị chức sắc trong Hội Tư văn, họ tên chức tước của các vị Tiên hiền chưa có ở bia cũ và các xứ ruộng của Hội Tư văn bản xã.

Nguồn: T12, tập 8, N07757-58.

        Trong năm

 647. Dương Truyết, Dương Viên thi đậu Hương cống; Dương Công Văn đậu Sinh đồ

Dương Truyết còn có tên là Dương Tri Trất và Dương Viên đều là người xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An); Dương Công Văn, người thôn Cẩm La (nay là xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh).

Nguồn: D7; K6. Tr.276; K7, tr.323.

        NĂM 1769 (KỶ SỬU)

        Ngày 26 tháng 4 (21 tháng Ba – Kỷ Sửu)

 648. Người họ Dương công đức xây dựng Từ vũ xã Thạch Lựu

Tư văn chức bi ký tạo năm Cảnh Hưng 30 dựng tại văn chỉ bản xã (nay thuộc xã An Thái, An Lão – Hải Phòng) ghi rằng, các ông Dương Công Phiêu, Dương Công Hoán, Dương Văn Trác, Dương Trước Kỳ trong Hội Tư văn nghĩ đến công đức Thánh hiền nên đã quyên góp tiền để xây dựng Từ vũ, lại định ra lệ nhập Hội Tư văn (Người nào đỗ khoa trường phải có lễ vật gồm 1 vò rượu, 1 mâm trầu cau, 1 con gà và l quan tiền đem đến kính yết thì được vào Hội. Người nào chưa thi đỗ nhưng có học vẫn muốn vào Hội thì bản Hội khảo xét thực học rồi đem lễ vật và 6 quan l mạch 40 văn đến kính yết thì được vào Hội).

Hội còn ghi lệ cúng tế hàng năm và một số tự điền để làm cống quỹ.

Nguồn: T12, tập 12, N011151.

        Trong năm

 649. Dương Đình Giai thi đậu Tiến sĩ võ

Ông quê huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay Yên Dũng thời đó chia ra cho các huyện Tân Yên, Việt Yên và Yên Dũng – Bắc Giang).

Nguồn: H4, tr.97.

        NĂM 1770 (CANH DẦN)

        Trong năm

 650. Các ông họ Dương tham gia việc bầu Hậu thần thôn Đầu Làng

Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 31, dựng tại điếm Chùa, bản thôn thuộc xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) cho biết, các ông Dương Thụ Ngũ, Dương Hữu Dung, Dương Thu Thắng, Dương Hữu Tín, Dương Tông Toàn và một số đại diện các dòng họ khác, nhận thấy bà Nguyễn Thị Cai vốn sống kiệm ước, tính rất khoan hòa, từng cung tiến ruộng và 33 quan tiền cho bản thôn chi dùng việc công nên thuận tình bầu vợ chồng bà làm Hậu thần.

Nguồn: Đ12, tr.678.

        NĂM 1771 (TÂN MÃO)

        Tháng 11 (tháng Mười – Tân Mão)

 651. Dương Huy Diệu thi đậu Hương cống

Lê Hiển Tông xuống chỉ cho mở khoa thi Hương. Năm ấy trường Sơn Nam được lấy đỗ tam trường là Sinh đồ 1000 người, tứ trường là Hương cống 100 người, rồi lại cho các xứ lấy đỗ thêm Sinh đồ: Thanh Hoa 100 người, Yên Quảng, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây đều 80 người; Phủ Phụng Thiên 20 người, Yên Quảng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá và châu Bố Chính cứ 10 người lấy thêm một người.

Khoa thi Hương này, sáu ty ở Thanh Nghệ làm sổ sảo thông bị chậm quá kì hạn, quan chức bị phạt và biếm có thứ bậc. Nghệ An kêu hai ty khảo hạch không công bằng. Tham chính Ngô Thì Sĩ bị đoạt chức đuổi về.

Dương Huy Diệu người xã Phùng Cầu, tổng Phùng Cầu, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Thiệu Thịnh, Thiệu Hóa – Thanh Hóa).

Nguồn: Đ6, tr.333; N11, tr.498.

        NĂM 1772 (NHÂM THÌN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Nhâm Thìn)

 652. Họ Dương công đức tu tạo chùa Pháp Lôi

Hậu/ Phật/ Bi/ Ký tạo năm Cảnh Hưng 33 dựng tại chùa Pháp Lôi, xã Lương Phong, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là xã Lương Phong, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi, xã tu sửa Thượng điện, Tiền đường, Hành lang, Tam quan, tô tượng Phật ở chùa Pháp Lôi. Các ông bà Dương Thế Nhu, Dương Thị Khánh, Dương Thị Đông, Dương Thị Quán thuộc thôn Chấp Pháp (Kẻ Chớp) đã tự nguyện đóng góp cùng một số người dân quyên cúng tổng cộng là 134 quan 8 mạch và 2 mẫu 8 sào ruộng. Quan viên, dân xã đã tôn bầu họ làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 10, N09187-90.

653. Hiển Quận công Dương Quốc Cơ được tôn Hậu thần xã Vân Cốc

Hậu thần bi ký do Tiến sĩ Nhữ Công Toản soạn văn bia, tạo năm Cảnh Hưng 33, dựng tại đình xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi, Đô Hiệu điểm ty Tá Hiệu điểm Hiên Quận công Tướng công là người nhân đức. Ông đã xuất tiền của xây 3 gian sau đình và 2 dải vũ trước đình, một khu chùa bốn mặt liền nhau, một gian Tam quan; tất cả đều bằng gỗ lim, lợp ngói, tường đá. Ông lại cúng cho đình một khu đất 4 sào thước, cúng cho 6 giáp một khu ruộng hương hoa gồm 1 mẫu 1 sào 12 thước. Ông được dân xã tôn bầu là Hậu thần.

Dương Quốc Cơ vốn là hậu duệ của Ngô Văn Phòng, Hoàng giáp khoa thi Giáp Thìn (1484), quê ở Phù Vệ, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc Kim Thi – Hưng Yên). Quá trình chuyển từ họ Ngô sang họ Dương hoặc Dương Ngô diễn ra như sau:

Con trai Ngô Văn Phòng là Mậu Đôn, đỗ Tiến sĩ đời Lê Cung hoàng, làm quan cho nhà Lê một thời gian rồi đổi sang họ Nguyễn, phục vụ nhà Mạc, làm đến Binh bộ Thượng thư. Một người con của ông là Nguyễn Thân Bế chuyển cư về Hoa Đường (Đường An – Hải Dương) là cha của Nguyễn Dụng – Hoàng giáp khoa thi Nhâm Thìn (1592) thời Mạc Mậu Hợp, được cử đi sứ, khi trở về theo nhà Lê. Một người con khác của Mậu Đôn là Mậu Du, đậu Tiến sĩ khoa thi Ất Mùi (1565) thời Mạc Mậu Hợp, làm đến Giám sát Ngự sử trở về họ Ngô. Mậu Du có hai con trai. Con trai cả là Ngô Văn Chính, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1647) thời Lê Thần Tông, làm đến Phụng Thiên Phủ doãn. Con trai thứ là Ngô Phúc Lộc, đỗ tứ trường, vợ là Quận chúa Dương Thị Lệ Chi, được các con là Phúc Lan, Phúc Trạch, đổi thành họ Dương Ngô. Sau Phúc Lan sinh Dương Ngô Uyên. Con cả của Dương Ngô Uyên là Dương Đăng Bảo – tức Hoàng Đình Bảo, Hoàng Tổ Lý sau này; còn Phúc Trạch sinh được 6 con trai, trong đó có Dương Quốc Cơ.

Nguồn: T12, tập 8, N07021-23.

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Thìn)

 654. Làng Đồng Khê dựng bia ghi danh Hậu thần họ Dương thời Lê Hồng Đức

Bia không tiêu đề, tạo năm Cảnh Hưng 33, dựng tại đình làng Đồng Khê, tổng An Lương, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay nằm trong thị trấn Nam Sách – Hải Dương) ghi về Nguyễn tướng công Cẩm Y vệ tự Quảng Văn hiệu Đại Khê đỗ Tiến sĩ thời Hồng Đức. Vào năm Ất Dậu (1465) niên hiệu Hồng Đức, Ngài đã cùng với một số vị khác như ông họ Nguyễn vốn là Giám sinh Quốc tử giám và vợ bà họ Dương đã xuất tiền của cho dân chi dùng. Quan viên, dân làng tôn bầu làm Hậu thần.

Nguồn: T12, tập 13, N012303-04.

        Ngày 10 tháng 6 (20 tháng Năm – Nhâm Thìn)

 655. Bà Dương Thị Hương được tôn Hậu thần xã Cẩm Xuyên

Bia không tiêu đề, tạo năm Cảnh Hưng 33, dựng tại đình bản xã, tổng Cẩm Bào, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay trong xã Xuân Cẩm, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi, vợ Trưởng quan Thị nội giám kiêm Thái giám Đẩu Thọ hầu là bà Dương Thị Hương hiệu Diệu Thanh đã cúng 150 quan tiền sử cho xã Cẩm Xuyên để chỉ dùng vào việc công và 8 sào ruộng để gửi giỗ. Quan viên, dân xã tôn bầu bà làm Hậu thần. Có qui định các thể thức cúng giỗ và ghi lại vị trí, diện tích các thửa ruộng.

Nguồn: T12, tập 9, N08766-68.

        Ngày 25 tháng 11 (1 tháng Một – Nhâm Thìn)

 656. Dương Nguyễn Huống thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Mùa đông, tháng Mười năm Nhâm Thìn, chuẩn lời tâu của bộ Lễ, sai Phó Đô tướng Quế Quận công Trịnh Bồng làm Đề điệu, Nhập thị Bồi tụng Hộ bộ Tả thị lang Dĩnh Thành hầu Lê Quý Đôn làm Tri Cống cử, Nhập thị Bồi tụng Binh bộ Hữu thị lang Liên Khê hầu Vũ Miên, Hộ bộ Hữu Thị lang Thái Đình bá Vũ Trần Thiệu làm Giám thí, lấy trúng cách 13 người. Qua tháng sau Điện thí, cho 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, 11 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Sử cũ còn chép lại rằng, bấy giờ chúa Tĩnh vương đè nén vua Lê nên không còn sợ gì nữa. Ngay tại trường thi và trước mặt nhà vua vào kỳ thi thứ ba lại ra đề Quân đức nhật tân (Đức của vua ngày càng đổi mới) nhưng chữ tân còn là miếu hiệu của Kính tông Huệ Hoàng đế. Đến kỳ thứ tư, Lê Quý Đôn hầu đề lại có câu Đồ giang dư lương – trong đó chữ giang là tên húy của Dụ tổ Thuận vương. Người đương thời luận rằng đến đây vua chúa không còn kiêng nể lẫn nhau.

Dương Nguyễn Huống là người Ỷ La (nay là phường Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội).

Nguồn: V2, tr.513-515; Đ6, tr.342; T28, tr.92.

        NĂM 1773 (NHÂM THÌN – QUÝ TỴ)

        Ngày 16 tháng 1 (24 tháng Chạp – Nhâm Thìn)

 657. Dương Nguyễn Huống được ghi danh vào bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu

Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ Đề danh bi ký (Bia Đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn – 1772) do Phan Trọng Phiên soạn, Nhữ Công Toản nhuận sắc, có đoạn:

“Thánh nhân tác thành nhân tài, mà hiền tài làm cho nền trí trị được bền vững lâu dài. Cho nên nuôi dưỡng người tài năng ở trường học, dùng khoa mục để tuyển chọn, là để cho họ làm rạng rỡ pháp độ của vua, làm mưu lược của vua được tốt đẹp, há chỉ cốt làm vẻ hào nhoáng bên ngoài mà thôi đâu! Lớn có thể làm rường cột, nhỏ có thể làm rui mè. Người dũng sĩ, kẻ tâm phúc không ai không được tin dùng, như vậy mới không phụ ý nuôi dưỡng khích lệ nhân tài của nước nhà. Kinh Thi có câu: “Ái ái vương đa cát sĩ, duy quân tử sử” (Lớp lớp triều đình đông đảo hiển tài, do quân tử mà có được như vậy). Khoa này chọn người hiền, ngõ hầu cũng được như thế chăng?

Nguồn: V2, tr.513-515.

        Ngày 21 tháng 3 (29 tháng Hai – Quý Tỵ)

 658. Con cái các ông bà họ Dương mua Hậu cho cha mẹ tại xã Trung đạo

Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 34, dựng tại chùa Sùng Khánh bản xã, tổng Sài Trang (nay là xã Trung Hưng, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi: Các con của bà Chu Thị Việt là Dương Văn Đội, Nguyễn Đức Mậu và cháu là Dương Thị Ngôn đã cúng cho xã 15 quan tiền, 5 sào 15 thước ruộng. Dân xã tôn bầu cha mẹ họ làm Hậu phật, hàng năm cúng giỗ theo quy định ghi trong bia, lại ghi các xứ ruộng. Mặt trước có bài vị của hai Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 7, N06905-07.

        Tháng 12 (tháng Một – Quý Tỵ)

 659. Dương Quang bày cách cho Tri phủ Ứng Hòa Phan Đức Trạch tổ chức Hương binh bảo vệ xóm làng

Ông người Vân Đình, tổng Phương Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội (nay thuộc Ứng Hòa – Hà Nội), là con Thị giảng Học sĩ Dương Đức Ứng, húy Thụy; phụ thân của Dương Khuê, Dương Lâm, Dương Thị Nhã; lúc trẻ chăm học, có tiếng là hay chữ, đỗ Tường sinh, các quan to đều quý trọng tài, nhưng chật vật mãi về trường ốc, thi luôn hơn 10 khoa. Án sát Hoàng Đình Chuyên dâng sớ cử về học hạnh, được mời nhưng có bệnh xin từ chối. Năm 50 tuổi, con lớn là Dương Khuê đỗ thi Hương, kế đó lại đỗ Tiến sĩ. Từ đó, ông từ tạ từ văn khoa cử, ở ẩn một nơi, lấy kinh sách dạy dỗ con em.

Vốn tính nhân từ, trung hậu, đối với mọi người ôn hòa, chưa từng tỏ vẻ nóng giận, ngày thường, giúp kẻ cùng nghèo cứu người hoạn nạn tất hết lòng, bảo người tất bảo điều thiện; có ai giận, tranh kiện nhau thời lấy lòng thành khẩn hiểu bảo dẫn dụ; cho nên nhiều người được ông cảm hóa. Từng gặp năm đói, ông khuyên dân làng góp của chẩn cấp, do dó làng ông được nêu khen là Nghĩa Hương.

Cuối tháng 11-1873, Garnier đem quân tấn công thành Hà Nội, các phủ thành kế tiếp nhau thất thủ, chỉ có Tri phủ Ứng Hòa Phan Đức Trạch bám lấy phủ thành cố giữ, nhưng trộm giặc nổi to, đánh phá cướp bóc khắp nơi. Đang lúc luống cuống chưa biết xử trí ra sao, Tri phủ Phan Đức Trạch được Dương Quang khuyên làm cái kế đoàn luyện – tức là tổ chức Hương binh. Dương Quang vốn được quý trọng cho nên người ta đều vui lòng hưởng ứng. Ông lại sai con thứ là Cử nhân Dương Lâm giúp đỡ, tổ chức hình, trù hoạch lương, hết sức phòng ngự suốt hơn 2 tháng thì đảng phỉ dần dần giải tán, giữ được vô sự. Sau khi yên rồi, những kẻ bị giặc ép theo, ông lại biện bạch giúp, nhiều kẻ được qua sống, quan Trấn thủ đem sự trạng tâu lệ, được thưởng thụ Hàn lâm viện Cung phụng. Con là Dương Lâm cũng được thưởng hàm ấy. Khi về già, có người con là Dương Khuê lĩnh Định An Tổng đốc sau đó hàm Thượng thư về trí sĩ, còn Dương Lâm qua làm đến Đại thần một địa phương. Các cháu cũng đỗ thi Hương. Nhờ con làm to, ông được phong mãi đến Thiêm sự phủ Thiêm sự. Năm 84 tuổi thời mất, trọng về nết, nhiều người truy mộ.

Nguồn: Đ2, tập 2, tr.703-704.

        NĂM 1774 (GIÁP NGỌ)

        Tháng 6 (tháng Năm – Giáp Ngọ)

 660. Nguyễn Nghiễm soạn văn bia tại đền thờ Dương Quốc Cơ

Tiền chính Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ Hiển Quận công tặng Đô hiệu điểm ty Tả hiệu điểm Dương công Từ vũ ký (Bài ký ở đền thờ ngài Tiền chính Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, Hiển Quận công, Tặng Đô hiệu điểm ty Tả hiệu điểm Dương [Quốc Cơ]), tạo năm Cảnh Hưng 35, dựng tại lăng Quận thuộc xóm Bãi, xã Vân Cốc (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) viết rằng:

“Các ngọn núi ở huyện Yên Việt, liền nối liên hoàn, bắt nguồn từ núi Tiên Lạt nổi lên ở ngọn Thiếu Tổ, chạy đến núi Tam Tầng, vượt qua Trinh Sơn, rồi uốn lượn và hạ xuống đến giáp Bùi ở xã Yên Xá. Tới đây núi bao bọc bốn bề, giữa núi bỗng nhô lên một gò đất cao. Ấy là nơi đặt đền thờ mới của Hiển Quận công vậy. Ông họ Dương, húy Quốc Cơ, người xã Vân Cốc, huyện Yên Dũng. Thuở nhỏ nhậm chức quan, tính tình khẳng khái. Nhờ vang danh tài trí, ông được vua chúa yêu mến: cho vào cung, dần thăng lên quan Võ giai, nắm giữ quân binh, nhận mệnh vua đi sứ phương Bắc, đốc quân binh tuần xét ải Tây, tiếng tăm vang dội một thời, được mọi người kính ngưỡng. Thấy rằng, ông sống hết lòng vì người, tính tình nghiêm nghị trời phú, đam mê thư tịch, yêu thích đạo lý xưa; lấy tính hiếu hữu cư xử trong nhà, đem lòng trung thành thi hành trong nước; tông tộc vui hòa, xóm giềng tốt đẹp. Đức hạnh cao vời của ông lan tỏa muôn nơi, thường yêu dân bằng điều nhân đức.

Chốn sông núi [nơi đặt nhà thờ] này từng được chiêm bói là dầu hiệu của vùng đất kinh dinh, được ông xây dựng thành khuôn viên với quy mô kiểu trùng thiềm điệp ốc, cửa nhà cao ráo sáng sủa, là chốn nhàn hạ lúc nghỉ ngơi. Khi ông [Quốc Cơ] qua đời, vùng đất này tức thì trở nên u tịch. Đến giờ trải hơn 30 năm, quy mô tráng lệ, rực rỡ xưa từ mái hiên đền thờ cho tới cửa nhà thực khó lưu giữ lâu bền được.

Nay, ngôi Từ vũ ấy được người con nuôi của ông là Suy trung Tán trị Tuyên lực Dực vận Đông đức Phụ quốc Tráng liệt Cương chính công thần, Trung dũng – Trung khuông đẳng quân doanh Trưởng doanh quan, quản lãnh Công thần tiền hậu đẳng tích, Chưởng phủ sự, Tham dự triều chính, Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Đại Tư đồ quốc lão trí sĩ Việp công Hoàng thai công [Hoàng Ngũ Phúc] tạo dựng lại vậy. Theo kiến trúc cũ mà chỉnh sửa to lớn hoành tráng thêm. Một gian nhà ngoài, ba gian nhà chính điện được lợp lại với gạch chạm trổ hoa văn mỹ thuật. Bốn phía bao quanh khu này được xây tường vòng cao ráo, dùng truyền lại đến ức muôn đời, được xem là đất nối đời thờ tự.

Tiếp đó, người dân ấp Bùi bố trí ruộng thờ, cấp lệ đinh (trai tráng lo phu dịch), giúp thêm ngân tiền, phẩm vật theo đúng nghi lễ phối hưởng hằng năm. Chép thành điều ước hương hỏa muôn năm, lễ tiết đời đời. Ấy đều xuất phát từ ân tình báo đáp của Quốc lão Việp công đối với ông lớn [Quốc Cơ] chu toàn hết mực vậy. Quốc lão quê ở Phụng Công, với ông lớn đều là người cùng huyện. Hai ông gặp gỡ nhau trong cõi trần ai này là điều mong cầu vô hạn. Lúc sinh thời, ông lớn dạy dỗ Quốc lão nghĩa tình hết mực. Đến như thành tựu vô cùng, công lao vang dội, sự nghiệp lẫy lừng của Việp công phần nhiều đều từ đó mà nên. Hôm nay, Việp công làm việc nghĩa ấy là diều đương nhiên vậy.

Việc trùng kiến đền thờ đã xong, tôi chấp bút trình thuật vài lời vụng về đại khái như thế”.

Nguồn: T12, tập 11, N010722-23.

        Trong năm

 661. Dựng bia về thân thế, sự nghiệp Dương Tự Minh

Quang Vinh Phúc thần sự lục bi ký tạo năm Cảnh Hưng 35, dựng tại đình xã Quang Minh, tổng Túc Duyên, huyện Động Hỷ, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc thành phố Thái Nguyên) ghi lại rằng, Thần họ Dương húy là Tự Minh là thổ tù ở huyện Phứ Lương làm quan trải qua 3 triều nhà Lý (Nhân Tông, Thần Tông, Anh Tông), được gả công chúa Diên Bình và phong làm Phò mã. Ông có công trong việc đánh dẹp bọn Đàm Hữu Lương nhà Tống sang quấy phá nước ta và trị tội lộng hành của Anh Vũ tư thông với Thái hậu. Về sau ông bị Anh Vũ đầy đi xa rồi chết. Ðời sau ông được vua phong cho làm Phúc thần và lệnh cho dân lập đền thờ cúng.

Nguồn: T12, tập 11, N010668-69.

        NĂM 1775 (ẤT MÙI)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Ất Mùi)

 662. Bà Dương Thị Trang được lập Hậu phật xã Du Lâm

Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 36, dựng tại chùa Nam Bảo, Du Lâm Ngoại, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Mai Lâm, Đông Anh – Hà Nội) ghi rằng bà đã cúng cho xã 18 quan tiền, đặt 5 sào rưỡi ruộng để gửi giỗ cho người chồng quá cố Nguyễn Đốc Thực. Xã nhận tiền và ruộng, lập bia để ghi lời cam kết.

Nguồn: T12, tập 3, N02962-63.

        NĂM 1776 (BÍNH THÂN)

        Ngày 28 tháng 2 (10 tháng Giêng – Bính Thân)

 663. Sơn Nam Đông đạo Tướng quân Dương Quảng Bình viết sự tích Dương Tam Kha theo ghi chép của Tiến sĩ Vũ Huy Trác

Cổ Lễ trang Điền tổ Dương Bình Vương sắc phong phúc thần sự tích còn lại đến ngày nay là nhờ sự ghi chép của ông Nghè khoa Nhâm Thìn Vũ Huy Trác (1772), người xã Lộng Điền, tổng Thượng Kỳ, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Nghĩa Đồng, Nghĩa Hưng – Nam Định) và viên Tả thị lang kiêm Quốc tử Giám Tư nghiệp, Giám quân đạo Sơn Nam, đến thời Tây Sơn về quê dạy học.

Nguồn: C5.

        Ngày 6 tháng 4 (18 tháng Hai – Bính Thân)

 664. Cử Dương Nguyễn Huống đem cờ ấn tướng quân đến Thuận Hóa

Sau hơn 1 năm chinh chiến ở Đàng Trong, tháng 1-1776 Hoàng Ngũ Phúc rời Phú Xuân để ra Bắc nhưng trong lúc đang nghỉ ngơi trên thuyền đóng ở Vĩnh Dinh (Nghệ An) thì ông đột ngột qua đời. Trước tin dữ ấy, ở Đàng Trong, Nguyễn Phúc Thuần đem quân đóng ở dinh Phiên Trấn mưu khôi phục và chống lại Tây Sơn. Tại Đàng Ngoài, gặp tiết Diên Thọ (9 tháng Hai – Bính Thân, tức 28-3-1776), Trịnh Sâm miễn cho triều thần không phải mừng vì Hoàng Ngũ Phúc chết, bãi chầu nhưng lại bí mật triệu các phụ thần bàn việc Thuận Quảng, sai khoa cấp Sự trung Dương Nguyễn Huống đem cờ ấn tướng quân đến nơi đóng quân để thừa lệnh chúa ban cho Đốc suất Đoan Quận công Bùi Thế Đạt là Đại tướng quân Kiêm trấn phủ Thuận Hóa, được tùy nghi làm việc; Đốc lĩnh Dĩnh Vũ hầu Nguyễn Đình Đống làm Phó tướng quân kiêm Tán lí; Tứ Xuyên bá Phan Trọng Phiên làm Hiệp hành trấn phủ Thuận Hóa. Lại sai Tả thị lang bộ Hộ Dĩnh Thành hầu Lê Quý Đôn làm Tham thị Thuận Hóa, Hiệp trấn phủ, Tham tán quân cơ. Thừa chính sứ Nguyễn Mậu Dĩnh làm Phó đốc thị, Tham hiệp nhung vụ.

Tháng 11-1776, Dương Nguyễn Huống được cử làm Hiến sát sứ Hải Dương.

Nguồn: Đ6, tr.401, 413.

        NĂM 1777 (ĐINH DẬU)

        Tháng 11 (tháng Mười – Đinh Dậu)

 665. Dương Đức Tuyền thi đậu Hương cống

Tháng Chín, thi thư toán ở bãi giữa sông Nhị Hà. Chúa Trịnh Sâm đến cung Vọng Hà xem thi. Từ năm Nhâm Ngọ [1762] đến đấy 16 năm chưa mở khoa thi. Nay Trung thư giám viện xin mở thi, bèn bàn cho thi. Trước sai hai ti các trấn sát hạch làm sổ đệ lên chính đường. Đến bấy giờ mở trường thi chung, trúng tuyển được 1.320 người. Sai Lê Quý Đôn, Phan Trọng Phiên sát hạch lại kĩ càng. Chọn lấy người giỏi bổ làm chức lại ở sáu phiên. Từ đó về sau cứ ba năm lại thi một lần. Đến tháng Mười năm ấy (11-1777) triều đình lại tiếp tục mở trường thi Hương cho sĩ nhân các xứ. Trước đây trường thi, quan sở khảo phúc khảo phần nhiều hợp đảng làm gian. Trước sau tỷ thư đã huấn sức rất là nghiêm ngặt, rốt cuộc không thay đổi được. Chúa biết ý ấy, khoa này hạ lệnh: kì tam trường, tứ trường đổi hết quân sơ khảo, phúc khảo. Quan trường thi Thanh Nghệ và tứ trấn, đổi lẫn cho nhau đi chấm thi. Bởi thế kế gian mất cả.

Dương Đức Tuyền, người Hương Canh – Từ Liêm (nay là phường Phương Canh, Nam Từ Liêm – Hà Nội)

Nguồn: Đ6, tr.432-434; T28, tr.154-155

        Trong năm

 666. Hai gia đình họ Dương cung tiến tân tạo thạch trụ chùa Vĩnh Ninh

Vĩnh Ninh hưng công tân tạo/ Thiên đài thạch trụ tự ký tạo năm Đinh Dậu, dựng tại chùa thôn Sơn Giao, tổng Sơn Giao, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Ngọc Sơn, Hiệp Hòa – Bắc Giang), ghi tên nhiều thiện tín hưng công – trong đó có Dương Thế Quan – con trai xã trưởng Lương Phong, vợ chồng xã trưởng Ngọc Cục (Yên Thế) Dương Văn Nhật.

Nguồn: Đ12, tr.438.

 667. Sĩ tử họ Dương thi đậu Hương cống

Đó là Dương Định Mô – người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), Dương Đức Tuyền, người Hương Canh (Nam Từ Liêm – Hà Nội), Dương Nguyễn Cách, người xã Thụ Ích, tổng Hương Nha, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Liên Châu, Yên Lạc – Vĩnh Phúc).

Nguồn: D7; K6, tr.87, 280.

 668. Dương Khải được tôn Hậu phật chùa Hồng Phúc

Hậu phật bi quan tạo năm Cảnh Hưng 40, dựng tại chùa Trang (Hồng Phúc tự), xã Vĩnh Thế, tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) ghi việc Dương Quý hậu – tức Dương Khải công đức tôn tạo lại nhà chùa nên được tôn làm Hậu phật.

Nguồn: T23, tr.239.

        NĂM 1780 (CANH TÝ)

        Trong năm

 669. Hiệu sinh Dương Viết Tu được tôn làm Hậu thần thôn Sơn Linh

Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Hưng 41 dựng tại thôn Sơn Linh, xã Úc Sơn, tổng La Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc thị trấn Úc Sơn, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi việc Hiệu sinh là người bản thôn đã cúng cho làng 60 quan tiền, 1 mẫu ruộng để chi vào việc công và gửi giỗ tại đình Quan viên, dân làng tôn ông làm Hậu thần.

Nguồn: T12, tập 11, N010652-53.

 670. Dương Bá Đức được tôn là Sinh thần xã Sơn Cốt

Sinh thần bi chí tạo năm Cảnh Hưng 41, dựng tại miếu bản xã, tổng Hoàng Đàm, huyện Phổ Yên, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Đắc Sơn, Phổ Yên – Thái Nguyên) ghi, ông Mậu lâm Tá lang, Tư phủ phủ Trường Khánh Dương Bá Đức là người có hằng tâm. Thấy ngôi Từ vũ sau cơn binh hỏa đổ nát, ông bèn cung tiến hơn 200 cây xoan, l mẫu ruộng tốt, sau lại cúng thêm 30 cây và 3 sào ruộng để tu sửa. Mọi người nhớ ơn bèn bầu là Sinh thần, dựng bia lập đoan ước thờ cúng.

Nguồn: T12, tập 11, N010271-72.

 671. Dương Hữu Nguyên đỗ Sinh đồ

Ông người Cẩm La (nay thuộc thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh)

Nguồn: K7, tr.321.

        NĂM 1781 (TÂN SỬU)

        Tháng 10 (tháng Chín – Tân Sửu)

 672. Các bà họ Dương được tôn Hậu phật xã Mộ Chu

Hậu phật bi ý tạo năm Cảnh Hưng 42, dựng tại chùa bản xã, tổng cùng tên, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc thành phố Việt Trì – Phú Thọ) ghi tên các lão bà Dương Thị Huệ, Dương Thị Cự, Dương Thị Chấn… được quan viên, hương lão tôn làm Hậu phật sau khi góp tiền tôn tạo nhà chùa.

Nguồn: T12, tập 14, N013896.

        NĂM 1782 (NHÂM DẦN)

        Ngày 11 tháng 3 (28 tháng Giêng – Nhâm Dần)

 673. Dân thôn Bảo Tháp khắc lại bia ghi danh Thiền sư Dương Giáo Hải

Hoa Sơn tự bi/ Tín thí tạo năm Cảnh Hưng 42 tại chùa bản thôn, xã Chi Đông, tổng Da Thượng, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là thị trấn Chi Đông, Mê Linh, – Hà Nội) ghi, núi Kim Hoa là một danh thắng ghi dấu Xích Tùng Tử ngày xưa từng tới du ngoạn. Chùa ở núi này đã được nhiều bậc thiền sư nổi tiếng như Dương Giáo Hải, Nguyễn Không Lộ, Từ Đạo Hạnh, Đặng Tấn Mại, Ngô Khuông Việt tu hành và đắc đạo. Hàng năm vào ngày 14 tháng Hai tổ chức lễ cầu phúc, các nhà sư nước Phật tới Cầu Ván xã Đông Cao hành lễ để được mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt. Nhưng hiềm vì qui mô chùa chưa được tráng lệ nên trước đây Hoằng Quận công đã tiến hành tu bổ mở mang. Đến nay trải lâu ngày chùa bị hư nát. Quan viên và thiện tín bản xã quyên góp tiền của trùng tu lại. Năm Đinh Sửu (1757) hoàn thành việc xây dựng sửa chữa, năm Mậu Dần (1758) tô 11 pho tượng phật. Văn bia cho biết, nội dung kể trên nguyên là văn bia cũ dựng vào năm Diên Thành thứ 2 (1579), do Phủ sinh Ngô Kim Bảng soạn. Sau đợt trùng tu chùa vào năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716), đến năm Canh Tí, Tân Sửu (1780 – 1781) thì bia cũ bị mẻ vỡ. Nay dân xã cho tu sửa khắc lại để lưu truyền lâu dài.

Nguồn: T12, tập 7, N06394-95.

        NĂM 1783 (QUÝ MÃO)

        Ngày 5 tháng 3 (3 tháng Hai – Quý Mão)

 674. Vợ chồng bà Dương Thị Hạp được tôn Hậu phật thôn Du Lâm Ngoại

Bia không tiêu đề, tạo năm Cảnh Hưng 44, dựng tại chùa Nam Bảo bản thôn (nay thuộc xã Mai Lâm, Đông Anh – Hà Nội) ghi việc ông bà đã cúng 19 quan tiền cổ, 4 sào ruộng để trợ giúp việc tu sửa chùa.

Nguồn: T12, tập 3, N02977.

        Tháng 3 (tháng 2 – Quý Mão)

 675. Bà Dương Thị Ả cùng chồng được tôn làm Hậu phật chùa Quất Lưu

Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 44, dựng tại chùa bản xã, tổng cùng tên, huyện Yên Lãng, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Quất Lưu, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi nhận sự việc trên.

Nguồn: T12, tập 16, N015199.

        Tháng 6 (tháng Năm – Quý Mão)

 676. Dương Khuông được phong tước hầu, giữ chức Quyền Phủ sự

Là em cùng mẹ với Dương Thị Ngọc Hoan, vợ của Tĩnh vương, Dương Khuông là người tầm thường không có tài cán gì. Ngày trước là gia thần của Trịnh Tông, Khuông vì ngu ngốc, được khỏi bị vạ lây. Khi Tông lên ngôi chúa, Khuông vì là chỗ họ ngoại thích, nên thình lình được xuất thân làm quan, cai quản cơ Trung úy, cùng với Dương Thái phi ở trong cung làm việc. Các quân đã từng bỉ mặt Khuông mà nói: Hắn ta có tài cán gì, chẳng qua chỉ nhờ phúc ấm quần hồng mà được đến thế! Ví như người nhịn đói đã lâu, thấy cơm vội ăn ngay, rồi cũng đến bục dạ dày mất thôi! Đến đây Dương Khuông với Nguyễn Khản cùng được vào Chính phủ, mọi người đều không phục.

Nguồn: L15, tập 2, tr.265-266; Đ6, tr.451.

        Trong năm

 677. Dương Vịnh thi đậu Hương cống

Ông người xã Bồ Sao, tổng Mộ Chu, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay là xã Bồ Sao, Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc).

Nguồn: K6, tr.283.

 678. Dương Đình Dự, Dương Đình Trung đậu Sinh đồ

Cả hai ông đều là người xã Phượng Dực (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội)

Nguồn: K7, tr.389.

        NĂM 1784 (GIÁP THÌN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Giáp Thìn)

 679. Dương Khuông dẹp loạn kiêu binh

Từ khi Nguyễn Khản, Dương Khuông được thăng chức, việc gì họ cũng mạnh bạo tiến hành, không lo nghĩ gì, kể cả việc tìm cách ức chế kiêu binh. Quân chúng dù giận là nghiêm khắc quá, cũng đều chịu im. Nguyễn Khản, Dương Khuông nghĩ thế là quyền cương đã hơi vững, bảo nhau rằng: – Từ nay về sau có thể cứ thế mà làm

Về phía chư quân, từ khi ủng lập chúa xong rồi, cậy công kiêu ngạo làm càn, ngày ngày tụ họp bàn chính sự, đòi ban ơn. Triều quan ai mà bài bác, thì chúng bèn phá nhà, đánh chết, buộc triều đình phải bàn công phong tước để tỏ sự đền công cho để cho họ mãn nguyện, rồi mới tính đến chuyện huộc vào khuôn phép. Trịnh Tông theo lời bàn cho Nguyễn Bằng làm Suy công Dực vận Công thần xuất thân, phong tước hầu; Quản thị Hậu binh là Viêm Quận công Nguyễn Trọng Viêm trở xuống, đều phong Tuyên lực Công thần, thăng chức xuất thân có cấp bậc khác nhau; đưa 30 người khởi hội làm nhóm Trung nghĩa, thăng thưởng đặc biệt. Các quân thủy bộ trong ngoài đều cho thăng chức một bậc và ban thưởng ngân tiền, nhiều ít có khác nhau và cấp cho mỗi người một đạo sắc lưu không (để trống tên, có thể nhường chức cho người khác lấy tiền). Chư quân nhận thưởng xong, Trịnh Tông yêu cầu mọi người đều phải giữ phép, cùng vui thái bình.

Nhưng bấy giờ trong chư quân vẫn có kẻ cậy công lớn đón Hoàng tự tôn về, tâu xin phong ấn. Vua cho vào điện Vạn Thọ tuyên chỉ úy lạo. Có người chạy đến chúa rằng: – Kiêu binh tụ ở nội điện mưu tôn phù nhà vua lên giữ quyền nhất thống. Chúa lập tức cho triệu Nguyễn Khản, Dương Khuông đến bàn mưu kế. Khản xin cho quân đến bắt, giết đi. Chúa bèn sai Chiêm dẫn quân đến điện bắt bảy kiêu binh để Chúa tra hỏi. Mọi người phần nhiều có ý che đỡ, chỉ có Dương Khuông nói rằng: – Không cần xét hỏi, chỉ là quen tụ họp không chừa, nên chém, còn phải bàn vì. Chúng cậy đông người mà kiêu, không thể một chốc giết hết đi được, chỉ đứa nào phạm tội thì không tha. Ví như một mớ đũa, cứng không bẻ được, bẻ một vài cái một, lâu cũng tự hết. Ngày trước đã chém bốn đứa, bốn đứa ấy chết, chả thấy chúng bắt đền ai! Triều đình bèn chiếu luật xử tội chém bêu đầu.

Nguồn: Đ6, tr.452-453; L5, tập 2, tr.271.

        Tháng 3 (tháng Giêng nhuận – Giáp Thìn)

 680. Ưu binh làm loạn, phá nhà Dương Khuông, Nguyễn Khản

Chư quân và ưu binh Thanh – Nghệ nghe tin 7 lính đồng hương bị giết đều kéo đi vây bắt Nguyễn Khản, Dương Khuông và Chiêm Vũ hầu -người trực tiếp thi hành bản án. Không bắt được ai, binh lính bèn phá sạch dinh cơ của họ, kéo vào phủ Chúa. Dương Thị Ngọc Hoàn phải khóc lóc van xin còn Trịnh Tông ra lệnh bãi chức Dương Khuông, Nguyễn Khản, bắt về làm dân. Được thể đám ưu binh ngày càng càn rỡ, ngạo xược.

Nguồn: Đ6, tr.453; L5, tập 2, tr.273-278.

        Ngày 25 tháng 8 (10 tháng Bẩy – Giáp Thìn)

 681. Bà Dương Thị Điền cùng chồng mua Hậu cho ông bà nội ngoại

Xa Lý bảo tu tạo năm Cảnh Hưng 45, dựng tại chùa Xa Lý – còn gọi là chùua Nam Bảo, thôn Du Lâm Ngoại (Mai Lâm, Đông Anh – Hà Nội) ghi việc trên khi bà Dương Thị Điền, chồng là Ngô Công Nhận cúng vào nhà chùa 6 quan tiền, 4 sào ruộng để mua Hậu cho người thân.

Nguồn: T12, tập 3, N02966.

        NĂM 1785 (ẤT TỴ)

        Ngày 16 tháng 12 (15 tháng Một – Ất Tỵ)

 682. Bà Dương Thị Tòng được tôn làm Hậu phật xã Phương Lan

Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Hưng 46 dựng tại chùa Trí Quả bản xã, tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại (nay là xã Trí Quả, Thuận Thành – Bắc Ninh) ghi việc làng xã bị Công phiên tính nhầm 3 mẫu quan điền trên địa phận xã Văn Lan, nay được quan Phủ trả lại nên phải làm Bạ tịch nhưng xã không có nguồn thu bổ. Trong lúc khó khăn ấy, bà đã cung tiến 180 quan tiền, 1 mẫu 2 sào ruộng cho xã dùng chi cho việc chung. Bà được tôn làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 4, N03616-17.

        Trong năm

 683. Ba anh em họ Dương Phong Phú thi đậu Tạo sĩ

Phong Phú là tên gọi vào thời Nguyễn (thời Lê mang tên Long Phúc, thời Tây Sơn đổi gọi là Long Phúc, nay thuộc xã Thạch Khê, Thạch Hà – Hà Tĩnh), tổng Hạ Nhị, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An. Họ Dương đến đây lập nghiệp từ thế kỷ XV nhưng mãi tới thế kỷ XVIII mới có Dương Phúc Triệu vào năm Cảnh Hưng 10 (1749) được ban Tạo sĩ, sau đó có Dương Thị Ngọc Thịnh, Dương Thị Ngọc Hoan trở thành Vương phi của chúa Trịnh, Dương Khuông là Quốc cựu của vua Lê. Đến năm Cảnh Hưng 46 (1785) có thêm ba anh em Dương Vị, Dương Dẫn, Dương Thiều thi đậu Tạo sĩ.

Nguồn: H4, tr.79, 97.

        NĂM 1786 (ẤT TỴ – BÍNH NGỌ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Ất Tỵ)

 684. Dương Công Trừng bị Thái bảo Phạm Văn Tham bắt giết

Ông người đạo Long Xuyên (nay là tỉnh Cà Mâu), khỏe mạnh hơn người, thời chúa Nguyễn Phúc Thuần được làm Thống binh Cai cơ thăng Khâm sai Điều khiển, địa bàn hoạt động chủ yếu là Gia Định. Sau, cùng Tống Phúc Hòa làm thuộc hạ cho Nguyễn Ánh, lập nhiều công trạng. Mùa đông tháng Mười năm Đinh Dậu (11-1777), sau khi thoát khỏi cuộc truy đuổi của Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh lặn lội đến Long Xuyên, cùng Đỗ Thành Nhơn, Lê Văn Quân nhóm họp các nghĩa dũng ở Ba Giồng – trong đó có cả Dương Công Trừng. Tháng Giêng – Mậu Tuất (2-1778), Nguyễn Ánh bước vào tuổi 16 được tôn làm Đại Nguyên soái.

Tháng Sáu – Kỷ Hợi (7-1779), Dương Công Trừng cùng Đỗ Thành Nhơn được cử đi đánh Chân Lạp, lập công và giữ yên được Trà Vinh. Sau đó, ông cùng Tôn Thất Môn tổ chức phòng ngự tại các đồn Thảo Câu, Giáo Ngư phòng quân Tây Sơn.

Tháng Giêng – Quý Mão (2-1783), Tây Sơn tấn công Gia Định lần thứ 3. Bè hỏa công của quân Nguyễn bị ngược gió nên lại thiêu đốt chính quân mình khiến cho Dương Công Trừng, Tôn Thất Mân bị bắt.

Tháng Chạp – Ất Tỵ (1-1786), ông trốn thoát. Ngay khi trở về, ông được Nguyễn Ánh sai cùng Lê Thượng, Nguyễn Tần đi nắm tình hình và tổ chức lại vùng Long Xuyên. Sử nhà Nguyễn ghi lại sự kiện này như sau:

“Mùa đông, tháng Chạp. Điều khiển Dương Công Trừng đánh giặc ở Long Xuyên. Công Trừng từ khi thua trận Dốc Ngữ, bị Tây Sơn bắt được. Nghe tin vua trú ở thành Vọng Các, nhân lúc hở đem quân sở thuộc và 3 chiếc chiến thuyền dong ra biển, đến Đại Đồng (bờ biển Xiêm La), vừa lúcCai cơ Lê Thượng và Nguyễn Tần cũng vâng mệnh đem 10 chiếc binh thuyền ngầm đến Long Xuyên dò tình hình giặc, bèn cùng nhau hợp quân, nhân đêm đánh úp phá được đồn Tây Sơn ở Long Xuyên, bắt được Binh nhung của giặc là Trực (không rõ họ). Bọn Công Trừng đóng quân ở Ông Do (tên đất), sai Nguyễn Văn Nhân và Tống Văn Khương hiến phù ở hành tại.

Vua (tức Nguyễn Ánh) nói: – Long Xuyên là đất trọng yếu của Gia Định, thế nào giặc cũng giành. Vả Ông Do lại ở mé biển, đường thủy đường bộ đều không tiện cả, nay các tướng lấy cô quân giữ đó, quân giặc chợt đến thì lấy gì mà đối phó? Tức thì sai Văn Nhân kíp báo cho các tướng dời thuyền ra hải đảo để tính sau. Văn Nhân chưa đến thì Thái bảo giặc [tức Tây Sơn] Phạm Văn Tham đã từ Sài Gòn đem quân đi tắt đến đánh úp. Bọn Công Trừng quân ít không giữ nổi. Lê Thượng, Nguyễn Tần đều chết trận. Công Trừng lại bị giặc bắt lần nữa. Tham hỏi: – Mày đã về với chúng ta, chúng ta đãi mày rất hậu, cớ sao mày lại làm phản? Công Trừng mắng rằng: – Ta hàng các người là dối, bỏ các người đi là nghĩa. Chủ ta còn đó, ta không có lý gì lại hàng các người! Muốn giết cứ giết. Không phải hỏi nhiều. Tham liền giết.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.205-224; Đ2, tập 1-2, tr.328-329.

        Tháng 10 (tháng Chín – Bính Ngọ)

 685. Dương Trọng Tế (Trọng Khiêm) lúc theo Trịnh Lệ, khi về Trịnh Bồng

Ngay sau khi tiêu diệt tập đoàn chúa Trịnh, Nguyễn Huệ ra mắt Hoàng đế Lê Hiển Tông, được nhà vua phong làm Nguyên soái Phù chính dực vận Uy Quốc công, ban cho đất Nghệ An và gả Công chúa út Lê Thị Ngọc Hân. Tuy nhiên, chỉ hai hôm sau, ngày 17 tháng Bẩy – Bính Ngọ (10-8-1786), Hoàng đế băng hà. Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ nối ngôi, đổi niên hiệu là Lê Chiêu Thống.

Hay tin, Nguyễn Nhạc tức tốc ra Bắc đưa Nguyễn Huệ trở về Nam khiến cho Bắc Hà rơi vào cảnh hỗn loạn, nhất là khi Trịnh Khải chết, dư đảng là Trịnh Bồng, Trịnh Lệ đánh lẫn nhau để lập lại ngôi chúa.

Lúc bấy giờ Đoan Quận công Trịnh Lệ (con Trịnh Doanh) ẩn ở Gia Lâm, Côn Quận công Trịnh Bồng (con Trịnh Giang) ẩn ở Chương Đức. Ở Như Kinh, họ ngoại là Thì Trung hầu Trương Tuân, Văn thần Dương Trọng Tế đều đem hương binh rước Trịnh Lệ sang sông vào thành, đêm đánh trống làm hiệu, họp các quan phò Trịnh Lệ lên ngôi chúa, nhưng lúc ấy vì vội vàng nên không có ai đến cả. Vua Chiêu Thống nghe tin, cho người trách Trương Tuân, Dương Trọng Tế rằng: – Sao không xin mệnh vua mà tự tiện lập chúa. Trương Tuân chưa biết trả lời thế nào thì Dương Trọng Tế đã sai người xé tờ chiếu của vua và nói rằng: – Ta chẳng thấy triều nào đời nào lập chúa mà vua ngăn trở như thế. Tất là lũ mấy đứa hàng giặc, sợ lập chúa Trịnh, chúa tất hỏi tội, cho nên xui vua. Ta cần gì phải cầu xin, chỉ muốn đem quân đến bắt hết những kẻ xúi giục kia, chỉ để trơ tượng gỗ ra đấy, xem vua có đứng được hay không! Vua nghe nói giận quá. Gặp lúc Trịnh Bồng dâng biểu xin về chầu, lời lẽ rất khiêm tốn, vua xem tờ tấu rất hài lòng, vội ban chỉ nhận cho Trịnh Bồng. Triều thần đều biết việc Trương Tuân, Trọng Tế làm là sai trái, đều bỏ Trịnh Lệ mà kéo cánh theo Trịnh Bồng. Trịnh Bồng đến cầu Nhân Mục, Trương Tuân, Trọng Tế đem quân ngăn trở.

Trước kia hồi còn Tĩnh vương Sâm, Trọng Tề đã tố cáo Trịnh Lệ mưu phản, nay dù ủng hộ Trịnh Lệ nhưng ngầm có lòng phản. Đến đây, Trọng Tế sai gia tướng đón để xin hàng Trịnh Bồng mà Trương Tuân không biết. Lúc Trịnh Bồng sắp đến gần thành, Trương Tuân thấy đi tiền lộ đều là quân của Trịnh Tế, quân của Trọng Tuân bèn chạy tan, đem Trịnh Lệ chạy về phía Bắc. Vua giận Trọng Tế hỗn láo nên phàm những quân của Tế ở cửa Tây thành chưa kịp đi đón Trịnh Bồng, đều sai giết hết đi. Trọng Tế sợ vua không tha, cũng chạy sang Kinh Bắc. Trịnh Bồng vào yết kiến vua. Vua úy lạo bội phần. Bộ hạ của Trịnh Bồng bắt hiếp Trịnh Bồng lưu ở phủ chúa, để dần dần kháng cự vua. Trịnh Bồng nhu nhược không chế ngự được kẻ dưới. Từ đấy vua cùng Trịnh Bồng có hiểm khích.

Nguồn: Đ6, tr.461-462.

        Tháng 12 (tháng Một – Bính Ngọ)

 686. Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi Dương Trọng Tế từ Thanh Hóa chạy về Kinh Bắc

Trước sự bành trướng thế lực của Trịnh Bồng và lực lượng tôn phù sự trở lại của chúa Trịnh do Đinh Tích Nhưỡng cầm đầu, Lê Chiêu Thống phải mật triệu Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra Bắc để bảo vệ.

Lúc này, Trịnh Bồng đã cho Nhuận Trạch hầu Bùi Thì Nhuận làm Quyền phủ sự Bồi tụng, Mai Sĩ Uông làm hành tham tụng, Nguyễn Đình Giản, Dương Trọng Tế làm Bồi tụng. Trịnh Bồng cho gọi Trọng Tế bảo rằng: – Ngươi mới vào thành lấy việc lập chúa làm việc thứ nhất. Dù Đoan Quận [Trịnh Lệ] hỏng việc mà khí thế nhà chúa lại được mạnh là bởi sức ngươi. Nay việc nước rối ren hãy cố gắng ở Chính phủ giúp chúa. Bèn cho Trọng Tế giữ tiền tài thuế khóa. Trọng Tế bảo Trịnh Bồng đem quân vây Hoàng thành, bắt những triều thần nào theo vua đem giết hết đi, bỏ vua ấy, dựng vua khác. Trịnh Bồng nghe lời mật sai Bùi Thì Nhuận đem quân vào cửa Tây, sai đồ đảng của Trọng Tế là Nguyễn Mậu Nễ đêm tiến vào cửa Nam. Lúc bấy giờ Hoàng Phùng Cơ làm Đề lĩnh, nhà ở trong Hoàng thành. Trịnh Bồng mật sai người hẹn Hoàng Phùng Cơ làm nội ứng. Hoàng Phùng Cơ vốn ghét nhân cách của Tế, liền đem quân bản bộ ra ngăn cấm, gặp Nguyễn Mậu Nễ ở cửa thành, ngăn lại, nói rằng: – Mày về ngay nếu không thì tao chém đầu mày. Nễ sợ bèn rút quân về phủ. Thấy vua chúa mưu làm hại nhau, dân tình sợ hãi, từ kinh thành chuyên chở đồ vật, dắt díu nhau về quê, không thể ngăn cấm được. Hoàng Phùng Cơ cũng đem quân bản hộ về giữ Sơn Tây. Trịnh Bồng cùng Bùi Thì Nhuận và mấy người Tham tụng, Bồi tụng mở phủ chúa, đưa văn thư xuống, gọi lấy binh lương nhưng các châu huyện không ai đem đến cả.

Vào thời điểm ấy, Nguyễn Hữu Chỉnh đem đại quân từ Nghệ An ra Bắc. Trịnh Bồng cho Trấn thủ Thanh Hóa là thị nội giám Mãn Trung hầu (không rõ họ tên) làm Tham lĩnh, Đốc đồng Phan Huy Ích làm Đốc thị, triệu mộ những binh lính lưu tán ở Thanh Nghệ và hào mục sở tại, thổ binh để đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Mãn gặp quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở huyện Ngọc Sơn, đánh bị thua, chết tại trận. Phan Huy Ích bị Nguyễn Hữu Chỉnh bắt, nhưng tha cho không giết, rồi thừa thắng đuổi tràn đến Thanh Hóa. Trịnh Bồng cho Dương Trọng Tế làm Trấn thủ Thanh Hoa đem quân đi chống đánh. Quân của Trọng Tề đến chợ Bình Vọng, nghe tin Nguyễn Hữu Chỉnh đã sang sông Thanh Quyết, bèn chạy về Kinh Bắc, xin lĩnh chức Trấn thủ, triệu mộ hào kiệt để mong lại đi đánh giặc.

Nguồn: Đ6, tr.463-464.

        NĂM 1787 (ĐINH MÙI)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Đinh Mùi)

 687. Dương Trọng Tế bị chém tại cửa nhà Thái học

Dương Trọng Tế khởi binh ở Gia Lâm kể tội vua đã đuổi chúa Trịnh và cậy dựa Nguyễn Hữu Chỉnh, đưa hịch đi các huyện lân cận, hẹn cùng dựng lại ngôi chúa. Chỉnh sai tướng là Quang Quận công Hoàng Viết Tuyển, Thái Quận công Triệu Văn Thái đem quân đến đánh. Trọng Tế cùng cháu là Dương Vân đắp lũy ở Lạc Đạo, tính kế tử thủ. Hoàng Viết Tuyển đem quân bốn mặt bắn vào. Quân Trọng Tế đều là đinh tráng, chưa qua chiến trận, bèn chạy tan tác. Dương Vân mang Trọng Tế đang đêm đi trốn, bị người dân ở làng bên cạnh bắt được, đóng cũi giải về Kinh sư. Vua ra chiếu kể tội Trọng Tế phản nghịch, đem chém ở cửa nhà Thái học.

Nguồn: Đ6, tr.466-467.

        Ngày 4 tháng 10 (23 tháng Tám – Đinh Mùi)

 688. Bà Dương Thị Hộ được tôn làm Hậu phật chùa Linh Đa

Hậu phật bi ký tạo năm Chiêu Thống 1, dựng tại chùa xã Sơn Lôi, tổng Sơn Lôi, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay là xã Sơn Lôi, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi việc bà Dương Thị Hộ cung tiến tiền của nên có việc làm kể trên.

Nguồn: T12, tập 16, N015349.

        Trong năm

 689. Các ông Dương Đình Tính, Dương Đình Cầu dự bầu Hậu phật

Hậu phật bi ký tạo năm Chiêu Thống 1, dựng tại chùa xã Hương Câu, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hương Lâm, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi việc các ông Thôn trưởng, Sắc mục kể trên đã vận động và tôn ông Trùm Tư văn kiêm Tri phủ sĩ phạm Viết Phúc cúng cho bản xã 40 quan tiền sử, 2 mẫu 1 sào ruộng tốt, làm Hậu phật.

Nguồn: Đ12, tr.421-422.

        NĂM 1788 (ĐINH MÙI – MẬU THÂN)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Đinh Mùi)

 690. Lê Chiêu Thống chạy lên Yên Thế nương nhờ Dương Đình Tuấn

Tình hình rối loạn ở Bắc Hà và sự chuyên quyền, tham vọng của Nguyễn Hữu Chỉnh đã buộc Nguyễn Huệ phải sớm diệt trừ thế lực của Nguyễn Hữu Chỉnh. Cuối năm 1787, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ cử Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đem quân ra Nghệ An hợp binh với Vũ Văn Nhậm kéo ra Thăng Long tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.

Hay tin, vua Lê Chiêu Thống cùng triểu thần hoang mang cực độ. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng con là Nguyễn Hữu Du phải tập hợp tất cả quân lính ở Thăng Long và các trấn, lo việc chống cự, đem một đội quân được trang bị nhiều hoả pháo đến sông Thanh Quyết (tức sông Đáy, đoạn chảy qua huyện Gia Viễn, Ninh Bình), theo bờ sông đắp lũy để cố thủ. Đang đêm, quân Tây Sơn tấn công, đánh tan đạo quân Nguyễn Hữu Du. Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đến Bình Vọng (Thường Tín – Hà Nội) nhưng phải vội vàng cùng với tàn quân của Nguyễn Hữu Du rút chạy về Thăng Long. Lúc ấy, tình hình Kinh thành vô cùng hỗn loạn, côn đồ thừa dịp nổi lên cướp bóc khắp nơi. Lê Chiêu Thống nghe tin bại trận, liền sang dinh của Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi tin tức, khi trở về cũng bị nhiều kẻ túm áo, sờ nắm hầu bao để cướp tiền bạc, chẳng còn thể thống gì của một vị vua. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng vua Lê và gia thuộc bỏ Kinh thành chạy trốn sang Kinh Bắc.

Nhà vua đến Kinh Bắc. Trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước trước đó, đã bí mặt đầu hàng quân Tây Sơn, đóng cửa thành, cáo bệnh, không ra đón tiếp. Nhà vua và Hữu Chỉnh bối rối vội qua đò sông Nguyệt Đức. Đi theo nhà vua chỉ còn 6, 7 văn thần là các vị Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dữ, Chu Doãn Lệ, Trương Đăng Quỹ và Vũ Trinh mà thôi. Cảnh Thước lại còn tung thủ hạ ra chặn đường, cướp bóc những kẻ đi theo ngự giá, đuổi theo để tước áo bào nhà vua. Nhà vua rớt nước mắt, phải cởi ra, trao áo cho chúng. Khi nhà vua qua huyện Yên Dũng, Tri huyện Nguyễn Thảng tuổi đã 60, đem binh chúng hộ giá, xin giữ sông Xương Giang (sông Thương) làm căn cứ bền vững, lại xin giết Cảnh Thước và giữ lấy Kinh Bắc để toan tính công cuộc khôi phục. Nhà vua khen là hăng hái, phong Thảng làm Lại khoa Cấp sự trung. Liền đó, sai Hoàng đệ Duy Chi đem thị thần Lê Quýnh và tôn thất tất cả hơn 30 người rước Thái hậu và Nguyên tử đi Cao Bằng để nắm quyền thống trị hai trấn Cao Bằng và Thái Nguyên, tụ tập vỗ về các phiên thần thúc đẩy họ cố gắng trổ sức làm việc Cần vương.

Nhà vua tiến đóng Yên Thế. Dương Đình Tuấn, thổ hào Mục Sơn (tổng Mục Sơn, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc, nay là xã Cao Thượng, Tân Yên – Bắc Giang) đem quân và dân đi lạy đón nhà vua ở bên đường. Trước kia, Đình Tuấn là tay hào phú, nổi lên làm trùm sỏ một lộ Lạng Giang; những kẻ trốn tránh đều dựa vào Đình Tuấn và lấy đó làm tổ ẩn núp. Triều đình bỏ qua, không xét hỏi. Đến đây, có chiếu chỉ Cần vương. Đình Tuấn lấy làm cảm kích, vâng mệnh lệnh đến trước để bảo vệ, được nhà vua đặc cách phong là Bình khấu Tướng quân để khen thưởng.

Nguồn: K3, tập Hai, tr.822.

        Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Thân)

 691. Quân Tây Sơn tấn công Yên Thế, Dương Đình Tuấn hộ vệ Lê Chiêu Thống lên vùng núi Bảo Lộc

Nhà vua đóng ở Mục Sơn. Nguyễn Văn Hoà, bộ tướng của Tây Sơn, đuổi kịp. Để cổ võ các tướng sĩ, nhà vua thân chinh cầm quân, ra cự chiến. Nhưng rồi theo lời các bầy tôi can ngăn, nhà vua kìm ngựa đứng ở sau mặt trận, sai Bùi Dương Lịch và Nguyễn Thảng tiến lên trước để đốc chiến. Dương Đình Tuấn giữ ở bên tả núi, Nguyễn Hữu Chỉnh giữ ở bên hữu núi, quân Tây Sơn dàn trận tại cánh đồng ở giữa. Đình Tuấn xuống núi để xung kích. Văn Hoà bí mật chia một toán quân cho đi vòng ra phía sau núi, đánh úp; quân Hữu Chỉnh rối loạn, tự tan vỡ; Đình Tuấn thua chạy, hai con (không rõ tên) của Đình Tuấn đều chết ở trận. Hữu Du cố sức chiến đấu, giết được hơn mươi người rồi chết tại trận, Thị sư Nguyễn Khuê cũng chết ở trong vòng loạn quân. Hữu Chỉnh thua chạy, bị quân Tây Sơn bắt được vì ngựa què. Đình Tuấn thu lượm các quân còn sót lai, hộ vệ nhà vua chạy đi sơn trại Bảo Lộc (phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc). Các bầy tôi khác đều tan tác, không biết nhà vua ở đâu.

Văn Hoà điệu Hữu Chỉnh về Thăãng Long. Văn Nhậm kể tội Hữu Chỉnh là kẻ bất trung, sai xé xác Hữu Chỉnh ở cửa thành để rao cho mọi người biết.

Nguồn: K3, tập Hai, tr.823-824.

        Cuối tháng Hai (cuối tháng Giêng – Mậu Thân)

 692. Lê Chiêu Thống rời bỏ Dương Đình Tuấn, về quê Trần Danh Án

Nhà vua từ sau trận thua ở Mục Sơn, lẩn quất đóng ở sơn trại Bảo Lộc. Dương Đình Tuấn đem binh chúng đi theo hộ giá, lại lùa dân phu Yên Dũng giữ sông Nguyệt Ðức (sông Cầu). Vũ Văn Nhậm tiến quân đi đánh và phá tan được, bắt được em Đình Tuấn, là Dương Đình Lung, nhưng không giết, sai đem thư đi chiêu dụ Đình Tuấn: – Tự hoàng là do nhà ta lập lên, nay bị Hữu Chỉnh đem đị cùng chạy. Tự hoàng bèn sinh lòng ngờ vực mê man mà không biết quay lại. Nếu bây giờ Tự hoàng biết ăn năn, quay lại trước, thì còn có thể chừa lại lối cũ; bằng chẳng thế, ta sẽ kiếm một người khác làm Giám quốc, đứng chủ việc thờ cúng, thì Tự hoàng không còn có ngày quay xa giá về được nữa và các người cũng sẽ như cây rừng mắc vạ lây đấy! Văn Nhậm lại trách cứ Đình Tuấn phải dem nhà vua nộp cho mình.

Biết được việc này, nhà vua sợ Đình Tuấn nhị tâm, bèn sai Phạm Đình Dữ và Trương Đăng Quỹ ai nấy trở về quê mình chiêu mộ binh lính còn nhà vua thì cùng Nguyễn Đình Giản lẻn đi huyện Gia Định (nay là Gia Bình – Bắc Ninh). Bây giờ chỉ có Nội hàn viện là Vũ Trinh, Ngô Chí và Trần Danh Án mấy người đi theo ngự giá mà thôi.

Nguồn: K3, tập Hai, tr.827.

        Tháng 12 (tháng Một – Mậu Thân)

 693. Phò mã Dương Bành bị quy tội chết

Phò mã quê xã Phong Phú, tổng Hạ Nhị, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay là xã Thạch Khê, Thạch Hà – Hà tĩnh) bị luận tội vì đưa quân Tây Sơn đuổi theo bức bách ngự giá của nhà vua. Ngoài ra còn có Trấn thủ Tuyên Quang Phạm Như Tuy vì tội đầu hàng và bắt Hoàng đế Lê Duy Trù để Tây Sơn bức hại.

Nguồn: K3, tập Hai, tr.842.

        Trong năm

 694. Hương lão Dương Đăng Đạt tham gia bầu Hậu thàn thôn Chấp Pháp

Hậu thần bi ký tạo năm Chiêu Thống 2, dựng tại đình bản thôn, xã Lương Phong, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Lương Phong, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi việc Trần quý công tự Pháp Chính cùng vợ và bà hiệu Từ Nương cúng cho xã nhiều tiền ruộng. Các Hương lão trong thôn đã thuận tình tôn 3 vị làm Hậu thần.

Nguồn: Đ12, tr.430.

        NĂM 1792 (NHÂM TÝ)

        Tháng 9 (tháng Tám – Nhâm Tý)

695. Tổng trưởng Dương Đức Mậu soạn văn bia cho xã Cát Khê

Tổng trưởng người xã La Đôi, tổng La Đôi, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là xã Hợp Tiến, Nam Sách – Hải Dương). Văn bia Hậu thần bi ký do ông soạn, tạo năm Quang Trung 5, dựng tại đình xã Cát Khê cùng tổng (nay thuộc xã Hiệp Cát, Nam Sách – Hải Dương) ghi việc:

1/ Các ông Trần Xuân Mậu, ông Trần Danh Thành, Trần Danh Thiệu, ông Trần Danh Tri đã cúng cho xã 25 quan tiền sử, 1 mẫu ruộng. Quan viên, hương lão và dân xã tôn bầu cha ông họ là ông họ Trần hiệu là Nhu Hậu làm Hậu thần. 2/ Bà họ Trần hiệu Từ Hạnh cúng 1 mẫu ruộng. Quan viên, hương lão và dân xã tôn bầu bà làm Hậu thần. Ngoài ra, bia còn ghi ngày giỗ của các Hậu thần và thể lệ cúng tế từng người; vào các lễ cầu phúc, xướng ca hàng năm bản xã đều ghi tên Hậu thần vào sau tế văn để họ được phối hưởng và biếu Hậu thần 1 cỗ thần huệ cũng như vị trí và diện tích các thửa ruộng cúng.

Nguồn: T12, tập 13, N012778-79.

        Trong năm

 696. Dương Công Đoan, Dương Khuyết Bật đậu Sinh đồ

Dương Công Đoan người Cẩm La (thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh); Dương Khuyết bật người xã Yên Viên (Vân Hà, Việt Yên – Bắc Giang).

Nguồn: K7, tr.321, 563.

        NĂM 1793 (QUÝ SỬU)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Quý Sửu)

 697. Ông Dương Quốc Mạch được tôn Hậu thần xã Lương Đài

Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Thịnh 1, dựng tại đình bản xã, tổng Mộ Chu, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Việt Xuân, Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc) ghi lại sự việc trên.

Nguồn: T12, tập 13, N013811

        NĂM 1794 (QUÝ SỬU – GIÁP DẦN)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Quý Sửu)

 698. Các ông Dương Đồng Trực, Dương Đồng Trì được ghi danh vào bia Hậu hiền xã Huề Trì

Bia không tiêu đề, tạo năm Cảnh Thịnh 1, dựng tại miếu bản xã, tổng Cổ Tân, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc xã An Phụ, Kinh Môn – Hải Dương) ghi rằng, võ miếu xã Huề Trì vốn đã có nhưng việc thờ cúng còn sơ sài, nay nhân cuộc sống đã khá giả dần, bèn vời thợ về làm chiếc bàn thờ bằng đá. Công việc hoàn thành, dựng bia đá thuật lại sự việc, ghi họ và tên các vị Hậu hiền, trong đó có phần danh sách các vị được ghi bổ sung vào năm Ất Hợi. Lại ghi rõ lệ định của Hội Tư võ bản tổng như sau: người nào được bầu làm hội viên phải tiến cúng vào Hội 2 quan tiền cổ, 1 mâm xôi, 1 con gà, 1 chai rượu và 1 tráp trầu cau.

Nguồn: T12, tập 13, N012042-43.

        NĂM 1795 (ẤT MÃO)

        Tháng 12 (tháng Một – Ất Mão)

 699. Nho sinh Dương Hạo viết chữ bia Văn chỉ xã Chương Dương

Đạo học lưu hương tạo năm Cảnh Thịnh 3, dựng tại Văn chỉ bản xã, tổng cùng tên, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là xã Chương Dương, Thường Tín – Hà Nội) ghi việc Hội tư văn xây Văn chỉ để thờ các vị Tiên hiền và ghi tên, chức tước các vị Khâm sai Giám đốc Kinh Bắc đạo chính Nguyễn Dương Hanh, Tú tài khoa Tân Tỵ Đào Duy Truy, Tú tài khoa Ất Dậu Nguyễn Trọng Hoằng v.v., tên những người trong Hội tư văn đã đóng góp để xây văn chỉ. Đồng thời Đạo học lưu hương cũng nhấn mạnh rằng Chương Dương xưa là đất văn vật. Từ khi có khoa mục đến nay đã có nhiều người đỗ đạt, việc học hành luôn được mở mang. Văn từ xưa gồm 3 gian ở bãi Tự Nhiên châu, gặp lũ lụt bị hư hỏng. Nay hội tư văn xã hưng công tu sửa, mở rộng thành 5 gian lợp ngói xây gạch. Bia ghi họ tên, chức tước các vị tham gia trùng tu. Đoạn cuối khắc bổ sung vào thời Nguyễn, ghi danh sách các vị đỗ Cứ nhân và Tú tài.

Nguồn: T12, tập 8, N07759.

        NĂM 1797 (BÍNH THÌN – ĐINH TỴ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Bính Thìn)

 700. Dương Tuấn Ngạn, Dương Tuấn Mại tạo bia Hậu thần thôn Đức Cung

Bia không tiêu đề, do Điển thư, Nguyên Lĩnh hầu Dương Tuấn Ngạn soạn văn, Dương Tuấn Mại viết chữ, tạo năm Cảnh Thịnh 4, dựng tại đình bản xã, tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Cao Minh, thành phố Phúc Yên – Vĩnh Phúc) ghi việc ông Dương Bật Hải, người thôn Đức Cung bản xã là người có đức hạnh, các con xuất 114 quan tiền cổ, 2 mẫu 2 sào ruộng để xã chi dùng việc công. Dân thôn tôn ông là Hậu thần.

Nguồn: T12, tập 7, N06656-59.

        NĂM 1797 (ĐINH TỴ)

        Tháng 6 (tháng Năm – Đinh Tỵ)

 701. Các tướng họ Dương nhà Tây Sơn bị bắt ở Đại Chiêm

Vấp phải sự phòng ngự kiên cố ở thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh thân đem hơn 100 chiến thuyền tiến ra cửa biển Đà Nẵng, gây cho quân Tây Sơn nhiều thiệt hại. Ngay sau đó lại sai Võ Tánh dẫn quân tấn công vào Đại Chiêm, giao chiến với Đô đốc Nguyễn Văn Ngữ, bắt sống các tướng Dương Khả Đại, Dương Long Phát, thu hơn 30 thuyền chiến.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.353.

        Trong năm

 702. Xã trưởng Dương Viết Quý hưng công tu tạo đình Cẩm Đới

Hậu thần bi ký tạo năm Cảnh Thịnh 5, dựng tại đình bản thôn, xã Chu Điện, tổng Chu Điện, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc thị trấn Đồi Ngô, Lục Nam – Bắc Giang) ghi rằng, địa phương có ngôi đình cần được sửa chữa. Xã trưởng Dương Viết Quý vừa công đức, vừa vận động được nhiều người đóng góp – trong đó có bà họ Thân xuất tới 300 quan tiền, 3 mẫu ruộng.

Nguồn: Đ12, tr.513.

        NĂM 1798 (MẬU NGỌ)

        Tháng 3 (tháng Hai – Mậu Ngọ)

703. Nho sinh Dương Hạo soạn văn bia chùa Vạn Thư

Khánh Thiện bi/ Vạn Thư quán tự được tạo năm Cảnh Thịnh 6, dựng tại chùa xã Thư Dương, tổng Chương Dương, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là xã Thư Phú, Thường Tín – Hà Nội) ghi rằng, chùa cũ của xã Thư Dương vốn nằm ở nơi hẻo lánh chật hẹp. Nay dân xã chọn khu đất mới thoáng rộng, ở bên cạnh toà miếu, sát ven sông nhìn ra bãi cát để xây ngôi chùa nới gồm 3 dãy bên trong, có cổng Tam quan bên ngoài. Bia ghi danh sách các vị hưng công hội chủ và các thiện tín đóng góp công đức vào việc xây dựng chùa.

Nguồn: T12, tập 8, N07762-63.

        Ngày 4 tháng 10 (25 tháng Tám – Mậu Ngọ)

 704. Dương Học Nho soạn các văn bia Hậu phật chùa xã Hoành Cảo

Hậu phật bi ký tạo năm Cảnh Thịnh 6, dựng tại chùa Mã Vàng, xã Hoành Cảo, tổng Cảo Thượng, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Ngọc Tảo, Phúc Thọ – Hà Nội). Bia thứ nhất ghi rằng: dân xã tu sửa chùa Mã Vàng, đúc tượng Phật, xây tường bao… chi phí tốn kém. Nay vợ chồng ông Nguyễn Đình Diên cúng cho xã 48 quan để xã trả tiền công thợ và 1 mẫu 2 sào ruộng để xin cho bố mẹ vợ được làm Hậu phật. Dân xã ưng thuận, hứa hàng năm cúng giỗ theo quy định. Mặt trước là bài vị hai Hậu phật. Văn bia thứ hai mang tên Hậu phật bi ký như trên ghi xã tu sửa chùa Mã Vàng cần nhiều tiền chi phí, cựu xã trưởng Nguyễn Đình Quế và vợ đã cúng cho xã 1 mẫu 2 sào ruộng và 50 quan tiền được dân xã bầu làm hậu Phật, hàng năm cúng giỗ theo quy định.

Nguồn: T12, tập 7, N06878-81.

        Trong năm

 705. Người họ Dương thi đậu Hương cống

Đó là Dương Thúc Hinh, Dương Thúc Liêm, Dương Đình Vinh – người xã Lạc Thổ, tổng Lạc Thổ, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc thị trấn Hồ, Thuận Thành – Bắc Ninh).

Nguồn: K6, tr.331-332.

        NĂM 1800 (CANH THÂN)

        Trong năm

706. Án sát sứ Thái Nguyên Dương Như Vận đúc chuông dâng chùa quê mẹ, quê cha

Ông người xã Thượng Đình, tổng Thượng Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay là xã Thượng Đình, Phú Bình – Thái Nguyên) hàm tước được ghi là Án trấn Dực vận Trung Nghĩa hầu, Án sát sứ Thái Nguyên. Vào năm Cảnh Thịnh 8, ông thuê phường đúc tạo 2 chuông lớn để công đức chùa Quan Tràng (quê mẹ) và Thượng Đình (quê cha).

Nguồn: T9, 2009, tr.1075-1081.

        NĂM 1802 (NHÂM TUẤT)

        Ngày 15 tháng 7 (16 tháng Sáu – Nhâm Tuất)

 707. Thống binh Thủy quân Tây Sơn Dương Thất Nguyên bị bắt ở vùng biển Sơn Nam

Ngày 1 tháng Năm – Nhâm Tuất (31-5-1802), Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long. Sau khi cử Trịnh Hoài Đức dẫn đầu Sứ bộ đầu tiên của nhà Nguyễn sang nhà Thanh, Gia Long tiếp tục cử đại binh tiến đánh Bắc Hà và tiến hành cuộc Ngự giá Bắc tuần đầu tiên kể từ khi Nguyễn Hoàng làm cuộc Nam tiến. Cuộc hành trình diễn ra như sau:

“Tháng Sáu, ngày Canh Tý (1 tháng Sáu, tức 30-6-1802), ngự trú tất tại dinh Hà Trung.

Thủy binh ta vào cửa biển Hội Thống đánh phá Đổng lý Tây Sơn là Nguyễn Văn Thận, bộ binh đến Nghệ An, bắt được con của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Lân, thừa thắng đi thẳng đến đồn Tiền Lý (thuộc phủ Diễn Châu), Đô đốc Ý đem quân ra hàng; cả tỉnh Nghệ An không còn kẻ nào kháng cự vương sư.

Ngày Quý Mão, (4 tháng Sáu, tức 3-7-1802) trú tất ở trấn Nghệ An. Thiếu úy Tây Sơn là Đặng Văn Đằng, Ðô đốc Đào Văn Hồ đem 7 con voi đến hàng ở Hành tại. Quân tiền đạo tiến ra lấy Thanh Hóa, bắt được con Nguyễn Văn Huệ là Đốc trấn Nguyễn Quang Bàn, Đổng lý Nguyễn Văn Thận và quân sĩ. Phó đô thống chế Võ Doãn Văn lại bắt được Trần Quang Diệu ở Thượng đạo Nghệ An.

Ngày Canh Tuất (11 tháng Sáu, tức10-7-1802), Ngự giá từ tỉnh Nghệ An ra đi, sai Đặng Trần Thường ở lại giữ đó. Đánh thuế đinh, thuế điền, thuế cửa biển, thuế đò và thuế sản vật, để cấp quân lương.

Ngày Quý Sửu, (14 tháng Sáu, tức 13-7-1802) Ngự giá đến Thanh Hóa, xem hình thế núi sông, đòi mấy người hương lão làng Bố Vệ hỏi việc miếu nhà Lê; tôn tộc nhà Lê đem trầu rượu ra bái tạ, Ngài ủy dụ rồi cho lui.

Người xã Ngọ Xá (thuộc huyện Nông Cống) là Phạm Ngọc Phát, Phạm Ngọc Thúy bắt Võ Văn Dũng và ba người bộ hạ, giải đến Hành tại, Ngài truyền đóng xiềng nghiêm giam.

Khoan binh, điệu, tô thuế cho tỉnh Thanh. Dụ rằng: – Thanh Hóa là chỗ Thang Mộc Ấp, phải nên phủ dưỡng nơi căn bản trước, vậy chuẩn khoan thuế cho dân.

Ngày Bính Thìn, (16 tháng Sáu, tức 15-7-1802) Ngự giá đến Thanh Hóa ngoại trấn (nay là Ninh Bình), phát tiền kho cho quân lính; rồi sai Phạm Văn Nhơn ở lại giữ đó. Thủy binh tiến ra Sơn Nam Hạ. Các Thống binh Thủy quân Tây Sơn là Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng đổ bộ tiến đánh quân Nguyễn nhưng bị lực lượng thủy binh nhà Nguyễn do Nguyễn Văn Trương chỉ huy vây bọc giáp đánh, bắt sống cả hai Thống binh”.

Nguồn: Q3, tr.58; Đ8, tập Một, tr.500.

        Ngày 21 tháng 7 (22 tháng Sáu – Nhâm Tuất)

 708. Hoàng đế Gia Long cho Dương Công Tòng làm Tham hiệp trấn Kinh Bắc

Ngày Canh Thân (21 tháng Sáu – Nhâm Tuất), Ngự giá Gia Long đến Thăng Long. Ngay ngày hôm, nhà vua cho bố cáo trong ngoài Bắc Hà đã đại định, xuống Chiếu dụ các hào mục Bắc Hà rằng: – Mới đây Tây Sơn gây biến, ngôi nhà Lê bị mất rồi. Bọn các ngươi ôm lòng trung căm giận đã lâu, chẳng chịu để giặc sai khiến. Nhiều người trốn lánh, nhóm họp ở núi rừng chưa biết về đâu. Nay bọn giặc đã trừ, phong tục văn chương cùng một mối. Người trí giả biết cơ, đừng nên chần chờ trông ngóng. Vậy đặc dụ rằng, phàm ai bị can phạm trước kia đều không xét hỏi, đều cho giải tán nghĩa binh, đem nộp khí giới, do địa phương sở tại làm biểu báo lên, trẫm sẽ tùy tài lục dụng. Các ngươi đều nên xét kỹ sự cơ, đừng để ăn năn về sau.

Bàn sai các quan văn võ, chia trị các trấn Bắc Thành. Mỗi trấn đặt một Trấn thủ, dùng chức Thống chế, Chưởng cơ, Cai cơ cho làm và một Hiệp trấn, một Tham trấn, dùng chức Thiêm sự, Tham quân, Hàn lâm, Thị thư cho làm. Dương Công Tòng được làm Tham hiệp trấn Kinh Bắc trong hoàn cảnh đó.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.504.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Nhâm Tuất)

 709. Binh sĩ họ Dương chết trận đưa vào miếu thờ Bình Định, Phú Yên

Hoàng đế Gia Long ban Chiếu rằng: – Khoảng các năm Kỷ Mùi, Canh thân (1799, 1800) trải bao năm dụng binh, các tướng sĩ theo Trẫm ở Phú Yên và Bình Định, hoặc có kẻ giữ cô thành mà chết vì tiết nghĩa, hoặc có người ra trận đánh mạnh mà bỏ mình, một lòng nghĩa khí có thể đối với thần minh, trong buổi vội vàng chưa kịp nêu thưởng. Nay vỗ công đã định, bốn biền lặng trong, sự sùng bái là việc rất nên làm trước hết. Vậy hạ lệnh cho hai dinh lập miếu đề thờ…

Rồi hạ lệnh cho Bình Định và Phú Yên dựng miếu công thần.

Trong số hàng ngàn người được ghi danh có Dương Văn Lộc, Dương Công Bảo, Dương Văn Ý, Dương Lượng.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.510-515.

        NĂM 1804 (GIÁP TÝ)

        Ngày 11 tháng 5 (8 tháng Ba – Giáp Tý)

 710. Dương Đình Cúc – Phiên thần trấn Thái Nguyên đánh phá biên giới

Có tài liệu ghi là Ma Danh Cúc, người Mỏ Son, xã Huống Thượng, tổng Huống Thượng, huyện Đồng Hỷ, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc thành phố Thái Nguyên), rất giỏi trong việc dựa vào địa thế đường rừng hiểm trở, khe suối quanh co để luyện tập binh dõng, tổ chức cày cấy, tích trữ thóc lúa, đặt dấu kho tàng trong động Bắc Càn.

Tự xưng là Quận công nhưng Dương Đình Cúc lại liên kết với người ở Tây Lĩnh có tên là Phương – người từng được Hoàng đế Gia Long sắc phong Chấn uy Tướng quân, Án sát sứ Sơn Tây, luôn mang bên mình sắc phục thời Lê, đội nón lá, mặc áo thâm cùng Chỉ huy Vân, Đô đốc Mạnh chiếm lĩnh các huyện Hữu Lũng, Bảo Lộc thuộc trấn Kinh Bắc.

Để đối phó, triều đình đã sai Trấn thủ Kinh Bắc đem quân đóng ở đồn Mục Sơn (Yên Thế) rồi cho quan quân Bắc Thành tiến lên Thái Nguyên, tập kích sau lưng, bắt được vợ và con Dương Đình Cúc. Triều đình cho người đến dụ hàng, viên thủ lĩnh này nói: – Triều đình có ngàn vạn binh mã, ta có ngàn vạn núi khe. Đợi ta quyết chiến một trận, so tài thắng thua, nếu thất bại ta sẽ đầu hàng. Nay ta tạm thời tha cho sứ giả triều đình nhưng nếu còn tới đây ta sẽ chém đầu.

Nguồn: Q2, tr.115-116.

        Tháng 6 (tháng Năm – Giáp Tý)

 711. Hương cống Dương Vịnh làm Trợ giáo trấn Sơn Nam Thượng

Ông người xã Bồ Sao – Bạch Hạc (nay thuộc Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc), đậu Hương cống trường Sơn Tây khoa Quý Mão, năm Cảnh Hưng 44 (1786). Sở dĩ có mệnh này vì trước đó các trấn đã có chức Đốc học nhưng quan Bắc Thành xin đặt thêm chức Trợ giáo, triều đình cho phép tìm thêm trong các Hương cống đời Lê cho làm.

Một thời gian sau, ông được làm Đốc học Sơn Nam Thượng. Tháng 1-1819, do ốm đau, ông nghỉ việc, triều đình lấy Tri huyện Nghĩa Hưng Nguyễn Mậu Bách làm thay.

Nguồn: Đ8, tập Một , tr.600 979.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Giáp Tý)

 712. Lập đền thờ những người theo Nguyễn Ánh sang Vọng Các (Thái Lan) qua đời, chết trận – trong đó có các công thần họ Dương

Nhà vua sai bộ Lễ bàn định nơi thờ các công thần ở đền Hiển trung tại Gia Định, gồm 1.015 người. Các công thần họ Dương có tên là Dương Công Tú, Dương Công Bảo, Dương Đông, Dương Diệu, Dương Bá Quy, Dương Quế (thờ ở gian hữu nhị), Dương Thiêm (thờ ở gian trái bên tả), Dương Mỹ (thờ ở gian trái bên hữu). Những người này đều là Chưởng cơ, Thống binh, Cai cơ, Cai đội, Phó đội.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.607-611.

        NĂM 1806 (BÍNH DẦN)

        Trong năm

 713. Dương Đình Tú nổi dậy ở Thái Nguyên

Triều đình cử Tù trưởng Ma Thế Trạch, người xã Quan Lang (huyện Để Định – trấn Tuyên Quang) mang binh dõng đi đánh dẹp.

Nguồn: B3, tr.9-11.

        NĂM 1807 (ĐINH MÃO)

        Ngày 30 tháng 10 (1 tháng Mười – Đinh Mão)

 714. Sĩ tử họ Dương thi đậu Hương cống khoa đầu dưới thời Nguyễn

Tháng 3-1807, triều đình bắt đầu chú tâm đến việc cử nghiệp chọn nhân tài, định phép thi Hương và thi Hội. Chiếu rằng: – Nhà nước cầu nhân tài, tất do đường khoa mục. Tiên triều ta chế độ khoa cử dồi đào cũng có cử hành. Từ khi Tây Sơn nổi loạn, phép cũ hủy bỏ, sĩ khí vì đó mà bế tắc. Nay thiên hạ cả định, Nam Bắc một nhà, cầu hiền chính là việc cần kíp. Đã từng xuống sắc bàn định phép thi: kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa, kỳ đệ nhị thi chiếu, chế, biểu: kỳ đệ tam thi thơ, phú; kỳ đệ tứ thi văn sách. Lấy tháng Mười năm nay mở khoa thi Hương, sang năm Mậu Thìn mở khoa thi Hội. Bọn học trò các ngươi đều nên dùi mài việc học, để đáp lại cái ơn tôn chuộng nghề văn.

Sau vì thấy mới bắt đầu bình định, văn học còn ít, nên đình việc thi Hội.

Tháng 5-1807, quan Bắc Thành tâu nói: – Ở Bắc Hà từ sau loạn lạc kẻ đi học tự học lấy ở nhà, hết thảy đếu tập theo lề lối đời Lê cũ. Gần đây đã ban bố học quy, nhưng học tập ngày một kém. Nếu nhất luật theo đó mà lấy thì sợ kẻ thực học cùng người sơ học không lấy gì mà phân biệt nhau. Xin châm chước văn thể cũ của nhà Lê, đừng quá câu nệ so đo thì ngõ hầu những người vốn chăm nghiệp học mới được phấn tấn, mà những kẻ vô tài không thể cầu may.

Chiếu trả lời rằng: – Mở khoa thi lấy học trò là chính sách lớn của triều đình. Sửa định văn thể cần có thể thức sẵn. Năm trước ban bố học quy, việc đã nhất định. Gần đây học quan đôn đốc, học trò giảng tập, không phải không lâu rồi, gián hoặc có kẻ tập mà không suy xét, đó là tại người dạy và người học bất lực mà thôi. Nay nếu cứ uốn theo lời người nói thì chính thể còn ra thế nào? Vậy hạ lệnh cho các học quan lưu ý dạy bảo cho kịp kỳ thi. Tất cả đều theo từng kỳ ra bảng, trúng kỳ trước mới được vào thi kỳ sau. Người trúng Tam trường là Sinh đồ, trúng Tứ trường là Hương cống, được ban mũ áo và đãi ăn yến. Từ khoa này trở đi cứ đến năm Mão, năm Dậu thì tổ chức thi (Kể từ đây cho đến khoa năm Ất Dậu (1825) người trúng Tứ trường đều gọi là Hương cống theo như lệ nhà Lê cũ, từ khoa năm Mậu Tý Minh Mạng (1828) về sau đổi gọi là Cử nhân).

Tháng 5 năm Gia Long thứ 11 (1812) định lệ là học trò thi trúng Nhị trường được miễn đi lính, đi phu trong 3 năm; thi trúng Nhất trường được miễn l năm.

Mùa đông, tháng Mười ngày mồng 1.

Bắt đầu mở khoa thi Hương từ Nghệ An trở ra Bắc. Sai Tham trị Lễ bộ Nguyễn Gia Cát sung Đề điệu trường Nghệ An; Hiệp trấn Hưng Hóa Nguyễn Đình Tứ sung Giám thí, Tham tri Hình bộ Nguyễn Hoài Quỳnh sung Đề điệu trường Thanh Hoa, Đốc học Quốc tử giám Hồ Công Diệu sung Giám thí, Tham tri Lại bộ Phạm Đăng Hưng sung Đề điệu trường Kinh Bắc; Trị trung học sĩ Phạm Thích sung Giám thí, Tham trị Binh bộ Nguyễn Quang Diệu sung Đề điệu trường Sơn Tây; Thị trung học sĩ Võ Trinh sung Giám thí, Tham tri Lễ bộ Lê Chính Lệ sung Đề điệu trường Sơn Nam thượng; Hiệp trấn Lạng Sơn Lê Duy Đản sung Giám thí; Tham tri Công bộ Nguyễn Khắc Thiệu sung Đề điệu; Phó đốc học Quốc tử giám Nguyễn Viết Ưng sung Giám thí trường Hải Dương. Lấy đỗ Hương cống tất cả 62 người – trong đó Sĩ tử họ Dương thi đậu tại trường Nghệ An có Dương Doãn Nguyên, người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An); trường Sơn Tây có Dương Huy Kiều, người Cảo Đỉnh (Bắc Từ Liêm – Hà Nội); trường Sơn Nam có Dương Duy Hinh, người Phú Thị (Gia Lâm – Hà Nội).

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.691, 699, 711-712; Q4, tr.92-98; T28, tr.214.

        NĂM 1809 (KỶ TỴ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Tỵ)

 715. Binh sĩ họ Dương Thái Nguyên được khen thưởng, thăng cấp

Theo đề nghị của quan Bắc Thành tâu xin, vua Gia Long chấp thuận danh sách một số Cai đội, Cai tổng, Phó tổng ở Sơn Nam Hạ và Thái Nguyên có công trong việc dẹp loạn. Trong số này có Dương Đình Trương được nhận 80 quan tiền, Dương Như Đình từ Phó trưởng chi chi Hùng kiến trấn Thái Nguyên làm Chánh trưởng chi.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.744, 747.

        NĂM 1810 (KỶ TỴ – CANH NGỌ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Kỷ Tỵ)

 716. Phó sứ Dương Văn Châu sang Xiêm La (Thái Lan)

Phật vương mới của nước Xiêm La sai bề tôi bọn Phi Nhã Sĩ Xú Ly Giá Ba Ha đến dâng sản vật địa phương vào cáo tang Phật vương trước. Vua thứ hai nước Xiêm mới chịu nhà Thanh phong, cũng đem phẩm vật đến tiến. Khi sứ đến Gia Định, thành thần thấy trong thư nói nhiều chỗ khoa trương cho rằng nhận thư thì làm cho họ kiêu ngạo thêm mà khước từ thì hại tình hòa hảo, bèn làm mật sớ tâu lên. Vua nói: – Người Xiêm không có văn tự, đây đều là lời của người Đường (người Thanh nhiều người làm quan ở nước Xiêm) sính bút thôi, không đủ trách! Sai đưa sứ giả về Kinh, lại phái quân đi Quảng Nam, Bình Định để hộ tiếp. Sứ giả đến vua vời vào vết kiến, hỏi về tình trạng đánh nhau với Diến Điện. Sứ giả đem sư thực nói. Ở vài ngày, hậu đãi rồi cho về. Sai Tống Phước Ngoạn, Pham Cảnh Giảng, Dương Văn Châu, Võ Doãn Thiếp sung làm Chánh, Phó sứ hai sứ bộ sang Xiêm. (Phúng Phật vương trước: đường phổi, đường phèn đều 1.000 cân, đường cát 1.500 cân, sáp ong 500 cân, lụa trắng, vải trắng mỗi thứ 100 tấm; tặng Phật vương mới: kỳ nam 2 cân, nhục quế 3 cân, lụa 100 tấm, the màu 200 tấm, sa màu 100 tấm, vải trắng nhỏ 100 tấm; cho vua thứ hai mới: kỳ nam l cân, nhục quế 1 cân 8 lạng, lụa 50 tấm). Sứ giả về, Xiêm La gửi thư trần tạ.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.771-772.

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Ngọ)

 717. Định thứ vị các Công thần họ Dương

Nhân việc dựng miếu thờ, đặt miếu phu, định lệ tế lễ xuân thu, triều đình đã xác định thứ vị Công thần:

Công thần khai quốc: Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Kính.

Công thần Trung tiết: 114 người – trong đó có Chưởng cơ Dương Văn Hạnh.

Công thần Trung hưng: 258 người – trong đó có Dương Công Bảo,

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.773-779

        Ngày 10 tháng 3 (6 tháng Hai – Canh Ngọ)

 718. Cai đội Dương Văn Quế chết trận tại Thái Nguyên

Khi lực lượng nổi dậy ở Thái Nguyên đem hơn 400 người vào cướp bảo Đường Lang, Cai đội Thủ bảo là Võ Hữu Bích, Dương Văn Quế cùng với quyền sai Thủ hợp là Nguyễn Đắc Thọ, đem lính thổ chống đánh, chém được mấy người. Hữu Bích bị đạn chết. Lực lượng nổi dậy lùa quân vào đồn. Dương Văn Quế, Nguyễn Đắc Thọ và thuộc hạ l5 người đều bị giết. Việc tâu lên, tặng Hữu Bích, Văn Quế làm Chánh hiệu úy, Đắc Thọ làm Thủ hợp, đều chiếu theo phẩm trật cấp tiền tuất. Thuộc hạ thì chiếu theo lệ tuất của binh lính cấp cho người nhà.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.781.

        Tháng 10 (tháng Chín – Canh Ngọ)

 719. Tham luận Dương Văn Châu làm Tham hiệp Hà Tiên

Cùng thời điểm, Lưu thủ Quảng Trị Nguyễn Văn Thiệu được làm Trấn thủ Hà Tiên để củng cố miền biên viễn chưa ổn định, cho lệ bổng lộc hậu hơn nơi khác.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.797.

        NĂM 1811 (TÂN MÙI)

        Ngày 25 tháng 11 (10 tháng Mười – Tân Mùi)

 720. Người họ Dương soạn, khắc văn bia biểu dương công đức Dương thai công với xã Thượng Đình

Hậu thần thạch ký tạo năm Gia Long 10, Dương Nguyễn Lịch người bản xã soạn văn bia, Dương Đình Xuân, người Thanh Trí – Bình Tuyền (nay thuộc xã Minh Phú, Sóc Sơn – Hà Nội) khắc chữ, dựng tại Sinh từ xóm Rô, xã Thượng Đình (nay là xã Thượng Đình, Phú Bình – Thái Nguyên) cho biết, người được thờ là Dương thai công Vũ Uy hầu, sinh năm Kỷ Mão – Cảnh Hưng (1759), dòng dõi Tù trưởng địa phương, từng giữ chức Đô chỉ huy sứ, quản quân ở Đồng Mỗ là thủ phủ trấn Thái Nguyên đã bỏ nhiều tiền của, ruộng đất công đức tu tạo đình, chùa của làng nên được tôn làm Hậu thần, lập đền thờ.

Nguồn: T9, 2009, tr.1075-1081.

        NĂM 1812 (TÂN MÙI – NHÂM THÂN)

        Ngày 27 tháng 1 (14 tháng Chạp – Tân Mùi)

 721. Dương Đình Cúc tấn công thủ phủ trấn Thái Nguyên

Thủ phủ trấn Thái Nguyên đặt tại Đồng Mỗ, tổng Túc Duyên, huyện Đồng Hỷ, phủ Phú Bình (nay thuộc thành phố Thái Nguyên). Trước đây khi mới nổi binh, Đình Cúc đã từ Thái Nguyên tập kích sang Sơn Tây khiến Trấn thủ Sơn Tây phải thu binh, đóng cửa thành bất động, Đình Cúc bèn cải trang làm viên quan phủ được Trấn thủ giao nhiệm vụ đem tù nhân giao cho Sơn Tây nên lấy được trấn thành này, thu phục nhiều của cải.

Từ cuối năm 1810, địa bàn hoạt động chủ yếu của Dương Đình Cúc là Thái Nguyên, nhiều lần bị Trấn thủ Nguyễn Đình Tuyển truy đuổi nhưng không thành. Bị bao vây tứ bề, Đình Cúc giả bộ cho anh là Dương Đình Tự đem ít đồ đảng đến cửa quan xin đầu hàng nên Nguyễn Đình Tuyển ngưng vây bắt, đóng quân ở La Miệt để chiêu dụ. Lợi dụng tình hình ấy, Dương Đình Tụ bỏ trốn, bị giết giữa đường còn Đình Cúc thoát khỏi vòng vây.

Đến đây, Dương Đình Cúc bất ngờ tấn công vào Đồng Mỗ, viên Quản phủ Phú Bình giữ thành đã nhanh chóng hàng phục.

Nguồn: Đ8, tập Một , tr.798-799; Q2, tr.190.

        Tháng 12 (tháng Một – Nhâm Thân)

 722. Hương cống đời Lê Dương Đức Tuy làm Trợ giáo Sơn Nam Thượng

Cùng đợt này còn một số Hương cống đời Lê như Phạm Duy Tự (Trợ giáo Hải Dương), Vũ Huy Cáp (Trợ giáo Sơn Nam Thượng), Phạm Thứ (Trợ giáo Kinh Bắc).

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.851.

        NĂM 1813 (QUÝ DẬU)

        Ngày 7 tháng 11 (15 tháng Mười – Quý Dậu)

 723. Dương Thế Thịnh thi đậu Hương cống

Khoa thi Hương tại trường thi Sơn Nam Thượng do Hiệp trấn Lạng Sơn Lê Duy Đản làm Giám thí, Tham tri bộ Hộ Nguyễn Đình Đức làm Đề điệu, có 28 sĩ tử đậu Hương cống – trong đó có Dương Thế Thịnh, người Ninh Duy, tổng cùng tên, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Khởi Nghĩa, Tiên Lãng – Hải Phòng).

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.867; Q4, tr.107.

        Tháng 11 (tháng Mười – Quý Dậu)

 724. Dương Công Chính được làm Cai đội Đội Thông ngôn

Chân Lạp cho Tham Đích Triệu Bồn Nha và Ốc Nha Thu My dâng biểu đến tạ, xin ban triều phục. Nhà vua giao cho triều thần bàn bạc rồi sai Nội đồ gia chế áo Mãng bào hồng và mũ đai ban cho. Giao Dương Công Chính, Phan Hữu Trí làm Cai đội Đội Thông ngôn để phiên dịch tiếng Phiên.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.8670868.

        NĂM 1814 (GIÁP TUẤT)

        Tháng 3 (tháng Hai – Giáp Tuất)

 725. Dương Tuấn Ngạn soạn văn bia Văn chỉ Bá Hạ

Tư văn bi ký tạo năm Gia Long 13, dựng tại Văn chỉ bản xã, tổng cùng tên, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Bá Hiến, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc). Dương Tuấn Ngạn, Cựu Tri huyện Võ Nhai, người xã Linh Đức (tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, nay thuộc xã Cao Minh, thành phố Phúc Yên – Vĩnh Phúc) viết rằng:

“Thờ Tiên hiền là việc lớn, mà có thể bỏ được chăng? Tổng Bá Hạ ở huyện Bình Tuyền ta trước đây có nhiều người theo Nho học, nối nhau sung trường nhập lớn. Phàm người khoa bảng cùng người đọc sách biết chữ thường chọn nơi yên tĩnh để thiết lập đàn tế Tiên hiền theo lệ cũ. Mùa thu năm Bính Tý (1756), cựu Sinh đồ bản tổng là Dương Như Trác, Dương Thời Nhạ, Dương Bàng Tuyên cùng mọi người trong Hội Tư văn bắt đầu chọn đất để xây đàn, lát gạch hoa tô điểm cho đẹp. Thế là việc tế có nơi chốn, mũ áo đông đủ, đồ cúng thơm tho, xuân thu hàng năm lấy đây bày tỏ kính trọng, toại nguyện là nơi thờ cúng, đạo ta biết tôn trọng, nhân tình đều vui, người có học vấn ưu tú trong tổng, không ai không mừng rỡ hứng khởi ở việc học. Tháng tám mùa thu, mọi người đến tôi xin bài văn để khắc lên bia. Tôi chối từ nhiều lần nhưng không được, mới nói rằng: – Học Thánh hiền cốt ở thân tâm, ngũ tính, ngũ luân có sẵn trong ta, mà suy việc thiện sẽ thấy trong ta. Nay vốn sùng Nho tiên, đang chuộng đạo Thánh hiền để dạy bảo con em trong tổng, lấy lương tri lương năng bổ trợ cho họ, có chí cầu đến việc thiện, khiến họ thành người có đức phong tục, biết lễ nghĩa. Chiêm bái ở đàn nay, ngưỡng mộ bến đạo, chăng lẽ lại không được chăng ? Tôi bèn viết điều này để khắc vào đá”.

Nguồn: T12, tập 16, N015524-25.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Giáp Tuất)

 726. Tham luận Tướng quân Dương Công Trang thăng Tham hiệp Thái Nguyên

Việc thăng chức này là do Tham hiệp Lê Tiến Phúc vừa qua đời.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.885.

        Trong năm

 727. Xã trưởng, Thôn trưởng họ Dương xã Hương Câu lập bia Hậu phật

Hậu phật bi ký tạo năm Gia Long 13, dựng tại chùa bản xã, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hương Lâm, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi việc, nhân có việc vợ chồng ông bà Phạm Phú Trương giao cho dân làng 24 quan tiền, 2 mẫu 1 sào ruộng nên các ông Dương Đình Cẩn, Dương Công Hậu, Dương Hữu Đức cùng một số vị khác đã tiến hành lập bia Hậu phật.

Đồng thời, ông Dương Đình Cẩn lại cùng với quan viên, sắc mục bản xã lập bia Hậu phật thứ hai ghi nhận sự đóng góp của ông Ngô Huy Trạc cùng nhiều người khác cúng 6 thửa ruộng cho làng.

Nguồn: Đ12, tr.422 – 424.

        NĂM 1815 (ẤT HỢI)

        Tháng 3 (tháng Hai – Ất Hợi)

 728. Dương Văn Quán, Dương Thị Vũ góp tiền đúc chuông chùa Trí Quả

Trí/ Quả/ Tự/ Chung tạo năm Gia Long 14 tại chùa Trí Quả ghi rằng:

“Ngày tốt tháng 2 năm Ất Hợi niên hiệu Gia Long 14 [1815]. Các vị quan viên Hương lão xã Phương Quan, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An gồm Hương lão Dương Văn Quán, […] cùng trên dưới lớn bé toàn thôn phụng sự cùng chùa Trí Quả đúc chuông lớn. Nhân đó làm bài văn ghi chép như sau:

Nay bản tự là nơi đất phúc trời nam, nổi tiếng đất Kinh Bắc, điện ngọc cao vợi sánh với chùa Thành Đạo, Phi Tướng, cùng đứng trơ trọi như tùng xanh băng giá với thiền định Diên Ứng mà vẫn tốt tươi. Xưa Thánh Sĩ Vương tạo dựng thành nơi thắng tích của trời nam, Đại thánh thượng đẳng tối linh từ. Chùa xưa cũng có một quả chuông treo trên gác cao, nghe tiếng mà quốc đảo dân cầu đều cảm thông linh ứng. Tiếng vang đó là tiếng chuông bền vững không phải tiếng khánh bình thường, tiếng trống sâu xa vậy. Nhưng từ năm Bính Ngọ (1786) về sau do gặp cảnh binh biến đã bị đốt thành tro. Trải qua hơn 30 năm chưa kịp đúc lại, nay kình nghê xây quán, hồng nhạn trong vườn. Bấy giờ may mà có người trong thôn là quan viên triều trước kiêm Nho sinh hương lão hương trung thủ chi, gia đình truyền nối tích thiện, phát tâm hưng công đúc chuông cùng lớn bé trên dưới trong thôn, mọi người nhất tâm đồng thuận, dự định lấy tiền trong thôn và lệnh cho tiểu tăng, đạo tràng thiện tín người tốt, khuyến cáo thập phương tập hợp của cải của trăm nhà dựng khuôn, mua số đồng lớn. Vào ngày tốt tháng 2 năm Ất Hợi dựng đàn trời đất làm lò âm dương đúc thành chuông quý, mở ra xem xét không bị sứt mẻ, không bị rò rỉ. Tiếng chuông văng vẳng bên tai để cảnh tỉnh quần mê, khởi phát lòng thiền, khua tiếng lớn để chứng thực hòa âm, cảm đến vạn linh, huệ nhãn sáng ngời. Nên đúc chuông này để lại di âm rộng lớn như nước chảy xiết vậy…”.

Trong danh sách hưng công có tên vợ chồng ông Dương Văn Quán, bà Dương Thị Vũ.

Nguồn: T9, 2016, tr.544-546.

        NĂM 1817 (ĐINH SỬU)

        Tháng 3 (tháng Hai – Đinh Sửu)

 729. Họ Dương góp tiền tu tạo giếng đá thôn Đống Cao

Thạch tỉnh bi ký tạo năm Gia Long 16, dựng cạnh giếng bản thôn, xã Quan Đài, tổng Quan Đài, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay thuộc xã Văn Tiến, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi, giếng đá của bản thôn bị hỏng đã lâu nên mọi người rủ nhau đóng góp tu tạo – trong đó có ông Dương Trọng Bảo, Dương Văn Nụy.

Nguồn: T12, tập 15, N014689-90.

        NĂM 1818 (MẬU DẦN)

        Trong năm

 730. Hai bà họ Dương công đức đúc chuông chùa Long Cốt

Long Cốt tự chung tạo năm Gia Long 17, đặt tại chùa xã Thượng Lâm, tổng Lan Mẫu, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Thanh Lâm, Lục Nam – Bắc Giang) ghi việc người trong xã dấy tâm bồ đề, hưng công đúc chuông lớn. Việc hoàn thành, bản xã ghi tên các thiện tín – trong đó có bà Dương Thị Bảy, Dương Thị Chinh cùng hơn 500 người khác để lưu truyền.

Nguồn: Đ12, tr.523.

        NĂM 1819 (KỶ MÃO)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Mão)

 731. Chuyển Hiệp trấn Dương Công Tòng từ Sơn Tây về Sơn Nam Hạ

Do việc Hiệp trấn Nguyễn Quang Huyên qua đời và trấn Sơn Nam Hạ nhiều việc, quân lính và của cải xuất ở đấy, so với nơi khác thì đây quan trọng hơn. Tuy triều thần có cử Kỷ lục Hoàng Văn Diễn, xét thấy người này trong sạch có thừa nhưng tài năng không đủ, sợ không làm nổi vì thế mà đưa Dương Công Tòng từ Sơn Tây về.

Tháng 6-1819, Dương Công Tòng qua đời, Hoàng Văn Diễn về thay.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.981-990.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Kỷ Mão)

 723. Dương Phúc Trung giữ chức Án thủ bảo Hà Trung

Khi ấy, ông đang là Vệ úy Dương võ quân Thần sách, do việc Thuộc nội trưởng Cơ án cơ thủ Lê Phúc Diễn ở bảo này qua đời.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.995.

        NĂM 1821 (TÂN TỴ)

        Tháng 3 (tháng Hai – Tân Tỵ)

 733. Dương Tuấn Ngạn viết chữ bia đình Đức Cung

Tân Tỵ niên Bình Tuyền huyện minh nghĩa bi ký tạo năm Minh Mệnh 2, dựng tại đình bản xã, tổng Hiển Lễ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Cao Minh, thành phố Phúc Yên – Vĩnh Phúc) do Tiến sĩ Phạm Quý Thích soạn văn bia, Dương Tuấn Ngạn viết chữ, ghi rằng:

“Việc thờ Tiên hiền có từ lâu rồi, là để biểu dương khuôn phạm cho đời trước, vun trồng thanh danh cho đời sau, cũng có quan hệ với phong tục phồn thịnh mà há có thể bỏ được chăng?

Nước Hoàng Việt ta từ xưa đã xưng là nước văn hiến, trên từ Kinh đô cho đến các lộ đều thiết lập trường học, năm tháng phụng thờ Tiên thánh, dưới có các huyện ấp phần nhiều đều lập Từ chỉ để phụng thờ Tiên hiền. Thái Nguyên tuy gọi là ngoại trấn nhưng trước đây có tiếng là châu danh giáo vậy. Thời Lê Trung hưng cũ, có các vị khoa danh hoạn nghiệp, trải các đời đều có thể khảo rõ ràng. Trải đến nay người đi học không hề thiếu, nên việc thờ Tiên hiền cũng chưa bao giờ bị phế bỏ.

Huyện Bình Tuyên trước đây chưa có Từ chỉ còn các thôn ấp trong huyện, tùy từng nơi mà lập đàn tế. Thời gần đây mới đổi thành thờ Tiên thánh mà chọn địa điểm tại thôn Đức Cung xã Linh Quang trong địa hạt của huyện làm nơi tế lễ theo năm tháng. Các ông Dương Tuấn Ngạn, Nguyễn Duy Kỳ, Vũ Đình Sủng cùng mọi người trong Hội Tư văn trong huyện mới bắt đầu lập Từ chỉ tại đất của thôn đó, đến xin tôi viết bài văn bia và hỏi về việc thờ tự. Tôi nghe nói kẻ sĩ noi theo Tiên hiền, Tiên hiền noi theo Tiên thánh, Tiên thánh noi theo đạo trời, cho nên thờ Tiên thánh là ở người đi học mà noi theo Tiên thánh ắt là ở Tiên hiền, ta hãy tuân lệ từ xưa.

Người khách đứng bên cạnh bảo: – Ông nói đúng vậy, nhưng tôi thấy việc thờ Tiên hiền là thờ các vị khoa mục đời trước, chỉ có vậy hay sao? Tôi đáp: – Những người theo đường khoa mục không phải tất thảy là Tiên hiền, nhưng Tiên hiền thì không thể không từ khoa mục mà ra. Quốc gia kén chọn kẻ sĩ, ý cũng là như vậy. Theo lễ chẳng hiển nhiên như thế hay sao? Nay thiên hạ cùng chung một đạo, văn giáo đương tốt đẹp mà ngôi Từ chỉ này dựng lên là thích hợp với thời thế. Cảnh tượng Từ chỉ mới mẻ, cung tường trang nghiêm, chọn nhân nghĩa mà chuộng bạn hiền, giữ điều thiện làm thầy, như thế tác thành nhân tài mà làm đẹp cho phong tục, để từ nay về sau, nhân sĩ ở phương này đương cùng hiền sĩ ở trung châu gia sức đua tranh vượt lên trên, không thẹn với thời vậy! Người khách bảo: – Ông nói đúng! Nhân đây tôi viết bài ký”.

Nguồn: T29, tr.298-299.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Tân Tỵ)

 734. Dương Đức Tuy làm Đốc học Kinh Bắc

Ông từ Trợ giáo Sơn Nam Thượng được cử vào chức vụ này. Tháng 5-1827 ông được nghỉ hưu vì tuổi già. Phó Đốc học Quốc tử Giám Nguyễn Duy Tác được cử vào chức vụ này.

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.138, 604.

        Ngày 12 tháng 8 (15 tháng Bẩy – Tân Tỵ)

 735. Dương Quỳnh thi đậu Hương cống

Tân Tỵ, năm Minh Mệnh thứ 2 [1821], mùa hạ, tháng Bẩy, mồng 1.

Thi Hương ân khoa ở hai trường Quảng Đức, Nghệ An. Sai Thượng thư Hình bộ là Lê Bá Phẩm sung Đề điệu trường Quảng Đức, Thị trung Trực học sĩ tham bồi công việc Lại bộ là Đinh Phiên sung Giám thí, Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ là Hoàng Kim Hoán sung Đề điệu trường Nghệ An, Ký lục Quảng Bình là Trần Lợi Trinh sung Giám thí.

Dụ rằng: – Tìm nhân tài phải do khoa mục, đào tạo kẻ sĩ không phải để gây ơn riêng. Trẫm lên ngôi mong trị, ngồi lánh bên chiếu đợi người hiền. Ân khoa năm nay là điển tốt lần đầu. Phàm bầy tôi các ngươi được dự tuyển vào việc trường thi, phải chí công, chí minh, không được thiên tư mảy may mà tự chuốc mối lo. Đề điệu và Giám thí phạm lỗi, mà Giám khảo và Sơ phúc khảo biết nêu lên thì có thưởng; Giám khảo và Sơ phúc khảo phạm lỗi mà Đề điệu và Giám thí biết nêu lên để hặc thì được miễn nghị. Phải mọi người cố gắng cho xứng đáng thịnh ý của trầm kén chọn người tài.

Đến khi danh sách dâng lên, lấy số đỗ Hương cống là 40 người. (Trường Quảng Đức 25 người – trong đó Dương Quỳnh, người Cảnh Dương – Bố Chính (nay thuộc Quảng Trạch – Quảng Bình).

Vua đến thăm trường thi Quảng Đức, lên Vọng lâu xem, có người Kinh Bắc là Nguyễn Văn Hoán đón giá dâng 15 sách thái bình. Lính Tả vệ bắt giam ở trại quận, Vua nói: – Những điều Hoán trình bầy tuy là viển vông không dùng được, nhưng trẫm đã mở rộng đường cho nói, há vì lời nói mà bắt tội người ta sao? Lập tức sai tha. Nhân thể dụ rằng từ này có ai đón giá dâng lời thì tả hữu vệ phải giao cho bộ tâu lên, không được bắt giam.

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.142-143; Q4, tr.125.

        Ngày 10 tháng 10 (15 tháng Chín – Tân Tỵ)

 736. Sĩ tử họ Dương thi đậu Hương cống

Tân tỵ, năm Minh Mệnh thứ 2 [1821], mùa thu, tháng Chín, thi Hương ân khoa ở các trường Gia Định, Thanh Hoa, Thăng Long, Sơn Nam.

Sai Hữu Tham tri Hộ bộ lĩnh Hộ tào thành Gia Định là Nguyễn Xuân Thục làm Đề điệu trường Gia Định, Ký lục Quảng Ngãi là Vũ Huy Đạt làm Giám thí, Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ là Hoàng Kim Hoán làm Đề điệu trường Thanh Hoa, Cai bạ Bình Định là Hoàng Văn Quyền làm Giám thí, Tả Tham tri Lễ bộ hành Hiệp trấn Sơn Nam hạ là Bùi Đức Mân làm Đề điệu trường Thăng Long, Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ là Nguyễn Tuần Lý làm Giám thí, Hữu Tham tri Hình bộ lĩnh Hình tào Bắc Thành là Vũ Đức Thông làm Đề điệu trường Sơn Nam, Thị trung Trực học sĩ tham bồi Lại bộ Đinh Phiên làm Giám thí.

Khi danh sách đệ lên, lấy đỗ tất cả 92 Hương cống. Trường Thăng Long 23 người – trong đó có Dương Đức Hoành, người Hồ Khẩu – Thọ Xương (nay thuộc Hoàn Kiếm – Hà Nội), Dương Xuân Triêm, người Lạc Thổ – Siêu Loại (nay thuộc thị trấn Hồ, Thuận Thành – Bắc Ninh); trường Sơn Nam 34 người – trong đó có Dương Bá Cung, người Nhị Khê – Thượng Phúc (nay thuộc Thường Tín – Hà Nội).

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.153, Q4, tr.131-132.

        NĂM 1822 (NHÂM NGỌ)

        Tháng 5 (tháng Tư – Nhâm Ngọ)

 737. Võ quan, văn quan họ Dương thăng tiến

Cai đội Cẩm y Dương Công Trung được cử làm Phó vệ úy Tráng võ quân Thần sách rồi lên Phó vệ úy Tiền vệ dinh Tiên phong; Phó vệ úy Thị trung Dương Văn Trí lên Vệ úy Hữu vệ dinh Long võ quận Thị nội; Tham hiệp Thái Nguyên Dương Công Trang làm Tham hiệp Quảng Yên.

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.262, 292, 294.

        Trong năm

 738. Dương Bá Cung bắt đầu cuộc hành trình đi tìm di cảo Nguyễn Trãi

Dưới thời Lê Thánh Tông (1460-1497), cùng với việc minh oan cho Nguyễn Trãi, Hoàng đế đã giao cho bề tôi là Trần Khắc Kiệm chăm lo việc thu thập di văn của Ức Trai nhưng cuối cùng những gì mà viên quan họ Trần này làm được trong suốt 10 năm cần mẫn bị thất lạc.

Là người cùng làng, lại lấy vợ người họ Nguyễn – di huệ của Nguyễn Trãi, Cấn Đình rất kính tài đức của người xưa như ông từng viết: “Tôi vốn quý văn chương Ức Trai tiên sinh nên từ lâu đã có ý thu nhặt. Thường có dịp vào Nam ra Bắc, gặp người nào vào hạng sĩ phu tôi cũng dò hỏi di cảo của Ức Trai tiên sinh xem còn sót lại ở đâu không, xem may ra còn tìm được”.

Chính vì vậy, sau khi đỗ Hương cống, ông đã dành hẳn hai năm Nhâm Ngọ – Quý Mùi (1822-1823) để thu nhặt toàn bộ di cảo cùng các bài bình của các học giả xưa, sắp xếp thành từng tập trước khi đưa cho Nguyễn Năng Tĩnh kiểm định.

Nguồn: D1, tập 3, tr.519-520.

        NĂM 1823 (QUÝ MÙI)

        Trong năm

 739. Quan viên Dương Bá Thùy tổ chức tu tạo chùa Diên Khánh

Hậu thần bi ký tạo năm Minh Mệnh 4 dựng tại chùa xã Hương Câu, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Thiên Phúc, trấn Bắc Ninh (nay thuộc xã Hương Lâm, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi rằng do không đủ tiền tu tạo nên ông Dương Bá Thùy đã đứng ra hô hào đóng góp, có hơn 40 người cung tiến, được bầu làm Hậu thần.

Nguồn: Đ12, tr.421.

        NĂM 1824 (QUÝ MÙI – GIÁP THÂN

        Tháng 1 (tháng Chạp – Quý Mùi)

  1. 740. Dương Đình Cúc bị bắt ở Dương Lâm

Đầu tháng Chạp – Quý Mùi, Đình Cúc từ Thái Nguyên đem theo ít thân tín về trại Đức Lân, tổng Đức Lân, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Tân Đức, Phú Bình – Thái Nguyên). Nhờ có mật báo, Chánh trấn tỉnh Bắc Ninh bí mật đem quân bao vây. Tuy bị bất ngờ nhưng Đình Cúc vẫn thoát được vòng vây, chạy về nương nhờ vợ Dương Đình Tuấn – còn gọi là Trần Thiện ở xã Dương Lâm (tổng Nhã Nam, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, trấn Bắc Ninh – nay thuộc xã An Dương, Tân Yên – Bắc Giang) thì bị bắt.

Dương Đình Tuấn là người thu được nhiều vàng bạc hồi Lê Chiêu Thống chạy về Mục Sơn (Yên Thế). Khi Đình Tuấn chết, vợ ông ta kết thân với Dương Đình Cúc. Tuy nhiên, khi Đình Cúc rơi vào thế đường cùng bà ta sẵn sàng báo tin cho Chánh Trấn Bắc Ninh để nhận về một món tiền rất hậu.

Nguồn: Q4, tr.278.

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Thân)

 741. Dương Đức Hoành, Dương Xuân Triêm được bổ Tri huyện

Đức Hoành được bổ Tri huyện Hà Tiên còn Dương Xuân Triêm làm Tri huyện An Lão.

Nguồn: Q4, tr.288.

        NĂM 1825 (ẤT DẬU)

        Tháng 5 (tháng Tư – Ất Dậu)

 742. Huấn đạo Hải Lăng Dương Quỳnh làm Giáo thụ Bình Thuận

Sau khi đậu Hương cống trường thi Quảng Đức, Dương Quỳnh được bổ Huấn đạo Hải Lăng (Quảng Trị). Ông được đình thần dâng sớ cử làm Giáo thụ Bình Thuận, khi hay tin Dương Quỳnh tự trần rằng, năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) bộ Lại nghị định phàm giáo chức do Hương cống, Sinh đồ tuổi từ 40 trở lên mới được bảo cử, Quỳnh tuổi chưa đủ hạn, ngại là hãnh tiến. Việc giao xuống bộ Lại bàn, cho rằng nghị định hẹn tuổi ấy là nói khi mới bảo cử, nay lấy Huấn đạo thăng Giáo thụ là theo bậc mà lên vậy. Quỳnh có bụng suy tị nên viện dẫn nói càn, xin chiếu luật “sai bổ mà mượn cớ không đi” đánh trượng cách chức, không được bổ dụng nữa. Vua theo lời bàn.

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.414.

        Trong năm

 743. Dựng bia chép về nguồn cội tại Từ đường Dương Hữu

Dương gia bi ký tạo năm Minh Mệnh 6 tại Từ đường Dương Hữu, xã Phương Độ, tổng La Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên (nay thuộc xã Xuân Phương, Phú Bình – Thái Nguyên) ghi chép việc công đức để xây dựng Từ đường, cho biết họ Dương Hữu ở đây có gốc tích từ Thanh Hóa. Đôi câu đối:

“Thanh Hóa khởi trang sinh tả mục hữu chiếu gia thế phả

        Thái Nguyên di vũ nội Tham ngoại Tán quốc danh thần”

(Đất Thanh Hóa là nơi khởi thủy của tổ tiên có gia phả để lại

Thái Nguyên là nơi chuyển đến làm đến nội Tham ngoại Tán danh thần).

Nguồn: T1, 1/2007, tr.40-42.

        NĂM 1826 (BÍNH TUẤT)

        Ngày 25 tháng 12 (27 tháng Một – Bính Tuất)

 744. Dựng bia giao ước tại Từ đường họ Dương Ô Cách

Bản tộc tự sự chi bi tạo năm Minh Mệnh 7, đặt tại Từ đường họ Dương bản thôn, xã Cù Sơn, tổng Hoàng Xá, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay là xã Phượng Cách, Quốc Oai – Hà Nội) ghi rằng, tộc họ có 3 sào 7 thước ruộng thờ, nay lập giao ước chia cho người trong họ thay nhau cày cấy, hàng năm lấy hoa lợi để cúng giỗ.

Nguồn: T12, tập 21, N0820128-29.

        NĂM 1827 (ĐINH HỢI)

        Tháng 9 (tháng Tám – Đinh Hợi)

 745. Dương Văn Thái nổi dậy ở Hải Dương

Cuộc khởi nghĩa nổ ra đúng vào thời điểm Hải Dương bị ngập úng, mất mùa, nạn đói đe dọa, triều đình phải cử Chủ sự ở Kinh sư là Dương Tam ra Bắc thành cho dân vay thóc (Khi trở về Kinh, vua Minh Mệnh triệu vào hỏi han, Dương Tam đáp: – Sau khi ngập lụt, dân đói xanh xao vừa nghe thấy lệnh cho vay thóc, ai cũng vui vẻ như được sống lại, tranh nhau đến vay).

Cuộc khởi nghĩa Dương Văn Thái đã bị Tri huyện Tiên Minh (nay là Tiên Lãng – Hải Phòng) đem quân đến bao vây, bắt sống toàn bộ. Tri huyện Lê Đình Khoản nhờ đó được bổ Đồng Tri phủ Kinh Môn.

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr. 667-668.

        NĂM 1828 (MẬU TÝ)

        Ngày 7 tháng 11 (1 tháng Mười – Mậu Tý)

 746. Sĩ tử họ Dương thi đậu Cử nhân

Ngày 1 tháng Chín – Mậu Tý (9-10-1828), triều đình tổ chức thi Hương tại các trường thi Thanh Hóa, Bắc Thành và Nam Định (tên Nam Định xuất hiện vào năm 1822 khi Sơn Nam Hạ đổi thành).

Trường Bắc Thành do Hữu tham tri bộ Binh lĩnh Binh tào Bắc Thành Đặng Văn Thiêm làm Chủ khảo, Hữu thị lang bộ Lễ Hà Quyền làm Phó Chủ khảo, lấy đỗ 20 Cử nhân – trong đó có Dương Đăng Dụng, người Ỷ La (nay thuộc phường Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội).

Trường Nam Định do Thự Hữu tham tri bộ Lễ Nguyễn Đăng Tuân làm Chủ khảo, Hiệp trấn Sơn Tây Hoàng Văn Đản làm Phó Chủ khảo, lấy đỗ 30 Cử nhân – trong đó có Dương Duy Thanh, người Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu (nay thuộc xã Mễ Sở, Văn Giang – Hưng Yên).

Khi đệ danh sách lên thấy cử nhân Bắc Thành đều hạng bình, vua bảo Hà Quyền rằng: – Bắc Thành vốn xưng là nơi văn vật, mà kỳ thi này chỉ được những người hạng bình, hoá ra chỉ là hư danh à. Quyền tâu rằng: – Bắc Thành gần đây chức giáo huấn không được người tốt. Cho nên học trò không lấy ai mà theo được. Vua nói rằng phải, vì như án Thái Doãn Tư ở Nam Định dung túng người nhà đòi tiền học trò, nhớp nhúa như thế thì còn lấy gì mà làm mô phạm cho học trò được!

Đây là khoa thi Hương đầu tiên dùng học vị Cử nhân thay cho Hương cống, Chủ khảo, Phó Chủ khảo thay cho Quan trường.

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.764-765; T28, tr.235.

        Tháng 11 (tháng Mười – Mậu Tý)

 747. Tri phủ Kiến An Dương Huy Kiều được bổ Đốc học Nam Định

Ông người xã Cảo Đỉnh (Bắc Từ Liêm – Hà Nội), Hương cống khoa thi Đinh Mão (1870). Trước khi nghỉ hưu, ông chuyển làm Đốc học Sơn Tây.

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.775.

        NĂM 1829 (KỶ SỬU)

        Cuối tháng 3 (giữa tháng Hai – Kỷ Sửu)

748. Dương Văn Phong tham gia thu thuế ở Bắc Thành

Mùa đông năm Mậu Tý (1828), thành thần họp các thương lái để đấu thần 4 sở: Trình Xá, Định Hương (Sơn Tây), Bảo Thắng, Quán Tỷ (Hưng Hóa) nhưng các thương lái đặt gia rất hạ nên Bắc Thành đành phải dùng biện pháp phái quan đến thu. Kẻ buôn giảo quyệt là Liêu Ninh Thái, nhờ mượn Nguyên Văn Tước đội mạo tên cùng với Đỗ Huy Tùng đến Kinh kêu xin cho chiếu theo giá đã định mà lĩnh thầu. Bộ Hộ tâu giùm, vua y cho, mà bỏ chỉ trước. Đến khi gửi ra thành cấp bằng, thì bọn cùng đứng đơn là Long Kỳ Ký, Hoàng Đình Quýnh không chịu lĩnh. Thành thần xét ra tình trạng tráo trở giả mạo, cứ thực tâu lên. Vua bảo các quan: – Bọn Ninh Thái là dân hèn mọn, đi buôn lại dám coi thường phép vua, tự ý làm như đùa bỡn, không những làm nhỡ việc thuế quan, mà lại lừa dối triều đình, tội nào lớn hơn nữa! Nếu không chiếu luật nặng mà nghiêm trị thì kẻ khác thấy thế bất chước, tai hại không kể xiết được. Vậy thì kẻ mạo tên đi kêu tên là Nguyễn Văn Tước, phải trảm quyết để bảo kẻ khác. Liêu Ninh Thái và Đỗ Huy Tùng đều trảm giam hậu. Bọn Long Kỳ Ký không đến thành lĩnh thầu, lại khinh suất sai Huy Tùng vượt đến Kinh kêu nài đến nỗi xảy ra rất nhiều tình tệ, đều phải gông nặng 2 tháng, đủ hạn, trương 100 rồi tha. Bèn sai Thự Lang trung Lại bộ là Tống Đức Hưng, Viên ngoại lang Binh bộ là Dương Văn Phong, Viên ngoại lang Hình bộ là Nguyễn Huy Triêm, thự Viên ngoại lang Binh bộ là Vũ Đĩnh cùng Văn thư phòng và Thị vệ đi ra Bắc Thành thu thuế quan bốn sở. Lại sai thành thần chọn các thư lại thanh liêm tháo vát ở thành và các trấn hơn 10 người, theo đi làm việc. Đồng thời lượng bắt binh thuyền đi tuần để trông coi và hộ vệ.

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.823.

        Ngày 2 tháng 4 (18 tháng Hai – Kỷ Sửu)

 749. Dương Xuân Triêm thăng Chủ sự bộ Binh

Dương Xuân Triêm sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống cử nghiệp, có cụ nội Dương Thúc Hinh, ông nội Dương Thúc Liêm, phụ thân Dương Đình Vịnh đều đậu Hương cống thời Lê.

Vào năm Minh Mệnh 9 (1828) ông được tăng 4 kỷ lục. Đến đây sau khi về Kinh làm chủ sự bộ Lễ, ông lại được cử làm Tri phủ Lâm Thao (Sơn Tây).

Nguồn: K6, tr.331-332; Q2, tr.299-334.

        Ngày 23 tháng 4 (20 tháng Ba – Kỷ Sửu)

 750. Dương Hữu Doãn được tôn Hậu phật thôn Huyền Thiên

Hậu phật thần bi ký tạo năm Minh Mệnh 10 dựng tại quán thôn Huyền Thiên, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là phố Hàng Khoai, phường Đồng Xuân và phường Hàng Mã, Hoàn Kiếm – Hà Nội) ghi việc: bà Đinh Thị Sáu, cùng chồng là Dương Hữu Doãn, người thôn Huyền Thiên, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, sống nhân hậu. Từ năm Canh Thìn (1820) đến năm Giáp Thân (1824) bà đọc kinh cầu an cho dân thôn. Dân thôn không bị hoạn nạn, đều đội ơn bà. Nay ông bà đã già, không có con thừa tự, bèn bỏ 50 quan tiền đặt giỗ về sau. Dân thôn nhận lấy, trích ra 10 quan tiền cổ cho vay thu lãi, mỗi quan 18 văn một tháng, để lo cúng giỗ.

Nguồn: T12, tập 1, N0270.

        Ngày 3 tháng 5 (1 tháng Tư – Kỷ Sửu)

 751. Dương Đăng Dụng thi đậu Phó bảng

Tháng Hai – Kỷ Sửu (3-1829) trước thi Hương, thi Hội, kỳ tam trường thi thơ phú, quan trường thỉnh thoảng thấy sai vần không hợp mà truất bỏ. Vua dụ bộ Lễ rằng: – Học trò học vần, ghi nhớ rất khó. Có khi tứ thơ khá mà nhỡ có một vần sai thì đã là không hợp cách, cho nên trong khi đặt câu ghép vận, sợ chữ vần chưa chắc ổn thoả, nhân thế mà ý nghĩ mơ hồ, ví thử có tứ thơ hay đấy, cũng không phát triển vào dâu được. Thế thì những người học rộng không khỏi câu nệ vào mực thước ấy, thật không đúng với ý triều đình khen thưởng, cất nhắc nhân tài. Từ nay thi Hội kỳ tam trường, xem vần thơ dùng vần nào thì in số chữ trong vần ấy, chia cấp cho mỗi người một tờ. Đến kỳ thi Hương, vì số người nhiều quá, nên sao ra niêm yết ở biển rằng thể phú, phàm âm vận giống nhau, như chi, vi, ngữ, ngự đều cho thông dụng. Lại từ nay về sau, kỳ thi Hương, thi Hội, học trò ứng thí, phải ở chỗ đề tên trên mặt quyển khai đủ họ tên lý lịch của ông cha từ ba đời, để rõ gốc tích, lấy khoa thi Hội năm nay bắt đầu. Ghi làm lệ.

Lễ bộ lại bàn tâu về sự nghi thi Hội năm nay, xin chiếu theo lệ định năm Minh Mệnh thứ 6 [1825] duy về văn lý thì trước chia làm ưu, bình, thứ, liệt, nay xin đổi làm phân số; văn lý ưu là 10 phân, hoặc 9 phân; ưu thứ là 8 phân, 7 phân; bình là 6 phân, 5 phân; bình thứ là 4 phân, 3 phân; thứ là 2 phân, l phân; liệt là không đủ 1 phân.

Các quan ở nội liêm và các quan thí viện đều theo từng kỳ mà ghi rõ, đợi đủ 4 kỳ đóng lại thành tập. Quan thí viện mới hội đồng cân nhắc, lấy phân số nhiều ít, mà định cao thấp, lấy phân số có hay không để định đỗ hay hỏng. Phàm được 40 phân trở xuống, 10 phân trở lên, mà 4 kỳ đều có phân số thì xếp vào hạng trúng cách. Như văn lý 3 kỳ, cộng được 10 phân trở lên mà có 1 kỳ không đủ 1 phân, cùng là 4 kỳ, cộng không đủ 10 phân, mà các thể văn làm đủ, cộng được 4 phân trở lên đến 9 phân, thì xếp vào hạng Phó bảng, do quan trường làm danh sách tiến trình, để bổ dụng trước, cho được phân biệt với Cử nhân, Giám sinh không cập cách.

Vua giao đình thần bàn, đều nói rằng: – Cán cân văn chương là đồ công bằng, đã có quy chế sẵn. Song văn chương trường thi, trong khoảng tấc bóng ngoài hiên, mà cầu văn thể hoàn toàn, thì chưa chắc đã được nhiều, tất phải san sẻ chước lường đều lấy các mặt giỏi không nên đắn đo gò bó quá thì người có học được tỏ rõ ra mà nhân tài có thể không sát. Lời bộ bàn tưởng đã rõ ràng, mà đến kỳ thi thì việc cân nhắc lấy đỗ là cốt ở người có trách nhiệm lựa chọn, giữ được công bằng thôi. Còn Phó bảng, xin làm riêng một bảng treo ở phía bên hữu trước sân Phu Văn lâu ngày hôm sau bỏ đi. Vua y lời bàn. Lại cho Giám sinh hậu bổ ở các trấn về Kinh thi Hội, cấp cho cả lương tháng.

Sai Thượng thư bộ Hình Hoàng Kim Xán sung Chủ khảo, Thự Thượng thư bộ Lại Lê Đăng Doanh sung Phó Chủ khảo, Tả tham tri bộ Lễ Nguyễn Đăng Tuân, Hữu Tham tri bộ Binh Lê Văn Đức sung Tri cống cử. Kỳ thi Hội tổ chức vào tháng Ba – Kỷ Sửu, lấy Trúng cách chín người (Trần Huy Phác, Nguyễn Đăng Huân, Phạm Quỹ, Phạm Thế Trung, Trương Quốc Trung, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Trứ, Phạm Thế Hiển, Bùi Ngọc Quỹ) để vào thi Điện và 5 Phó bảng – trong đó có Dương Đăng Dụng, Cử nhân khoa Mậu Tý – 1828, người xã Ỷ La (Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội).

Nguồn: Đ8, tập Hai, tr.827-828; T28, tr.208.

        NĂM 1830 (CANH DẦN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Dần)

 752. Chuyển Tham hiệp Lạng Sơn Dương Tam sang Cao Bằng

Sau khi xong việc cho dân vay thóc ở Bắc Thành, ông được thăng Viên ngoại lang bộ Công rồi Tham hiệp Lạng Sơn (8-1828), Tham hiệp Cao Bằng (2-1830), Thự Hiệp trấn Cao Bằng (2-1831), Bố chánh sứ Cao Bằng (11-1831).

Nguồn: Đ8, tập Ba, tr.8, 135, 243.

        Tháng 4 (tháng Ba – Canh Dần)

 753. Phục chức cho Tri phủ Thiên Phúc Dương Thế Thịnh

Ông người xã Ninh Duy, tổng Ninh Duy, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Khởi Nghĩa, Tiên Lãng – Hải Phòng), Hương cống khoa thi năm Quý Dậu (1813). Khi đương nhiệm Tri phủ Thiên Phúc thuộc trấn Bắc Ninh (phủ Thiên Phúc đổi tên từ phủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc năm 1822), ông bị Quản phủ Nguyễn Văn Trung vu cáo thông đồng với giặc cướp nên phải cử người vào tận Kinh kêu oan. Vua Minh Mệnh cử Lang trung bộ Lại là Nguyễn Đăng Ngạn hội với hai tào bộ Binh xem xét và giải oan cho Tri phủ Dương Thế Thịnh.

Phủ Thiên Phúc đổi là phủ Đa Phúc, quản 4 huyện như hồi mang tên Bắc Hà. Cuối thế kỷ XIX là tên một huyện, nay thuộc Sóc Sơn – Hà Nội.

Nguồn: Đ8, tập Ba, tr.26.

        Trong năm

 754. Họ Dương công đức đúc khánh đồng chùa Long Cốt

Long Cốt tự khánh tạo năm Minh Mệnh 11, để tại chùa Long Cốt, thôn Thượng Lâm, tổng Chu Điện, huyện Phượng Nhãn (nay thuộc xã Thanh Lâm, Lục Nam – Bắc Giang) ghi rằng:

Xã trưởng, Trùm tưởng, quan viên xã Thượng Lâm, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, cùng các tín thí thập phương, với những người công đức cũ, những người công đức mới, đúc khánh đồng.

Các tín thí kê tên sau đây là những người đời trước công đức: Nguyễn Công Đoan, vợ Nguyễn Thị Thương; Dương Công Liêu, vợ Nguyễn Thị Viện.

Những người công đức 10 quan: Lê Đăng Khoa, tự Phúc Hậu, Nguyễn thị hiệu Diệu Tiên, Nguyễn Đức Tú, vợ Nguyễn thị hiệu Diệu Hoa và nhiều người khác.

Những người công đức 6 quan: Trùm trưởng Nguyễn Giáp Nhị, tự Pháp Khuê, vợ Ngô thị; Dương Trọng Hùng, vợ Nguyễn thị hiệu Diệu Bảo, Nguyễn Khắc Cần, vợ Dương Thị Tỉnh và nhiều người khác.

Những người công đức 3 quan: Giáp Đăng Khoa, vợ Nguyễn Thị La; Dương Khắc Thực, vợ Giáp Thị Hồng; Dương Công Nghĩa và nhiều người khác.

Những người công đức 1 quan: Lê Đăng Đệ, Nguyễn Công Thành, vợ hiệu Diệu Hiếu, Phan Viết Vĩnh, Nguyễn Công Năng, vợ Nguyễn Thị Sảnh và nhiều người khác. Cả thảy trên 500 người.

Nguồn: Đ12, tr.523-524.

        NĂM 1831 (TÂN MÃO)

        Ngày 27 tháng 4 (16 tháng Ba – Tân Mão)

 755. Phó bảng Dương Đăng Dụng soạn minh văn chuông chùa Hoa Nghiêm

Hoa Nghiêm tự chung trên chuông chùa, tạo năm Minh Mệnh 12, để tại chùa Cả chung cho cả hai xã La Nội và Ỷ La, tổng La Nội (nay thuộc Dương Nội, Hà Đông – Hà Nội).

Nguồn: T9, 1996, tr.85-94.

        NĂM 1832 (NHÂM THÌN)

        Trong năm

 756. Dương Bá Cung viết tiếp và đề tựa Nhị Khê Dương gia thế phả

Thủy tổ của dòng họ là Phúc Thiện ở thôn Hạ, xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay thuộc Thường Tín – Hà Nội). Gia phả họ Dương do cháu 8 đời là Thụy Triều biên soạn, được Nguyễn Kiêm Phủ viết lời bạt vào năm Minh Mệnh 12 (1831). Đến năm Minh Mệnh 13 cháu 10 đời là Dương Bá Cung tục biên, viết đề tựa.

Năm Minh Mệnh 14, ông viết tiếp Phàm lệ.

Nhị khê Dương gia thế tộc ngoài phần hành trạng của các vị tổ, hệ thống các chi, niên biểu các đời còn có bài tựa mừng Dương Công Độ thi đỗ Tiến sĩ, các sắc phong, văn bia, mộ chí, văn tế, câu đối.

Nguồn: D1, tập 2, A.3009 – 2551.

        NĂM 1833 (NHÂM THÌN – QUÝ TỴ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Thìn)

 757. Dương Tam bị miễn chức

Trước đây, có phái viên ở huyện Vĩnh Thuần nhà Thanh vượt tỉnh thành đến phố Lương Mã, bắt tội nhân mà không có giấy tư báo, Dương Tam để cho cứ đi, điềm nhiên không tâu lên vua biết. Đến khi Thông phán Nguyễn Đăng Diêu vì là ủy viên được về Kinh mới đem việc ấy tố cáo. Vua giao bộ Lại xét xử. Đến bấy giờ bộ Lại bàn xong dâng lên. Nguyễn Huy Chiêm vì chuyên giữ việc hình, phải cách chức, về bộ gắng sức làm việc để chuộc tội. Dương Tam bị giáng xuống hàm Chánh ngũ phẩm bắt về hưu trí. Tuần phủ Lạng Bình là Hoàng Văn Quyền vì sơ suất trong việc coi xét, phải phạt lương một năm.

Nguồn: Đ8, tập Ba, tr.451.

        Mùa xuân

 758. Nguyễn Năng Tĩnh viết lời tựa cho bộ Ức Trai di tập do Dương Bá Cung tập hợp, biên khảo

Ông người làng Thịnh Trường, huyện Chân Phúc (sau đổi là Chân Lộc, Nghi Lộc), phủ Đức Quang (sau đổi là phủ Diễn Châu), tỉnh Nghệ An, Cử nhân khoa Canh Ngọ (1810) đồng khoa với Nguyễn Công Trứ, làm quan tới chức Ngự sử, được một thời gian thì cáo quan.

Đầu những năm 30 của thế kỷ XIX, ông được Dương Bá Cung, khi đó đang là Tri huyện Gia Bình (Bắc Ninh) mang di cảo của Nguyễn Trãi nhờ sắp xếp, kiểm định. Nguyễn Năng Tĩnh đã chia di cảo thành 4 tập và bổ sung thêm tập thứ 5 chuyên về thơ văn của Nguyễn Phi Khanh – thân phụ Ức Trai và viết lời tựa cho toàn bộ tập sách này.

Nguồn: D1, tập 3, tr.519-520.

        Tháng 6 (tháng Năm – Quý Tỵ)

 759. Dương Văn Phong về Kinh làm thanh tra công việc của bộ Công

Tháng Mười – Canh Dần (11-1830), ông được cử làm Lang trung bộ Binh, có nhiệm vụ thanh tra Lục bộ. Tháng Một năm Tân Mão (12-1831), ông được điều sang làm Lang trung bộ Hộ, Hiệp lý Hộ tào thành Gia Định. Tháng Mười năm Nhâm Thìn (11-1832) về làm Án sát sứ Quảng Ngãi rồi Bố chánh Quảng Ngãi, cùng Án sát Nguyễn Đức Hội tâu xin việc làm nhà cho Lãnh binh gần đồn Tĩnh Man Lạc Cơ để tiện cho việc huấn luyện binh sĩ nhưng không được. Tháng Năm năm Quý Tỵ (6-1833) ông được triệu về Kinh, giữ chức Quang lộc Tự khanh biên lý công việc bộ Hộ, sau đó là Hữu thị lang bộ Binh nhận nhiệm vụ đi Nam Kỳ yên ủi binh sĩ, khi trở về được làm Tả thị lang bộ Hộ rồi Sự vụ bộ Binh.

Nguồn: Đ8, tập Ba, tr.107, 130, 247, 401, 462, 549, 578, 621, 639, 688, 787, 831, 864-865, 889, 910, 935.

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Tỵ)

 760. Nhiều võ quan, binh sĩ họ Dương đối mặt Nông Văn Vân

Nông Văn Vân là Tri châu châu Bảo Lạc, tỉnh Tuyên Quang (nay thuộc tỉnh Cao Bằng). Phản ứng trước chính sách cai trị của nhà Nguyễn và nhất là chính sách đối với các dân tộc thiểu số, Nông Văn Vân đã bí mật liên kết với các tri châu, các thổ tù trong vùng chuẩn bị khởi nghĩa.

Căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa là vùng Vân Trung (thị trấn Vân Trung, huyện Bảo Lạc) và Ngọc Mạo (xã Đồng Mu, huyện Bảo Lạc). Cuộc khởi nghĩa chính thức bùng nổ ngày 2 tháng Bẩy năm Quý Tỵ (1833), ngay lập tức được sự hưởng ứng tích cực của các thủ lĩnh và đồng bào các dân tộc thiểu số trong vùng. Ngày 3-8 (1833), nghĩa quân tấn công đánh chiếm đồn Ninh Biên (thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang) để mở thông con đường dọc theo sông Lô tiến đánh tỉnh thành Tuyên Quang. Bố chính Tuyên Quang là Phạm Phổ không chống cự nổi phải thắt cổ tự tử. Cuối tháng 8 (1833), nghĩa quân bao vây tỉnh thành Tuyên Quang. Triều đình cử các tướng Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ đem đại quân lên Thái Nguyên, Tuyên Quang – trong đó có các Cai đội, Suất đội, Đội trưởng và binh sĩ họ Dương như Đình Ất, Như Chấn, Văn Tuyển, Văn Trạch, Văn Thuyết, Văn Chiểu, Văn Phong, Như Cát, Hữu Hương, Văn Kiều, Văn Xuân, Văn An, Phúc Tứ, Văn Kim, Văn Mạo, Thế Diệu, Tiến Sĩ, Tiến Lý, Đức Tiến, Đình Hữu, Văn Chỉ, Văn Đĩnh, Đình Trì, Đình Bá, Văn Hóa, Công Đình, Đình Thiện, Đình Lâm, Văn Hưng, Văn Hoa, Văn Nghĩa, Công Thông, Dình Tụ, Đăng Phan và Dương Hân.

Ngoài ra còn có sự góp mặt của Cai tổng Cổ Linh (Hàm Yên – Tuyên Quang) Dương Công Bá, Lý trưởng xã Ba Đông (tổn Nhượng Bạn, Hòa An – Cao Bằng) Dương Bảo Nghiêm.

Nguồn: K2, tập 1; Q thượng

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Tỵ)

 761. Phó quản cơ Cơ thuận tráng Dương Văn Khoa được phục chức

Thuyền giặc Đồ Bà hơn 20 chiếc lén lút xuất hiện ở đảo Thuận Tĩnh tỉnh Bình Thuận. Dân sở tại đánh nhau với giặc, bị thương chết hơn 100 người. Tỉnh phái Phó lãnh binh là Phạm Văn Huyền và Phó quản cơ cơ Thuận tráng là Dương Văn Khoa, quản lĩnh thuyền quân đi dò bắt, đến đảo Mao Dữ đánh và đoạt được 1 chiếc thuyền của giặc, bắt được 3 tên, bắn giết rất nhiều. Việc ấy đến tai nhà vua, vua thưởng cho Dương Văn Khoa, Phạm Văn Huyền mỗi người 5 đồng Ngân tiền Phi long hạng lớn.

Mặc dù liên tiếp bị đuổi đánh nhưng thuyền giặc Đồ Bà vẫn lần khuất ngoài biển. Phó quản cơ ở cơ Thuận tráng tỉnh Bình Thuận là Dương Văn Khoa đuổi đánh hải phỉ Đỏ Bà đến tận hải phận biển Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa, đánh phá được thuyền giặc, bắt được hàng chục tên phỉ, cứu được dân nạn. Việc ấy tâu lên, nhà vua rất khen. Khoa, trước bị giáng cấp liền được khai phục, lại thưởng cho 5 đồng ngân tiền Phi long hạng lớn, các biển binh được thưởng tiền 300 quan.

Nguồn: Đ8, tập Ba, tr.686,687-711.

        Tháng 10 (tháng Chín – Quý Tỵ)

 762. Thợ đúc Dương Ngọc Dưỡng tham gia đúc đạn súng Xung Tiêu

Trong thời gian tấn công vào thành Phiên An do Lê Văn Khôi đóng giữ, đạn đại bác thiếu hụt, ảnh hưởng nhiều tới việc công phá thành. Thảo nghịch Tả tướng quân Tống Phước Lương và Tham tín Nguyên Xuân tâu rằng: – Các hạng súng đại bác, trong đó có thứ súng Xung Tiêu bắn bằng đạn chấn địa lôi thì giặc ở trong thành đều tan tác, đào hầm náu mình, sợ hãi hơn hết. Duy [số đạn chấn địa lôi] lĩnh trước thì ít, không đủ để bắn. Vả lại, thần là Tống Phước Lương này biết qua phép chế tạo, lại có Chánh đội trưởng ở đội Cảnh tất là Tống Văn Bình cũng đã tự tay làm được. Vậy xin cho thu mua dược liệu, gọi thợ đúc đến, đem những súng gang đã cũ đã hỏng, chế ra đạn ấy để đủ dùng cho việc quân.

Vua cho được như lời xin. Lại phái thợ đúc là Dương Ngọc Dưỡng đến hiệp cùng Tống Văn Bình chỉ bảo phép đúc. Vua dụ sai mua nhiều nồi gang nát của dân và đem những đạn gang hỏng để làm.

Nguồn: Đ8, tập Ba, tr.801.

 763. Nhiều nghĩa quân họ Dương bị bắt, giết và ra hàng

Đó là Lại dịch Dương Văn Kiểm hoạt động ở vùng Tĩnh Gia (Thanh Hóa), Phó trưởng hiệu Dương Viết Văn, Dương Văn Giai bị Tạ Quang Cự bắt ở Lạng Sơn; Chánh quản cơ Dương Chấn bị Lê Văn Đức giết tại Tuyên Quang; Đầu mục Dương Đình Bội ở Sơn Tây, Quản cơ Dương Đình Quán Phó quản cơ Dương Văn Long, Dương Diệu Kim, Dương Văn Chương, Dương Văn Nhuận ra hàng ở Cao Bằng.

Nguồn: K2, tập 1, 2.

        Tháng 11 (tháng Mười – Quý Tỵ)

 764. Dương Ba An về theo Nguyễn Khắc Thước

Địa bàn hoạt động chủ yếu của Dương Ba An là tỉnh Quảng Yên. Tháng Hai – Giáp Ngọ (3-1834), lực lượng chính chuyển về vùng An Châu (châu An Bác, phủ Trùng Khánh, tỉnh Lạng Sơn, nay thuộc Sơn Động- Bắc Giang) khiến cho quân đội triều đình đối phó lúng túng. Tuần phủ Lê Đạo Quảng phái ủy viên hiệu lực là Dương Tam đi dụ hàng; lại khiến Quản cơ Trung tiệp là Vũ Văn Nguyên và Quản cơ Trung cường là Đặng Văn Đinh, đem quân và voi hội cùng quân lính các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Yên phái đi hội tiễu. Quân tỉnh Hải Dương, Quảng Yên chưa đến, Vũ Văn Nguyên cùng quân Bắc Ninh tiến trước, bắt được ngụy hiệu trưởng và đồ đảng hơn 10 người với khí giới, ấn tín đem nộp. Dân Lệ Viễn, An Châu, nhiều người trước theo Dương Tam đến tỉnh xin thú, Đạo Quảng đều thả cho về yên nghiệp làm ăn để họ mách bảo lẫn nhau, ra sức bắt giặc. Đúng vào thời điểm này, Trung quân Dương Ba An, Hậu quân Hoàng Ất An, từ khi bị thua ở An Châu, chạy về khu rừng châu Tiên Yên thuộc Quảng Yên.

Nguồn: Đ8, tập Ba, tr.874; tập Bốn, tr.51, 72.

        NĂM 1834 (QUÝ TỴ – GIÁP NGỌ)

        Ngày 31 tháng 1 (22 tháng Chạp – Quý Tỵ)

 765. Quản phủ hồi hưu Dương Đức Hiến đem các con đi theo việc quân

Khi Tạ Quang Cự hành binh qua Hà Nội, Quản phủ phủ Bình Giang tỉnh Hải Dương là Dương Đức Hiến đã hồi hưu đem các con là Dương Đức Hóa, Dương Đức Diệp, Dương Đức Pháp, Dương Đức Lộc tòng quân. Nghe tâu trình Hoàng đế Minh Mệnh ban dụ: – Quản phủ Bình Giang là Dương Đức Hiến đã về hưu trí, đương khi có việc này mà biết cố gắng, tình nguyện mà đem bọn con đi đánh giặc, thực là đáng khen vậy. Cho theo lời xin đều cấp lương tháng tiền gạo đi dẹp giặc. Chờ có công trạng sẽ cho cấp dưỡng.

Nguồn: K2, tập 1, Q. Thượng, tr.916-917; Đ8, tập Ba, tr.889.

        Tháng Ba (tháng Hai – Giáp Ngọ)

        Ngày 20 táng 2 (12 tháng Giêng – Giáp Ngọ)

 766. Dương Văn Phong hoàn thành việc tham gia biên soạn Minh Mệnh ngự chế văn

Minh Mệnh là một ông vua rất hay chữ. Sinh thời, hàng ngày bề bộn với công việc triều chính, ông vẫn rất ham làm thơ và viết văn. Ông nói: Vua chúa không lấy việc hay thơ làm chức phận [của mình], nhưng với Ngự chế thi khắc in năm Tân Mão (1831) và Ngự chế tiễu binh Nam Bắc tặc Khấu thi tập khắc in năm Ất Mùi (1835), ông đã để lại cho đời gần 5.000 trang in mộc bản với gần 4.000 bài thơ đủ các thể loại. Ngoài ra, chương sớ từ các nha môn văn võ trong Kinh, ngoài tỉnh gửi về, ông đều đích thân xem xét phê duyệt hoặc dụ bảo tận mặt đình thần, đường quan các bộ viện soạn thảo chỉ dụ rồi cho phát đi ngay. Tuy nhiên có nhiều việc quan trọng mà các quan đại thần trong triều trong chốc lát còn chưa lĩnh hội được, cũng như những việc ông chợt suy xét tới, ông đều tự tay soạn thảo chỉ dụ rồi tập hợp lại thành Ngự chế văn tập. Sau này, Ngự chế văn tập được lựa chọn, chỉnh lý và khắc in thành Ngự chế văn sơ tậpNgự chế văn nhị tập.

Ngự chế văn sơ tập là do Minh Mệnh đích thân xem xét bỏ đi 4, 5 phần không quan trọng lắm trong số Ngự chế văn của ông rồi sai “chép lại đúng sự thực để xem điều hay lẽ dở trong chính sự và sự chăm chỉ hay lười biếng trước sau, nhằm tự cổ vũ mình”. Sau đó Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Khoa Minh; Thượng thư bộ Lễ Phan Huy Thực; Thượng thư bộ Binh Trương Đăng Quế và 16 Tả, Hữu Tham tri; Tả, Hữu Thị lang; Các Đô Ngự sử, Thái bộc tự khanh, Thị giảng học sĩ thuộc các bộ viện – trong đó có Dương Văn Phong vâng mệnh biên tập và dâng biểu khắc in xong ngày 12 tháng Giêng năm Minh Mệnh 15 (1834), gồm 2 tập, 14 quyển. Trong đó Biểu 1 quyển, Dụ 11 quyển, Tạp kí 1 quyển, Mục lục 1 quyển với trên 400 bài dụ và tạp kí, dụ chiếm 384 bài.

Nguồn: M2, tr.13-14.

 767. Dương Thị Nội được bầu Hậu đình xã Hữu Thủ

Phối tự chi bi tạo năm Minh Mệnh 15, dựng tại đình bản xã thuộc tổng Miêu Duệ, huyện Tam Dương, phủ Đoan Hùng, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Kim Long, Tam Dương – Vĩnh Phúc) ghi rằng bà cùng chồng là Hoàng Thời Vọng là người có lòng ân đức mỗi khi dân làng túng thiếu đói kém đều xuất tiền của trợ giúp. Ông bà đã sinh được một người con trai chẳng may mất sớm, không có con nối dõi nên dân làng vô cùng thương xót, nhất trí để hai vị được gửi giỗ tại đình. Con gái và con rể ông bà lại cúng ao ruộng để cày cấy lo việc tế lễ cho cha mẹ.

Nguồn: T12, tập 15, N014758.

        Tháng 6 (tháng Năm – Giáp Ngọ)

 768. Đội trưởng Dương Quan Thảo được cử mang thư sang Xiêm

Sau khi nổi dậy chống lại triều đình, Lê Văn Khôn cho người sang cầu cứu Xiêm, được nhà vua Xiêm cho đại quân thủy bộ chia làm 3 đường tiến vào Hà Tiên – Châu Đốc, Nam Vang và Quảng Trị – Nghệ Tĩnh nhưng nhanh chóng bị quân đội nhà Nguyễn đẩy lùi.

Ngay sau đó, Trương Minh Giảng sai Đội trưởng Dương Quan Thảo mang thư đi Xiêm. Tướng Xiêm là Chất Tri tiếp nhận, hậu lễ tiễn về và nói: – Việc xảy năm ngoái nước Xiêm vốn không có bụng nào, mà chỉ bởi vua Chân Lạp xin cho hai người em về nước, nên nước Xiêm mới hộ tống về, không ngờ vua Chân Lạp chạy trước, thành thử sinh ra lắm chuyện. Đến khi quan quân tới, quân Xiêm lập tức rút đi. Nay được thư, rất lấy làm hả. Bèn phúc thư gửi Thảo, nhưng Thảo cãi lẽ không chịu nhận. Người Xiêm không khuất phục được, đành dặn rằng sau khi Thảo về, Xiêm sẽ cho người đệ thư sang sau. Giảng đem hết mọi việc tâu lên. Vua phê: – Việc trước đã rõ. Nếu họ có sang nên tiếp đãi thân thiện! Rồi bổ thụ Dương Quan Thảo làm Cai đội thuộc tỉnh trật Chánh lục phẩm, lại thưởng 30 lạng bạc và một bộ quần áo.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.182.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Giáp Ngọ)

 769. Viên ngoại lang bộ Binh Dương Huy Kiều được bổ Đốc học Sơn Tây

Ông là người xã Cảo Đỉnh (Bắc Từ Liêm – Hà Nội), Hương cống khoa Đinh Mùi (1807).

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.218.

 770. Dương Phúc Tứ huấn luyện binh sĩ cách bắn đại bác

Đề phòng nghĩa quân Lê Văn Khôi có thể phá thế vây thành, quân triều đình nhận được lệnh chia làm 2 ban, ban nào được ra ngoài nghỉ ngơi thì đóng doanh trại ở phía trái và gần nhau để khi có đông có thể ập đến hội tiễu. Ngoài lũy lại cho cắm chông chà và rắc gai, ngày đêm đề phòng. Các tấn sớ đều phải trang bị nhiều đuốc hỏa chiến, đề phòng voi chiến của đối phương là có thể dễ dàng khống chế, làm mất uy lực tượng quân. Quân triều đình lại phải chuẩn bị sẵn sàng các hạng đại bác và các ổ đạn liên châu để khi cần thì bắn. Sức mạnh của Lê Văn Khôi lúc này chỉ còn trông nhờ vào 6 thớt voi chiến. Nếu muốn phá được thế vây thành thì phải từ cửa lũy mà xông ra chứ không tài nào vượt đánh trường lũy được, vì vậy nên nhân lúc đêm tối ngầm đào hầm hố ngoài cửa lũy, đặt nhiều chông sắt để bẫy voi. Mặt hố phải gác gỗ, phủ đất và cỏ cho bằng phẳng vừa để binh lính đi lại an toàn nhưng đủ làm cho voi bị sập cạm.

Nhận thấy lâu nay việc bắn đại bác chưa đúng, nhà vua sai Thự phó Vệ úy Vệ loan giá Tôn Thất Tiên đem ngay khẩu đại bác Phá địch đại tướng quân y theo độ số thước tấc tầm súng nhằm bắn vào những nơi chứa gạo, muối, đạn dược và quân binh quần tụ ở trong thành. Thị vệ Dương Phúc Tứ mang 4 chiếc thước súng đồng và 1 chiếc thước sắt thử thuốc súng, chia phát và huấn luyện cho các pháo thủ tuân thủ để bắn trúng đích.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.255.

 771. Thủ lĩnh nghĩa quân Sơn Tây Dương Đình Bội bị bắt

Ông có mặt trong đội ngũ nghĩa quân Ba Nhàn – Tiền Bột khá sớm và được cử làm Tiền quân quản lĩnh Thương đạo quân mã. Với chủ trương phối hợp với lực lượng của Nông Văn Vân đánh chiếm đồn Đại Đồng (Châu Thu – Tuyên Quang), Dương Đình Bội và Ba Nhàn có mặt tại mặt trận vào ngày 8 tháng Sáu – Giáp Ngọ (14-7-1834) nhưng không hợp được lực lượng như ước hẹn. Nhận được tin mật báo, Thự Phó vệ úy Tả vệ Hưng Hóa là Nguyễn Văn Quỳnh đem quân tới Đại Đồng, Trấn An. Dương Đình Bội và hơn 80 nghĩa quân bị bắt.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.259-260.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Giáp Ngọ)

 772. Các Suất đội, Cai đội họ Dương được thăng thưởng

Lực lượng của Nông Văn Vân trước kia lấn xuống Khâu Lĩnh, Trình Môn khiến cho Lãnh binh Thái Nguyên Tống Văn Trị đóng quân ở Cao Khâu, cách sông cầm cự. Nghĩa quân chia đóng 2 trại bắn nhau với quan quân. Đêm đến, Tống Văn Trị sai quyền Vệ uý Trung vệ Bắc Ninh là Nguyễn Hiếu đem 200 kỳ binh lội sông đánh úp vào trại đối phương. Suất đội Dương Văn Thuyết xông lên trước, sấn vào, nổ súng đánh ập lại, khiến địch quân sợ, tan vỡ. Hay tin quân triều đình thu được thắng lợi quan trọng, Vua dụ rằng: – Trước đây, Tống Văn Trị vô cớ rút quân, để giặc được lấn xuống Bắc Cạn; nay quan quân lại hay đặt kế đánh úp lấy lại được đồn, thực đáng khen thưởng. Vậy thưởng: Nguyễn Hiếu quân công gia 1 cấp và 1 đồng kim tiền Phi long nhỏ; Dương Văn Thuyết, trước dưới tên có ghi bị giáng 2 cấp, nay cho khai phục cả, lại thưởng thêm 5 đồng Ngân tiền Phi long lớn và 1 chiếc áo đoạn tơ đậu tám sợi. Biển binh, đều được thưởng kỷ lục và tiền bạc có từng bậc khác nhau. Tống Văn Trị điều khiển được việc, chuẩn cho miễn hết tội trước.

Ngoài ra, Suất đội Dương Văn Diện, Cai đội Dương Đình Lâm vì có công trạng cũng được cho làm Thành thủ úy.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.301-302, 312.

        Tháng 9 (tháng Tám – Giáp Ngọ)

 773. Tú tài Nam Kỳ Dương Văn Xướng được bổ dụng

Dương Văn Xướng cùng các Tú tài Trương Công Bình, Lê Văn Hòa từ Nam Kỳ ra thi phụ tại trường thi Thừa Thiên không đỗ nhưng vẫn được Hoàng đế Minh Mệnh khen là người có chí, ban cho đi thăm thú văn vật ở Kinh đô và sai bộ Lại chia bổ cho các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên theo ngạch Cử nhân, Giám sinh và được hưởng lương tháng.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.320-321.

        Ngày 24 tháng 10 (22 tháng Chín – Giáp Ngọ)

 774. Dương Công Bình thi đậu Cử nhân

Khoa này bắt đầu đặt các quan Khoa đạo, Giám sát ở nội trường, ngoại trường mỗi chức một viên. Bắt đầu định phép thi ba kỳ. Kỳ thứ nhất thi chế nghĩa bằng lối văn bát cổ, sĩ tử làm bài một đề về kinh, một đề về truyện. Kỳ thứ hai thi thơ phú, thơ thì thị hương dùng thể Đường luật thất ngôn, thi hội dùng thể Đường luật ngũ ngôn, phú thì tám vần theo thể đời Minh, Thanh. Kỳ thứ ba thi văn sách một bài. Phúc khảo thi hương thì ra một đề biểu mừng. Mấy năm sau, định lệ bài sách vấn thi điện không phải chép đầu bài, chỉ cần theo đầu bài đã in phát cho mà làm. Từ đó về sau văn sách thi hương cũng chỉ cần xem đầu bài đã niêm yết trên bảng chép lại, không cần viết vào quyển thi.

Từ năm thứ 15 (1834) định lệ sĩ tử các tỉnh từ Quảng Bình tới Phú Yên thi chung ở trường Thừa Thiên, sĩ tứ các tỉnh từ Khánh Hòa vào Nam thi chung ở trường Gia Định, đều thi vào tháng Bẩy. Kế vì Nam Kỳ trước đó có biến động, sĩ tử chưa có thời giờ học tập theo cách thức mới nên cho trường Gia Định triển hạn một lần, nhưng nếu có người học giỏi có tài, có chí tiến thủ cũng cho thi gộp vào với trường Thừa Thiên

Lại chia phách bằng màu: sĩ tử Thừa Thiên phách màu vàng, Quảng Bình phách màu xanh, Quảng Trị phách màu đỏ, Quảng Nam phách màu đen, Quảng Ngãi và Bình Định màu đỏ sẫm, các tỉnh từ Phú Yên trở vào đều dùng phách màu lục. Định giải ngạch lấy đậu là 30 người, trong đó phách màu vàng, xanh, đen, đỏ sẫm mỗi loại lấy 6 người, phách màu đỏ 4 người, phách màu lục 2 người, nhưng cũng tùy vào văn lý, mà thêm bớt.

Trường Hà Nội thi vào tháng Chín, ngày 1 vào trường 1; ngày 6 vào trường 2; ngày 12 vào trường 3; ngày 22 xướng danh ra bảng.

Dương Công Bình dự thi tại trường Hà Nội, mà năm đó trường Hà Nội, Thanh Hóa, Ninh Bình thi chung, lấy đỗ 23 người.

Tuần phủ Hưng Yên Đặng Quang Khanh làm Chủ khảo; Bố chính Nam Định Ngụy Khắc Tuần làm Phó chủ khảo.

Năm đó cũng là năm bắt đầu cho Khoa đạo giám sát trường sở, nội trường 1 người, ngoại trường 1 người. Lại đổi định phép thi chỉ 3 trường: trường 1: 1 đề Kinh nghĩa, 1 đề Truyện hoặc kiêm đều được, dùng thể văn thời Minh – Thanh, mỗi thiên hạn dùng ngoài 250 chữ. Trường 2: thơ thất ngôn; phú thể thời Minh – Thanh, phú hạn ngoài 250 chữ. Trường 3: 1 đạo sách vấn, dựa theo văn sách Trạng nguyên thời Minh – Thanh ra đề, khoảng trên đưới 300 chữ; Hành văn hạn ngoài 1000 chữ; Phúc hạch dùng 1 đề biểu kim tiên.

Năm Mậu Tuất (1838) Dương Công Bình thi đậu Phó bảng.

Nguồn: T28, tr.240-241; Q4, tr.176-184.

        Tháng 10 (tháng Chín – Giáp Ngọ)

 775. Dương Tĩnh, Dương Đôn Cương được vinh danh tại Từ Vũ Yên Lạc

Bản huyện Tiên hiền biký/ Tu lý Từ vũ bi ký tạo năm Minh Mệnh 15 do Tri huyện Yên Lạc, Cử nhân Nguyễn Khắc Trạch soạn dựng tại Văn từ bản huyện, xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thị trấn Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi

Từ chỉ của huyện Yên Lạc thiết lập ở xã Thụ Ích có từ lâu đời. Ấp đó vốn là nơi sản sinh các bậc giáp khoa và văn thân, cũng là nơi văn hội trong bản hạt đề xuất chọn đất nơi đây dựng đền tế lễ vào ngày Đinh của tiết xuân thu, thờ tự Tiên hiền đỗ đại khoa, phối thờ Tiên hiền là người đỗ trung khoa. Khắp vùng mừng vui ngẩng nhìn tư văn sáng láng, hẳn là nơi danh ấp, thích nghi với việc lễ, thuận lợi cho công việc.

Gần đây kẻ sĩ trong hạt chưa mấy người được lĩnh giải, nền Từ chỉ cũ cũng trải năm tháng lâu xa nên đổ nát. Lòng người tốt có sẵn, còn tiền nhân thì không có nơi chiêm bái. Khắc Trạch tôi đích thân đến đó, thấy bùi ngùi trong lòng, bèn bàn bạc với mọi người trong huyện dựng lại Từ vũ. Dựng lại thì tất phải di dời đến nơi yên tĩnh, dời là phải dời khỏi nơi đất cổ. Từ xưa đến nay, vốn sùng chuộng đạo học, văn nhân ngưỡng mộ, áo mũ sum vầy, cảnh thổ sầm uất, lấy cái tinh anh mà phát huy thành tốt đẹp, lấy cái lớn làm phấn chấn văn phong, tạo thành thiện tục. Tuy nói đạo thường hiếu đức sẵn có trong ta, vững bền tốt đẹp, nhưng cũng nhờ thần minh phù trợ. Về sau khoa đồ kế bước, bào hốt thơm tho bước lên Từ vũ này hẳn sẽ thấy to lớn. Ấy là hy vọng vào hậu nhân của ta.

Ngày khánh thành, mọi người trong huyện xin khắc họ tên, khoa thứ của các vị Tiên hiền đỗ đại khoa của huyện vào bia để truyền lâu dài về sau. Nhân đây khắc gộp vào phía sau của bài ký”

Danh sách Tiên hiền trong huyện được Hậu thư Dương Công Tiết ghi chép.

Nguồn: T12, tập 15, N014894-95.

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Ngọ)

 776. Cai đội Dương Đình Cẩn được ban khen

Nguyễn Công Trứ, Tham tán đạo Thái Nguyên, tâu nói: – Quân đạo Thái Nguyên còn đóng ở Hồng La. Bọn giặc hằng ngày tới vây đánh. Bọn thần phái binh ra bắt thì giặc bèn chạy, rồi lại dựa vào núi cao, thủ hiểm, mưu chặn con đường đi lại. Một hôm, giặc đến thẳng gần chỗ quân thứ, hai mặt tả và hậu, hò la bàn súng; có tên đầu mục giặc đứng chỉ huy ở trên núi đá, Dương Đình Cẩm, Cai đội tỉnh Thái Nguyên, lấy súng điểu sang bắn một phát, nó chết ngay. Giặc bèn chạy trốn vào rừng sâu, ta đuổi không được. Nay bốn phía Hồng La đều đã êm lặng, từ Chợ Rã đến quân thứ, đi lại được như thường.

Hoàng đế Minh Mệnh ban dụ:

“Cai đội Dương Đình Cẩm bắn súng giết được tên đầu mục giặc, ai cũng trông thấy, làm cho lòng người hăng hái, nén được khí thế sắc bén của giặc. Trước đã thưởng cho ngân bài và ngân tiền, nay lại thưởng thêm một chiếc áo trận đậu năm đường tơ và bộ hà bao gấm, để nêu chiến công. Các Quản vệ, Quản cơ đi trận ấy, đều thưởng quân công kỷ lục một thứ”.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.425-426.

        NĂM 1835 (GIÁP NGỌ – ẤT MÙI)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Giáp Ngọ)

 777. Đốc vận Dương Văn Loan rời hàng ngũ Nông Văn Vân

Trước sức mạnh của đạo quân Thái Nguyên do Tổng đốc Nguyễn Đình Phổ chỉ huy và đạo quân đánh vào Bắc Nậm – Cổ Đạo dưới quyền Tham tán Nguyễn Công Trứ, nhiều thủ lĩnh của phong trào như Đốc vận Dương Văn Loan,Tả uy Quản cơ Ma Đạt Trung, Hiệp quản Tiền thắng lữ Ma Văn Tú đã đem tay chân, vũ khí, lương thực giao nộp, đầu hàng. Được tin, vua Minh Mệnh cho rằng đây là những nhân vật tai mắt, rất quan trọng của nghĩa quân

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.434.

        Tháng Ba (tháng Hai – Ất Mùi)

778. Dương Văn Khoa thăng cấp nhờ chiến công

Gặp lúc thổ dân Bình Thuận khởi biến, Tỉnh đã phái Thí sai Quản cơ Tả cơ Thuận – Ngũ Dương Văn Khoa và Phó quản cơ Hữu cơ Trương Văn Bình đem quân đánh dẹp. Liên tiếp lập công ở Lịch Giang, Mường Xuân, Thuận Mai, Hàm Thuận nên Dương Văn Khoa được thăng Phó lãnh binh Bình Thuận.

Tháng 5-1835, Dương Văn Khoa bị bệnh nặng trong quân, trên đường về Kinh thì mất.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.520, 553, 557, 566, 585, 635.

        Tháng 4 (tháng Ba – Ất Mùi)

 779. Dương Phúc Tứ được thưởng Ngân tiền

Lo ngại vòng vây quanh thành Phiên An ngày càng thắt chặt, sớm muộn thành lũy cũng bị công phá, Thủ lĩnh Nguyễn Văn Chẩm cho binh quân chuẩn bị cơm muối để phá vòng vây bằng cách mở lối trường lũy ở góc sau bên phải theo Thượng đạo mà ra. Điều bát Hàm được giao cầm đầu toán cảm tử đông tới 300 người đang đêm bắc thang lên lũy còn Nguyễn Văn Chắm chuẩn bị voi chiến, dẫn vợ con Lê Văn Khôi theo sau.

Quân triều đình nhờ được trau dồi kỹ thuật bắn đại bác nên khi có động đã nhanh chóng làm chủ chiến trường, tiêu diệt Thống đồn Nguyễn Văn Hòa và hàng trăm lính cảm tử, thu nhiều súng đạn. Sau trận này, Thị vệ Dương Phúc Tứ được thưởng 3 đồng Ngân tiền Phi long loại lớn.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.559-560.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Ất Mùi)

 780. Dương Phúc Tứ với việc hạ thành Phiên An

Được giao mang tờ mật tấu về Kinh, Dương Phúc Tứ đã vượt qua một quãng đường dài đầy hiểm nguy, hoàn thành việc các Tướng quân, Tham tán và Lãnh binh ở Quân thứ Gia Định trình bày với Hoàng đế Minh Mệnh: – Biền binh ở tấn phận, bốn mặt thành đào khoét góc thành, đục phá vỡ thân thành, đều đã đào đến tầng luỹ thứ hai của giặc; hiện đang sửa đắp đường lên có bậc để đến kỳ đánh thành, dễ trèo lên. Những thuốc đạn đem đến cũng đã đủ dùng. Các khí giới đánh thành lần lượt đầy đủ. Quân ta nhiều lần được thưởng cấp ưu hậu đều muốn tranh nhau giết giặc, tinh thần hăng hái gấp trăm lần. Cái cơ tiến công tưởng chẳng nên hoãn. Bọn thần đã hội đồng bàn định: trước hết tư lấy tù phạm ở các tỉnh Nam Kỳ hiệp cùng những tên đã ra thú ở các tấn sở, sung làm quân tiền khu. Rồi bọn thần thân đốc tướng tá sửa soạn khí giới, đợi ngày nào tù phạm được đưa đến, sẽ lập tức tuỳ cơ đánh thành, để cho được việc.

Nhận được mật tấu, nhà vua ban Dụ:

“Quân giặc khốn đốn, cố giữ cô thành lâu đến 3 năm, để tướng sĩ ta phải gối giáo, nằm trên áo giáp, lao khổ đã lâu; quân, dân gan óc lầy đất ! Ai chẳng đau đầu buốt ruột, quyết chí giết giặc? Vậy ai nấy đều nên một mạch thẳng tiến, để mong tất thắng. Nếu kẻ nào rụt rè chùn lại, thì dùng quân pháp trị ngay. Vậy đội trưởng và quân lính mà chùn lại thì cho quản vệ, quản cơ chém đầu; Quản vệ, Quản cơ và Lãnh binh mà chùn lại thì cho Tướng quân, Tham tán chém đầu để nghiêm quân luật. Nếu Tướng quân và Tham tán điều khiển có chỗ không chu đáo, hoặc đến nỗi chưa thắng được ngay, thì phép nước rất nghiêm, trẫm quyết đem xử tướng quân và tham tán cho đúng pháp luật, chứ không khoan tha được. Nay, quân đã khoẻ, ngựa đã no, áo giáp đã kiên cố, khí giới đã sắc bén, đem sức quân đang toàn thịnh đánh lấy cái cô thành đang thoi thóp, thực là như đá chọi trứng, không có lý nào không thắng được. Các Tướng quân, Tham tán và Lãnh binh cho đến các tướng biển binh dõng, cần nên gắng sức, đồng lòng sớm báo thành công để đón lấy phần thưởng to nhất. Trẫm hằng ngày, trông mong cờ hồng báo tin thắng trận”.

Nhận được lệnh, ngày hôm ấy, Tả tướng quân Nguyễn Xuân đốc suất đánh góc tiền hữu, thự Hữu tướng quân Phạm Hữu Tâm đốc suất đánh góc hậu tả, Tham tán Hồ Văn Khuê và Tổng đốc Nguyễn Văn Trọng đốc suất đánh góc hữu hậu, Tham tán Trần Văn Trí và Khâm phái Nguyễn Tri Phương đốc suất đánh góc tả tiền, Tham tán Nguyễn Công Hoan đốc suất đánh góc hữu tiền, Lãnh binh Mại Công Ngôn đốc suất đánh góc tả hậu, Lãnh binh Lê Sách đốc suất đánh góc hậu hữu, Lãnh binh Trần Hữu Thăng đốc suất đánh góc tiền tả. Còn pháo đài giữa thành, phái riêng bọn quản vệ chia nhau đốc chiến. Ai nấy trông theo cờ hiệu, nhất tề đánh phá. Hai đạo tiền tả, tả tiền lên thành trước nhất; thứ đến hữu tiền tiền hữu; lại thứ nữa đến tả hậu, hữu hậu, hậu tả, hậu hữu và các trung đài. Đối phương đem nhau chống cự. Quan quân thúc trống, reo hò, xông vào, ra sức đánh dữ: phúc chốc lấy lại được thành, bắt hoặc chém được 1832 nhân mạng, không sót một người nào.

Vua đương ngự lầu Vô Hạn ý, được tin cả mừng, sai truyền tin thắng trận ra bốn phía ngoài thành. Quân dân, già, trẻ dọc đường mừng vui, reo hò như sấm, tưởng đến vỡ chợ.

Vua bèn chính mình làm bài thơ để ghi sự việc. Thưởng cho người tiếp nhận cờ đỏ là Thị vệ Trịnh Ngọc Đặc, người đọc tin thắng trận là Tư vụ bộ Binh Lê Xuân Hậu mỗi người 1 thứ kỷ lục, 1 đồng Minh Mệnh kim tiền và 5 đồng ngân tiền Phi Long hạng lớn.

Lại xuống dụ hãy trước thưởng tiền cho Tướng quân, Tham tán, đến các tướng biển binh dõng có thứ bậc khác nhau. (Tướng quân đều 80 quan; Tham tán đều 60 quan; Lãnh bình đều 30 quan; Quản vệ đều 20 quan; Quản cơ, Phó quản cơ, quyền sung Quản cơ đều 10 quan; các Đội, Chánh đội trưởng, Suất đội và Ngoại uỷ Suất cơ đều 5 quan; Chánh đội trưởng, Đội trưởng và Quyền sai, Thí sai suất đội đều 3 quan; Chánh đội trưởng, Đội trưởng không cầm quân và Ngoại uỷ suất đội đều 2 quan; bình dõng đều 1 quan). Lại cho rằng các trạm chạy đưa rất nhanh chóng, bèn thưởng cho những lính trạm làm việc chuyển đệ chính đều 4 quan, lính trạm chuyển đệ phụ 2 quan, các trạm đều 1 tháng tiền lương.

Vua dụ Nội các rằng: – Tứ đẳng thị vệ Dương Phúc Tứ, trước đây lĩnh mang mật tập về tâu, trong tập không nói rõ ngày đánh thành, Phúc Tứ tâu tận mặt rằng quân thứ định 16 tháng này thì đánh thành, chắc là thành công. Trẫm xét lời hắn nói rõ ràng quả quyết nên chuẩn ngay cho hạ lệnh đánh thành, liền đó tiếp được cờ đỏ báo tin thắng trận, quả đúng ngày hôm ấy, một trận là xong. Vả lại việc này có quan hệ đến quân cơ, nếu nói không đúng, thì phải tội không nhẹ. Nay đã đúng như lời nói, cũng nên khen thưởng ưu hậu. Vậy thưởng ngay cho Dương Phúc Tứ 5 đồng ngân tiền Phi Long hạng lớn; lại thưởng cho thăng chức, được dùng như cai đội Cẩm y, gặp có khuyết sẽ bố ngay.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.712-715.

        Tháng 9 (tháng Tám – Ất Mùi)

 781. Hoàng đế Minh Mệnh ban dụ khen ngợi Dương Đình Cẩm

Trong Thông dụ thổ dân các tỉnh Bắc Kỳ của nhà vua hồi tháng Tám – Ất Mùi, có đoạn:

“Nông Văn Vân, ông cha đều chịu ơn nước, bản thân Vân cũng có quan chức, thế mà chẳng nghĩ yên phận, giữ phép, lại manh tâm kia khác, tụ họp những kẻ hung ác xấu xa nổi lên, khác gì bọ ngựa chống xe! Quan quân 3 đạo giáp công, lùng khắp rừng sâu đốt chết, đưa đầu Vân về Kinh, còn bè đảng giặc như Bế Văn Huyền, Nông Văn Nghiệt, Nguyễn Khắc Hoà, Nguyễn Khắc Thước, hoặc bị bắt hoặc bị chém, chẳng sót một người nào. Đó há chẳng phải vì chúng tự làm nên tội? Nếu trước kia biết chút phải trái, liệu đường nên bỏ, nên theo thì sao đến nỗi mắc vào tội lớn phản nghịch ấy! Kẻ cầm đầu thì thân chịu chém giết, tội đến vợ con, kẻ tùng đảng thì chịu chết đói xó rừng, mắc phải mũi gươm, hònđạn; cá ao, cây rừng vì nạn lửa cháy vạ lây đến kẻ vô tội! Nếu bảo vì bị quan tham lại nhũng sở tại bức bách, thì sao chẳng đến quan trên cai trị mà kêu xét xử? Tại sao chẳng vào kinh vua đầu đơn kiện sẽ được lập tức xét rõ oan ức. Lại cam tâm theo giặc để mắc vào luật pháp, sao cực ngu đến thế? Vả, một phen xuẩn động, những kẻ ngu dại theo giặc, cố nhiên chẳng đáng nói. Trong đó còn có những thổ ty, trổ sức vì triều đình, cũng chẳng thiếu gì người, chẳng hạn như: Phạm Công Ban ở Thanh Hoa, cha con Quách Tất Chuyên ở Ninh Bình, Đinh Công Trọng và Quách Công Nhị ở Sơn Tây, Nguyễn Kim Báo và Nguyễn Đình Hán ở Hưng Hoá; Ma Doãn Bồi, Nguyễn Văn Biểu, Lương Bá Tuyển và Nguyễn Khắc Khoan ở Tuyên Quang; Dương Đình Cẩm và Hoàng Doãn Nhu ở Thái Nguyên; Nông Trung Đức và Nông Sĩ Nguyên ở Lạng Sơn, Trình Văn Châu, Ma Ngọc Lý cùng với 39 xã thôn thuộc huyện Thượng Lang, Hạ Lang, Thạch Lâm, Quảng Nguyên ở Cao Bằng: hoặc theo quan quân sai phái làm việc đánh giặc, hoặc tụ tập thổ dõng giết giặc lập công. Đến khi thành công, triều đình đền bù: hoặc cho ấm hàm, hoặc cho quan chức, hoặc thưởng áo mặc để tỏ sự yêu quý, hoặc ban tấm biển để biểu dương. Đâu đâu cũng được quang vinh, tai mắt người ta đều nghe thấy đó”.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.741.

        Tháng 12 (tháng Một – Ất Mùi)

 782. Huấn đạo huyện Đan Phượng Dương Bá Cung soạn văn bia Văn miếu phủ Quốc Oai

Trùng tu Quốc Oai Văn miếu bi tạo năm Minh Mệnh 16, đặt tại xã Đại Phùng, tổng Đan Phượng Thượng, huyện Đan Phương, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Đan Phượng – Hà Nội) ghi rằng:

Văn miếu của phủ Quốc Oai đặt tại xã Đại Phùng huyện Đan Phượng, được dựng từ đời Lê, gồm 9 gian tường gạch mái ngói. Trải qua thời kỳ chiến tranh, văn miếu bị hư hỏng. Một năm sau khi nhà Vua lập ra tỉnh hạt mới, quan họ Bùi người Hoan Châu về trị nhậm địa phương bàn với các quan bản huyện đóng góp lương bổng, giao cho quan Thông lại Ngô Gia Quí cai quản việc tu sửa, bắt đầu làm từ năm Giáp Ngọ, qua đến năm Ất Mùi thì hoàn thành. Cuối bia ghi tên họ những người đóng góp, cung tiến và các thửa ruộng thờ của văn miếu.

Nguồn: T12, tập 3, N02699-700.

        NĂM 1836 (BÍNH THÂN)

        Trong năm

 783. Dựng bia về việc giỗ chạp tại Từ đường họ Dương

Bia thứ nhất không có tiêu đề, tạo năm Minh Mệnh 17, để tại Từ đường họ Dương, xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi, các ông Dương Ngô Đỉnh, Dương Ngô Tảo, Dương Ngô Miên, Dương Ngô Đỗ, Dương Ngô Bối và các bậc trên dưới trong họ, xét thấy, ông Dương Ngô Chẩn họ ta, tính tình ôn hoà, chất phác thực thà, đã có hằng tâm cung tiến ruộng, giao cho bản tộc luân canh, xin gửi giỗ tại từ đường cho Dương công, tự Phúc Vĩ, và bà Đoàn thị, hiệu Diệu Nhu, tiên linh nội ngoại đều được phối hưởng. Bản tộc thuận tình, kê ngày giỗ của hai người vào bia, cúng giỗ theo như lệ đã định.

Tấm bia thứ hai có tiêu đề Hậu kỵ bi ký tạo cùng thời điểm và dựng cùng địa điểm ghi, họ Dương xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai gồm các ông Dương Ngô Thiệp, Dương Ngô Đốc, Dương Ngô Thổn, Dương Nhô Thông và 4 người nữa lập bia ghi việc bà Dương Thị Phúc, hiệu Diệu Điều, yêu cha, kính trưởng, thương xót người nghèo, không thể không tế bần, từ cụ già đến trẻ nhỏ, ai ai cũng đều kính yêu. Bởi vậy hội họp nhất nhất thuận tình cho gửi Hậu tại Từ đường, Bà lại cung tiến 1 mẫu 3 sào ruộng, tiền 40 nguyên, để bản tộc dùng vào việc cúng giỗ. Khi Hậu còn sống, hàng năm các lễ cúng tế đều được kính biếu. Khi Hậu qua đời, làm giỗ và cúng lễ các tiết, theo như lệ đã ghi trong bia.

Nguồn: Đ12, tr.686-688.

        NĂM 1837 (ĐINH DẬU)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Đinh Dậu)

 784. Thủ lĩnh Dương Ba An bị bắt và sát hại

Tháng 11-1834, tại Quảng Yên, Hoàng Ất An và Dương Ba An đưa thư thông với tên phạm sổng trốn ở châu Tư Lục nhà Thanh là Vũ Tiến Hiền (trước đồng loã với Nguyễn Khắc Thước) hẹn đến hội ở phố Na Dương để khởi ngụy và uỷ cho Hoàng Viết Châu, người nhà Hoàng Bảo Kiểm là đồ đảng (Kiểm, người châu Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn) truyền đệ thư đi, bị Vi Thế Đường, Thổ ty ở tấn sở Trĩ Mã, xét hỏi bắt được đem nộp. Thự phủ Trần Văn Tuân lập tức mật sai người làm bắt được Hoàng Bảo Kiềm.

Việc đến tai vua. Vua dụ rằng: – Nghịch phạm là Hoàng Ất An và Dương Ba An trước đã âm mưu làm giặc, từng bị quan quân đánh giết, tan tác không còn sót tên nào. Nay lại tụ họp bọn vô lại, đưa thư thông tin, cùng mưu toan làm việc trái phép. Vi Thế Đường xét hỏi bắt được, rất đáng khen. Chuẩn cho thưởng thụ Đội trưởng thuộc tỉnh, vẫn giữ tấn sở Trĩ Mã, và thưởng thêm cho 20 đồng Ngân tiền Phi long hạng lớn. Những người làm việc bắt giặc thì thưởng cho tiền bạc có thứ bậc khác nhau.

Khi Dương Ba An bị bắt và sát hại ở Quảng Yên, những người lập công đều được ban thưởng.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.375; tập Năm, tr.14.

        Ngày 6 tháng 3 (30 tháng Giêng – Đinh Dậu)

 785. Ngô Thế Vinh viết lời tựa cho bộ Ức Trai di tập do Dương Bá Cung tập hợp, biên khảo

Ông người làng Bái Dương, tổng Bái Châu, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Nam Dương, Nam Trực – Nam Định), Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829) từng trải qua các chức Lang trung bộ Lễ, Hàn lâm viện Biên tu, Tri phủ Định Viễn. Khi làm Giám khảo kỳ thi Hương ở trường thi Hà Nội, do duyệt quyển không kỹ, ông bị cách chức, về quê dạy học và phụng dưỡng mẹ già.

Năm 1834, Dương Bá Cung mang di cảo của Nguyễn Trãi đã được Nguyễn Năng Tĩnh sắp xếp, kiểm định, viết lời tựa nhờ Ngô Thế Vinh hiệu đính, bình chú, viết lời tựa. Sau khi có kết quả, Dương Bá Cung đã để ra hàng năm tu chính theo sự gợi mở của Ngô Thế Vinh. Năm 1836, một lần nữa, Cấn Đình lại mang tác phẩm được coi là hoàn thiện để xin lời tựa của Ngô Thế Vinh và bàn cách khắc in, công bố Ức Trai di tập.

Nguồn: D1, tập 3, tr.519-520.

        Tháng 6 (tháng Năm – Đinh Dậu)

 786. Hoàng đế Minh Mệnh chuẩn cho dân phủ Tây Ninh đặt họ trước tên gọi

Tổng đốc Định – Biên là Nguyễn Văn Trọng tâu nói: – Thuế thân các xã thôn mới đặt thuộc phủ Tây Ninh, nộp thay bằng dầu rái, nhựa trám, có nên theo ân chiếu cũng như người Kinh, đều được quyền hoãn không, và xin ban cho chữ tên họ, để phân biệt nòi giống.

Vua nói rằng: – Dân Man ấy đã thuộc về đồ bản sổ sách của triều đình, thương dân như một, há nên chia rẽ khác, về lệ nộp dầu nhựa năm nay cũng gia ân tạm hoãn 5 phần 10, còn như ban cho họ thì cho chép ra 1 tờ kê các họ liệu mà ban cho (như các chữ Lý, Đào, Dương, Hạnh, Ngưu, Đường, Tượng, Mã v.v…)”.

Lại nghĩ hạt phủ ấy đất nhiều chỗ bỏ không, cho lấy lính cơ đóng giữ và một nửa thổ binh mới tuyển cho đi khai khẩn, nhà nước cấp cho canh ngưu điền khí, thóc giống, hàng năm thu hoạch xong, đem thóc chứa vào kho ở phủ.

Nguồn: Đ8, tập Năm, tr.99; Q3, tr.205.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Đinh Dậu)

 787. Võ quan họ Dương thăng tiến

Đó là Phó vệ úy Dương Đình Lâm thăng Vệ úy Vệ minh vũ dinh Thần cơ (tháng 12-1841 thăng Phó Lãnh binh Quảng Nam); Dương Thiều thăng Phó lãnh binh Gia Định (tháng 5-1840 là Phó Lãnh binh Phú Yên); Dương Văn Thuận thăng Phó vệ úy Tả dinh Tiền phong (tháng 5-1841 chết trận, truy tặng hàm Cấm binh Phó vệ úy); Dương Văn Thái thăng Vệ úy Tả thủy Thủy sư Thanh Hóa; Dương Văn Chiêu thăng Phó vệ úy vệ Hậu nhi đình Vũ lâm; Dương Văn Khải thăng Phó vệ úy vệ Quảng Bình; Dương Văn Hựu thăng Phó quản cơ.

Trong năm này có Thái giám Dương Uy xin về quê Thanh Hóa phụng dưỡng cha mẹ già.

Nguồn: Đ8, tập Năm, tr.136, 151, 241, 327, 361, 429, 507, 698; tập Sáu, tr.136, 151, 241, 327, 361, 429, 507, 698; tập Sáu, tr.123, 237, 368.

 788. Triều đình trọng dụng Dương Đình Cẩm

Hoàng đế hỏi về cách tiêu diệt Nông Văn Sĩ, Nông Hùng Thạc, Tổng đốc Hải – An là Nguyễn Công Trứ tâu:

“Bọn giặc Sĩ ở hẻo lánh nơi rừng rú, chỗ ấy xa xôi, nhân khi sơ hở, lén lút ra vào bất thường, một khi nghe tin quan quân tiến đến, thì tìm cách ẩn trốn, lùng bắt rất khó, chỉ có Quản phủ phủ Thông Hóa ở Thái Nguyên là Dương Đình Cẩm và Đội trưởng ở Tuyên Quang là Nguyễn Văn Cầu đều là người Thổ đã quen biết mặt giặc, mà lại chịu quen thủy thổ, giao cho bắt giặc, tưởng cũng được việc”.

Vua cho là phải, bèn sai 2 viên quan tỉnh ở Thái Nguyên và Tuyên Quang đòi Dương Đình Cẩm, Nguyễn Văn Cầu đến công đường, truyền dụ rằng: – Bọn ngươi từ trước đến nay, từng vì triều đình gắng sức, đã được giấy khen, nay giặc Sĩ, giặc Thạc còn đương trốn giết, thường thường lẻn ra trộm cướp, làm trở ngại cho dân địa phương, nay kính theo Chỉ dụ, chuẩn cho bọn ngươi cùng nhau để tâm tìm bắt; hoặc tùy cơ tìm cách, giả làm người đi buôn, mật đi theo vết chân, cốt bắt sống được 2 tên phạm ấy, hoặc chém giết hay bắn giết được chúng, đem đầu dâng nộp, lập tức chiểu theo lệ thưởng các năm trước; bắt sống được thì mỗi tên phạm thưởng 800 lạng bạc, chém được thì 500 lạng, thưởng cấp cho, nhưng trước hết phát tiền kho, thưởng cho mỗi người 100 quan, để chiêu mộ thủ hạ ra sức tra bắt”.

Ngay sau chỉ dụ, Dương Đình Cẩm liền bắt được 5 người là bè lũ giặc Thạc ở phận rừng An Lạc, thưởng cho 100 quan tiền.

Tháng Mười – Đinh Dậu (11-1837) Dương Đình Cẩm lại được thưởng 5 đồng Ngân tiền Phi long hạng lớn.

Nguồn: Đ8, tập Năm, tr.127-128, 177.

        Ngày 28 tháng 11 (1 tháng Một Đinh Dậu)

 789. Dương Danh Thành, Dương Công Bảng thi đậu Cử nhân

Mở khoa thi Hương ở Hà Nội, Nam Định (lệ trước lấy tháng 9 là kỳ thi, đến nay vì nước lụt mùa thu mới xuống, người đi thi khổ về bùn lội, mới định lại lấy tháng 10 để làm lệ mãi).

Sai Nguyễn Đình Tân, Bố chính Nghệ An sung làm Chủ khảo trường Hà Nội; Trần Ngọc Dao, thự Bố chính Hưng Yên sung làm Phó chủ khảo; Đoàn Khiêm Quang, thự Hữu tham tri bộ Lễ sung làm Chủ khảo trường Nam Định; Phạm Khôi, Án sát Lạng Sơn sung làm Phó chủ khảo, lấy đỗ cử nhân tất cả 35 người. Trường Hà Nội 17 người – trong đó có Dương Danh Thành, người Khắc Niệm – Tiên Du (nay thuộc thành phố Bắc Ninh), Dương Công Bảng, người Nhị Khê – Thượng Phúc (nay thuộc Thường Tín – Hà Nội).

Định lại lệ khảo khóa các hạt ở Bắc Kỳ.

Lệ trước hằng năm tháng Tư tháng Mười, xét duyệt học trò, đến nay 2 trường Hà Nội, Nam Định đổi lấy tháng Mười thi Hương. Bèn chuẩn y lời tâu xin của bộ Lễ định lại khóa mùa đông vào tháng Một, khóa mùa hạ vào tháng Năm.

Nguồn: Đ8, tập Năm, tr.170-171.

        NĂM 1838 (MẬU TUẤT)

        Ngày 24 tháng 4 (1 tháng Tư – Mậu Tuất)

 790. Dương Công Bình thi đậu Phó bảng, Dương Danh Thành bị loại Điện thí

Tháng Hai – Mậu Tuất (3-1838), Hoàng đế Minh Mệnh chuẩn định từ đây đến kỳ thi Hội, quan ở Giám sát hạch trước các Giám sinh, không cho hạng kém dự phúc hạch, coi đó là lệ lâu đài và định lại phép thi Hương và thi Hội theo Dụ sau:

“Khoa cử để kén nhân tài, thực có liên quan đến thịnh điển, mà cất nhắc thích đáng, mới mong thu nhặt không sót được nhiều người, từ trước đến nay, điều lệ trường thi Hương thi Hội, nhiều lần đã chuẩn y cho bộ bàn, trong đó chấm xét quyển văn, thi Hương thì lấy ưu, bình, thứ, liệt chia hạng; thi Hội thì lấy phân số định thứ bậc, đến khi suốt cả ba kỳ, quyển nào một kỳ đã phê hạng liệt, hoặc không được một phân thì đều không dự trúng cách. Kìa như tấc bóng ở trường thi, đều có dài như một ngày, gián hoặc có văn lý 2 kỳ rất giỏi, mà chợt có một kỳ an lý không thông hoạt, quan trường đã phê liệt và không dự phân số, thì câu nệ vào thể lệ trường thi đặt ra ngoài Tôn Sơn, như thế không khỏi bỏ sót nhân tài, vả lại chước định lấy hay bỏ, cốt ở hợp suốt 3 kỳ, cân nhắc chất lượng. Nay chuẩn cho quan chấm trường ở trường thi Hương thi Hội theo từng kỳ chấm xét, quyển nào văn lý toàn là lầm bậy không thể lấy được, thì phê hạng liệt và không được một phân, còn thì tuy là tầm thường nhưng chưa đến nỗi sai lầm quá, một kỳ ấy không hại gì, hãy phê hạng thứ hay một phân, để lưu chỗ về sau, đợi đến suốt cả 3 kỳ, nếu 2 kỳ khác văn lý xuất sắc, thì có thể để vào trúng cách, nếu đều không thể lấy được, lúc đó đánh hỏng chưa muộn. Lại như thi Hương, quyển nào 3 kỳ đều dự hạng thứ trở lên, thi Hội quyển nào đã được phân số đủ lệ, mà xét kỹ văn lý bình thường, chưa được lấy làm cử nhân hay trúng cách, thì cũng chuẩn cho giáng làm tú tài hoặc phó bảng, nhưng ở trong bản tâu phải tâu bày rõ ràng, không nên vin vào, lệ lấy đỗ, thành ra quá lạm, từ nay về sau chép vào điều lệ phép thi, để tuân hành mãi mãi”.

Tháng Ba – Mậu Tuất (4-1838) tổ chức thi Hội cho cả nước.

Kỳ thi Hội, cho Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Binh bộ Thượng thư kiêm Cơ mật viện đại thần là Trương Đăng Quế sung làm Chủ khảo; Công bộ Thượng thư là Hà Duy Phiên sung làm Phó chủ khảo.

Khoa này số học trò chỉ có hơn 130 người, cho nên chỉ đặt Chủ khảo mà bớt chức Tri cống cử, còn các chức Giám thí, Tuần sát, Đề điệu, Đồng khảo và thư tả cũng đều giảm bớt số người. Kỳ thi từ ngày tiến trường đến ngày xuất bảng tất cả là 18 ngày. Sắc cho bộ Lễ đem chữ dời gần đây mới chế, để đến kỳ thứ ba in đầu bài phân phát cho học trò, đầu bài chế sách thi Điện cũng theo thế mà làm.

Vua ngự xem trường thị Hội, gặp lúc trời mưa rét, quan trường ra đón, sai ban cho rượu, lại chia cấp cho sinh viên đi thi ăn cơm uống rượu và lò sưởi đệm cỏ, rồi miệng đọc một bài thơ tự viết lấy để bảo.

Thơ rằng:

                      Trời tuyết cho than buổi sớm nay

                      Anh hoa nhả hết, trạng khoa này,

                      Mới hay tùng bách càng ưa rét,

                      Cố gắng cùng nhau báo đức dày

Nhân sự kiện này, vua bảo quan trường Trương Đăng Quế rằng: – Trẫm từ lên ngôi tới nay, để ý trọng việc văn đã lâu, mà học thức của học trò, chưa thấy ngày được cao sáng, là vì thầy, bạn nguồn gốc không bằng đời trước, không phải nhân tài có khác? Vả sự học quý ở có kiến thức, đem ra làm việc mới có thực dụng, bài thi không cần phải tìm tòi sự lạ lùng bí ẩn, dù đem việc hiện nay ra hỏi, nhưng kiến thức sâu hay nông cũng định được.

Đến khi sách dâng lên, lấy trúng cách 11 người – trong đó có Dương Danh Thành, Dương Công Bình. Sau vì cung khai tam đại không thực, Dương Danh Thành bị truất, không được dự thi Điện.

Về lý do Dương Danh Thành bị truất, có mấy sách chép nhưng khác nhau. Lý do như đã dẫn ở trên là ở Đại Nam thực lục chính biên (Đệ nhị kỷ, Q.CXC) Quốc triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục. Ngay sau đó, cũng vẫn Cao Xuân Dục tại Đại Nam chính biên liệt truyện (T.4, Q.XXXIX) lại cho rằng ông thi Hội trúng cách nhưng can viết trang sai lầm, can công lệnh, giao bộ Lại luận tội, lâu rồi được tha.

Phải chăng khi cung khai tam đại, ông nội của Dương Danh Thành được khai là chuyển từ họ Nguyễn sang họ Dương là đúng sự thật nên sau này Cao Xuân Dục khi viết về ông đã bỏ tội man khai tam đại sang sai sót khi can trang?

Nguồn: Đ8, tập Năm, tr.275, 287-288.

        NĂM 1839 (KỶ HỢI)

        Trong năm

 791. Lập giao ước giỗ Hậu vợ chồng Dương Tất Tố

Giao ước bi ký tạo năm Minh Mệnh 20, dựng tại chùa Linh Quang, xã Nội Hoàng, tổng Phấn Sơn, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nội Hoàng, Yên Dũng – Bắc Giang) ghi:

Hương lão thôn Triền, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang là các ông Tống Đình Vạn, Nguyễn Đình Đôi, Nguyễn Đình Phó, Trịnh Đình Suất và nhiều người khác lập giao ước. Nay mừng thấy Dương Tất Tố và vợ Bạch Thị Huyền, người thôn Triền bản xã, có hằng tâm hằng sản, đức trạch kịp đến bản thôn. Ông bà đã cung tiến 70 quan cổ tiền, 6 mẫu 2 thước, 5 tấc ruộng tốt, giao cho dân dùng vào việc chung. Người trong thôn thường nói với nhau rằng, người ấy, đức ấy há không báo đáp sao? Bèn dựng bia ghi lời đoan ước, phàm các tiết nhập tịch, thượng điền, hạ điền, thường tân, đều cho được phối hưởng.

Nguồn: Đ12, tr.754.

        NĂM 1840 (CANH TÝ)

        Ngày 11 tháng 6 (12 tháng Năm – Canh Tý)

 792. Dương Thị Giáp hưng công tạo cột hương chùa Thanh Lam

Thanh Lam tự/ Tạo Thiên đài dựng năm Minh Mệnh 21, đặt tại chùa thôn Phú Hộ, xã Bá Hạ, tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (nay là xã Bá Hiến, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) cho biết, ngoài ông bà đứng ra làm Hội chủ hưng công còn có 30 người cùng tham gia.

Nguồn: T12, tập 16, N015241-42.

        Ngày 15 tháng 9 (20 tháng Tám – Canh Tý)

 793. Dương Thành Ký công đức dựng bia tại đền Bạch Mã

Điệu tất phương đình ký (Bài ký trên bia chạm trổ phương đình) tạo năm Minh Mệnh 21, dựng tại đền Bạch Mã, phường Hà Khẩu (nay thuộc Hàng Buồm, Hoàn Kiếm – Hà Nội) do Giáo thụ, Cử nhân Vũ Đình Cơ soạn cho biết, năm Kỷ Hợi (1839) đã hưng công tu sửa đình vũ, phía trước dựng một ngôi phương đình để làm nơi cho những người đỗ đạt chiêm bái, lại còn trích tiền sơn son thiếp vàng. Ba giáp trong phường đã hết sức cố gắng đâu chỉ để ngắm cho đẹp mắt vì ngoài cái tâm ra, cái đạo cách thần quý nhất là sự kính tín trong lòng, để thông cùng một mối, linh đài xanh đỏ dù có lớn mấy thì sự chứng giám của thần chính là chỗ đó. Vậy vui ghi danh thơm những người công đức.

Nguồn: T21, tr.998-1003.

        Ngày 27 tháng 8 (1 tháng Tám – Canh Tý)

 794. Dương Văn Hiển, Dương Lệ thi đậu Cử nhân

Kỳ thi Hương được tổ chức ở Thừa Thiên, Nghệ An, Gia Định. Triều đình cử Tả tham tri bộ Lễ kiêm quản Quang lộc tự là Phan Bá Đạt sung Chủ khảo trường Thừa Thiên; Thông chính phó sứ biện lý Thương trường là Phan Thanh Giản sung Phó chủ khảo. Tả tham trí bộ Công kiêm quản Hàn lâm viện là Đặng Văn Thiêm sung Chủ khảo trường Nghệ An; Án sát Hải Dương là Hoàng Tế Mỹ sung Phó chủ khảo. Lang trung bộ Binh biện lý việc bộ là Phạm Sỹ Ái sung chức Chủ khảo trường Gia Định, Thự Tế tửu Quốc tử giám là Nguyễn Văn Nhượng sung Phó chủ khảo. Từ trước các trường thi ở trong Kinh thành, ngoài các tỉnh lệ có phái lính và voi đi đàn áp. Vua nói: – Voi để dùng đi chiến trận, còn học trò đi thi, phái lính để tuần phòng xem xét cũng đủ rồi, dùng voi làm gì. Từ sau trường thi không phải phái voi đi nữa. Chuẩn định làm lệ.

Đến lúc danh sách đệ lên, bộ Lễ xét ra Cử nhân trường Thừa Thiên là Mai Trúc Tùng, Vũ Khắc Đồng, quyển thi thứ hai, bài phú trùng vận, đều truất xuống làm Tú tài, quan trường phải giáng l cấp.

Trường Gia Định, Chánh Phó chủ khảo, chấm văn chưa xong, nối nhau ốm chết cả. Vua sai Đề điệu đem cả quyển thi niêm phong lại đưa về bộ. Khi đệ đến nơi, vua sai đường quan 6 bộ và viện Đô sát, mỗi bộ viện 1 người, hội lại chấm văn ở viện Tả đãi lậu.

Vua bảo thị thần rằng: – Văn phong ở Nam Kỳ mới mở, quyển văn thi đỗ, so với các trường khác không khỏi có phần hơi kém. Nhưng triều đình đã lấy khoa mục chọn người, thì khi lấy đỗ cũng phải công bằng mới thỏa thiếp được lòng mong ngóng của học trò. Đến như bàn về giúp làm chính trị, thì người làm văn giỏi chưa chắc đã là người làm quan tuần lương. Nguyên văn không giỏi chưa chắc đã là kẻ gian hoạt. Đời xưa có người cứng bướng, ít văn học mà công nghiệp rõ rệt, cứ gì phải khoa mục đâu?

Trường Thừa Thiên nguyên ngạch trước lấy đỗ cử nhân 35 Cử nhân, năm ấy Ân khoa, số học trò nhiều hơn, lấy thêm 3 người, cộng 38 Cử nhân – trong đó có Dương Văn Hiển người xã Châu Thành, huyện Phù Cát (Bình Định).

Trường Nghệ An cho đỗ 20 Cử nhân – trong đó có Dương Lệ, người Ngô Xá – Chân Lộc (nay thuộc thành phố Vinh – Nghệ An).

Nguồn: Đ8, tập Năm, tr.746-747.

        NĂM 1841 (TÂN SỬU)

        Tháng 5 (tháng Ba nhuận – Tân Sửu)

 795. Truy tặng hàm Cấm binh Phó vệ úy cho Dương Văn Thuận

Để giải vây cho đồn Chu Nham đang bị hàng ngàn nghĩa binh Hà Tiên bao vây, Án sát Hoàng Mẫn Đạt cử Lãnh binh Nguyễn Văn Thai và Phó quản cơ Dương Văn Thuận đem quân đến giải vây nhưng trên đường hành quân, nghĩa binh từ núi Tô Châu, Lộc Trĩ ập đến khiến cho Dương Văn Thuận bị giết trong đám loạn quân.

Sau, xét công trạng, ông được truy tặng chức tước cao hơn.

Nguồn: Đ8, tập 6, tr.123-124.

        Ngày 14 tháng 10 (1 tháng Chín – Tân Sửu)

 796. Dương Phúc Vinh thi đậu Cử nhân

Đây là kỳ thi Hương mở tại Thừa Thiên mà Cao Bá Quát sửa bài cho Sĩ tử khi chấm điểm.

Tại kỳ thi này, triều đình cử Thự Tham tri bộ Hình là Bùi Quỹ làm Chủ khảo trường Thừa Thiên, biện lý bộ Binh là Trương Tiến Sĩ làm Phó khảo. Trường Thừa Thiên nguyên trước số lấy đỗ định là 38 Cử nhân. Vua cho rằng buổi mới trị vì, rộng ban Ân điển, bèn truyền cho tăng lên làm 45 người, để rộng đường lấy người hiền tài. Khoa này lấy đỗ 40 Cử nhân. Có hai viên sơ khảo là Cao Bá Quát và Phan Nhạ ngầm lấy muội đèn làm mực chữa văn bài thi của học trò gồm 24 quyển, đỗ được 5 tên. Lại Trương Đăng Trinh là cháu gọi Trương Đăng Quế bằng chú, bác, quyển văn kỳ thứ hai bị Nội trường đánh hỏng, phần khảo là Nguyễn Văn Siêu cho là văn lý có thể lấy được, nói với quan Ngoại trường liệt vào hạng lấy đỗ. Chưa ra bảng, Chủ khảo Bùi Quỹ cho là chữ của Quát viết tốt, gọi ra Ngoại trường viết bảng. Văn Siêu giữ Quát ở lại ngủ đêm. Đến khi ra bảng, dư luận sĩ phu sôi nổi. Giám sát trường vụ, Hồ Trọng Tuấn, tham hặc là trường pháp không đúng. Việc này giao cho bộ Lễ và viện Đô sát tra xét nghị tội. Cao Bá Quát thú nhận là sính bút làm càn, chứ không có ai dặn dò gửi gắm gì cả. Án xử Quát, Nhạ đều phải tội xử tử; Siêu phải tội phạt trượng, đồ; Chủ khảo và Giám khảo thì hoặc phải cách, hoặc phải giáng chức có khác nhau.

Vua phán rằng: – Chọn người tài giỏi là một điển lễ long trọng, bọn Qát lại dám làm trái phép như thế, khép vào tội nặng cũng đáng. Song ta nghĩ, bọn Quát chữa văn đến 24 quyển, tự mình hoặc phê lấy đỗ, hoặc phê bỏ đi, cũng có chỗ câu văn chữa vào lại không bằng câu văn của người làm trước, hoặc giả là do sự khờ dại mà làm ra, chứ không có tình tiết gì khác, còn có thể khoan tha cho tội xử tử. Vậy đều cho đổi làm giảo giam hậu. Siêu cho Quát ngủ ở phòng của mình, tuy không có tình tiết gì, nhưng phép trường không thể hỗn tạp như thế được, đáng lẽ ra, cứ theo như lời bộ nghĩ và trị tội, nhưng hãy tạm gia ơn tha cho tội đồ, mà chỉ cách chức, cố gắng sức theo làm việc ở bộ để chuộc tội. Bùi Quỹ và Trương Tiến Sĩ có lỗi vì không biết trông nom mà phát giác ra, đều cho đổi làm cách chức được lưu làm việc. Giám khảo Phan Văn Nhã và Trương Hảo Hợp không biết kiểm xét phát giác ra, đều phải giáng cấp lưu làm việc. Nguyên lấy đỗ Cử nhân 5 người là Nguyễn Duy Cần, Lê Thiều, Nguyễn Lập, Hoàng Minh và Nguyễn Khánh quyển thi có hình tích rõ ràng như thế, ta chưa nỡ cầm bút gạch xóa đi! Lại sai thự Thị lang bộ Hình là Ngô Văn Địch, Chưởng ấn Cấp sự trung là Lê Chân cho gọi cả 5 người ấy đến họp ở viện Tả đãi lậu, ra đủ đầu bài cả 3 kỳ để thi lại. Khi quyển thi của 5 người ấy được dâng lên, văn đều khá, đáng lấy đỗ được cả, lại thưởng trả lại cho vào hạng cử nhân. Quyển văn của Trương Đăng Trinh tuy có sự quan ngại, nhưng văn khá thông, cũng để vào hạng lấy đỗ. Duy có Cử nhân thứ 20 là Phan Văn Trị vì bài phú trùng vần, bị đánh hỏng.

Dương Phúc Vịnh – sau đổi là Dương Vịnh, người xã Hiền Lương – Phong Điền (nay là xã Phong Điền, Phong Điền – Thừa Thiên Huế) đậu tại trường thi Thừa Thiên.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.216-217.

        Tháng 10 (tháng Chín – Tân Sửu)

 797. Đầu mục Dương Đình Loan chết trận

Trong cuộc khởi nghĩa Nông Văn Vân, đầu mục Dương Đình Loan được giao việc tổ chức đánh phá huyện nha Phú Lương, cướp ấn, phá ngục thả tù nhưng sau đó bỏ về xây dựng căn cứ, cơ sở hậu cần ở Định Châu. Sau một thời gian do thám viên bộ biển ở Thái Nguyên là Nguyễn Đăng Dương đốc suất quân và dân đem nỏ đến mai phục bắn chết đầu mục Dương Đình Loan, lấy được ấn tín, súng, gươm và áo trận các hạng. Việc đến tai vua, Dương được thưởng bổ làm Cai đội, quân và dân được thưởng chung 100 quan tiền, người chính tay bắn chết tên Loan được thưởng 9 đồng Ngân tiền hạng lớn.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.226.

        Ngày 13 tháng 11 (1 tháng Mười – Tân Sửu)

 798. Dương Tấn Sĩ thi đậu Cử nhân

Kỳ thi Hương này tổ chức tại các trường Gia Định, Nghệ An, Hà Nội, Nam Định.

Trường Gia Định do Án sát Phú Yên Nguyễn Văn Lý làm Chủ khảo, Thự Lang trung bộ Binh Phạm Huy làm Phó Chủ khảo, cho đỗ 16 Cử nhân – trong đó có Dương Tấn Sĩ, người thôn Vĩnh Long, tổng Bình Chánh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long).

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.232-233.

        Tháng 12 (tháng Một – Tân Sửu)

 799. Dương Văn Thước dâng cổ thư

Ông người huyện Diên Hà, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc huyện Hưng Hà – Thái Bình), nhờ dâng Cố Lê chiếu lệnh nên được triều đình thưởng 5 đồng Ngân tiền Phi long dạng lớn.

Tháng 6-1842, Hoàng đế Thiệu Trị ban chiếu sai tìm điển tích,cho rằng năm ngoái cũng có những sách vở của Tri phủ Phạm Đình Ái, Ngô Cao Lãng và Tổng mục Dương Văn Thước đem dâng, tuy rằng quê mùa nhưng đều có một vài chỗ có thể chọn nhặt, trẫm cũng hậu thưởng cho, thật cũng có ý để khuyến khích người sau.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.253, 360.

        NĂM 1842 (NHÂM DẦN)

        Tháng 4 (tháng Ba – Nhâm Dần)

 800. Dương Văn Phong mất chức vì thua trận

Sau các chức vụ Hộ phủ Quảng Trị, Hữu thị lang bộ Hình đi đôn đốc công việc hai tỉnh Vĩnh Long – Định Tường (1834), ông về Kinh làm Hữu thị lang bộ Lễ rồi Thông chính sứ ty Thông chính sứ, lĩnh ấn Quan phòng tuần phủ Thuận Khánh, lo việc chiêu dụ thổ dân (1835).

Tháng Tám – Đinh Dậu (9-1837), ông được điều bổ làm Tổng đốc Quan phòng Long – Tường rồi Lĩnh Tuần phủ An Giang sung Tham tán Đại thần Trấn Tây. Tháng Ba – Mậu Tuất (4-1838) bị giáng 3 cấp do kém cỏi trong đánh dẹp. Tháng Giêng – Kỷ Hợi (2-1839) bị đổi giáng 4 cấp. Tháng Chín – Canh Tý (10-1840) được bổ làm quyền Thự Tổng đốc An – Hà, đem quân đánh phỉ ở Hà Tiên. Tháng Giêng – Tân Sửu – (2-1841) được khôi phục Thị lang bộ Binh lãnh Tổng đốc An – Hà nhưng sau đó lại bị cách vì liên tiếp thua trận.

Nguồn: Đ8, tập Bốn, tr.270-966; tập Năm, tr.9-883; tập Sáu, tr.41-223.

801. Dương Thai bắt đầu con đường đi lên

Phó vệ Dương Thai sau trận chặn đánh quân Xiêm ở An Tây được triều đình khen xưa nay một viên tướng nhỏ chưa ai mạnh bạo, nhanh nhẹn như thế đáng nhận Kim bài Kiêu dũng tướng, Hùng dũng tướng.

Tháng 8-1842, ông được thăng Thự Chưởng vệ Cẩm y, chuyên coi các đội Túc vệ. Tháng 9-1842, được thưởng nhẫn vàng mặt thủy tinh, kim tiền Song long hạng nhỏ, dây thao đeo quạt có xâu hạt ngọc và sung làm Túc vệ. Tháng 12-1842, do việc Thái trưởng Công chúa Ngọc Nguyệt tự ý đi thẳng vào cửa hữu võng thành nên ông bị giáng lưu có phân biệt.

Tháng 2-1843 ông được thực thụ Chưởng vệ Cẩm y, chuyên coi các đội Túc vệ, đến tháng sau được quyền giữ ấn triện dinh Thần cơ, tham dự Hội nghị triều đình. Tháng 7-1843, được xét thưởng công lao đánh giặc ở Nam Kỳ khi trước rồi được thăng Thự Thủy chế dinh Thần cơ.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.323, 325, 350, 387, 391, 435, 452, 460, 501-502, 564.

        Ngày 8 tháng 7 (1 tháng Sáu – Nhâm Dần)

 802. Dương Phúc Vịnh thi đậu Phó bảng

Tháng Năm mở Ân khoa thi Hội. Theo lệ cũ, thi Hội vào tháng cuối xuân, năm nay vì có việc bang giao, vua sai đợi đến sau khi hồi loan sẽ mở khoa thi. Tới đây, sai thự Hiệp biện Đại học sĩ Hà Duy Phiên làm Chủ khảo, Hữu tham tri bộ Binh Phan Thanh Giản làm Phó chủ khảo, lấy trúng cách 14 người: Phan Tam Tỉnh (nguyên đặt là Nhật Tỉnh), Phan Hữu Từ, Phan Đình Dương, Trần Văn Chính, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Danh Vọng, Nguyễn Kim Hoán, Nguyễn Văn Tố, Ngô Khắc Kiệm, Nguyễn Quý Tân, Nguyễn Tường Phổ, Nguyễn Văn Duy, Hoàng Đình Tá, Trương Đăng Trinh; lấy Phó bảng 6 người: Nguyễn Tất Tố, Nguyễn Đức Lân, Dương Phúc Vịnh, Đỗ Đăng Đệ, Lê Thế Quán, Lê Đức.

Dương Phúc Vịnh, từng đậu Cử nhân khoa Tân Sửu (1841), làm tới Tuần phủ Ninh Bình.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.356.

        Ngày 2 tháng 11 (1 tháng Mười – Nhâm Dần)

 803. Dương Xuân thi đậu Cử nhân

Ông thi đậu tại trường thi Nam Định do Thự Tổng đốc Bắc Ninh làm Chủ khảo, Thự Bố chánh Quảng Yên Đặng Huy Thuật làm Phó Chủ khảo.

Dương Xuân, người xã Tráng Liệt, tổng Tông Tranh, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc Bình Giang – Hải Dương).

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.418.

        Trong năm

 804. Ông Dương Xuân Nhật tu tạo trường học thôn Đông

Học điền bi ký do Cử nhân Đàm Thận Cung soạn, tạo năm Tự Đức 9 (1856) dựng tại thôn Đông, xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thị trấn Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi:

Bản ấp vốn chuộng văn chương, nho học. Vào năm Gia Long thứ 3 (1804), Tri sự đời Lê là Nguyễn Trọng Điển tự xuất 1 mẫu ruộng đặt làm ruộng học điền và 1 khu đất ao làm trường dạy học nhưng sau đó bị hư hỏng. Năm Thiệu Trị thứ2 (1842), bản thôn mua 1 khu đất khác xây dựng ngôi nhà, nay là trường học vậy. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) xã trưởng và một số người trong giáp như các ông Dương Xuân Nhật, Nghiêm Phúc Thọ thiện nguyện, lại xuất tiền tu sửa. Năm Tự Đức thứ 8 (1855) phụng mệnh thánh dụ các địa phương mở trường học ở làng và học điền để làm học bổng. Bản ấp cũng hưởng ứng theo lệ đó.

Nguồn: T12, tập 15, N014907-08.

 805. Giáo thụ, Cử nhân Dương Xuân Triêm qua đời

Tháng Năm – Nhâm Thìn (6-1832) do sửa sang phủ thành Lâm Thao không đúng quy cách nên ông phải rời chức Tri phủ, hơn một năm sau, vào ngày 28-12-1833 (18 tháng Một – Quý Tỵ) được khởi phục, cho giữ chức Thanh tra Tư vụ. Tháng 4-1834, ông làm Giáo thụ Kiến Xương, coi quản Thượng Nguyên. Tháng 10-1836, ông hồi hưu và qua đời vào 6 năm sau.

Nguồn: Q2, tr.339, 371, 398-399, 426.

        NĂM 1843 (QUÝ MÃO)

        Ngày 24 tháng 9 (1 tháng Tám – Quý Mão)

 806. Dương Doãn Chấp thi đậu Cử nhân

Ông sau đổi là Doãn Hài, người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An) thi đậu tại trường thi Nghệ An do Tham tri bộ Lễ Lý Văn Phức làm Chủ khảo, Án sát Hưng Hóa Phan Huy làm Phó Chủ khảo.

Trước khi thi, bộ Lễ tâu lên nói: Trường Thừa Thiên 2 hiện dấu vàng, dấu đỏ, trường Nghệ An 2 hiệu dấu đỏ, dấu xanh, số sĩ tử có nhiều hơn, xin cho thêm giải ngạch.

Vua nói: – Giải ngạch khoa thi Hương, trường Thừa Thiên 38, trường Nghệ An 25, lượng chia ra từng sắc, từng hiệu, chỉ để cho phân biệt mà thôi. Vả lại, đặt ra khoa thi để lấy nhân tài, vốn muốn được nhiều nhân tài để cho Nhà nước dùng. Nay trường Thừa Thiên, số sĩ tử thêm nhiều, chuẩn cho 2 hiệu sắc vàng, sắc đỏ đều thêm một tên [giải ngạch], cộng với ngạch cũ đủ 40 tên. Trường Nghệ An vẫn y như ngạch cũ, duy số sĩ tử các hạt có thêm lên, giảm xuống khác nhau, mà quyển thi ở trong trường hơn, kém cũng có khác, nếu hiệu nào đã đủ giải ngạch, mà văn lý còn có thể lấy đỗ hoặc chưa đủ như ngạch cũ mà số lấy đỗ còn hơi ít, thì cứ lấy thêm hoặc bớt đi một vài tên cũng không hề chi. Cốt cho đủ số giải ngạch, không nên câu thúc vào chỗ sắc hiệu vẫn định, đến nỗi bỏ sót nhân tài, thế là được.

Đến khi đệ quyển lên, vua bảo Nội các rằng: – Trường Thừa Thiên lấy đỗ, phần nhiều người trẻ tuổi, trước ta vẫn ngỡ là lấy lạm, đến khi duyệt quyển thi, thấy có người nhiều lần đỗ Tú tài, có người đời đời nhà có khoa hoạn, có người tuổi còn trẻ mà văn già dặn, mới biết gần đây văn học ngày một tiến, mà tỉnh Quảng Nam lại càng thịnh hơn, ta rất mừng và yên lòng.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.513-514.

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Mão)

 807. Tri huyện Dương Xuân Lệ soạn văn bia Từ đường họ Dương

Dương tiên sinh bi ký tạo năm Thiệu Trị 3, đặt tại Từ đường họ Dương xã Đức Thịnh, tổng An Dương, phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Hưng Thịnh, Hưng Nguyên – Nghệ An) ghi tiểu sử ông Giám sinh trường Quốc tử Giám họ Dương, tự là Chi, tên thụy là Tập Phương. Tiên sinh thiếu thời dĩnh ngộ, học rộng, làm việc ngay thẳng, thi đỗ Hiệu sinh, rồi lại đỗ Hương tiến khoa Quý Dậu năm Cảnh Hưng 15 (1754). Năm ấy thi Hội, Tiên sinh đỗ tam trường, được nhận chức Văn chức nội thị. Tiên sinh sinh được hai người con, một trai, một gái.Tiếp theo, ghi vài nét về hành trạng con trai, con gái, con dâu, con rể.

Nguồn: T12, tập 8, N07899.

        Ngày 22 tháng 11 (1 tháng Mười – Quý Mão)

 808. Dương Trí Trạch thi đậu Cử nhân

Ông người xã Phượng Dực, huyện Thượng Phúc (nay thuộc Phú Xuyên – Hà Nội) dự thi tại trường Hà Nội do Thự Tuần phủ Hà Tĩnh Trần Ngọc Lâm làm chủ khảo, Thự Bố chính Hưng Hóa Phạm Thế Trung làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.530.

        NĂM 1844 (GIÁP THÌN)

        Ngày 22 tháng 4 (6 tháng Ba – Giáp Thìn)

809. Hàn lâm viện Thị độc Dương Duy Thanh hoàn thành nhiệm vụ Biên tu bộ Đại Nam thực lực tiền biên

Quốc sử quám triều Nguyễn ra đời vào tháng 7-1820, đứng đầu là viên Giám tu thay mặt nhà vua chỉ đạo việc biên soạn rồi đến Chánh, Phó Tổng tài, 4 viên Toản tu, 8 viên Biên tu, 4 viên Khảo hiệu, 6 viên Đằng lục, 6 viên Thu chưởng và các viên Bút thiếp thức. Từ Biên tu trở xuống đều làm việc ở Quốc sử quán. Vào năm Minh Mệnh 2 (1821), nhà vua sắc cho các đại thần phải bắt tay vào biên soạn ngay bộ sách Liệt thánh thực lục (Đại Nam thực lực), Liệt thánh thực lục, phần Tiền biên ghi chép về giai đoạn các chúa Nguyễn biên soạn xong vào năm Thiệu Trị 4 (1844), trong đó có sự đóng góp của Hàn lâm viện Thị độc Dương Duy Thanh đã làm rõ sự nghiệp của Thái tổ Gia Dụ hoàng đế Nguyễn Hoàng đến hết Duệ tông Hiến định hoàng đế Nguyễn Phúc Thuần, trải dài từ năm 1558 đến năm 1888 với 9 đời chúa.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.5-16.

        Ngày 29 tháng 11 (20 tháng Mười – Giáp Thìn)

 810. Dương Thị Hỷ cung tiến sửa chữa miếu Thụy Chương

Hậu kỵ bi ký tạo năm Thiệu Trị 4, dựng tại miếu giáp Đông, phường Thụy Chương, tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức (nay là phường Thụy Khuê, Tây Hồ – Hà Nội) ghi, thấy tòa miếu hư hại nặng, bản giáp bàn nhau tu sửa, được bà Dương Thị Hỷ cung tiến 300 quan tiền cổ để chi dùng tu tạo, gửi giỗ cả hai vợ chồng tại đình, được các vị chức sắc chấp thuận.

Nguồn: T12, tập 1, N040.

       Trong năm

 811. Lão nhiêu Dương Trọng Cảnh được tôn Hậu thần thôn Bài Sanh

Bản đình bi ký tạo năm Thiệu Trị 4, dựng tại đình bản thôn, xã Vân Cốc (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi rằng:

Hương lão, sắc mục, chức dịch trong ấp trộm thấy lão nhiêu ấp ta là Dương Trọng Cảnh, thế truyền là người hòa nhã, trung hậu, nay thấy bản xã cần tiền dùng vào việc công, đã xuất tiền ra tu sửa đình vũ, lại cấp 3 mẫu 2 sào để bản thôn dùng vào việc cúng giỗ. Bản xã thuận tình cho ông bà được gửi giỗ tại đình. Khi ông bà còn sống, các lễ nhập tịch, có giết mổ súc vật làm lễ, hoặc trâu, hoặc bò, hoặc lợn, mỗi thứ 1 miếng thịt đưa đến tận nhà kính biếu. Nếu có ca xướng, mời ông bà cùng ra nghe hát. Khi ông bà qua đời, mỗi giỗ 1 lợn giá 2 quan 4 mạch tiền cổ, xôi 1 mâm mỗi mâm 15 bát quan gạo nếp cái, kim ngân 1.000, rượu 1 vò, trầu cau, hương đăng, cộng tiền 6 mạch.

Nguồn: Đ12, tr.668.

        NĂM 1845 (ẤT TỴ)

        Trong năm

 812. Quan viên Dương Văn Tương, Dương Văn Xuân tổ chức bầu Hậu thôn Hạ

Lưu truyền bi ký tạo năm Thiệu Trị 5, dựng tại đình bản thôn, xã Phục Lạp, tổng Hả Hộ, huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Thanh Hải, Lục Ngạn – Bắc Giang) ghi việc các ông có tên kể trên họp dân thôn bầu Hậu, ghi công các thiện nam tín nữ đóng góp vào việc sửa đình.

Nguồn: Đ12, tr.528.

        NĂM 1846 (BÍNH NGỌ)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Bính Ngọ)

 813. Dương Cần, Dương Đình Du thi đậu Cử võ

Bắt đầu mở trường thi võ ở Kinh đô. Cho Thái tử Thiếu bảo Hữu quân Đô thống phủ Đô thống, Tân Lộc tử Mai Công Ngôn sung làm Chủ khảo quyền Hữu tham tri bộ Binh Hoàng Tế Mỹ làm phó. Võ sinh các tỉnh về Kinh đi thi, không cứ là quân hay dân, đều liệu cấp cho tiền, gạo đi đường hàng ngày (đi đường 1 ngày cho 2 tiền, 1 bát gạo; đi đường nửa ngày cho 1 tiền, 1 bát gạo). Khoa này dự trúng 3 kỳ được 64 người. Đến khi vào phúc hạch, bắn súng điểu sang, phần nhiều không trúng cách. Quan trường đem việc ấy tâu lên. Vua bảo rằng: – Phép thi cử võ, mang nặng, cầm côn, múa giáo, đâm bù nhìn, còn dễ cố sức; duy bắn súng được trúng đích mới thực khó. Kể ra, quân đội được huấn luyện sẵn, thi kỳ đầu, thi phúc hạch, hai đằng khác nhau xa, truất đi là phải lắm. Duy ngạch dân sự trúng không mấy, nếu lại vì phép bắn chưa tinh mà một mực bỏ đi thì thực chưa phân biệt! Vả lại, súng điểu sang nghiêm cấm, làng xóm đất hẹp, làm thế nào mà học tập được? Vậy nên chước lượng lấy thêm để khuyến khích sĩ khí! Bèn cho lấy đỗ 51 người – trong đó có Dương Cần, Dương Đình Du.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.903.

        Ngày 5 tháng 9 (15 tháng Bẩy – Bính Ngọ)

 814. Dương Bá Nghi thi đậu Cử nhân

Ông người xã Bạch Câu, tổng Thạch Tuyền, huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay là xã Nga Bạch, Nga Sơn – Thanh Hóa), thi tại trường Nghệ An, kỳ Ân khoa do Tham tri bộ Hộ Phạm Thế Trung làm Chủ khảo, Bố chính Sơn Tây Trần Quang Chung làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.901-902.

        NĂM 1847 (BÍNH NGỌ – ĐINH MÙI)

        Ngày 31 tháng 1 (15 tháng Chạp – Bính Ngọ)

 815. Các Hương mục Dương Công Diễn, Dương Công Lại tham gia bầu Hậu phật xã Bất Phí

Biểu dương bi ký tạo năm Thiệu Trị 6, dựng tại chùa bản xã, tổng cùng tên, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nhân Hòa, Quế Võ – Bắc Ninh) ghi:

“Từng nghe, người có công đức giúp cho dân xã tất nên được thờ phụng. Xưa nay vẫn đều như thế.

Kính thay, bà Doãn Thị Ngân hiệu Diệu Thanh là người bản xã, vốn có lòng từ bi hạnh thiện, sống chan hòa phúc hậu với thôn dân. Tiếng thơm về bà từ lâu đã được lan truyền, ca tụng trong làng xã.

Vào năm Bính Ngọ (1846) bản xã tiến hành tu sửa ngôi chùa cổ, sơn thếp lại các pho tượng phật cho được khang trang tố hảo. Việc ấy rất tốn phí mà tài lực lại quá khó khăn không sao gỡ nổi. Thật may có bà đã trực tiếp gặp cụ bà họ Nguyễn là thân mẫu của người được giao trọng trách quản lý việc tu tạo để tiến cúng sáu mươi quan tiền văn. Vậy là, nhờ có công đức của bà Diệu Thanh mà bản xã mới có đủ chi phí hoàn công, viên thành phúc quả để lại cho đời sau. Noi gương ấy, các tín thí cho đến phu thợ đều gắng sức để được đóng góp đôi chút tiếng thơm, như thế lại chẳng tốt đẹp lắm sao?

Bởi vậy bản xã đã họp bàn y theo lệ cũ mà lập bia ghi tạc công đức của bà đặt tại hậu đường: lại xuất ra một mẫu ba sào rưỡi ruộng cúng dùng cho ngày kỵ nhật và ruộng và điều lệ định khoản được ghi kể như sau:

– Một thửa ruộng cúng tọa lạc tại Vườn Da xứ gồm một sào rưỡi là ruộng chùa hoa lợi dùng vào việc mua sắm đèn, nhang.

– Một thửa ruộng cúng tại Đống Hướng xứ rộng một mẫu để phát canh thu tô. Hoa lợi cứ mỗi sào sửa biện một mâm xôi và mâm cỗ chay cùng phẩm vật dâng lễ. Hàng năm lấy ngày mười sáu tháng năm dâng cúng bà ở hậu đường theo như nghi thức cúng thờ Hậu phật”.

Nguồn: P5, tr.96-97.

        Tháng 4 (tháng Ba – Đinh Mùi)

 816. Giận dữ vụ người Pháp gây hấn, Hoàng đế Thiệu Trị quở phạt Dương Văn Trinh

Từ khi Mai Công Ngôn đến cửa biển, bố trí quân thủy, quân lục để làm cái thế dựa nhau, quân dụng rất lộng lẫy. Người Tây dương chực muốn lên bờ, bị biền binh ở thuyền Phấn Bằng ngăn lại. Người Tây dương biết là không có thể xâm phạm được, lại về chỗ đỗ thuyền trước. Mai Công Ngôn mặt ngoài thân thiện với người Tây dương [nhưng bề trong] mật lệnh cho các quân định ngày hội đánh. Có 1 tiên tiểu biền Vũ Văn Điểm bị bọn Tây dương bắt được. Chúng tìm được bản ước thúc của quân cơ, vì thế hiểu ngầm tình trạng trong quân thứ. Ngày 15-4-1847 (1 tháng ba – Đinh Mùi) gặp ngay thuyền ở Kinh chạy đến ngoài biển, người Tây dương đến chỗ quân Đào Trí Phú, giả cách xin hòa, Trí Phú cũng tin, đóng quân không hành động gì. Đến ngày hôm sau, giờ Ngọ, bọn Tây dương tự nhiên nổ súng ầm ĩ, dồn bắn cả vào thuyền quan. Quan quân giở tay không kịp, 5 chiếc thuyền bỗng trong chốc lát đều bị đắm mà vỡ cả. Lãnh binh Nguyễn Đức Chung, Hiệp quản Lý Điển đều chết ở trận, biền binh chết hơn 40 người, bị thương hơn 90 người, còn 104 người không biết trôi giạt đi đâu; súng và khí giới chìm mất rất nhiều (10 cỗ súng Chu y bằng gang, 3 cỗ súng Chấn hải bằng gang, 15 cỗ súng quá sơn bằng đồng, các khí giới chìm mất rất nhiều). Hôm sau thuyền Tây dương giương buồm chạy đi. Không có một người nào đuổi theo!

Việc đến tai vua. Vua than thở rằng: – Năm chiếc thuyền đồng lại bị giặc Tây dương bắn, không ngờ quan quân hèn yếu đến như thế, đáng tiếc lắm, bọn Công Ngôn không nghiêm quân luật để đến tiết lộ quân cơ, là một tội; sau khi đã lỡ việc, không đốc thúc quan quân hết sức mà đánh, dùng các súng to ở thành đài, đánh dữ giết giặc để giãi lòng công phẫn, thế là hai tội; thuyền giặc trốn đi rồi mà hai pháo đài Phòng Hải, Định Hải lặng yên, không bắn một phát nào để chặn đường đi của giặc, thế là ba tội!

Mặc dù đã thẳng tay trừng trị đám quan lại được cho là nhút nhát, làm hỏng việc nhưng từ khi xảy ra sự việc Đà Nẵng vua rất tức giận, bụng thường không vui. Một đêm, đến chơi Duyệt Thị đường, Quản lĩnh thị vệ Nguyễn Trọng Tính, Hiệp lĩnh Vũ Văn Trí đều mải ngủ quên mất; phạt Trí 80 trượng, giáng Tính một cấp. Lại hỏi việc tu bổ thuyền bè, Viên ngoại lang bộ Công đương trực là Dương Văn Trinh không thưa lại được, sai đánh đau 100 trượng. Các bề tôi là Vũ Phạm Khải phiếu nghĩ không hợp ý Chỉ, sai Hình bộ Tham tri Bùi Quỹ truyền Chỉ đánh 40 roi, một lát lại tha. Dụ rằng: “Tạm để gọi tỉnh đó thôi!” Thuộc viên Nội các là Nguyễn Văn Siêu vì làm phiếu lầm lời nói trong Chỉ dụ, phạt 80 trượng.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.983-984.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Đinh Mùi)

 817. Dương Thai trở thành biểu tượng trận đánh An Tây

Thống chế dinh Thần cơ Kiêu dũng tương Dương Thai, hồi tháng 4-1846 được Hoàng đế Thiệu Trị cử đứng ra trông nom việc làm thêm mái trước và mái sau điện Hiếu Tư vì chỗ tôn nghiêm phải kính cẩn hơn, do vậy lính và thợ cũng phải nghiêm trang và chỉnh đốn trong khi làm. Ngoài ra, ông còn phải cùng Thị lang Phạm Khôn tổ chức thao diễn cho biền binh 5 tỉnh vừa được triệu về kinh. Hoàng đế Thiệu Trị ngự ở cửa Ngọ Môn điểm duyệt, thấy hàng ngũ chỉnh tề bèn ban cho binh lính tiền, quần áo; Tổng đốc, Chánh và Phó Lãnh binh 5 tỉnh và các quan coi việc binh ở Kinh đều được thưởng kỷ lục 1 thứ.

Tháng 6-1846, ông được sung vào Túc vệ hai bên tả hữu chấp kim ngô, Chỉ huy sứ. Tháng 10-1846, sung làm Đổng lý Đại thần rồi Thống chế dinh Thần cơ. Ngày Giáp Nọ 14 tháng Giêng – Đinh Mùi (28-2-1847), ông cùng Thống chế Mai Công Ngôn được cử phụ trách cuộc duyệt binh lớn, trong đó có cả các Thống quản, Đại viên ở Kinh cũng phải thao diễn biền binh.

Tháng 6-1847 ông được bổ Thống chế Hữu dực dinh Vũ Lâm. Tháng 8-1847 Hoàng đế Thiệu Trị sai đình thần bàn định công trạng An Tây khắc vào đá, dựng bia – trong đó công lao đánh Xiêm của Dương Thai được chọn bầu.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.841, 857, 920, 944, 960, 1022, 1047.

        Ngày 25 tháng 8 (15 tháng Bẩy – Đinh Tỵ)

 818. Dương Thế Tuyển thi đậu Cử nhân

Ông người xã Bàn Thạch, huyện Duy Xuyên (nay thuộc xã Duy Vinh, Duy Xuyên – Quảng Nam), dự thi tại trường Thừa Thiên do Thị lang bộ Lại Đỗ Quang làm Chủ khảo, Thự Thị lang bộ Hộ Trương Hảo Hợp làm Phó Chủ khảo.

Trước kỳ thi, Hoàng đế Thiệu Trị sai bộ Lễ đem giải ngạch các khoa ở trường Thừa Thiên và sĩ số đi thi khoa này làm tờ phiếu tấu tiến trình. Vua nói: – Triều đình đặt khoa thi, kén nhân tài, chính muốn được nhiều nhân tài để cho nhà nước dùng. Kinh sư là đất đứng đầu tất cả, gần đây văn phong ngày một phấn khởi, sĩ số thêm nhiều lên, đã chuẩn cho giải ngạch lấy 38 sĩ tử, nay thêm 12, cho đủ số 50. Vả lại, khoa thi về mùa thu, là một thịnh điển nhà nước. Khoảng năm Minh Mệnh, thánh gia đã đến chơi xem; đến nay truyền làm vận sự. Vậy sai quan hữu tư xem ngay bên ngoài trường, chỗ nào cao ráo rộng rãi, dựng vọng lâu, đến kỳ đệ nhị, ta sẽ thân đến coi. Đến khi quan trường ra bài thơ Cúc thủy, nguyệt tại thử, vua nói rằng: – Đó là cái cảnh hư huyễn, rất khó làm ra bài, không biết sĩ tử cấu tứ thế nào cho hay! Trương Đăng Quế tâu rằng: – Đầu bài ấy, dù sĩ tử ở ngoài đến hai ba ngày làm cũng không đủ khả quan được. Vua nói: – Chủ khảo Đỗ Quang cũng không biết làm thơ, dù cho chính tay y làm, chưa chắc đã hay, huống chi là sĩ tử! Truyền chi cho quan trường: – Đợi sau khi chấm quyển xong, chọn những quyển văn có thể xem được, lấy dăm ba quyển, phong kín tiến lãm.

Nguồn: Đ8, tập Sáu, tr.1043-1044.

        NĂM 1848 (MẬU THÂN)

        Ngày 25 tháng 3 (21 tháng Hai – Mậu Thân)

 819. Hàn lâm viện Thị độc Dương Duy Thanh hoàn thành việc Biên tu bộ Đại Nam thực lục Chính biên – Đệ nhất kỷ

Đây là một bộ lịch sử đầu tiên về triều Nguyễn, ghi chép về đời Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) từ năm 1778 đến năm 1819, biên soạn dưới quyền Tổng đài Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn.

Sau khi hoàn thành, ông được bổ làm Đốc học tỉnh Hà Nội.

Nguồn: Đ8, tập Một, tr.5, 2003.

        Tháng 4 (tháng Ba – Mậu Thân)

 820. Đốc học Biên Hòa Dương Bá Cung soạn văn bia Từ vũ Kim Động

Kim Động di kiến Từ vũ bi ký tạo năm Tự Đức 1, được dựng tại đền thôn Thanh Cù, tổng Thanh Cù, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc xã Ngọc Thanh, Kim Động – Hưng Yên) ghi rằng, Văn miếu Khoái Châu nguyên đặt ở xã Diên An, về sau dời về xã Đức Chiêm, trải cơn loạn lạc bị hư hỏng nặng. Bấy giờ thân sĩ trong phủ bổ nhau góp tiền, vào năm Giáp Dần (1734) tiến hành xây lại ở chỗ cũ là xã Diên An. Ban đầu trong miếu có thờ các pho tượng Văn thánh và Tứ phối đều bằng đá, tô vẽ rất tinh xảo, do ông Đồng Tri phủ Kim Sơn nam họ Nguyễn cung tiến. Đến năm Đinh Dậu (1977) vì có bọn ác nổi loạn nên phải mang đi cất dấu. Văn miếu từ đó cũng bị bỏ hoang phế, trải nhiều năm gặp lũ lụt trở nên đổ nát. Năm Đinh Mùi (1782) Cử nhân Trần Tú Dĩnh từ Kinh về, hợp cùng các ông Tri phủ Đỗ Huy Lộc đứng ra tổ chức tu sửa. Mùa thu năm Quý Sửu (1793) khởi công dựng thêm ba gian nhà trong, ba gian nhà ngoài, năm gian hành lang và mua sắm các đồ tế khí để thờ cúng Tiên thánh. Đến năm Gia Long, Kim Động xây Văn chỉ riêng của huyện.

Nguồn: T12, tập 4, N03569.

        Ngày 13 tháng 8 (15 tháng Bẩy – Mậu Thân)

 821. Dương Danh Lương thi đậu Cử nhân

Ông người xã Lương Hiền, huyện Phong Điền (nay thuộc Thừa Thiên – Huế) thi khoa Ân khoa tại trường Thừa Thiên do Tham tri bộ Hình Hoàng Tế Mỹ làm chủ khảo, Biện lý bộ Lễ Phan Huy Thực làm Phó Chủ khảo. Khoa thi này quy định học trò dự thi Hương phải qua một lần khảo hạch. Khi vào thi kì thứ hai bị điểm liệt thì không được yết bảng và không được dự thi các kỳ sau.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.85.

        Trong năm

 822. Đốc học tỉnh Hà Nội Dương Duy Thanh soạn văn bia đền Đồng Nhân

Trưng Vương sự tích bi ký tạo năm Tự Đức 1, dựng tại đền Hai Bà Trưng, xã Đồng Nhân Châu, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội (nay là phố Đồng Nhân, Hai Bà Trưng – Hà Nội) kể sơ lược sự tích Hai Bà Trưng, ca ngợi công lao của Hai Bà.

Nguồn: D4, tr.12.

        NĂM 1849 (KỶ DẬU)

        Mùa hạ

 823. Ghi công nhiều người họ Dương đóng góp mở rộng chùa Phúc Hưng

Phúc Hưng tự bi ký tạo năm Tự Đức 2, dựng tại chùa xã Dương Xá, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn (nay thuộc xã Thiệu Dương – thành phố Thanh Hóa) ghi rằng, chùa ở vị thế đẹp đẽ, xưa kia gia tộc họ Dương ở đấy, thật tốt đẹp thay.

Chùa dựng trên nền tương truyền là nơi khai mở họ Dương, bản xã vì thế mà có chùa. Vào thời Lê Vĩnh Trị (1676-1679) bia cổ vẫn còn đấy công đức người xưa đã làm như vậy mà đạo của vua thì rõ ràng, mọi người đều vui vẻ. Văn chỉ nghiêm trang, đền thờ vững chãi nên muốn tu sửa thêm cho chùa. Vào năm Thiệu Trị 6 (1845) các vị quan viên chức sắc trong làng xây mới tòa chính một Tiền đường, một lầu chuông bên tả, một nhà bia. Năm Tự Đức 2 (1849), mùa hạ hoàn thành, bèn ghi vào bia dựng ở chùa – trong đó có nhiều người họ Dương hưng công đóng góp.

Nguồn: T9, tr.370-380.

        Ngày 15 tháng 11 (1 tháng Mười – Kỷ Dậu)

 824. Mừng thọ Phó Lãnh binh Dương Thiều hồi hưu

Số tiền nhiều ít tùy theo chức vụ, phẩm trật – theo đó các Tòng nhị phẩm hưu trí, mỗi người 100 quan; Chánh tam phẩm mỗi người 80 quan; Tòng tam phẩm mỗi người 70 quan – trong đó có Phó Lãnh binh Dương Thiều 70 tuổi.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.142.

        Trong năm

 825. Dương Bá Cung lập bia ghi ơn những người giúp hoàn thành bộ Ức Trai di tập

Khi đó, ông đang là Đốc học tỉnh Biên Hòa. Trong danh sách trên bia Hội biên quan tinh ghi công có Đệ nhị Tiến sĩ Phan Định Dương – người làng Trang Liệt (tổng Phù Lưu – Đông Ngàn, nay thuộc thị xã Từ Sơn – Bắc Ninh) đang là Tri phủ Thường Tín cùng nhiều danh sĩ trong huyện Thượng Phúc góp tiền và hiện vật; Giải nguyên Lê Thúc Dương và các Cử nhân Lê Khản, Nguyễn Lang, Nguyễn Nghi, Nguyễn Áu – người làng Bình Vọng (tổng Hạ Hồi – Thượng Phúc, nay là xã Văn Bình, Thường Tín – Hà Nội), Cử nhân Đỗ Trọng Đại, Tú tài Nguyễn Trù, Nguyễn Thọ – người làng Đại Gia (tổng Thụy Phú – Thượng Phúc, nay là xã Thụy Phú, Phú Xuyên – Hà Nội), Cử nhân Phạm Đức Tân – người làng Thụy Hương (tổng Phú Gia – Từ Liêm, nay thuộc phường Phú Thượng, Tây Hồ – Hà Nội), Cử nhân Doãn Ôn – người làng Yên Duyên (tổng Thanh Trì – Thanh Trì, nay thuộc phường Yên Sở, Hoàng Mai – Hà Nội).

Đặc biệt, nhiều người cùng dòng tộc như Cử nhân Dương Công Bảy, Giải nguyên Dương Trí Trạch, Tú tài Dương Xuân Lộc cũng có nhiều đóng góp.

Nguồn: T9, 2008, tr.1081-1085.

Trong năm

 826. Dương Xuân Cát thi đậu Tiến sĩ võ

Ông người xã Hương Cáp, tổng Cự Lâm, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Hiệp Hòa, Vũ Thư – Thái Bình), thi đậu Tạo sĩ năm Tự Đức 2, làm đến Tuần phủ Nam Định.

Nguồn: H4, tr.97.

        NĂM 1850 (CANH TUẤT)

        Ngày 21 tháng 11 (18 tháng Mười – Canh Tuất)

 827. Dương Đình Đạt viết chữ cho khánh đồng chùa Giao Tham

Giao Tham tự khánh/ Canh Tuất niên tạo đúc năm Tự Đức 3, để tại chùa thôn Thích Trung, xã Bá Hạ, tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (nay thuộc xã Bá Hiển, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi danh các vị công đức khánh cho nhà chùa.

Nguồn: T12, tập 16, N015265-66.

        NĂM 1851 (TÂN HỢI)

        Mùa thu

 828. Tiến sĩ Dương Đình Ngô nhuận chính bia đặt tại đền thờ Phạm Đôn Lễ

Hải Triều xã Tam nguyên thần từ bi ký tạo năm Tự Đức 4, dựng tại đền thờ Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ, xã Hải Triều, tổng Thanh Triều, huyện Hưng Nhân, phủ Tiên Hưng, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Tân Lễ, Hưng Hà – Thái Bình) ông tổ – Trạng chiếu của địa phương.

Người nhuận sắc văn bia được ghi là Dương Đình Ngô – Đệ tam Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829), tuy nhiên, khi tra cứu Hoàng triều Minh Mệnh thập niên Kỷ Sửu Hội thí khoa Tiến sĩ dựng tại miếu Văn thánh Huế, tạo năm Tân Mão, Minh Mệnh 12 (1831) – tức là chỉ hai năm sau, trong danh sách chỉ có Dương Đăng Dụng. Có lẽ, Dương Đình Ngô và Dương Đăng Dụng là một người.

Nguồn: T9, 2012, tr.753-758.

        Ngày 26 tháng 10 (3 tháng Chín – Tân Hợi)

 829. Dựng bia biểu dương chị em họ Dương Xa La

Tạo bi ký kỵ tạo năm Tự Đức 4, dựng tại chùa Xa La, xã Trung Thanh Oai, tổng Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, tỉnh Hà Nội (nay thuộc phước Phúc La, Hà Đông – Hà Nội) ghi rằng, ba chị em họ Dương là Dương Thị Nhiên, Dương Thị Năm và Dương Thị Niệm; người ban thôn xuất 100 quan tiền cho thôn tu bổ đình và bỏ ra 6 sào ruộng cho mọi người canh tác, để xin gửi giỗ cho cha mẹ.

Nguồn: T12, tập 2, N01586.

        Trong năm

 830. Dương Bá Cung soạn văn bia Văn chỉ xã Tiên Cầu

Tiên Cầu xã, tạo khoảng năm Tự Đức 4, dựng tại Văn chỉ bản xã, bản tổng cùng tên, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc xã Hiệp Cường, Kim Động – Hưng Yên) ghi rằng,

Tiên Cầu là vùng đất nổi tiếng văn vật, từ xa xưa đã có nhiều người hiển đạt, được triều đình trọng vọng, có vị tham dự vào Hội Tao đàn đời Lê Thánh Tông, có vị làm quan trụ cột trong triều v.v.. Năm Tân Hợi (1851) các vị kỳ tuấn, hào mục trong làng bàn định chọn ngôi đất ở ngay cạnh chùa làng để xây dựng văn chỉ thờ thánh hiền. Bên trong Văn chỉ có xây riêng một tòa khám, thờ 9 vị tiên hiền của bản xã. Công việc hoàn tất, bèn cho dựng bia ghi lại.

Nguồn: T12, tập 4, N03565.

 831. Hương lão Dương Danh Uyển tham gia bầu Hậu của thôn Nhân Lễ

Ký kị bi ký tạo năm Tự Đức 4 dựng tại bản thôn thuộc xã Phù Liễn, tổng Đa Mai, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc sã Song Mai,thành phố Bắc Giang) ghi rằng các bậc trên dưới của thôn từng nghe câu Đầu đào báo lý là lẽ thường tình. Nay bản thôn xây cất đình sở tốn kém khá nhiều nên các cụ trong thôn – trong đó có Hương lão Dương Văn Uyển thuận tình để ông Tống Danh Trọng cấp cho xã 100 quan tiền kẽm, 3 khoảnh ao để chi dùng và gửi giỗ vào đình.

Nguồn: Đ12, tr.280-281.

        NĂM 1852 (TÂN HỢI – NHÂM TÝ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Nhâm Tý)

 832. Phó bảng Dương Công Bình soạn văn bia Văn chỉ Từ Liêm

Từ Liêm huyện trùng tu Từ vũ bi ký/ Từ Liêm huyện hội tài bi tạo tháng Chạp năm Tự Đức 4, dựng tại Văn chỉ huyện Từ Liêm với nhiều người đồng biên soạn như Phủ doãn phủ Thừa Thiên Đỗ Cao Mại, Thị giảng Học sĩ Phạm Gia Chuyên, Đốc học Thanh Hóa Hoàng Bình, Lễ bộ Lang trung Phạm Gia Lâm, Cử nhân Phạm Huy Châu, Cử nhân Nguyễn Phan Châu và Phó bảng Dương Công Binh. Bia ghi: Bản huyện đã có Văn chỉ từ rất lâu, nhưng địa điểm cũ không thể khảo cứu ra được. Đến thời Chính Hòa, Thám hoa Nguyễn Công (Quý Đức) mới dựng tại xã Phú Mỹ gồm 2 dãy trong ngoài, mỗi dãy 3 gian gần đường nên rất dễ dàng thuận tiện cho hội họp. Đến năm Đinh Mùi vì binh hỏa nên bị hư hại hết. Năm Tân Sửu đời Thiệu Trị (1841), quan Phủ doãn Kinh sư Đỗ Cao Mại đứng ra tổ chức hội viên đóng góp xây dựng lại văn chỉ, vẫn 2 dãy trong ngoài như xưa nhưng quy mô khang trang hơn, với xà gỗ tốt, trụ gạch, mái ngói, tường gạch bao quanh. Tháng Mười hoàn thành, kêu gọi các vị thân hào cúng ruộng tự điền, dựng bia ghi điều lệ cúng tế và tên họ, chức tước, số tiền đóng góp của mỗi người.

Nguồn: T12, tập 1, N0786-787.

 833. Dương Bá Cung biên soạn bộ Hà Nội địa dư

Tháng Tư năm Tự Đức 4, triều đình ban sắc chỉ cho tỉnh Hà Nội biên soạn tập địa dư của bản tỉnh và ngay sau đó công việc được giao cho Dương Bá Cung.

Đây là tập sách về địa lý lịch sử của tỉnh Hà Nội đời Tự Đức. Nội dung không trình bày theo kết cấu đơn vị hành chính mà bao gồm một loạt các bài giới thiệu về hình thể, phong tục, thành trì, sông núi, danh thắng cổ tích, đền chùa v.v.. Mỗi mục như thế có thể coi là một bài khảo cứu mang tính khoa học khá cao. Đặc biệt là tác giả luôn chú trọng mở rộng giới thiệu nhiều thông tin phong phú về phương diện lịch sử của vấn đề. Khi giới thiệu về tỉnh hạt Hà Nội, mặc dù tỉnh này mới thành lập vào giữa thế kỷ XIX, nhưng ông đã trình bày diễn biến quá trình lịch sử của vùng đất này bắt đầu từ đời Đông Hán (năm 196-220) thời Bắc thuộc, trải qua triều Ngô Vương, nhà Lý, Trần, Lê cho đến những thay đổi vào các niên hiệu triều Nguyễn. Với những di tích, công trình kiến trúc lịch sử hay danh lam thắng cảnh ở Hà Nội cũng vậy, ông không chỉ giới thiệu về hiện trạng đương thời mà thường trình bày cả quá trình kiến trí, diên cách và không ít trường hợp đều gắn liền với những sự kiện lịch sử hay sự tích, truyền thuyết liên quan.

Chính nhờ có đặc điểm trên, Hà Nội địa dư của Dương Bá Cung trở thành một bộ sách quan trọng có giá trị để nghiên cứu về Hà Nội, mà ngay từ thế kỷ trước đã từng được một số tác gia khác lấy làm tư liệu tham khảo để biên soạn những tác phẩm nối tiếp về Thăng Long – Hà Nội.

Nguồn: Đ17, tr.30-94.

        Ngày 11 tháng 11 (1 tháng Mười – Nhâm Tý)

 834. Dương Gia Huấn, Dương Quang Thanh thi đậu Cử nhân

Dương Gia Huấn, người xã Song Tháp, tổng Yên Thường – Đông Ngàn (nay thuộc phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn – Bắc Ninh); Dương Quang Thanh, người xã Thư Lâm, tổng Hương La – Yên Phong (nay thuộc xã Thụy Lâm, Đông Anh – Hà Nội) thi đỗ tại trường Hà Nội do Tuần phủ Hưng Yên Nguyễn Tường Vĩnh làm Chủ khảo; Biện lý bộ Lại Tạ Hữu Khuê làm Phó Chủ khảo.

Dương Quang Thanh vào năm 1862 mộ nghĩa dũng đánh giặc, được tặng hàm Kiểm thảo.

Nguồn: Q4, tr.316-317.

        Trong năm

 835. Dương Đào Hoa thi đậu Tiến sĩ võ

Ông người Đan Nê thuộc tổng cùng tên, huyện Yên Định, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Yên Thọ, Yên Định – Thanh Hóa), sau khi thi đỗ được cử làm Hòa bắc Tướng quân, trấn giữ khu vực Cao – Lạng.

Nguồn: H4, tr.97.

        Trong năm

 836. Vợ chồng ông Dương Văn Quang công đức tu sửa đồ tế khí đình thôn Ô Cách

Bản giáp phụng tự tạo năm Tự Đức 5, đặt tại đình bản thôn, xã Cù Sơn, tổng Hoàng Xá, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Phương Cách, Quốc Oai – Hà Nội) ghi rằng, do việc bản xã phải sửa sang đồ tế khí tại đình, được vợ chồng ông bà Dương Văn Quang cúng tiền và ruộng để xã chi phí. Vậy dân làng bầu Hậu và lo việc cúng giỗ sau này.

Nguồn: T12, tập 21, N020089.

        NĂM 1853 (QUÝ SỬU)

        Tháng 4 (tháng Ba – Quý Sửu)

 837. Dương Bá Cung soạn văn bia Từ vũ huyện Kim Động

Kim Động di kiến Từ vũ bi ký tạo năm Tự Đức 6 (bị ngụy tạo năm Cảnh Hưng 1) dựng tại đền xã Thanh Cù, tổng Thanh Cù, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu – Hưng Yên (nay thuộc xã Ngọc Thanh, Kim Động – Hưng Yên) ghi, Văn miếu Khoái Châu nguyên đặt ở xã Diên An, về sau dời về xã Đức Chiêm, trải cơn loạn lạc bị hư hỏng nặng. Bấy giờ thân sĩ trong phủ bổ nhau góp tiền, vào năm Giáp Dần tiến hành xây lại ở chỗ cũ là xã Diên An. Ban đầu trong miếu có thờ các pho tượng Văn Thánh và Tứ phối đều bằng đá, tô vẽ rất tinh xảo, do ông Đồng Tri phủ Kim Sơn nam họ Nguyễn cung tiến. Đến năm Đinh Dậu vì có bọn ác nổi loạn nên phải mang đi cất dấu. Văn miếu từ đó cũng bị bỏ hoang phế, trải nhiều năm gặp lũ lụt trở nên đổ nát. Năm Đinh Mùi, Cử nhân Trần Tú Dĩnh từ Kinh về, hợp cùng các công Tri phủ Đỗ Huy Lộc đứng ra tổ chức tu sửa. Mùa thu năm Quý Sửu khởi công dựng thêm ba gian nhà trong, ba gian nhà ngoài, năm gian hành lang và mua sắm các đồ tế khí để thờ cúng Tiên thánh.

Nguồn: T12, tập 4, N03569.

        Ngày 19 tháng 5 (12 tháng Tư – Quý Sửu)

 838. Người họ Dương tham gia lập Biểu từ tại ấp Thủ Trung

Nguyên văn Biểu từ như sau:

Biểu từ (tờ trí lệ điền biểu các vị nguyên mộ, thứ mộ)

Toàn dân ấp Thủ Trung, tổng Hướng Đạo, huyện Kim Sơn, phủ Yên Khánh lập Biểu từ.

Nguyên do là dưới triều vua Minh Mệnh các vị chiêu mộ và nguyên mộ theo Doanh điền Nguyễn tướng công, trải qua bao gian lao mới lập thành dân ấp này. Xưa là bãi cát, nay thành ruộng lúa, xưa là đất hoang, nay là thực điền nào khai khẩn cày cấy, đào giếng, đắp đê, khai cừ lập dựng đền miếu thờ thần minh, trí lệ đền thờ tiên tổ, đến nay đã 25 năm.

Nay các lớp dân cư trong ấp đến khai hoang kẻ đến trước người đến sau năm tháng có khác nhau, ruộng đất phân chia theo các thứ bậc, ý tứ chế độ rất rõ ràng.

Dân ấp ta cùng nghĩ rằng, mọi người sinh sôi ngày càng nhiều, gia cư ngày càng đông. Nay đội ơn trên cho phép, chiếu theo danh sách các vị nguyên mộ, thứ mộ để quân cấp ruộng đất thế nghiệp theo thứ bậc khác nhau.

Theo đó, đồng ấp thuận tình lưu trí một khu tư thổ tại xứ ngoại đê, bắc giáp sông Ân, nam giáp tư thổ, đông giáp Đông Đắc, Tây giáp Kiến Thái. Phần chia kính biếu ông nguyên mộ ấp trưởng Dương Công Nhuận 5 mẫu, ông quản mộ Vũ Khuê 4 mẫu; Các ông nguyên mộ Dương Hoạch 2 mẫu 5 sào, Trần Thùy 2 mẫu 5 sào; các ông thứ mộ Ngô Vọng, Phan Chuyên, Phạm Tài, Đỗ Cốn, Nguyễn Cấm, Phạm Tuấn, Đinh Lưỡng, Tống Nhật mỗi ông (viên) được biếu hai mẫu, chiếu số nhận canh làm quan nghiệp điền để biểu dương công lao ngày trước, cho được truyền lại cho con cháu mãi mãi không bao giờ dứt.

Những người có tên trong danh sách, ký tên và điểm chỉ ở sau đây (chỉ ghi lại những người họ Dương): Dương Văn Xuyến, Dương Văn Thế, Dương Văn Diện, Dương Văn Thích, Dương Văn Dĩnh, Dương Văn Lưu, Dương Công Nhuận. Nếu về sau kẻ nào dám tranh đoạt gây tệ thì chẳng những bị tru diệt trên dương thế mà còn bị hạch tội ở cõi âm ti hối sao cho kịp. Nay lập biểu từ”.

Năm 1829 huyện Kim Sơn được thành lập, theo quy định của Nhà nước thì ruộng đất sau khi khai hoang ở Kim Sơn được phân theo chế độ tư điền quân cấp, có nghĩa là về danh nghĩa ruộng đất vẫn thuộc làng xã quản lý, ruộng đất được chia cho dân đinh khai hoang tùy theo số đất của làng. Theo pháp luật và tập quán thì ruộng đất này thuộc công điền chứ không phải tư điền.

Nhưng để khuyến khích người khai hoang, nhà nước cho ruộng nộp thuế theo lệ ruộng tư. Đặc điểm của cách phân chia ruộng đất này là: người được chia ruộng được hưởng một đời nhưng chỉ có quyền hưởng dụng mà không có quyền mua bán. Khi được cấp ruộng chết đi, nếu không có con trai hoặc có con trai nhưng chưa đến tuổi thành đinh theo chế độ tư điền quân cấp là 10 mẫu. Tuy nhiên trong thực tế, số ruộng này có dao động ít nhiều ở từng lý, ấp, trại. Chế độ tư điền quân cấp ở Kim Sơn có sự ưu ái hơn so với chế độ công điền quân cấp ở Tiền Hải.

Mặc dầu vậy chế độ tư điền quân cấp về sau đã bộc lộ những nhược điểm của nó: việc chia đều ruộng đất không chiếu cố đến công lao của người đến trước, đến sau. Mặt khác, khi người khai hoang chết đi nếu không có con trai hoặc có con trai nhưng chưa đến tuổi thành đinh thì họ bị mất quyền sử dụng đất. Vì vậy nhân dân Kim Sơn đã đấu tranh đòi chia ruộng đất thành hai phần bằng nhau. Một nửa là tư điền thế nghiệp (có quyền thừa kế và mua bán); một nửa là công điền quân cấp. Ngày 18 tháng 6 năm Tự Đức 1 (1848) phê chuẩn cho ruộng đất ở Kim Sơn theo chế độ một nửa là tư điền thế nghiệp, một nửa là được điền quân cấp.

Nguồn: T9, 2003.

        Trong năm

 839. Dương Thị Uẩn được tôn làm Hậu thần xã Xuân Đài

Ký kỵ bi tiên tạo năm Tự Đức 6, đặt tại xã Xuân Đài, tổng Quan Đài, huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Nguyệt Đức, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) cho biết vợ chồng bà được các con bỏ ra 300 quan tiền xanh cùng với một số thửa ruộng tốt chi phí cho việc tu sửa đình, trợ phí cho 2 suất đinh của xã đào ngũ bị chết. Xã khắc bia để ghi nhận.

Nguồn: N5, tr.439.

        NĂM 1854 (GIÁP DẦN)

        Trong năm

 840. Vợ chồng bà Dương Thị Mán hưng công tu tạo đình xã Ngọc Thành

Ký kỵ bi ký dựng năm Tự Đức 18 (1865) tại đình bản xã, tổng Vân Cầu, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Ngọc Sơn, Hiệp Hòa – Bắc Giang) do các Hương lão Dương Đình Ấm, Dương Quang Phúc tham gia tạo lập cho biết “núi phía tây bắc bản xã nguyên có Thần từ, Phật tự, trải gió táp mưa sa, đống vũ dường như hư nát cả, cần phải sửa chữa kịp thời. Năm Giáp Tý niên hiệu Tự Đức thứ 7, Dương Thị Mán người trong xã, là chính thất Thập lý hầu Dương lệnh công, tự Phúc Trung thấy đình chùa không được như cũ, thiện tâm dấy lên, bèn quyên gia tư thanh tiền 1.000 quan giao cho dân dùng vào việc sửa chữa. Việc xong, cho bà được gửi giỗ tại đình. Bà lại cúng ruộng để dùng vào việc cúng giỗ hàng năm”.

Nguồn: Đ12, tr.437.

        NĂM 1856 (ẤT MÃO – BÍNH THÌN)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Ất Mão)

 841. Đầu mục Hải Dương là Phó điều bát Dương Đình Phối bị sát hại

Cùng ra pháp trường là các Chánh điều bát Nguyễn Văn Địch, Nguyễn Tiến Khuê; Phó điều bát Trần Xuân Như, Nguyễn Văn Khôi; Quản vệ Nguyễn Văn Liệu; Tư bạ Phạm Đình Thặng; Chiêu phủ Thủy sư Phạm Đình Thặng, Nguyễn Đình Phương, Nguyễn Tiến Đẩu.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.411.

        Ngày 9 tháng 3 (3 tháng Hai – Bính Thìn)

 842. Dương Diễm viết chữ bia Từ đường họ Dương Trường Yên

Trường Cửu/ Long phi/ Bính Thìn tạo năm Tự Đức 9 dựng tại Từ đường họ Dương, xã Trường Yên Thượng, tổng Trường Yên, huyện Gia Viễn, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc xã Trường Yên, Hoa Lư – Ninh Bình) ghi việc vợ chồng ông Dương Trọng Tề lập di chúc, khắc vào bia dá về việc chia tài sản cho các con.

Nguồn: T12, tập 16, N015851-52.

        Tháng 6 (tháng Năm – Bính Thìn)

 843. Võ quan họ Dương chết trận có tên tại đền Trung nghĩa

Đó là Vệ úy Dương Đức Quảng (gian thứ nhất bên tả), Phó Vệ úy Dương Văn Thuận, Thành thủ úy sung Hiệp quản Quảng Ngãi Dương Phúc Tứ (gian thứ nhất bên hữu), Chánh đội trưởng Suất đội Dương Văn Tịnh, Đội trưởng tặng Chánh đội trưởng Dương Văn Đông (nhà bên đông), Chánh đội trưởng Suất đội Dương Như Nhu, Dương Văn Huyên (nhà bên tây).

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.444-449.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Bính Thìn)

 844. Hương trưởng Dương Đăng Khôi tham gia lập bia tổng Đông Thọ

Đông Thọ tổng bi ký tạo năm Tự Đức 9 do Hành tẩu bộ Lại Bùi Thiêm Trai soạn văn bia, đặt tại chùa Phổ Giác bản tổng, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội (nay thuộc phố Ngô Sĩ Liên, phường Văn Miếu, Đống Đa – Hà Nội) ghi rằng, trước đây bản tổng, danh bạ có viết 17 phường thôn, đến niên hiệu Minh Mệnh thứ 18 (1837) vâng mệnh đổi làm Đông Thọ, sáp nhập gồm 13 phường thôn. Hàng năm theo lệ có tế lễ xuân thu nhị kỳ, nay chọn được đám đất tốt ở thôn Hà Thanh dùng làm nơi tế tự. Công việc được khởi sự từ tháng Tám năm Nhâm tý (9-1852) đến tháng Tám năm Giáp Dần (9-1854) thì xong. Bèn ghi khắc sự việc lên đá để lưu truyền mãi mãi.

Nguồn: T21, tr.1031-1034.

        NĂM 1857 (ĐINH TỴ)

        Trong năm

 845. Họ Dương Vân Cốc làm việc thiện

Lập thạch bi ký tạo năm Tự Đức 10, đặt tại miếu thôn Lũng, xã Vân Cốc – tổng Hoàng Mai (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi việc hương lão Dương Văn Dâm cùng nhiều bậc trên dưới trong thôn lập bia ghi nhận Trần lệnh công tự Phúc Xương cùng các bà vợ cung tiến tiền ruộng để được gửi giỗ.

Hậu thần bi ký tạo dựng cùng thời điểm, địa điểm trên ghi danh bà họ Dương hiệu Diệu Hậu, bà Dương Thị Phúc hiệu Diệu Kế xuất 60 quan thanh tiền và cổ tiền, 3 mẫu ruộng, 1 nền đất giao cho bản thon, được tôn Hậu thần.

Thọ ký kị bi thọ cũng thời gian và địa điểm trên, ghi việc hương lão Dương Văn Giám tham gia bầu Hậu cho ông họ Trần cung tiến ruộng dùng vào việc công.

Nguồn: Đ12, tr.683-684.

        NĂM 1858 (ĐINH TỴ – MẬU NGỌ)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Đinh Tỵ)

 846. Truy tặng Cai đội Dương Văn Phong

Ông người xã Mỹ Duệ, tổng Mỹ Duệ, Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh (nay thuộc xã Cẩm Duệ, Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh). Năm Minh Mạng năm thứ 14 (1833) vào làm Hiệu thuận cơ cai đội. Bấy giờ Nông Văn Vân nổi dậy chiếm giữ Cao Bằng, Lạng Sơn. Tuần phủ Hoàng Văn Quyền mang quân đánh bắt. Dương Văn Phong đi theo, quân ta bất lợi, Văn Quyền cùng Văn Phong đều bị bắt. Nông Văn Vân cho Dương Văn Phong gọi quan quân ở các đồn, phủ ra hàng, miễn cho tội chết. Ông hô to rằng: – Viện binh sắp tới, nên giữ vững. Giặc giận đánh đau, không chịu khuất. Lại dụ hàng, ông mắng không ngơi miệng. Giặc cả giận, cắt lưỡi ném xuống sông. Năm Tự Đức năm thứ 10 (1857) Binh bộ xét hỏi được sự thực, đem việc tâu lên. Vua khen là tiết liệt, truy tặng Quản cơ. Năm thứ 33 (1880) liệt thờ vào Trung nghĩa từ.

Nguồn: Đ8, tập 1, tr.761; Đ8, tập Bẩy, tr.536.

        Tháng 5 (tháng Tư – Mậu Ngọ)

 847. Đầu mục Dương Văn Thuật bị sát hại

Cùng bị bắt và chịu án trảm quyết với ông còn có Tiền quân Phạm Văn Vương, Chánh thống Quận công Bùi Văn Tống. Đây là các thủ lĩnh trong phong trào do Lê Duy Minh (Lý Thừa) lãnh đạo, chiến đấu dưới cờ Phù Lê diệt Nguyễn. Họ bị bắt khi tổ chức tấn công vào các làng Thủ Pháp, Phú Công (tổng Từ Ô, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, nay thuộc xã Đoàn Kết, Thanh Miện – Hải Dương), dự định phá thành phủ Ninh Giang để tiện đường ra biển đi Ma Cao cầu viện.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.561.

        Ngày 7 tháng 9 (1 tháng Tám – Mậu Ngọ)

 848. Dương Văn Túy, Dương Thế Trung thi đậu Cử nhân

Từ kỳ thi Hương này, triều đình đổi lại theo cách thức ba kỳ. Kỳ thứ nhất thi chế nghĩa; kỳ thứ 2 thi chiếu, biểu, luận; kỳ thứ 3 thi văn sách; riêng thơ phú thì không thi, đến thi Hội mới dùng. Trong đề chế nghĩa có ám tả, truyện, chú, (trước hết phải chép 1 – 2 câu cẩn án để nêu rõ đại ý). Văn sách đổi làm 10 câu hỏi; Ngũ kinh mỗi kinh một câu, truyện 2 câu, sử Hán, Đường, Tống 3 câu. Sĩ tử làm bài được 1 câu truyện, kinh, 1 câu kiêm kinh, 1 câu về truyện, 2 câu về sử để đủ 5 câu là đủ quyển.

Dương Văn Túy, quê xã Phước Kiều, huyện Diên Phước (nay thuộc xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn – Quảng Nam) thi tại trường Thừa Thiên do Tổng đốc Bình Phú Phạm Khôi làm Chủ khảo, Tham biện Nội các Phạm Thanh làm Phó Chủ khảo.

Dương Thế Trung, người xã Nhơn Nghĩa, huyện Tuy Phước (nay là xã Phước Nghĩa) thi tại trường Bình Định do Hàn lâm Trực học sĩ sung Phó tổng tài Sử quán Phan Huy làm Chủ khảo; Biện lý bộ Hình Nguyễn Danh Phương làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.336-337; T7, tr.582-585.

        Tháng 12 (tháng Một – Mậu Ngọ)

 849. Dương Doãn Hài, Văn Đức Giai đi thực địa Hải Vân quan

Hải Vân quan là cửa ải quan trọng, cửa ngõ từ Kinh đô Huế để đi vào phía nam; xuất lộ giữa một vùng núi non trùng điệp cao ngất từng mây, thẳng đến bờ biển, nơi tiếp giáp phủ Thừa Thiên với tỉnh Quảng Nam. Phía bắc cửa quan là địa giới phủ Thừa Thiên, phía nam là địa giới huyện Hòa Vang. Trước cửa ải độ vài trượng, thế núi dựng đứng rất hiểm trở. Xưa họ Trịnh từng đắp lũy để ngăn Tây Sơn nên gọi là Hải Vân. Phía nam có ngọn núi, trên đỉnh có đồn lũy, ấy là núi Thông, tục gọi là hòn Hành. Năm Minh Mạng 4 (1823), ban tên là núi Định Hải, có pháo đài ở đấy. Phía tây lũy có núi Liên, núi Sảng là nơi đường trạm đi qua. Năm Minh Mạng 7 (1826), đều đổi tên là Thạch Lĩnh, đường đi gồ ghề, cây đá xen lẫn. Chân núi phía nam sát vùng biển, ghềnh đá đứng lô nhô cao thấp không đều, trông như núi giả, sóng biển vỗ vào, nước tóe như mưa.

Cửa biển phía đông bắc đột ngột nổi lên một hòn núi. Năm Minh Mạng 21 (1840), ban tên là hòn Ngự Hải, có pháo đài Hỏa Phong ở đấy, là giới hạn phía bắc của biển Đà Nẵng. Dưới thời Tự Đức, triều đình cho đắp thêm pháo đài ở ngay cửa ải (1848), tăng cường hàng trăm cấm binh, 350 lính dinh Kỳ võ và đắp thêm 2 đồn Phú Gia Lĩnh và Thừa Phúc Thương (1856-1858). Đến đây lại phái Dương Doãn Hài, Văn Đức Giải đi điều tra hình thế để vẽ bản đồ, bố trí đồn lũy. Ngày 4-1-1859 (1 tháng Chạp – Mậu Ngọ), Hoàng đế Tự Đức ban Dụ triệu hai ông về bộ làm việc khác.

Nguồn: Đ3, tập I, tr.346; C3, tr.87.

        NĂM 1859 (MẬU NGỌ – KỶ MÙI)

        Tháng 1 (tháng Chạp – Mậu Ngọ)

 850. Hậu quân Dương Văn Tiến bị bắt ở Hải Dương

Ông tham gia lực lượng do Lê Duy Minh (Lý Thừa) cầm đầu. Trong thời điểm ấy, cùng bị bắt còn có Trung quân Vũ Sĩ và 14 nghĩa binh trong một trận Lê Duy Minh huy động 300 người đi trên 20 chiếc thuyền đánh vào cửa sông Thái Bình, sông Quảng Nạp (Nam Định).

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.587.

        Ngày 15 tháng 2 (13 tháng Giêng – Kỷ Mùi)

 851. Dương Duy Trì được tôn Hậu thần xã Cáo Đỉnh

Hậu thần bi ký tạo năm Tự Đức 12, dựng tại đình Cáo Đỉnh, tổng Cổ Nhuế (Bắc Từ Liêm – Hà Nội) ghi, ông Dương Duy Trì và vợ là Đặng Thị Chiên là những người ăn ở nhân đức. Gặp lúc bản xã khó khăn về tiền thuế và đào sông, ông bà đã cúng 270 quan tiền để nộp thuế cho xã. Dân bản xã nhớ ơn, suy tôn ông bà làm Hậu thần. Ông lại cúng 4 sào ruộng để phụng sự đèn hương và cúng 2 mẫu ruộng để gửi giỗ cho bản thân sau này.

Nguồn: T12, tập 2, N01155.

        Tháng 5 (tháng Tư – Kỷ Mùi)

 852. Dương Thị Chi được ban tặng tiền, gạo nhân chúc thọ

Bà là mẫu thân của Trực học sĩ Mai Anh Tuấn – tức Mai Thế Tuấn, người xã Thạch Giản, tổng Thạch Tuyền, Nga Sơn – Thanh Hóa, Đệ nhị Tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1844), từng là Hàn lâm viện Trước tác sung Nội các Bí thư Sở hành tấu, Thị độc Học sĩ. Ông mất ngày 6 tháng Tư – Ất Mão (21-5-1855) trong một đợt diệt Thanh phỉ ở Lạng Sơn.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.608.

        NĂM 1860 (CANH THÂN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Thân)

 853. Dương Tất Đạt được tôn làm Hậu thần thôn Đại Tân

Hậu thần bi ký tạo năm Tự Đức 13, dựng tại đình bản thôn, xã Tân Mão, tổng Gia Cát, huyện Hiệp Hòa (nay thuộc xã Đại Thành, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi

Vào năm Tự Đức, dân thôn Đại Tân, xã Tân Mão, tổng Gia Cát, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh phải đắp đê sông, chi phí tốn kém nhiều tiền của. Ông Chánh tổng Dương Tất Đạt cùng vợ Ngô Thị Diệu tự xuất 260 quan tiền sử, giúp dân chi phí. Vì vậy, toàn dân bầu ong bà làm Hậu thần, quanh năm hương hỏa. Ông bà lại cúng hai mẫu 2 sào ruộng, dân cày cấy để sau này dùng vào việc giỗ chạp khi ông bà mất.

Nguồn: T12, tập 21, N020238.

        Ngày 7 tháng 4 (17 tháng Ba – Canh Thân)

 854. Tú tài Dương Khắc Thuận soạn văn bia về việc đúc chuông chùa An Nhiên

An/ Nhiên/ Tự/ Chung tạo năm Tự Đức 13 dựng tại chùa xã Bá Hạ (nay thuộc xã Bá Hiển, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi nhận rằng, ngôi chùa này là nơi cổ tích danh lam, trước đã đúc chuông nhưng về sau chuông bị vỡ không dùng được nữa. Vào năm Canh Thân (1860), các ông Dương Công Nghiệp, Dương Đức Vĩ, Dương Khắc Thuận cùng các chư vị họ Dương ở trong thôn đã tự nguyện mua đồng đúc lại chuông.

Nguồn: T12, tập 16, N015230 – 33.

        Mùa thu

 855. Dương Thị Trang công đức tu tạo chùa Long Cảm

Long Cảm tự bi ký tạo năm Tự Đức 13, do Mai Xuân Thưởng – Trọng Đình Nghĩa soạn dựng tại chùa xã Trang Các, tổng Ngọ Xá, huyện Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Hà Phong, Hà Trung – Thanh Hóa) ghi: “Đạo Phù đồ là lấy phương tiện cứu người làm căn bản, cầu thì tất được. Bởi không là gốc của ý không nhỏ. Chùa Long Cảm ở Ốc Sơn là chùa cổ, thuộc về Chương Các của Vĩnh Lộc, Chương Các xưa là phường Trang Các vậy. Địa thế của chùa, phía trước thì ôm núi Tất Mã, phía nam Hồng Mông trông xa, phía bắc núi Chiếu Bạch soi; phía trước chảy tới Đấu Khê, phía sau hình thế đứng cao sừng sững một phương, thực là nơi tụ hội ở đây. Quy chế xưa của Hoa Hạ theo đã lâu. Do đó dựa vào dân binh trong xã hợp sức cùng Thiền tăng đổi cũ thành mới. Vào niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843), nối liền sửa trị được 3 năm. Vào cuối mùa đông năm Quý Mão (1843) đúc một quả chuông. Tháng đầu hè năm Nhâm Tý niên hiệu Tự Đức thứ 5 (1852) tạo tượng Phật. Tháng giữa hè năm Đinh Tỵ (1857) sửa chữa chùa Phật. Công việc hoàn thành đem khắc bia, bèn đến xin lời văn ở ta”.

Bà Dương Thị Trang, người xã Hoàng Hộc, tổng Thạch Khê, huyện Đông Sơn (nay thuộc xã Đông Hoàng, Đông Sơn – Thanh Hóa) góp 3 quan tiền.

Nguồn: T16, tập I, tr.327-332.

        Trong năm

 856. Xây dựng nhà thờ họ Dương Công làng Bất Phí

Họ Dương Công làng Bất Phí (nay thuộc xã Nhân Hòa, Quế Võ – Bắc Ninh) gốc từ Quảng Xương – Thanh Hóa, chuyển cư về đây vào đầu thời Nguyễn, ông tổ là Dương Công Diễn. Trên tấm bia Biểu dương bi ký tạo ngày 15 tháng Chạp năm Thiệu Trị 6 (1843), ghi chép về việc quan viên bản xã bầu Hậu phật, ông Dương Cong Diễn cùng ông Dương Công Lại đã được ghi danh là Hương mục của làng cùng với Lý trưởng Trần Văn Tái, Phó lý Nguyễn Đắc Chúng và các Hương mục Nguyễn Văn Ái, Nguyễn Văn Soạn, Ngô Công Nhung, Doãn Văn Dực, Nguyễn Văn Thận tham gia vào công việc kể trên.

Nguồn: P5, tr.547.

        NĂM 1861 (TÂN DẬU)

        Ngày 9 tháng 4 (30 tháng Hai – Tân Dậu)

 857. Thái giám Dương Uy giao súng liên thanh mang tên Liên châu pháo làm mẫu để Vũ khố chế tạo

Súng do Trung quân Đoàn Thọ tiếp nhận để đặt hàng ở Vũ khố. Hai viên Vệ lang trung là Lê Võ và Lê Văn Bân nhận được mẫu nhưng tìm cách trì hoãn vì những lý do khác nhau nên bị phạt tội.

Nguồn: C3, tr.108.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Tân Dậu)

 858. Sự thăng trầm của Dương Doãn Hài

Ông người xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), còn có tên là Dương Doãn Chấp, Dương Doãn Am – Cử nhân khoa Quý Mão (1843). Khi ấy, ông đang giữ chức Bố chánh Thanh Hóa, do tổ chức bắt được 2 đạo trưởng người Tây dương nên được thưởng 1 đồng Ngân tiền Phi long loại lớn, chuyển làm Thự Án sát Ninh Bình. Tháng 4-1862 sau khi cùng Văn Đức Giai từ Hải Vân quan trở về Kinh, ông quay lại nhiệm sở tại Ninh Bình, phối hợp với Phó Lãnh binh Tôn Thất Huyên tổ chức lấy lại được phủ thành Nho Quan đang nằm trong tay Cai Vàng. Tháng 8-1862, ông xin cho dân ấp Vân Hải khẩn hoang 3000 mẫu ruộng hoang ven biển thành ruộng thục.

Giữa lúc hoạn lộ của Dương Doãn Am bắt đầu thăng tiến thì xảy ra sự việc ở tổng Tự Tân (Kim Sơn – Ninh Bình) khiến ông bị quở trách và giáng cấp. Số là, Phạm Suy là Cai tổng tổng Tự Tân, Ninh Bình giam ngầm rồi giết chết người Đạo trưởng. Tỉnh thần là Vũ Văn Cận, Dương Doãn Am xử án tâu lên giấu bỏ 2 chữ Đạo trưởng đi. Việc ấy phát ra. Vua nói: – Tên kia quả là trái mệnh làm bậy, thì cứ nói rõ tội danh của nó cũng không hại gì, để cho người khác biết mà sợ phục, sao phải tư túi che giấu, để cho lương giáo sinh thù oán nhau. Vũ Văn Cận, Dương Doãn Am đều bị giáng cấp. Nhân thế dụ rằng: – Dân đen theo đạo cũng là con đỏ của triều đình, nếu ghét bỏ quá lắm, giết hết sạch cả, chỉ tổ gây ra hấn khích hại đến khí hòa, không phải là cách yên dân. Các địa phương nên khéo thể theo mà làm, không buông lỏng, không bó buộc, khiến cho biết kính biết yêu, để giữ cho toàn sự sống.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.732, 764, 786, 817.

        Ngày 5 tháng 9 (1 tháng Tám – Tân Dậu)

 859. Dương Văn Đức thi đậu Cử nhân

Ông người xã Mộ Chu, tổng Mộ Chu, huyện Bạch Hạc (nay thuộc phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì – Phú Thọ), dự thi tại trường Hà Nội do Tham tri bộ Lại Phạm Hữu Nghi làm Chủ khảo; Bố chánh Sơn Tây Lê Dụ làm Phó Chủ khảo.

Kỳ thi Hương này, do việc người Pháp đánh chiếm Nam Kỳ nên trường Gia Định tạm hoãn, trường Bình Định thi chung với trường Thừa Thiên. Trường Thanh Hóa thi chung còn trường Nam Định thi phụ với trường Hà Nội.

Nguồn: T7, tr.586-587.

        NĂM 1862 (NHÂM TUẤT)

        Tháng 6 (tháng Năm – Nhâm Tuất)

 860. Suất đoàn Dương Văn Quế được thăng thụ

Trước sức tấn công mạnh mẽ của Cai Vàng, hai phủ Vĩnh Tường – Quốc Oai (Sơn Tây) lần lượt rơi vào tay nghĩa quân. Quản phủ Vĩnh Tường là Bùi Sâm – vốn từ Cai tổng Đồng Vệ mới được cất nhắc đã đem lực lượng lấy lại được phủ thành. Trong trận này, Suất đoàn Dương Văn Quế lập công nên được thăng thụ Chánh đội trưởng Suất đội các quân cùng 3 đồng Phi long bằng bạc loại lớn.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.778.

        Mùa thu

861.  Họ Dương đóng góp hưng công lầu chuông chùa Phúc Hưng

Phúc Hưng tự chung lâu bi ký tạo năm Tự Đức 15, Đốc học Phan Văn Nhã soạn văn, Tú tài Dương Bá Nghĩa viết chữ, dựng tại phía sau đền thờ Dương Đình Nghệ, phía trước chùa Phúc Hưng, xã Dương Xá, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Thiệu Dương – thành phố Thanh Hóa) ghi rằng, chùa Phúc Hưng thuộc xã Dương Xá, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, tương truyền từ nền cũ nhà Dương Chính Công dựng nên. Chùa dựng hai dãy, dãy bên trong ba gian, gian giữa và gian bên trái thờ Phật, gian phải thờ ngài và con gái Hoàng hậu triều Ngô họ Dương, cùng phụ thờ con trai là Bình Vương.

Xét ông họ Dương tên tự là Đình Nghệ, người xã Dương Xá, quận Ái Châu, trước là danh tướng phụng sự Khúc Hạo, trước nguy cơ nước ta bị quân Nam Hán xâm lược, ông đã chiêu tập anh hùng hào kiệt trong châu, nuôi 3.000 con nuôi, mưu đồ khôi phục. Niên hiệu Trường Hưng thời Hậu Đường, ông phát binh vây hãm Thứ sử Lý Tiến phá thành. Nhà Hán lại sai Thừa chỉ Trần Bảo đem quân sang cứu, Lý Tiến bỏ trốn về nước, Trần Bảo bị thua và chết trận. Từ đó Đương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ coi việc trong châu. Tháng 3 năm Đinh Dậu (937) ông bị Nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết hại để thay chức, con rể của ông là Ngô Quyền khởi binh trị tội Kiều Công Tiễn và đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Ngô Quyền xưng Vương và lập bà họ Dương làm Hoàng hậu, ban tên thụy cho Đình Nghệ là Chính Công.

Con của ông là Dương Tam Kha sau được nhà Ngô ban ơn phong cho thực ấp hết đời ở Chương Dương. Như vậy, đó là nhờ vào phúc trạch báo đền của ngài mà từ trước tới nay chưa có. Ôi chùa ấy là nhà, người đời sau có thể nhớ về ông mà cầu xin đức Phật. Như thế thì có thể nhìn thấy ông như lúc sống, sự hiển vinh trước đây ở đời.

Hai mươi năm thì mất, gửi thân ở thiền môn, trải qua bao năm lại được hiển thần, trong cái Sắc Không. Hạo khí trường tồn cũng như ông trời tạo dựng. Lớn lao thay! Dương Chính Công, vị anh hùng của đất nước ta xưa, tinh anh linh ứng vẫn chưa hết, khó mà theo kịp. Nay vì lấy sự tái thế để trừ cái hại của mối dị đoan kia. Ôi! Ngôi lầu này đã được dựng mà chốn thờ Phật xưa có một tân miếu cao ngật đứng vững ở vườn muôn thuở như được mới. Xã dân có sắm trai bàn cầu phúc nhờ vào sự sùng báo lớn lao của ngài mà càng khó chịu với (Công) Tiễn vậy. Ta sở dĩ ghi chép lại những điều nghe vậy mà không thể thoái thác, bèn cầm bút chép thành bài kí.

Chùa không biết dựng từ đời nào, qua bao nhiêu lần tu sửa đều không thấy truyền ghi, chỉ biết rằng triều nhà Lê niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1679), đời Lê Hy Tông có trùng tu ghi chép trong bia tại chùa. Năm tháng đã lâu chùa bị hư hỏng, nên năm Kỉ Dậu (1849) niên hiệu Tự Đức thứ 2 nhân dân trong xã tu sửa lại như cũ, đến năm Bính Thìn (1856) niên hiệu Tự Đức thứ 9 xã dân kê khai công trạng của Dương Chính Công trước đây đề đạt triều đình được phong thần là bậc Tuấn lương. Liền năm đó dựng một ngôi miếu ở trước chùa. Mùa hạ năm sau miếu được hoàn thành làm nơi phụng thờ ông cùng con gái là Hoàng hậu triều Ngô, và phụ thờ Bình Vương. Từ đó đến nay quy mô của chùa, miếu tất cả đã được hoàn thành, chỉnh tề.

Chùa trước kia có một quả chuông nhưng chưa có lầu treo, những năm trước đây chưa có điều kiện để tu tập xây dựng. Cuối mùa thu năm trước nhân dân trong xã chọn được gỗ tốt, mời thợ glỏi về xây dựng. Tháng Giêng bắt đầu khởi tạo, cùng năm tháng Sáu chùa miếu được dựng xong, cùng với lầu nhà nằm sát đê sông Mã, mặt ngoảnh ra hướng tây nam, đấy là nối theo lốt cũ, tường gạch, lợp ngói. Cho nên trong thôn tất có nơi kiên cố, mưu tính sự lâu bền mãi mãi vậy.

Lầu cao 22 thước, rộng, 16 thước, tầng trên cao 5 thước, 8 dưới cao 12 thước, tổng số tiền chi phí hết 1.000 quan, còn chiếc chuông thân cao 4 thước, miệng rộng 2 thước 2 tấc, nó được đúc từ năm Quý Dậu niên hiệu Gia Long thứ 12 (1813) đến nay đã tròn một giáp.

Bản xã hưng công: Phó tổng Lê Văn Thành, Hội chủ Lê Xuân Phức, Dương Khắc Nại, Dương Trọng Thực, Dương Đình Hòa, Dương Công, Chánh Lí trưởng Dương Đình Viên, Dương Văn Văn, Phó Lí Dương Phú, Dương Đình Thứ.

Hương lão chức sắc Trùm trưởng, nhân dân trên dưới tám giáp đồng tâm kính ghi công việc hoàn tất (chỉ ghi họ Dương):

Giáp lão giáp Thượng: Dương Văn Đào, Dương Đình Nhượng, Giáp chùm Dương Văn Văn, Dương Đình Hào, Dương Đình Trang, Dương Đình Lễ, Dương Đình Can, Dương Đình Bá, Dương Đình Nhàn, Dương Đình Vọng.

Giáp lão giáp Hạ: Dương Văn Nghĩa, Dương Văn Thủy, Dương Văn Kiểm.

Giáp lão giáp Trung: Dương Đình Dao, Dương Đình Hiến, Dương Đình Hoà, Dương Đình Long, Dương Quang Vinh; Giáp chùm Dương Văn Mặc, Dương Đình Soạn, Dương Đình Viên, Dương Đình Hà, Dương Văn Bào, Dương Đình Tiệm.

Giáp lão giáp (Kim) Thượng: Dương Văn Hiến; Giáp chùm Dương Đình Hai, Dương Đình Thông, Dương Trọng Kí, Dương Văn Lỗi.

Giáp lão giáp (Kim) Hạ: Dương Đình Khải, Dương Đình Sự, Dương Đình Hậu, Dương Đình Đình, Dương Đình Uông, Giáp chùm Dương Bách Văn.

Giáp lão giáp Lỗi Thượng: Dương Khắc Tấu, Dương Khắc Đình, Dương Khắc Lộ, Dương Công Cự, Dương Công Tiếp. Giáp chùm Dương, Khắc Hoà, Dương Khắc Tiệm, Dương Khắc Mông, Dương Công Kiệm.

Giáp lão giáo Lỗi Đông: Dương Trọng Thực, Dương Bá Tuấn, Dương Văn Tuân; Giáp chùm Dương Văn Tân, Dương Trọng Châu, Dương Phú Nhiêu, Dương Văn An, Dương Phú Hạo.

Nguồn: T16, tr.342-353.

        Tháng 11 (tháng Mười – Nhâm Tuất)

862. Tỉnh thần Bình Định là Dương Vịnh được thăng thưởng

Ông nguyên là Dương Phúc Vịnh, người Hiền Lương – Phong Điền (nay thuộc xã Phong Hiền, Phong Điền – Thừa Thiên Huế), Cử nhân khoa Tân Sửu (1841), Phó bảng khoa Nhâm Dần (1842).

Sau sự việc Đạo trưởng Tây dương ở Bình Định tên là Ytyanh, ông được triều đình thưởng Ngân tiền Phi long loại lớn, Thị lang Dương Vịnh được cử lĩnh Bố chính Ninh Bình, sau đó là Tuần phủ Ninh Bình. Tháng 10-1864, do ốm đau, Dương Vịnh trao lại chức vụ này cho Thị lang Lê Đình Dương.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.736, 837, 875.

        NĂM 1863 (QUÝ HỢI)

        Tháng 6 (tháng Năm – Quý Hợi)

862. Lãnh binh Dương Thành lập công trên vùng biển Quảng Yên

Trong tháng này, Lê Duy Minh cùng Đạo trưởng người Bồ Đào Nha dùng 2 tầu chiến của Tây phương và 10 thuyền của nước Thanh đánh vào Hà Nam (Yên Hưng – Quảng Yên) bị thủy quân triều đình chặn đánh quyết liệt. Trong lúc hai bên giằng co, Lãnh binh Dương Thành kịp mang quân tiếp ứng khiến lực lượng của Lê Duy Minh phải bỏ chạy.

Tháng 2-1865, giặc biển lại đem hơn 50 thuyền tiền vào Nê Sơn, quấy rối Biện Sơn (Thanh Hóa), Dương Thành được phái đem binh đến chặn đánh nhưng bất lợi. Đến tháng 8-1865, giặc biển lại vào cướp đồn Bạng và đồn Biện Sơn (Thanh Hóa), Dương Thành phải nhờ Bố chánh Lê Lương Bạt đem quân đến giải vây.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.871-872, 904, 917.

        Ngày 25 tháng 9 (13 tháng Tám – Quý Hợi)

863. Dương Văn Hạnh sa vào tay quân Pháp tại Lý Nhơn

Ông quê vùng Ngũ Quảng, cùng gia đình vào lập nghiệp tại Cần Đước, Cần Giờ, có mặt trong đội quân chống Pháp do Trương Định lãnh đạo từ những ngày đầu. Sau khi mất căn cứ Gò Công, Trương Định vẫn không ngừng hoạt động ở các nơi, cả ở ngoại ô Sài Gòn. Nghĩa quân thường đột nhập các thành phố tạm bị chiếm để dán bố cáo có đóng dấu Bình Tây Đại Nguyên soái, được đồng bào các xã vẫn truyền tay nhau đọc các bài hịch kêu gọi chống Pháp của Trương Định.

Ngày 25-9-1863, quân Pháp mở đợt tấn công lớn vào nơi đóng quân mới, lúc này Trương Định đang đóng ở Lý Nhơn (Cần Giờ). Khi chúng kéo tới, nghĩa quân vừa chống trả lại vừa lùi về căn cứ Tân Phước nằm ven sông Soài Rạp, có địa thế hiểm yếu, dễ bảo vệ hơn. Trong trận đánh này, chẳng may Dương Văn Hạnh sa vào tay giặc. Bất lực vì các đòn tra tấn và các thủ đoạn dụ dỗ, cuối năm 1863, quân Pháp tử hình Dương Văn Hạnh ngay tại Lý Nhơn, đem đầu bêu ở giữa chợ.

Nguồn: H4, tr.23.

        NĂM 1864 (GIÁP TÝ)

        Ngày 1 tháng 9 (1 tháng Tám – Giáp Tý)

864. Dương Khuê, Dương Danh Lập thi đậu Cử nhân

Tháng Năm – Giáp Tý (6-1864), Hoàng đế Tự Đức ban chỉ dụ về việc quy định trong kì thi Hương, việc sơ khảo giao cho các viên Huấn đạo và Cử nhân đảm nhiệm, việc phúc khảo giao cho các viên Giáo thụ đảm nhiệm. Trước đó, việc sơ khảo giao cho Tri huyện, việc phúc khảo giao cho Tri phủ. Việc thay đổi này thể theo đề nghị của Tổng đốc Định Yên ( Nam Định – Hưng Yên) Đào Trí với hai lý do:

865. Các viên Tri huyện, Tri phủ làm việc hành chính đã lâu, do đó “nghiệp văn chương, nghiên bút” lãng quên nhiều, việc sơ khảo, phúc khảo không còn thích hợp nữa.

866. Các viên Tri huyện, Tri phủ đi đến đâu cũng gây thêm nhiều phiền phức cho dân địa phương trong việc đón tiếp, tốn công, tổn của.

Đồng thời triều đình cho đặt thêm trường thi Hương ở An Giang.

Dương Khuê, người xã Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội (nay là thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa – Hà Nội), sau thi đậu Tiến sĩ; Dương Danh Lập, người xã Khắc Niệm – Tiên Du (nay thuộc thành phố Bắc Ninh) – cả hai ông dự thi tại trường Hà Nội do Thị lang bộ Binh Hoàng Văn Tuyển làm Chủ khảo, Biện lý Lê Tuấn làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: T7, tr.590-591.

        Ngày 22 tháng 10 (22 tháng Chín – Giáp Tý)

 867. Dương Bá Cung soạn văn bia ghi việc trùng tu điện Huy Văn

Trùng tu Hy Văn điện Dục Khánh tự bi tạo năm Tự Đức 17, dựng tại điện Huy Văn, chùa Dục Khánh, thôn Huy Văn, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội (nay là số 13 ngõ Huy Văn, phố Tôn Đức Thắng, phường Văn Chương, Đống Đa – Hà Nội) nguyên văn như sau:

“Ở bốn phía bên trong La Thành, chùa chiền nổi tiếng nơi nơi đều có. Nhưng chưa có chùa nào được như chùa Huy Văn. Nhờ đức kiền, khôn khí thiêng hun đúc và có điềm vì sao lớn tựa cầu vồng hiện trên bến Hoa, ánh chớp sáng lòe ngoài đồng nội. Đồ sộ thay! Huy hoàng thay! Nhưng vì sao chùa này gọi là điện và đặt tên là Dục Khánh? Đó là để giữ dấu vết thiêng liêng đấy.

Đời Văn Hoàng nhà Lê xưa, niên hiệu Thiệu Bình (1434 – 1439), bà Thái hậu họ Ngô hiệu là Quang Thục, là dòng dõi công thần, được vời vào làm Tiệp dư và cho ở cung Khánh Phương. Gặp lúc trong cung cấm xảy ra vụ Huệ phi nuôi cô đồng trong nhà, Ngô Thái hậu bị vu xấu lây và bị đưa ra ngoài, giam lỏng tại ngôi chùa cổ là chùa Huy Văn ở phía nam Cấm thành. Vào đêm sinh nở, bà nằm mộng thấy Thượng đế cho một tiên đồng, rồi sinh ra Thuần Hoàng. Bà được hưởng sự phụng dưỡng đầy vinh hiển như bậc mẫu nghi trong thiên hạ 30 năm. Khi qua đời, tượng thần được dựng để ghi lại hình dung, bàn thờ đặt gần tòa Phật để được sự phù hộ, chuông khánh được đúc nhằm biểu dương công ơn. Muốn ghi nhớ nơi phúc lành sinh thánh nên dùng chữ Dục Khánh mà đặt tên chùa để lưu truyền mãi mãi.

Chân dung vua Thuần Hoàng trước kia thờ ở chùa Khán Sơn, được dựng vào niên hiệu Dương Đức ( 1672-1675) để đánh dấu chỗ luyện tập võ nghệ xưa ở Ngọc Hà. Đến cuộc đổi thay thời Tây Sơn, mới dời về đây.

Ôi! Ngô Thái hậu cũng như mấy hậu phi thời xưa giúp nhà Chu dựng nhà Hạ. Cháu con đông đúc nhiều phúc lành, đức sáng ghi sử đỏ, vẻ đẹp tại tông miếu, không cứ gì phải siêu độ ở chùa mới làm sáng đẹp và mở rộng thêm nền thịnh trị.

Nước nhà đến thời kỳ hưng vượng tất có điềm lành. Dưới triều Lê, một triều đại có nền bình trị rạng rỡ, thì đời Quang Thuận là thịnh hơn cả. Nơi bậc thánh thần ra đời, đâu phải chốn tầm thường, lẽ nào lại phó mặc cho khói phủ mây che ở vùng ngoại ô thôn dã? Do đó mà dựng đền phụng thờ bên cạnh đế đô. Người không chán cảnh kỳ lạ, đất chẳng đẹp suông, chùa này sẽ cùng với các ngôi chùa cổ Tư Thiên, Diên Hựu còn mãi muôn đời. Câu nói: Quay lại cội gốc, vui ở cái mình sinh ra, phải chăng ý nghĩa như thế?

Còn như tượng Thái hậu được tôn thờ cùng với vua, tuy triều đại đổi thay, việc không thể tra khảo được tường, nhưng việc vui vẻ thờ phụng mẹ như lúc đầu tấu khúc nhạc Quân thiên thật có như vậy.

Khu vườn đền ở ngoài thành cũ biến thành ruộng lúa nương ngô, lại thêm gió mưa vùi đập, ít người nghĩ đến lễ giáo phong tục mà lo việc tu sửa phục hồi.

Bấy giờ các vị quan lớn ở tỉnh đường khi mới nhận chức, xong việc công, khi nhàn rỗi hay đến Khán Sơn, được biết chuyện thần kỳ của di tích, không nỡ để mặc cho mai một, bèn quyên lương bổng, thuê thợ tập hợp vật liệu và cùng những người yêu mến lễ giáo chung sức đóng góp sửa lại chùa.

Bên ngoài là diện thờ thánh, kiểu nhà kép mái chồng, đều 3 gian, bên trong là nhà thờ Phật, có dãy hành lang, thành kiểu chữ công, đều 5 gian.

(Nói chung) về di tích chỗ nào cũ thì làm lại cho mới, vị trí theo xưa mà kiểu thức có thay đổi.

Rồi đây trên nền đất cây xưa, hoa mới, trời mãi mãi lưu tấm gương sáng giữa khoảng núi Nùng làm gối, sông Nhị bao quanh. Người quân tử thành đạt ở chỗ xây dựng được sự hứng khởi trong lòng người. Nhìn ngắm cảnh này, ngâm đọc thơ Liệt văn thơ Kỳ úc hẳn sẽ thấy tinh thần thức tỉnh và tâm hồn thấu hiểu sâu xa.

Nay kính cẩn làm bài ký.

Ngày 22 tháng 9, niên hiệu Tự Đức thứ 17 (1864) – Dương Bá Cung hiệu Cấn Đình, Phụng nghị đại phu, Đốc học tỉnh Biên Hòa kính Soạn.

Tú tài Trần Quang Luyện, người thôn Yên Ninh huyện Vĩnh Thuận kính viết”.

Nguồn: T12, tập 1, N449; M5, tr.320-323.

        Tháng 10 (tháng Chín – Giáp Tý)

 868. Truy cấp tử tuất cho người họ Dương chết trận

Đó là Tú tài Dương Đinh Khuông cùng 79 Cử nhân, Tú tài, Tổng lý, Lại dịch bị chết trận trong năm 1863 khi tham gia bảo vệ làng xóm; Dương Đức Đạo và Lại mục Dương Đức Khuê tại Quân thứ Hải Dương, Quảng Yên; Tri huyện Gia Viễn Dương Danh Lương tham gia trận đánh giành lại phủ thành Nho Quan (Ninh Bình).

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.875, 880, 888, 908.

        NĂM 1865 (ẤT SỬU)

        Ngày 25 tháng 5 (1 tháng Năm – Ất Sửu)

869. Dương Danh Lập thi đậu Phó bảng

Tháng Ba năm Ất Sửu (4-1865) triều đình cho định rõ lại lệ trúng cách về thi Hội bên văn. 4 kỳ thông tính được 8 phân trở lên là Trúng cách, 4 kỳ thông tính được 7 phân đến 4 phân và 3 kỳ thông tính được 10 phân trở lên, đều là Phó bảng. Khoa nào số trúng cách có ít, lấy thêm Phó bảng, cho thi lại được từ 3 phân trở lên, cho vào hàng Chánh bảng, còn 1 – 2 phân, truất làm Phó bảng, không đủ số ấy rút về hạng trước.

Người Trúng cách và Thứ cách đều niêm yết chung một bảng thứ bậc theo điểm thi và đều được dự thi Đình. Đồng thời triều đình cũng định rõ lại lệ bổ quan cho những viên Tiến sĩ và Phó bảng: – Cử nhân, Giám sinh mà trúng Nhất giáp, Ðệ nhất danh, [tức Trạng nguyên] bắt đầu thụ hàm Thị độc; Đệ nhị danh [tức Bảng nhãn], bắt đầu thụ hàm Thừa chỉ, đợi Chỉ kén dùng; Đệ tam danh [tức Thám hoa] bắt đầu thụ hàm trước tác, lập tức bổ ngay Tri phủ. Trúng Nhị giáp, bắt đầu thụ hàm Tu soạn, đầy 1 năm cho đi Tri phủ. Trúng Tam giáp, bắt đầu thu hàm Biên tu, đầy 1 năm thăng bổ Chủ sự, cho đi Thự Tri phủ, lại đầy 1 năm nữa được thực thụ. Trúng Phó bảng, thụ hàm Kiểm thảo, đầy 1 năm thăng Tri huyện, Thự đồng Tri phủ, hoặc Thự đồng Tri phủ lĩnh huyện đứng đầu trong tỉnh, lại đầy năm nữa được thực thụ.

– Ấm sinh cùng với Cử nhân, Giám sinh giống nhau.

– Tôn sinh trúng Nhất giáp Đệ nhất danh, bắt đầu thụ hàm Thị giảng Học sĩ; trúng Đệ nhị danh, bắt đầu thụ hàm Thị độc; trúng Đệ tam danh, bắt đầu thụ hàm Thừa chỉ. Trúng Nhị giáp, bổ thụ hàm Trước tác, tức thì bổ Tri phủ. Trúng Tam giáp, cùng với Cử nhân trúng Nhị giáp giống nhau. Trúng Phó bảng cùng với Cử nhân trúng lam giáp giống nhau.

– Giáo thụ cùng với Chánh, Tòng thất phẩm, trúng Nhất giáp, cùng với Tôn sinh giống nhau. Trúng Nhị giáp cùng với Cử nhân trúng Nhất giáp Đệ tam danh giống nhau. Trúng Tam giáp cùng với Cử nhân trúng Nhị giáp giống nhau. Trúng Phó bảng, thăng thụ hàm Tu soạn, đầy 1 năm bổ Đồng Tri phủ.

– Huấn đạo cùng Chánh, Tòng bát phẩm trở xuống trúng Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp, Phó bảng, cùng với Cử nhân Giám sinh dự trúng giống nhau).

Tháng Tư năm đó, thi Đình. Hiệp Đại học sĩ Phan Thanh Giản, Tham tri bộ Lại Phạm Phú Thứ sung Độc quyển; Thị lang bộ Hình Nguyễn Uy, Tham biện các vụ Phan Đình Bình sung Duyệt quyển – lấy 3 Đệ nhị và Đệ tam Tiến sĩ, 13 Phó bảng – trong đó Dương Danh Lập, Cử nhân khoa Giáp Tý (1864).

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.905, 909, 915.

        Tháng 9 (tháng Tám – Ất Sửu)

 870. Án sát Dương Gia Huấn đánh dẹp Thanh phỉ ở Cao Bằng

Toán giặc ở đất nước Thanh sang quấy nhiễu các phủ, huyện ở Cao Bằng (phủ Trùng Khánh, huyện Quảng Uyên), Lãnh binh Bùi Phó đem quân đến đánh, giặc bèn đem quân vây hãm tỉnh thành, Bố chính Nguyễn Mẫn, Án sát Dương Gia Huấn lui đóng ở xã Tung Cao, chiêu họp những quân còn lại. Phủ thần Lạng Sơn, Cao Bằng là Trịnh Lý Hanh nghe báo tin, bèn phái 400 binh dõng đóng ở Cầu Phong để ngăn chặn và đem việc tâu lên.

Vua nghiêm dụ cho Vũ Trọng Bình, Trịnh Lý Hanh phải phái ngay đại binh tới Cao Bằng cùng với đạo binh của Bùi Phó vây đánh, hoặc thân tới Cầu Phong để điều độ; còn Nguyễn Mẫn và Dương Gia Huấn, trước hãy cách chức, ra sức báo hiệu để chuộc tội. Nếu không kham nổi, thì cử người khác thay, không để lo ngoài biên.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.950.

        NĂM 1868 (MẬU THÌN)

        Tháng 3 (tháng Hai – Mậu Thìn)

 871. Dương Công Bình được ghi vào bia Từ đường dòng họ

Từ đường biệt tự tạo năm Tự Đức 21, đặt tại nhà thờ họ Dương thuộc xóm Đằng Giếng, thôn La Nội (Hà Đông – Hà Nội) do Phó bảng Nguyễn Văn Siêu soạn ghi lại cuộc đời, con cái của Phó bảng Dương Công Bình. Ngoài ra văn bia còn cho biết, ông đã dành 1 mẫu ruộng để dân làng tiêu dùng trong ngày giỗ của mình.

Nguồn: T9, 1996, tr.85-94.

        Ngày 7 tháng 5 (15 tháng Tư – Mậu Thìn)

872. Dương Khuê thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Kỳ phúc thí được tổ chức vào đầu tháng Tư – Mậu Thìn. Vua sai thự Hiệp biện Đại học sĩ là Vũ Trọng Bình, Lễ bộ Thượng thư là Phan Huy Vịnh sung làm đọc quyển; Thị lang bộ Lễ tham biện các vụ là Phan Đình Bình, Thị độc học sĩ sung Sử quán Toản tu là Vũ Phạm Khải duyệt quyển. Ngày 15 tháng Tư (7-5-1868) lấy đỗ Vũ Nhự 4 người là Tiến sĩ xuất thân và Đồng tiến sĩ xuất thân có bậc. Lại lấy đỗ Phó bảng 12 người (Đệ nhị giáp 1 người là Võ Nhự, Đệ tam giáp 3 người là Bùi Ước, Dương Khuê và Nguyễn Tái; Phó bảng: Võ Duy Tuân (Hội nguyên) Nguyễn Quán, Nguyễn Thuật, Vũ Văn Báo, Khuất Duy Hài, Hoàng Dụng Tân, Tô Huân, Phan Đình Vận, Lê Khánh Thiện, Lê Doãn Thành, Lam Hoành nguyên tên là Chuẩn sau đổi, Nguyễn Đình Tựu, tất cả 12 người).

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.1104.

      Tháng 7 (tháng Sáu – Mậu Thìn)

 873. Dương Viết Thiệu thi đậu Đệ tam Tiến sĩ võ

Ông người huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên, tham dự kỳ thi phúc hạch ban võ tổ chức vào tháng Sáu – Mậu Thìn do Thượng thư bộ Lễ Phan Huỷ Vịnh, Thống chế Lê Sĩ sung làm Giám thí. Cho Nguyễn Văn Vận 5 người làm Tiến sĩ xuất thân và Đồng Tiến sĩ xuất thân ban võ có bậc, lại lấy võ Phó bảng 20 người (võ Tiến sĩ: Nguyễn Văn Vận; Đồng võ Tiến sĩ: Phạm Học, Nguyễn Văn Tứ, Dương Viết Thiệu, Đỗ Văn Kiệt; võ Phó bảng: Trần Duy Trung, Nguyễn Hữu Cử, Trần Văn Khuyến, Hồ Văn Thử, Hồ Văn Đông, Trương Duy Nhượng, Hồ Văn Thử, Trần Đình Y, Hoàng Đình Mậu, Phan Văn Trạch, Võ Văn Vĩnh, Trần Văn Thi, Hồ Văn Tri, Phan Sĩ Ban, Phí Văn Thịnh, Nguyễn Duy Hồ, Nguyễn Tuế, Phan Viết Cân, Lê Văn Hướng, Nguyễn Văn Huấn, Lê Văn Trạc).

Ông được lưu danh trong Hoàng triều Tự Đức nhị thập nhất niên Mậu Thìn Hội khoa Võ Tiến sĩ Đề danh bi, tạo năm Tự Đức 22, tại xã An Bình, tổng An Ninh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.1115; T12, tập 6, N05689.

        Ngày 26 tháng 9 (1 tháng Tám – Mậu Thìn)

 874. Dương Văn Nhân thi đậu Cử nhân

Dương Văn Nhân quê ở Đặng Xá (Phong Lộc – Quảng Bình) dự thi tại trường Thừa Thiên do Tham tri bộ Binh Bùi Thúc Kiên làm Chủ khảo; Án sát Bình Định Trần Hy Tăng làm Phó chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.388-389.

        Tháng 9 (tháng Tám – Mậu Thìn)

 875. Phúc Khê ấn hành Ức Trai di tập do Dương Bá Cung biên tập

Ngoài đề tựa của Dương Bá Cung vào đầu năm Tự Đức 21 (1868) còn có đề tựa của Nguyễn Năng Tĩnh mùa xuân năm Minh Mệnh 14 (1833) và Ngô Thế Vinh tháng Giêng năm Minh Mệnh 18 (1837).

Ức Trai di tập được Phúc Khê ấn hành gồm 7 quyển:

Quyển 1 mang tên Thi loại gồm 110 thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, phần lớn trích lại từ Tinh tuyển, Việt âm thi tập, Toàn Việt thư lục cùng phụ lục là 1 bài ca, 1 bài hát.

Quyển 2: Phụ lục thơ chữ Hán của Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của Nguyễn Trãi.

Quyển 3: Văn loại: chiếu, chế, biểu, lục… của Nguyễn Trãi (trừ các bài trong Quân trung từ mệnh tập).

Quyển 4: Quân trung từ mệnh tập: các văn kiện gửi cho vua quan và tướng nhà Minh.

Quyển 5: Sự trạng và Bình luận chư thuyết: sự tích Nguyễn Trãi và các lời bình luận về ông.

Quyển 6: Dư địa chí: lịch sử địa lý nước ta.

Quyển 7: Quốc âm thi tập: trên 250 bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi.

Nguồn: D1, tập 3, tr.519-520.

        Trong năm

 876. Huấn đạo Dương Danh Lập soạn văn bia tại miếu thờ Sứ quân Nguyễn Khoan

Sứ quân tứ kỳ tạo năm Tự Đức 21, dựng tại miếu phố Yên Lạc, xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ (nay là thị trấn Yên Lạc Vĩnh Phúc) ghi rằng:

Sứ quân họ Nguyễn, tên Khoan, tự Thái Bình, người bản ấp (là một trong 12 sứ quân thời Tiền Ngô chiếm cứ vùng Tam Đái) từng có nhiều công đức với dân. Thời Minh Mệnh dân bản ấp dựng thảo am thờ cúng. Năm Tự Đức Nhâm Tuất (1862) bị nạn binh hỏa nên chỉ còn lại nền. Đến năm Đinh Mão (1867) quan Lệnh doãn họ Phan về bản ấp, đã đứng ra vận động dân chúng góp tiền xây lại miếu để bốn mùa thờ cúng sứ quân.

Nguồn: T12, tập 15, N014906

        NĂM 1869 (MẬU THÌN – KỶ TỴ)

877. Ngày 13 tháng 1 (1 tháng Chạp – Mậu Thìn)

        Dương Văn Nhã, Dương Quán thi đậu Cử nhân

Khoảng giữa tháng Một năm ấy triều đình mở Ân khoa thi Hương văn (Thừa Thiên, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định, Bình Định, tất cả 6 tr). Quyển văn trúng cách, qua quan bộ Lễ, Nội các, viện Đô sát họp nhau cùng xét, chọn tâu những quyển văn lý vụng kém, chữ viết lạo thảo, tâu xin đánh hỏng tất cả 10 quyển, quan trường phải phạt có thứ bậc.

Dương Văn Nhã, người xã Dương Xá, huyện Đông Sơn (nay thuộc thành phố Thanh Hóa) thi tại trường Thanh Hóa do Bố chánh Nam Định Lê Khắc Nghị làm chủ khảo; Biện lý bộ Hình Phan Đình Thạc làm Phó Chủ khảo; Dương Quán, người xã Vân Đình, cháu của Dương Khuê thi tại trường Hà Nội do Tham tri bộ Binh Bùi Thúc Kiên làm Chủ khảo; Bố chánh Hà Nội Trần Văn Hệ làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.1147; Q4, tr.393-396.

        Ngày 24 tháng 3 (12 tháng Hai – Kỷ Tỵ)

878. Bầu bà họ Dương làm Hậu thần thôn Phù Hộ

Hậu thần bi ký tạo năm Tự Đức 22, dựng tại đình bản thôn, xã Bá Hạ (nay thuộc xã Bá Hiển, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi:

Bà họ Dương hiệu Diệu Ký giúp làng 200 quan tiền để trợ giúp vào việc làm đình, lại cúng 6 sào ruộng để lo việc hương khói thờ cúng sau này. Quan viên và dân làng đã thuận bầu bà làm Hậu thần và cho cha mẹ bà được phối hưởng, ghi rõ ngày giỗ của Hậu thần, tên tự và hiệu của người được phối hưởng, cùng lệ kính biếu và lệ cúng giỗ hàng năm.

Nguồn: T12, tập 16, N015240.

        NĂM 1870 (CANH NGỌ)

        Tháng 5 (tháng Tư – Canh Ngọ)

879. Hậu duệ Dương Đình Nghệ hưng công tu tạo chùa Phúc Hưng

Phúc Hưng tự bi ký do Tri huyện Lê Huy Đạt soạn văn bia, Tú tài Dương Văn Huyên viết chữ, tạo năm Tự Đức 23, dựng tại chùa Phúc Hưng, xã Dương Xá (nay thuộc xóm 11, xã Thiệu Dương – thành phố Thanh Hóa) ghi rằng, toàn xã Dương Xá, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa gồm: Hội chủ Cai tổng Lê Văn Thành hưng công, Dương Đình [Hòa], Dương Phú Nhiêu, Lê Văn Suy, Dương Khắc Thứ cùng các vị trong xã là:

Kỳ lão Chánh đội trưởng Suất đội Dương Văn Tường, Thí sai Suất đội Đội trưởng Nguyễn Văn Tiềm, Cử nhân Dương Văn Nhã, Tú tài Dương Văn Nghị, cùng các chức sắc Văn hội, Trùm trưởng, Viên binh, Lý địch và các bậc trên dưới giáp trong xã đồng lòng tu tạo.

Công việc đã hoàn thành, ghi tên lên [bia tại] ngôi chùa cổ Phúc Hưng xã ta vậy. Tương truyền, triều trước Dương Chính Công là người đã hưng công xây để lại cho dân xã ngôi chùa. Chùa có địa thế kì vĩ, sơn thủy hữu tình, như Phật ở chốn Bồng lai, trúc xanh tựa Đâu suất, hổ xanh trúc rủ tùng tựa ít đâu có được. Từ xưa, khoảng năm Vĩnh Trị thời Lê, đến Thánh triều Thiệu Trị năm thứ 6 (1846), xã ta trùng tu hai lần: lầu hiên thoáng đãng, tượng vàng nghiêm trang, giác ngộ lòng thành. Là một thắng cảnh của châu ta, có thể làm chứng phụng lệnh. Vua trị vì tốt đẹp, lòng dân hoan hỉ. Trong xã có ông họ Dương là hậu duệ của Dương Tướng công đã ngưỡng vọng cậy nhờ phúc đức tổ tiên lập nền móng nối dài mãi mãi. Nghĩ rằng, trước tu dưỡng nêu cao thiện ý, bàn với chư vị sắc mục trong toàn xã tình nguyện quyên góp hưng công xây dựng tòa chính tấm, vật liệu gạch đá, gạo tiền đều đã đủ, công việc hoàn thành, quy mô hơn trước. Cũng đã tàm rạng rỡ đời nay, truyền đến đời sau việc thiện đang làm vậy, làm phúc đâu cầu báo đáp. Nay kính cẩn viét lên bia đá, ghi lại việc ấy (chỉ ghi họ Dương):

Giáp Hoàng Thượng: Dương Văn Nhượng, Dương Đình Hào, Dương Đình Trang, Dương Đình Lễ, Dương Văn Tùng, Dương Tiến [], Dương Văn Man, Dương Tiến Đình, Dương Đình Túy, Dương Đình Vị, Dương Đình Hoán, Dương Văn Túy, Dương Đình Giáo, Dương Tiến Nhu, Dương Đình Vang, Dương Văn Cánh, Dương Đình Kỳ, Dương Đình Lý, Dương Tiến Duyệt, Dương Văn Cội, Dương Đình Cát, Dương Tiến Vụ, Dương Tiến Sâm, Dương Đình Khang, Dương Văn Bằng.

Giáp Hoàng Hạ: Dương Quốc Nam, Dương Đình Lễ, Dương Văn Phố, Dương Tiên Đức, Dương Văn Tường, Dương Hữu Dực, Dương Văn Văn, Dương Văn [Tuần], Dương Văn Đấu, Dương Văn Uy, Dương Đình Đổ, Dương Văn Hội, Dương Văn Tái, Dương Đình Chỉnh, Dương Đình Xuân, Dương Văn Hợp, Dương Đình Ngũ, Dương Đình Khoa, Dương Văn Thuật, Dương Văn Trí, Dương Văn Huệ, Dương Văn Tây.

Giáp Bá Thượng: Dương Đình Nhàn, Dương Đình Vọng, Dương Đình Khánh, Dương Đình Phố, Dương Văn Ếch, Dương Thống, Dương Đình Tính, Dương Đình Cự, Dương Đình Tuy, Dương Đình Vinh, Dương Đình Khoát.

Giáp Phong trung: Dương Đình Hòa, Dương Đình, Dương Đình Soạn, Dương Đình Hà, Dương Đình Tiện, Dương Văn Hào, Dương Đình Quang, Dương Đình Mục, Dương Đình Chức, Dương Đình Quần, Dương Đình Tuất, Dương Đình Thẩm, Dương Đình Chuyên, Dương Đình Hanh, Dương Đình Sán, Dương Đình Thi, Dương Đình Mục, Dương Đình Trứ, Dương Đình Tịnh, Dương Đình Dư, Dương Đình Thư, Dương Đình Thể, Dương Đình Điểu, Dương Đình Cưu, Dương Đình Hữu, Dương Đình Đấu, Dương Văn Vạn, Dương Đình Kỳ, Dương Đình Chiếu, Dương Đình Man, Dương Đình Bỉnh, Dương Đình, Dương Đình Trang, Dương Đình Gieo, Dương Đình Khánh, Dương Đình Giang, Dương Đình Tam, Dương Đình Hoàn, Dương Đình Tăng, Dương Đình Kiên, Dương Đình Du, Dương Đình Cảnh, Dương Đình Tố.

Giáp Kim Thượng : Dương Văn Hiến, Dương Đình Thông, Dương Văn [],Dương Khắc Đĩnh, Dương Khắc [Loại], Dương Văn Thu, Dương Trọng Bạo, Dương Đình Phát, Dương Khắc Dự, Dương Đình Chính, Dương Văn [Thẩm], Dương Văn [Hoan], Dương Đình Hội, Dương Đình Hợp, Dương Đình Vạn, Dương Khắc [Cử], Dương Đình Ân, Dương Đình Nghĩa, Dương Văn Ân, Dương Văn Tốt, Dương Đình Ân, Dương Văn Pháo, Dương Văn Lành.

Giáp Kim Hạ: Dương Đình Vượng, Dương Bá Văn, Dương Đình Chương, Đương Đình Cương, Dương Văn Ốc, Dương Đình Bân, Dương Đình Bính, Dương Đình Cội, Dương Đình Định, Dương Đình Ốc, Dương Đình Ân, Dương Văn Biểu, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Khai, Nguyễn Văn Côn, Dương Đình Dũng, Dương Đình Trí.

Giáp Mạt Thượng: Dương Khắc Lộ, Dương Công Tiếp, Dương Khắc Hòa, Dương Khắc Tiệm, Dương Công [Khiếm], Dương Khắc Vĩ, Dương Khắc Thứ, Dương Khắc Sử, Dương Công Tăng, Dương Khắc Ngã, Dương Khắc Mười, Dương Công Phổ, Dương Công Vọi, Dương Bá Lân, Dương Khắc Viết, Dương Khắc Hương, Dương Khắc Loan, Dương Khắc Hội, Dương Khắc Quýnh, Dương Bá Huynh, Dương Khắc Bách, Dương Khắc Tuân, Dương Khắc Mật, Dương Khắc Lộc, Dương Khắc Huy, Dương Khắc Khuê, Dương Khắc [], Dương Công Khố, Dương Bá Phụng, Dương Khắc Phúc, Dương Khắc Hưng, Dương Khắc Ân, Dương Bá Trụ, Dương Khắc Lệnh, Dương Khắc Đồng, Dương Khắc Cung, Dương Công Đồng, Dương Khắc Phát, Dương Công Hai, Dương Khắc Lập, Dương Khắc Tuyên, Dương Khắc Trung, Dương Khắc Lạc, Dương Khắc Cảnh, Dương Công Lã, Dương Khắc Khoa, Dương Bá Dũng, Dương Công Tích, Dương Công [Cốc], Dương Công Chỉ, Dương Khắc Thiệu, Dương Bá Cương, Dương Khắc Tuất.

Giáp Mạt Đông: Dương Trọng Thực, Dương Văn Tuân, Dương Trọng Chu, Dương Phú Nhiên, Dương Văn An, Dương Phú Hãn, Dương Bá Thai, Dương Bá Tạo, Dương Bá Tế Dương Bá Tĩnh. Dương Vũ Hội, Dương Đình Cục, Dương Văn Nghị, Dương Trọng Quai, Dương Văn Mừng, Dương Phú Nha, Dương Văn Cát, Dương Văn Thạch, Dương Bá Kình, Dương Trọng Tiện, Dương [] Cát, Dương Văn Túy, Dương Văn Tăng, Dương Bá Tình, Dương Trọng Cảnh, Dương Trọng Cận, Dương Văn Nhã, Dương Phú Ngưng, Dương Văn Giáo, Lê Viết Hài, Dương Phú Ân, Dương Văn Cựu, Dương Bá Địch, Dương Phú Cốc, Dương Văn Đồng, Dương Bá Thái, Dương Văn Đồng.

Bản xã cúng tiền: Dương tộc 4 quan, Dương Văn, Thúy tiền l quan, Chánh đội trưởng Suất đội Dương Văn Tường tiền 5 quan, Cử nhân Dương Văn Nhã 5 quan, Tú tài Dương Văn Nghị tiền 2 quan, Thí sai Tòng cửu phẩm Dương Khắc Khoan tiền 10 quan, Thông lại Dương Đình Hướng 4 quan, Điển tịch Dương Hữu Tạo tiền 4 quan, Dương Phú Nhiêu tiền 15 quan, Dương Trọng Thực tiền 1 quan 5 mạch, Dương Công Cư 1 quan, Lê Xuân Sửu 2 quan, Dương Quốc Nam 1 quan 5 mạch, Dương Văn Quá 1 quan 5 mạch, Dương Công Tiếp 1 quan 5 mạch, Đội trưởng Dương Khắc Giá cúng tiền 3 quan, Đội trưởng Dương Quốc Uy 1 quan, Dân dũng đội trưởng Dương Khắc Lộc 1 quan, Dương Văn Mừng 2 quan, Dương Đình Vượng 1 quan 5 mạch, Dương Phú Hãn 1 quan 5 mạch, Dương Đình Soạn 3 quan 5 mạch, Dương Khắc Thứ 3 quan, Dương Đình Chức, Dương Đạo Quang, Dương Công Tăng 2 quan, Dương Đình Hào 1 quan, Dương Khắc Chuyên 1 quan, Dương Đình Quang 1 quan, Dương Đình Hòa 3 quan, Dương Khắc Sử, Dương Hào 1 quan niệm, Dương Đình Thư 1 quan, Dương Bá Tĩnh 4 quan, Dương Đình Viết 1 quan, Dương Đình Phiên 2 quan, Dương Bá Cửu 6 quan, Dương Văn Mừng 2 quan, Dương Đình Vọng 1 quan, Dương Đình Nhật 4 quan, Dương Đình Cảnh 4 quan, Dương Văn Hội 1 quan, Dương Khắc Giáo 1 quan, Dương Đình Canh 2 quan, Dương Văn Túy 4 quan, Dương Đình Cương 2 quan, Dương Đình Chính 1 quan, Dương Văn Tuân 1 quan, Dương Bá Thuật 1 quan, Dương Thị Tốt 1 quan, Dương Thị Cần 3 quan, Dương Thị Bảo 1 quan, Dương Tây Quất 3 quan, Dương Thị Bằng 5 quan, Dương Thị Đậu 1 quan, Dương Thị Kỳ 3 quan, Dương Thị Lượng 3 quan.

Nguồn: T16, tr.354-374.

        Ngày 28 tháng 10 (6 tháng Mười – Canh Ngọ)

880. Đóng góp của Dương Văn Thân với thôn Đống Cao

Dịch diệp lưu phương tạo năm Tự Đức 23 dựng tại đình bản thôn, xã Vân Đài, tổng Vân Đài, huyện Yên Lạc (nay thuộc xã Văn Tiến, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi, vào năm Canh Tuất (1850), bản thôn tu tạo đình vũ, ông Dương Văn Thân đã xuất 160 quan giúp dân chi dùng, sau ông lại xuất l mẫu 6 sào ruộng làm ruộng tế tự, Hương lão và dân thôn đồng ý ông được thờ tự tại đình và ghi lại thể lệ giỗ và vị trí các thửa ruộng cúng tiến.

Nguồn: T12, tập 5, N014680-81.

        Ngày 31 tháng 12 (10 tháng Một – Canh Ngọ)

881. Dựng bia về Dương Linh với xã Đa Phúc

Dương Công từ sở bi ký tạo năm Tự Đức 23 đặt tại Từ đường họ Dương bản xã thuộc tổng Lật Sơn, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Sài Sơn, Quốc Oai – Hà Nội) cho biết đã ghi nhận sự đóng góp của ông Dương Linh cho xã và Hội Tư văn để chi vào việc đèn hương nên tán thành thờ vợ chồng ông ở Từ đường.

Nguồn: T12, tập 21, N020141-142.

        NĂM 1871 (TÂN MÙI)

        Ngày 27 tháng 4 (8 tháng Ba – Tân Mùi)

882. Người họ Dương ấp Tư Trung tham gia lấp Ước từ

Ngày 12 tháng 11 năm Tự Đức thứ 5 (1852) nhà vua đã phê chuẩn cho ruộng đất ở Kim Sơn được hưởng theo chế độ sau: Tất cả những dân binh lúc đó chia làm 3 hạng, nguyên mộ, thứ mộ và tân mộ: Tư điển quân cấp không có gì thay đổi, tiếp tục nhận một phần ngang nhau, riêng tư điền thế nghiệp, chia theo tỷ lệ 10; 7; 5. Chẳng hạn nếu nguyên mộ được 10 mẫu thì thứ mộ được 7 mẫu và tân mộ được 5 mẫu. Đối với con trai của nguyên, thứ mộ đã chết trước năm 1848 được chia một phần bằng thứ mộ. Nếu có con trai nuôi thì cũng được phần như vậy. Vợ góa hay con gái của nguyên, thứ mộ đã chết được chia bằng 1/2 của thứ mộ. Phần cho nguyên thứ mộ và con trai của nguyên, thứ mộ đã chết được trao cho họ vĩnh viễn (tư điền thế nghiệp). Riêng phần của vợ góa hay con gái của nguyên, thứ mộ đã chết chỉ được hưởng dụng. Nếu người con gái đó đi lấy chồng và người vợ góa chết thì phải trả lại ruộng đất cho làng.

Như vậy bản Biểu từ của ấp Kim Sơn lập ra vào năm Tự Đức thứ 6 (sau l năm khi nhà nước ban hành chế độ ruộng đất mới ở Kim Sơn) nhằm để ưu đãi những người có công khai hoang lập ấp đó là những người đến đầu tiên: chiêu nguyên, thứ mộ.

Nhưng chế độ ruộng đất này vẫn còn có những điều không thích hợp, số người đến Kim Sơn đầu tiên đến đó đã 20 năm. Một số người nhiều tuổi hay bệnh tật chết đi, nếu họ không có con trai hoặc con trai nhưng chưa đến tuổi thành đinh vẫn không được chia tư điền thề nghiệp. Công lao của các nguyên mộ giờ đây cũng không hơn gì các tân đinh vì phần tư điền thế nghiệp và tư điền quân cấp đều như nhau: Vợ góa hay con trẻ của các nguyên mộ chết trước năm 1848 không được chia tư điền thế nghiệp nên một tấc đất cũng không có. Vì vậy nhân dân Kim Sơn lại kêu kiện và xin nhà nước ban hành chế độ ruộng đất mới. Đó chính là lý do cho sự ra đời của bản Ước từ dưới đây:

“Ước từ (Tờ ước lập tri kỵ điền)

Toàn dân ấp Thu Trung, tổng Hướng Đạo, huyện Kim Sơn, phủ Yên Khánh lập tờ ước về việc trí kỵ điền (đặt ruộng giỗ các ông chiêu mộ).

Nguyên là năm thứ chín triều vua Minh Mệnh có chỉ cho được chiêu mộ dân nghèo khai khẩn ruộng hoang lập thành lý ấp. Khi ấy ở huyện Đại An, tổng Thân Thượng, xã Đông Thanh có ông Dương Công Nhuận và ở tổng Hải Lãng xã Hà Dương thôn Hà Phúc có ông Vũ Khuê theo quan Doanh điền sứ đến tỉnh Ninh Bình mộ đinh lập ấp. Nay nhân dân đông đúc, làng ấp thịnh giàu được như vậy là do công đức của các Tiên Công. Theo lễ tưởng nhớ người có công (truy tư chi lễ), há giám quên ơn. Nay dân ấp hội họp thuận tình trích số ruộng tại sứ ngoại đê, đỗi thứ, số ruộng là 2 mẫu, chia đều cho 4 giáp, mỗi giáp 5 sào, hàng năm đến ngày ky hai ông (ngày mồng 3 – tháng Ba ky Dương Công (Nhuận). Ngày 12 tháng Sáu kỵ Vũ Công (Vũ Khê), mỗi kỵ mỗi giáp nộp tiền 3 quan biện lễ kính tế. Để tỏ lòng thành không quên nguồn gốc và báo đáp công đức tiền nhân. Nếu có giáp nào tự tiện đem phần lệ điền này cầm cố cho thuê mướn sẽ phạt khoản tiền 5 quan, phần ruộng này ấp sẽ lấy về để phụng sự việc tế tự. Nay làm tờ ước.

Năm Tự Đức thứ 24 ngày 8 tháng 03 lập Ước từ

Nguyên cai tổng Ngô Đức Vọng ký…”

Trước hết bản Ước từ này ra đời vào thời điểm sau khi hai vị chiêu mộ của ấp đã mất nên dân làng đã hội họp nhau lại, nhất trí để ra hai mẫu kỵ điền để phân cho 4 giáp cày cấy và lo biện lễ vào ngày giỗ hai vị chiêu mộ Dương Công Nhuận và Vũ Khuê đều được thờ chung trong miếu Thủ Trung – nơi thờ thành hoàng của làng. Điều này cũng cho thấy nhân dân Thủ Trung cũng như nhân dân huyện Kim Sơn và nhiều nơi khác đều luôn biết ơn đến công lao của những người có công khai phá lập làng.

Thứ hai, ở ấp Thủ Trung có 4 giáp Đông, Tây, Nam, Bắc nên bản Ước từ cũng nói rõ hai mẫu kỵ điền này phân đều cho 4 giáp để lo biện lễ và đèn nhang cúng hai vị chiêu mộ vừa thể hiện sự công bằng đồng thời cũng là nghĩa vụ của các giáp đối với bậc tiền nhân đã có công chiêu dân lập ấp.

Thứ ba, hai mẫu ruộng này không phải nộp thuế và đương nhiên nó là sở hữu của ấp và sự quản lý nó cũng thuộc về làng ấp chứ không phải là nhà nước.

Nguồn: T9, 2003

        Ngày 20 tháng 7 (3 tháng Sáu – Tân Mùi)

883. Dương Danh Thành soạn văn bia về tiểu sử Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hàn

Nguyễn công bi ký tạo năm Tự Đức 24, dựng tại đình Phú Thị (Gia Lâm – Hà Nội) ghi về thực chất cái chết của Tiến sĩ năm Chiêu Thống nguyên niên (1787) tại Cao Bằng.

Nguồn: T9, 2004, tr.158-167.

        Tháng 9 (tháng Tám – Tân Mùi)

884. Phó lãnh binh Dương Trọng Hòa lập công

Nhận được tin huyện Thanh Ba (Sơn Tây) bị một toán nổi dậy chiếm cứ, quấy nhiễu và cướp bóc, Phó Lãnh binh Dương Trọng Hòa cùng Phó Lãnh binh Đỗ Văn Ngũ được lệnh đem quân và voi đến bờ hữu sông Thao phối hợp với Đề đốc Nguyễn Văn Hùng ở bờ tả sông Thao chặn đánh, lấy lại được huyện lỵ.

Sau trận này, ông được thưởng hậu.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.1305, 1320.

        NĂM 1872 (NHÂM THÂN)

        Tháng 4 (tháng Ba – Nhâm Thân)

885. Gia thưởng cho Phó tổng La Đình Dương Đình Vĩnh

Ông người xã Úc Sơn, tổng La Đình, huyện Tư Nông, phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (nay thuộc thị trấn Hương Sơn, Phú Bình – Thái Nguyên). Khi ấy thổ phỉ kéo đến xã Úc Sơn vây đánh 3 – 4 ngày liền. Ông đã chỉ huy dân dõng vừa chiến đấu, vừa giữ vững rào lũy không cho kẻ địch vượt qua để chờ quan quân đến. Khi Đề đốc Nguyễn Văn Hùng tới nơi, thổ phỉ tan chạy. Quan tỉnh Thái Nguyên đem việc ấy tâu lên, Hoàng đế Tự Đức nói: – Có lòng nghĩa khái như thế, ban thưởng cho để khuyến khích người khác!

Ngoài Phó tổng Dương Đình Vĩnh được gia thưởng Chánh bát phẩm bách hộ, dân làng còn được tha bắt lính, tạp dịch, thuế thân trong 5 năm và được tặng biển ngạch mang dòng chữ Úc Sơn nghĩa dân.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.1326-1327.

        NĂM 1873 (QUÝ HỢI)

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Hợi)

886. Bà Dương Thị Tình được tôn Hậu thần xã Hòa Lạc

Hậu thần bi ký tạo năm Tự Đức 26, đặt tại đình bản xã, tổng Đồng Phú, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Tân Cương, Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc) cho biết bà là người bản xã, tự nguyện bỏ 200 quan tiền, 1 mẫu ruộng để dân làng có tiền làm kiệu rồng và luân phiên cày cấy.

Nguồn: T12, tập 15, N014153.

        NĂM 1875 (ẤT HỢI)

        Tháng 6 (tháng Năm – Ất Hợi)

887. Thủ Lĩnh Dương Đình Tín đầu hàng quan quân ở Thái Nguyên

Trong hàng ngũ nghĩa binh, ông giữ chức Trung quân Phó đô tướng. Cùng ra hàng có 14 đầu mục, 290 nghĩa binh. Thự Tổng đốc Ninh Thái Tôn Thất Thuyết và quan tỉnh Mai Văn Chất tiếp nhận sự đầu hàng này.

Nguồn: Đ8, tập Tám, tr.124.

        Tháng 12 (tháng Một – Ất Hợi)

888. Dương Khuê được cử trông coi Sơn phòng Hà Nội

Ông người xã Vân Đình, huyện Sơn Minh, tỉnh Hà Nội (nay là thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa – Hà Nội), Cử nhân khoa Giáp Tý – 1864, Đệ tam Tiến sĩ khoa Mậu Thìn – 1868, từng giữ chức Tri phủ Bình Giang, Bố chánh Hải Dương. Do dâng sớ bày tỏ thái độ quyết liệt với người Pháp trong việc đánh Bắc Kỳ nên bị Hoàng đế Tự Đức cho là bất thức thời vụ (không biết thời vụ) và giáng chức.

Tháng 8-1874 (tháng 7 – Giáp Tuất) nhân có sớ của nguyên Đốc phủ Hà Nội là Trần Bình, Phạm Thận Duật cho là phận rừng 3 phủ, huyện Ứng Hòa, Hoài Yên, Chương Đức thuộc hạt ấy, địa thế rộng rãi, trông nom không thể khắp, bỏ hoang rất nhiều, phải đi kinh lý, tâu xin đặt nha Sơn phòng do viên Tuần phủ tỉnh ấy Kiêm làm việc, lại đem 600 điền tốt do Dương Khuê (viên ấy trước có việc phải giáng, theo Kinh lược Nguyễn Chính sai phái làm việc, đến khi Nguyễn Chính trù tính làm chưa xong đổi đi nơi khác, lại ủy cho ở lại làm việc) mộ trước, dồn làm 2 cơ chia đi đóng đồn khẩn hoang; còn Bang biện ở tỉnh vụ là Nguyễn Vĩ cũng tình nguyện mộ thêm cùng làm.

Vua cho việc ấy là ở đất hoang, kiêm cả sơn phòng, chuẩn cho làm thử, còn việc phòng giữ khẩn hoang chuyên do Dương Khuê, Nguyễn Vĩ trông coi làm việc, quan tỉnh thường trông coi thêm, mong cho được việc ổn thỏa, đợi sau 3 tháng xét kỹ tình thế, quả thành hiệu hay không, lại phải lần lượt tâu lên, có nên đặt nhà Sơn phòng cấp cho ấn quan phòng, sẽ chuẩn cho làm sau. Đến nay Đốc phủ mới là bọn Trần Đình Túc, Trần Hy Tăng xét khám hiện tình dâng tập tâu, cho là chốn ấy đất đá lẫn lộn, khai khẩn rất khó (hiện được ước 100 mẫu, chỉ có thể thành đất, không thể thành ruộng), nhưng đường rừng nhiều ngả, phòng bị rất là quan yếu. Hiện nay, Sơn Tây, Thanh Hóa tiếp giáp hạt ấy đã đặt Sơn phòng, thì hạt ấy cũng không nên không phòng bị. Bèn chuẩn y cho làm, cho xong việc mưu tính ấy mà việc phòng giữ nghiêm ngặt. Nhưng bảo về phàm làm việc, cốt phải thành hiệu, 3 năm tâu bày công trạng làm việc, nếu bổ ích ít, thì có làm gì. (Sau khai khẩn không thành hiệu, nên bãi đi, rồi đổi đặt làm đạo Mỹ Đức).

Nguồn: Đ8, tập Tám, tr.156.

        NĂM 1876 (BÍNH TÝ)

        Tháng 4 (tháng Ba – Bính Tý)

889. Tú tài Dương Bá Nghị được chọn bổ làm quan Thái y

Sai Cơ mật viện, bộ Lễ, Nội các, viện Thái y Hội đồng sát hạch các người ứng cử nghề làm thuốc. (Một quyển của Tư vụ Lê Kinh Hợp bàn luận rõ ràng; các quyển của Tú tài Dương Bá Nghị, Nguyễn Địch, Phan Huân, viên tử Phạm Văn Tuệ, sĩ nhân Trần Đức Mậu, nửa được nửa hỏng, đều bổ làm quan. Còn không dự hạng, đều cấp cho mỗi người 20 quan tiền, đi đường trạm về quê quán).

Nguồn: Đ8, tập Tám, tr.167.

        NĂM 1877 (ĐINH SỬU)

        Ngày 8 tháng 5 (25 tháng Ba – Đinh Sửu)

890. Vợ chồng ông họ Dương tôn làm Hậu thôn Phúc Lộc

Dịch diệp lưu phương tạo năm Tự Đức 30, dựng tại đình bản thôn thuộc xã Yên Đài, tổng Vân Đài, huyện Yên Lạc, phủ Vĩnh Tường (nay thuộc xã Nguyệt Đức, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi, vào năm Tự Đức thứ 30 thôn tu tạo đình miếu, bà Ngô Thị Băng hiệu Diệu Tịnh là vợ cả của ông họ Dương đã xuất 100 quan thanh tiền trợ giúp việc công. Bà lại xuất 1 mẫu ruộng làm ruộng tế tự. Hương lão và dân thôn bầu ông bà làm Hậu. Ghi lệ cúng giỗ hàng năm và vị trí ruộng cúng tiến.

Nguồn: T12, tập 15, N014687-88.

        Này 19 tháng 12 (15 tháng Một – Đinh Sửu)

891. Dương Tuấn Trai soạn văn bia về việc tu tạo đình Cảo Đỉnh

Trùng tu bi ký tạo năm Tự Đức 30, dựng tại am bản xã, tổng Cổ Nhuế (Bắc Từ Liêm – Hà Nội) ghi rằng, miếu cổ của xã trải qua năm tháng đã bị hư hại, nay các quan viên chức sắc trích quỹ công và quyên góp tiền để tu sửa.

Nguồn: T12, tập 2, N01151-52.

        NĂM 1878 (MẬU DẦN)

        Ngày 14 tháng 7 (15 tháng Sáu – Mậu Dần)

892. Dương Quế Phổ thi đậu Cử Nhân

Ông là con trai của Dương Doãn Chấp, người làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), dự thi tại trường Nghệ An do Bố chánh Hải Dương Võ túc làm chủ khảo, Án sát Thanh Hóa Cao Duy Kính làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: T7, tr.633-634; Q4, tr.443; Đ8, tập Tám, tr.289.

        Tháng 9 (tháng Tám – Mậu Dần)

893. Dương Doãn Am qua đời trên đường hành quân

Cuộc đời của ông gắn bó với nhiều hoạt động trong lĩnh vực quân sự. Tháng 2-1864, sung Tán lý quân thứ Hải – Yên, có sáng kiến thành lập đội Tập dũng nhất, Tập dũng nhì trong hệ thống phòng thủ bờ biển. Hơn 1 năm sau, triều đình nhận thấy nhiều người do ông đề cử đều có tài năng nên thăng lên một cấp. Năm 1870, khu vực Ninh – Thái có nhiều biến loạn, Hoàng Kế Viêm xin ông theo trong quân. Tháng10-1872, ông lập công lớn trong chiến dịch dẹp Thanh phỉ trên đất Yên Việt (Bắc Ninh) lại thăng 1 trật, thưởng cấp kỷ lục và Ngân tiền. Tháng 8-1873, Tán tương đem quân tiến đánh Thanh phỉ ở Đồng Lũng (Sơn Tây) lại lập quân công. Tháng 9-1878, Quang lộc tự Thiếu khanh sung Tán lý Dương Doãn Am lâm bệnh, qua đời trên đường hành quân.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.837, 857, 964, 1340, 1403; tập Tám, tr.301.

        Ngày 9 tháng 11 (15 tháng Mười – Mậu Dần)

894. Dương Lâm, Dương Xuân Phổ thi đậu Cử nhân

Dương Lâm, em trai Tiến sĩ Dương Khuê, dự thi tại trường Hà Nội do Tuần phủ Hà Tĩnh Đoàn Văn Bính làm Chủ khảo, Tế tửu Quốc tử giám Bùi Ước làm Phó Chủ khảo; Dương Xuân Phổ , người xã Vĩnh Ninh, tổng Tong Thác huyện Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Nam Hải, Tiền Hải – Thái Bình), dự thi tại trường Nam Định do Thị lang bộ Binh Hà Văn Quan làm Chủ khảo, Biện lý bộ Hình Lương Huy Ý làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.445-450.

        NĂM 1879 (KỶ MÃO)

        Tháng 5 (tháng Tư – Kỷ Mão

895. Khâm phái Ngự sử Dương Quán tâu bầy về việc chở gạo lậu sang nước Thanh

Nhân bàn đến việc thông thương, buôn bán với Tây phương và nước Thanh, nhất là vấn đề thóc gạo nên Dương Quán đem việc ấy ra tâu bầy, nêu rõ một thực tế đang diễn ra là hầu hết thương lái các nước phương Tây và nước Thanh cho là Đại Nam cấm buôn nghiêm mật, không được thung dung tự tiện nên đều đem lòng oán giận. Có người nước này tự xưng là con cháu nhà Lê, nay hiện chiêu dụ người các tỉnh ở Bắc Kỳ phò làm Minh chủ, ngầm hẹn với các nhà buôn, nếu giúp lấy lại ngôi báu, đều cho thung dung buôn bán. Các nhà buôn phần nhiều hưởng ứng, đã góp lại được hơn 100.000 đồng bạc, ngầm đem sang Hương Cảng đặt mua các cỡ súng, hẹn trong 3 tháng thì khởi sự, các quan đầu tỉnh cho đi dò hỏi ở dân gian cũng có truyền ngôn ấy. Khi bàn với lãnh sự nước Tây, họ cũng bất bình về việc cấm gạo. Vậy xin châm chước bỏ cấm buôn gạo độ 2 – 3 tháng đề yên lòng người phương xa mà hết thù hằn bên ngoài.

Nguồn: Đ8, tập Tám, tr.344.

        Ngày 1 tháng 9 (15 tháng Bẩy – Kỷ Mão)

896. Dương Thục Hạp thi đậu Cử nhân

Ông người xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An) dự thi tại trường Nghệ An do Tham tri bộ Hình Nguyễn Văn Thận làm Chủ khảo, Bố chánh Thanh Hóa Nguyễn Huy Quỳnh làm Phó Chủ khảo.

Khoa thi Hội năm Giáp Thân (1884), ông thi đậu Tiến sĩ.

Nguồn: Q4, tr.455-457.

        NĂM 1880 (CANH THÌN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Canh Thìn)

897. Võ quan họ Dương lưu danh tại đền Trung nghĩa

Lần bổ sung này gồm 1520 võ quan – trong đó có Dương Quang Chúng ở gian chính giữa; Dương Như Chấn, Dương Văn Cứu, Dương Văn Chuẩn ở gian tả nhất; Dương Văn Phong ở gian hữu nhất; Dương Danh Nhung ở gian bên đông dãy thứ nhất; Dương Phú Liễm, Dương Văn Kiểm, Dương Đức Tiềm ở gian bên tây dãy thứ nhất; Dương Viết Dốc, Dương Công Đàm ở dãy bên đông án thứ hai; Dương Như Hy ở dãy bên tây án thứ hai; Dương Đình Nho, Dương Văn Lịch, Dương Văn Miễn, Dương Văn Biển, Dương Văn Hoàn, Dương Thông, Dương Văn Ảnh, Dương Vĩnh Tế, Dương Văn Bản, Dương Văn Phiến, Dương Trí Luận, Dương Sự ở dãy bên tây án thứ ba.

Nguồn: Đ8, tập Tám, tr.395 – 406.

        NĂM 1882 (NHÂM NGỌ)

        Ngày 14 tháng 8 (1 tháng Bẩy Nhâm Ngọ)

898. Dương Thạc thi đậu Cử nhân

Ông quê xã Trung Ái (Quảng Nam), dự thi tại trường Thừa Thiên do Bố chánh Bình định Lê Liêm làm Chủ khảo, Toản tu Sử quán Nguyễn Đức Kỳ làm Phó Chủ khảo.

Do việc người Pháp đánh Bắc Kỳ nên trường Hà Nội và Nam Định hoãn thi.

Nguồn: Q4, tr.466.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Nhâm Ngọ)

899. Các bà họ Dương cúng ruộng, tiền gửi giỗ cho gia tiên tại chùa Anh Linh

Bia không tiêu đề, tạo năm Tự Đức 35, dựng tại chùa xã Hợp Lễ, tổng Xuân Lãng, huyện Bình Tuyền (nay thuộc xã Thanh Lãng, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ghi việc các bà họ Dương, Nguyễn, Lưu làm các việc trên.

Nguồn: T12, tập 16, N015036-37.

        NĂM 1883 (QUÝ MÙI)

        Ngày 12 tháng 4 (6 tháng 3 – Quý Mùi)

900. Nghĩa dũng họ Dương tham gia vào khởi nghĩa Bãi Sậy

Ngày 28-3-1883, quân Pháp chiếm tỉnh thành Hưng Yên, Đinh Gia Quế khi đó đang làm Tuần huyện Đông Yên liền bỏ quan về quê ở xã Thọ Bình, tổng Bình Dân, huyện Đông Yên xưng là Đổng quân vụ, giương cao cờ Nam đạo Cần Vương – Bình Tây phạt tội, phát động cuộc khởi nghĩa chống Pháp.

Cuộc khởi nghĩa đã nhận được sự hưởng ứng tức thời của nhiều nghĩa dũng trong vùng, trong đó phải kể đến thủ lĩnh Dương Văn Điển cùng nhiều trai đinh trong dòng họ Dương làng Phù Sa tổng Đại Quan, huyện Đông Yên (nay là xã Đại Tập, Khoái Châu – Hưng Yên) và các địa phương khác như Dương Phúc Bính, Dương Văn Kẻ, Dương Văn Phô, Dương Phúc Giữa, Dương Phúc Tân, Dương Phúc Đình, Dương Phúc Dưỡng, Dương Văn Nhân.

Nguồn: C2, tr.5-6, 232-233, 586-597.

        Ngày 19 tháng 5 (13 tháng Tư – Quý Mùi)

901. Dương Trứ Ấn hy sinh trong trận phục kích quân Pháp ở Cầu Giấy

Lúc bấy giờ Thống đốc Hoàng Tá Viêm đem binh dõng quân thứ Sơn Tây cùng đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc về phủ Hoài Đức (thuộc Hà Nội) đóng quân liên nhiễu. Sai đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc ra khiêu chiến, quân Pháp không ra, chợt nghe tin báo Chưởng thuỷ sư Pháp kiểm điểm quân và súng đạn, định đến đánh úp. Vĩnh Phúc bèn chia quân đoàn ấy phục trước. Sáng sớm ngày hôm ấy Chưởng thuỷ sư nước Pháp là Vi-e (H. Riviere) đem quân (hơn 600) đến thẳng Cầu Giấy, quân phục binh vùng dậy đánh mãnh liệt. Cánh bên tả là Dương Trứ Ấn bị chết trận, cánh bên hữu là Ngô Phượng Điển bị thương, quân đoàn ấy hơi lui. Vĩnh Phúc cùng Hoàng Thủ Trung xông ra dấn vào trận đạn, cố sức đánh. Quân Pháp thua chạy, đuổi theo chém được Vi-e ở cửa ô (và quan Hai, quan Ba mỗi chức 1 tên, quân Pháp chết 20 tên, bị trọng thương 60 tên, thương nhẹ rất nhiều). Tin thắng trận tâu lên. Vua mừng lắm, thưởng Vĩnh Phúc thăng thụ Đề đốc, cho mũ áo Chánh nhị phẩm, gia thưởng l cái kim bài có chữ “trung dũng”; Hoàng Thủ Trung (Tuyên uý đồng tri Tòng lục phẩm) thăng thụ Tuyên uý sứ (Tòng tứ) lĩnh chức Lãnh binh, gia thưởng 1 cái kim bài bằng vàng tía có chữ “thưởng công”; Ngô Phượng Điển (Phòng ngự đồng tri, Tòng lục phẩm) thăng thụ Tuyên uý phó sứ lĩnh chức Phó lãnh binh, trích bạc lạng, sâm, quế cấp cho để điều trị, gia thưởng 1.000 lạng bạc, lại thưởng chung cho quân đi đánh trận ấy 2.000 quan tiền; Thống đốc Hoàng Tá Viêm (trước lưu) điều khiển được việc, chuẩn cho khai phục nguyên hàm, gia thưởng quân công 2 cấp. Dương Trứ Ấn (Tòng bát phẩm bách hộ) chết trận, được truy thụ Tuyên uý phó sứ gia tặng hàm Phó lãnh binh, còn thì đều tặng hàm và cho tiền tuất có cấp bậc.

Nguồn: Đ8, tập Tám, tr.570.

        Tháng 5 (tháng Tư – Quý Mùi)

902. Cai tổng Dương Văn Phối có công diệt cướp

Ông người huyện Đông Anh – Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội), được thưởng công bằng Ngân bài và Ngân tiền do vào tháng ấy có toán cướp đứng đầu là Phạm Văn Khỏa, Nguyễn Văn Câu người địa phương nổi lên tống tiền bạc, đã nhiều lần bị quan quân đuổi đánh đều trốn thoát. Nhờ viên Cai tổng này, các viên tự xưng là Điều bát kể trên đã bị bắt và trị tội

Cũng trong tháng này, thủ lĩnh vùng Thái Nguyên tên là Dương Đại Gia Hỏa bị quân triều đình tiêu diệt.

Nguồn: Đ8, tập Tám, tr.568-569.

        Trong năm

903. Các hương lão họ Dương lập bia ghi nhận Hậu thần của ngõ Đầu Làng

Ký kị hậu bi, Ký kị bi ký là hai tấm bia được tạo vào năm Tự Đức 36 dựng tại điếm Chùa, ngõ Đầu Làng, xã Vân Cốc (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi danh các quan viên, hương lão họ Dương họp bàn để tôn Hậu thần cho vợ chồng ông bà Nguyễn Thị Thái và ông họ Dương góp nhiều tiền ruộng để xin được gửi giỗ.

Nguồn: Đ12, tr.678-679.

        NĂM 1884 (QUÝ MÙI – GIÁP THÂN)

       Ngày 8 tháng 1 (11 tháng Chạp – Quý Mùi)

904. Hoàng đế Tự Đức cho đặt Hương binh theo kiểu Dương Hữu Quang

Dương Hữu Quang còn gọi là Tự So, quê tổng Đông Cứu – Thanh Oai (Hà Nội), khi đang là Tri huyện Thọ Xương thì quân Pháp gây hấn ở Hà Nội. Ông được giao cầm quân, cùng Hoàng Tá Viêm chống Pháp ở tỉnh Sơn Tây. Sau khi thành Sơn Tây thất thủ, ông bỏ về làng Sơn Lộ huyện Quốc Oai (tức làng So) tập hợp Hương binh liên kết với Tín Nghĩa hội chống Pháp, hoạt động xung quanh thành phố Hà Nội. Trong những năm 1883 – 1885, lực lượng của ông phát triển nhanh chóng, gây cho thực dân Pháp và chính quyền tay sai nhiều thiệt hại. Ông bị ám sát năm 1885.

Nhận thấy mô hình Hương binh do ông đặt ra, tổ chức và hoạt động hiệu quả, nhà vua đã cho đặt Hương binh ở các hạt thuộc miền Nam và miền Bắc là vì các hạt phần nhiều đã tụ tập nhau lại, bảo vệ gia hương theo sáng kiến và mô hình Hương binh do Tri huyện là Dương Hữu Quang (người Hà Nội) lập ra, tự trang bị và huấn luyện để cùng chống nhau với quân Pháp (Trú vài trăm quân ở các hạt Hà Nội, Ứng Hòa, Thanh Oai và xưng là Tín Nghĩa hội, ra hịch rằng người Pháp bội ước, nên không theo, lại phối hợp hành động với Thủ lĩnh Sô thu thập voi ngựa (Phó công sứ Ninh Bình giải giao Công sứ Hà Nội), do Thống đốc Hoàng Tá Viêm đệ nạp. Đến lúc ấy, Tá Viêm với những điều đã biết, bèn dụ lệnh xem xét quả là hướng thuận, lập tức thu nhận Hương binh của nguyên Tri huyện Dương Đức Quang.

Nguồn: Đ8, tập Chín, tr.39-40.

        Ngày 13 tháng 3 (16 tháng Hai – Giáp Thân)

905. Nguyên Án sát tỉnh Hà Tĩnh Dương Danh Lập được cử làm Tuần phủ Thái Nguyên

Trước hôm đó, quân Pháp chiếm được tỉnh thành Bắc Ninh. Các quan hàng tỉnh như Bố chánh Nguyễn Tu, Án sát Nguyễn Ngọc Chấn đều rời bỏ nhiệm sở. Khi lệnh của triều đình chuẩn cho Nguyễn Tu làm quyền biện Tổng đốc Bắc Ninh thì ông ta đã trên đường vào Thanh Hóa.

Nhận thấy bộ máy Nam triều ở Bắc Ninh không còn ai, nguyên Án sát Hà Tĩnh Dương Danh Lập đang nghỉ dưỡng ở quê nhà đã vào thành Bắc Ninh, được người Pháp tiếp kiến, muốn giao cho ông quyền Tổng đốc nhưng được tin triều đình cử Nguyễn Tu vào chức vụ này còn ông sẽ nhận chức quyền Tuần phủ Thái Nguyên, nên dừng lại.

Tháng 9-1884, triều đình rút quyền Tuần phủ Thái Nguyên đối với ông vì tự tiện về quê. Sau đó, đình thần can nghe, ông được ân chuẩn hàm Quang lộc Tự khanh để hưu dưỡng.

Nguồn: Đ8, tập Chín, tr.61-62, 106.

        Ngày 16 tháng 3 (19 tháng Hai – Giáp Thân)

906. Người họ Dương trong hàng ngũ nghĩa quân Yên Thế

Sau khi chiếm được tỉnh thành Bắc Ninh, ngày 15-3-1884, Thiếu tướng Brière de l’Isle mang mấy ngàn quân, vượt sông Cầu hướng về phía Thái Nguyên. Trên đường hành quân, phân Pháp dễ dàng đánh hạ thành Tỉnh Đạo (Nhã Nam, Yên Thế – Bắc Ninh, nay thuộc xã Quang Tiến, Tân Yên – Bắc Giang) nhưng lại bị vây bọc suốt đêm hôm đó bởi dân binh dưới sự lãnh đạo của Lương Văn Nắm – tức Đề Nắm.

Chiều ngày 16-3-1884, sau khi chặn đánh quân Pháp tại Đức Lân (khi đó thuộc huyện Tư Nông, nay thuộc Phú Bình – Thái Nguyên), Đề Nắm chính thức phát động cuộc khởi nghĩa đánh Pháp ngay tại sân đình xã Thế Lộc (còn gọi là làng Hả), tổng Yên Lễ, huyện Yên Thế (nay thuộc xã Tân Trung, Tân Yên – Bắc Giang), tập hợp hàng trăm nghĩa sĩ trong vùng – trong đó có nhiều thuộc họ Dương Văn như Đề Truật (Nhã Nam), Đề Sử, Đề Hùng, Đề Long (Cao Xá), họ Dương Đình như Đốc Tảo, Thống Báu (Cao Xá), Thống Bân, Cai Hậu (An Dương).

Nguồn: H5, tr.192-193.

        Ngày 22 tháng 7 (1 tháng Sáu – Giáp Thân)

907. Dương Thục Hạp thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Tháng Năm nhuận – Giáp Thìn (6-1884) triều đình tổ chức thi Điện, giao Thống chế Tả dực quân Vũ lâm Đinh Tử Lượng làm Giám thí, Thượng thư bộ Hộ Phạm Thận Duật sung Độc quyển; Thự Hữu tham tri bộ Binh Nguyễn Thuật và Thự Trực học sĩ sung chức Toản tu Phạm Nhữ Duyệt quyển. Dương Thục Hạp, người Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879) dự kỳ thi này.

Để tiến đến kỳ thi Điện, tháng Giêng năm đó (2-1884) triều đình đã ban dụ triệu dùng các Tiến sĩ, Phó bảng tại quán và các Ấn quan tại quán. Dụ rằng: “Nhà nước có nhân tài để trù bị dùng đến. Người quân tử ra làm quan, cốt để làm nghĩa vụ. Nghĩa vụ nên làm, người quân tử không cẩu thả, cầu lấy yên thân. Còn bọn tầm thường hèn yếu thì không đáng kể. Bằng học đã đỗ đến Giáp khoa, làm quan đã đến Ấn quan, ân đãi ngộ không phải là không hậu, chính nên phấn đấu cho hết đạo làm tôi chứ khi không việc thì mong tiến làm vinh, lúc có việc thì tìm thú nhàn rỗi; hằng đòi không đến, thì đạo làm tôi ra sao? Nếu mọi người đều như thế, thì ai cùng mình mà làm việc. Ta lấy lúc tuổi trẻ nối ngôi, lại gặp thời gian nan, ngồi góc chiếu để đợi người hiền, mong cùng nên việc. Các ngươi đều nhờ ơn Tiên hoàng đế giáo dục tác thành, để cho Nhà nước dùng đua sức đền ơn, đó là lúc các ngươi nên gắng sức. Qua được lúc truân, vượt được lúc kiển, người đời xưa là người thế nào? Nên nghĩ để giáo tu ta, đừng bỏ ta, giúp đỡ ta cho tới trị bình và giúp ta những khi khó nhọc gian nan, để yên lòng thiêng liêng của Tiên đế ở trên cung trời, để nối được cơ nghiệp gian nan của liệt thánh, thế mới không phụ lòng. Xuống lệnh cho trong Kinh ngoài tỉnh ai hễ là Tiến sĩ, Phó bảng xuất thân, không kể là đã hay chưa làm quan, cùng Cử nhân, Tú tài làm quan đã đến Ấn quan, gần đây người thác cớ lưu ở quê nhà thì do quan địa phương cấp ngựa trạm cho về Kinh hầu Chỉ. Nếu quả là bệnh nặng cũng cho ngựa trạm khám xét và chuẩn cho về. Nếu bằng thác cớ biếng lười, hẳn bị biếm truất. Ở địa phương che chở hư báo, thì cũng xét luật trị xử, thực khó khoan tha. Kính vâng lời đấy. Rồi lại chuẩn cho các người khoa bảng đã bị giáng cách, cung cấp cho ngựa trạm về Kinh chờ lệnh kén dùng”.

Đến tháng Ba (4-1884) triều đình lại lệ thi Hội, thi Đình về hàng văn như sau:

908. Về thi Hội, năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) nghị chuẩn cho 4 kỳ đều ưu cả là bậc nhất, 3 ưu 1 bình, 3 ưu 1 thứ, 2 ưu 2 bình là bậc thứ; 2 ưu 1 bình 1 thứ, 2 ưu 2 thứ, 1 ưu 3 thứ, 3 ưu 1 liệt, cùng với 4 kỳ đều bình, lại là bậc thứ; 4 kỳ thông tính, chước định lấy đỗ. Năm thứ 10 đổi định làm phân số. Văn lý thông được 10 phân trở lên, mới chuẩn cho trúng cách. Ngoài ra, quyển nào 1 kỳ văn lý không kịp 1 phân, mà 3 kỳ thông được 10 phân trở lên cùng 4 kỳ văn thể gồm đủ được 4 phân trở lên, đều chuẩn làm Phó bảng. Năm thứ 16 (1835) mới chuẩn thi 3 kỳ (năm Minh Mệnh thứ 14, đổi định thi Hội làm 3 kỳ) tỉnh thông được 10 phân trở lên, ghi làm trúng cách, ngoài ra quyển nào 1 kỳ không kịp phân số, mà 2 kỳ thông tính được 10 phân trở lên và 3 kỳ thông được 3 – 4 phân trở lên thì lấy làm phó bảng. Tự Đức năm 6 (1853), bàn chuẩn cho thi làm 4 kỳ (năm Tự Đức thứ 4 lại định văn thức thi 4 kỳ) tính thông được 8 phân trở lên là trúng cách, 3 kỳ mà thông được 9 phân trở lên, tâu bày chờ Chỉ. Trúng cách và tâu bày được bao người, đều vào thi Điện. Quyển nào được 4 phân trở lên thì cho là Giáp đệ Tiến sĩ, 3 phân trở xuống làm Phó bảng. Năm thứ 18 (1865) lại định lại việc thi Hội. Cập cách ghi làm trúng cách, 7 phân trở xuống, ghi làm trúng cách hạng thứ, cũng viết ở cùng bảng, nhưng có trước sau, không được xưng làm Phó bảng, đợi phúc hạch xong mới định làm chánh, phó. Năm thứ 30 (1877), Dụ chuẩn cho thi Hội 4 kỳ, đều có phân số. Ai được 4 phân trở lên đều chuẩn cho ghi làm trúng cách, không phải phân làm hạng thứ nữa. Ai dự trúng 3 trường mà được 7 phân trở lên, chuẩn do quan trường trích tiên chọn lấy. Năm thứ 32 (1879) chuẩn cho 4 kỳ thông suốt được 5 phân và 3 kỳ thông được 10 phân trở lên, mới chuẩn làm trúng cách. Khi vào thi Điện 4 kỳ, chỉ được 4 phân và 3 kỳ chỉ được 8 – 9 phân ấy đều ghi làm hạng Phó bảng. Không được vào thi Điện, đến đây chuẩn định: Từ nay đi thi Hội, người nào hễ vào tứ trường đều có phân số thông tính được 7 phân trở lên ấy ghi làm học trúng cách, chuẩn cho Điện thí. Người nào vào 4 kỳ thông tính được 5, 6 phân, cùng 3 kỳ thông tính được 7 phân trở lên ấy ghi làm Phó bảng, không được vào Điện thí. Phân số của người đỗ Phó bảng đệ giao cho bộ Lễ chuẩn, cho Khoa đạo, Nội các hội đồng xét duyệt, như có chỗ nào không đúng trích tâu chờ Chỉ.

909. Về thi Điện: Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) lệ định ai thi Đình, văn lý được 10 phân thì cho Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh, ai được 9 phân thì cho Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh, ai được 8 phân thì cho Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh; ai 7 phân hay 6 phân, cho Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, từ 5 phân trở xuống cho Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Đến nay, chuẩn định người 10 phân cho Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh, người 8 – 9 phân cho Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh, người 6 – 7 phân cho Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh, người 4 – 5 phân cho Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, người 3 phân trở xuống, cho Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Lại hội thí điểm duyệt cần được 10 phần tinh xác. Như có quyển nào, khi duyệt sao nhãng, trót đã phê trúng mà duyệt lấy. Khi dán bảng họp duyệt lại kiểm ra nên bỏ đi, cũng cho tâu xin truất lui, như còn không tinh, văn lý thi Điện sút kém, bị phải chỉ trích ấy, thì quan trường giao bàn phân biệt, tính làm giáng chức và đổi bổ nơi khác. Còn quyển nào nguyên dự trúng mà trích ra vụng kém ấy, tới kỳ cho được tâu lên chờ Chỉ.

Nguồn: Đ8, tập Chín, tr.55, 66-67.

        Ngày 21 tháng 8 (1 tháng Bẩy – Giáp Thân)

910. Dương Quỳnh, Dương Đình Thạc thi đậu Cử nhân

Dương Quỳnh, người xã Phụng Sơn, huyện Tuy Phước (Bình Định), Dương Đình Thạc, người xã Châu Thành, huyện Phù Cát (Bình Định) – cả hai ông đều dự thi tại trường tỉnh nhà do Bố chánh Hà Tĩnh Nguyễn Đình Tựu làm Chủ khảo, Toản tu Sử quán Nguyễn Liễu làm Phó Chủ khảo.

Tháng Ba năm ấy (4-1884) triều đình đối định lại lệ phúc hạch thi Hương hàng văn: lệ cũ, ai dự thi Hương trúng tam trường, trường quan chiểu theo ngạch nhiều, ít châm chước kén lấy, người nào hễ dự có ưu, bình thì ghi làm hạng Cử nhân, người nào hạng thứ ghi làm hạng Tú tài, đến ngày xướng danh, dẫn các Cử nhân đến thí viện sát hạch qua về biểu, chiếu hay luận một bài, thơ một bài rồi cấp phát cho áo mũ. Việc xong yết bảng. Đến đây mới đổi định: phàm ai đã thông suốt ba trường lấy trúng số bao nhiêu trừ ra ưng đem làm hạng Tú tài, ngoài còn dư bài nào, lệ có văn lý, dự có hạng ưu, bình, ưng trúng Cử nhân, lệ có phúc hạch (không câu nệ giải hạng ngạch) đều do viên Đề điệu kê liệt họ tên, tuổi và quê quán, giao cho ngoại trường (không được nói rõ ưu bình ở trường) yết tên: nhưng định mức một ngày phúc hạch cho đến nộp quyển ở ngoài cửa trường, trong quyển ấy áp dụng ấn kiềm y như quyển thi, đến sáng sớm ngày xướng danh thì vào phúc hạch, lều chiếu cách nhau hơn 10 trượng, quan trường trong ngoài hội đồng, lược ra đầu bài kì đệ tam, chia viết mỗi người một đạo, xét chỗ ngồi phát giao cho người vào phúc hạch, cứ ở trong lều làm bài, không được đi qua đi lại hỏi han, kẻ nào làm trái thì đuổi ra, bỏ tên trong sổ trúng đi. Còn làm bài thì lấy hết hồi trống sưu không làm hạn, do viên Đề điệu thu giữ dán tên, chia hiệu y như quyển thi, làm bài xong đưa trình giao kiểm duyệt, bài ai so với nét chữ lời văn chút có hơi đúng thì ghi làm hạng cử nhân (chiểu theo hạng cũ hoặc thêm hoặc bớt 1, hai tên) cốt là không hẹp, không rộng sau một ngày chiếu lệ, xướng danh, cấp cho mũ, áo, yết bảng. Nếu văn lý tuy kém quyển cũ mà nghĩa không thông suốt ấy thì trích giao bộ Lễ xét bàn làm. Nếu quan trường điểm duyệt còn có chỗ không tinh đều giao cho bộ ấy hội đồng, ngự sử, Nội các gia đẳng nghị sử, lấy khoa ấy làm đầu. Lại thêm ngạch đỗ Tú tài, lệ cũ cứ một Cử nhân lấy hai Tú tài, đến đây chuẩn định một Cử nhân lấy ba Tú tài để rộng đường cho học trò.

Nguồn: Đ8, tập Chín, tr.63.

        Ngày 17 tháng 12 (1 tháng Một – Giáp Thân)

911. Dương Khải thi đậu Cử nhân

Ông người xã Trương Xá, tổng Bình Ngô, huyện Gia Bình (năm Thành Thái 9 – 1897 xã này nhập vào tổng Đông Hồ, phủ Thuận Thành), thi tại trường Hà Nam – tức là hợp nhất kỳ thi giữa trường Hà Nội với Nam Định còn trường Hà Nam cũ chưa kịp tu bổ phải đưa thí sinh vào thi chung với trường Thanh Hóa. Trường Hà Nam do Thị lang sung Tham biện Nội các Nguyễn Thuật làm Chủ khảo, Toản tu Quốc sử quán Nguyễn Liêm làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.477-481.

        Tháng 12 (tháng Một – Giáp Thân)

912. Tá lý bộ Hình Dương Quán trông coi sửa sang đường xá, cầu cống từ Hà Tĩnh đến Thanh Hóa

Việc làm này là do triều đình chia các quan đi khắp trong Nam ngoài Bắc để làm – trong đó Tham tá phủ Thừa Thiên Nguyễn Đĩnh trông coi từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi; nguyên Án sát Sơn Tây giáng bổ Thị độc Trịnh Bỉnh Điền trông coi từ Bình Định đến Bình thuận.

Nguồn: Đ8, tập Chín, tr.209.

        NĂM 1885 (ẤT DẬU)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Ất Dậu)

913. Tiến sĩ Dương Thúc Hạp, Giải nguyên Dương Quế Phổ tham gia phong trào Cần Vương

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn từng giữ các chức Hàn Lâm biên tu, Tri phủ Quảng Ninh (Quảng Bình), Đốc học Bình Định, Giám sát ngự sử, Chưởng ấn lễ, Biện lý bộ Binh… Vì có tư tưởng chống Pháp quyết liệt, phản đối hành động ký Hiệp ước cắt đất cho Pháp của triều đình nên bị cách chức (1883). Nguyễn Xuân Ôn về quê, vận động nhân dân trong vùng khai hoang, phục hoá, lập đồn điền, vừa ổn định cuộc sống, vừa tích trữ lương thảo, chuẩn bị chống Pháp. Khi phong trào Cần Vương bùng nổ, ông cùng nhiều văn thân, sĩ phu yêu nước ở quê hương dựng cờ khởi nghĩa. Ông được vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết cử làm Hiệp đốc quân vụ An Tĩnh.

Cùng gia nhập phong trào với Dương Thúc Hạp, Dương Quế Phổ còn có Đinh Nhật Tân, Trần Quang Diệm, Phan Bá Niên, Ngô Sĩ Từ, Lê Trọng Vĩnh, Lê Doãn Nhạ và nhiều người khác.

Nguồn: R1, tr.73, 93.

914. Cử nhân Dương Khải gia nhập Tam tỉnh nghĩa đoàn

Ông đã cùng các sĩ phu Bắc Ninh như Tán tương Nguyễn Cao, Cử nhân Ngô Quang Huy lập ra đội nghĩa binh hoạt động trên địa bàn ba tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương để hưởng ứng phong trào Cần vương do Hoàng đế Hàm Nghi phát động.

Nguồn: H5, tr.181.

        Trong năm

915. Xây dựng Từ đường họ Dương Kênh Dương

Ông tổ họ Dương làng Kênh Dương, còn gọi là Hàng Kinh, tổng Đông Khê, huyện An Dương, phủ Kinh Môn (nay là phường Dư Hàng Kênh, Lê Chân – Hải Phòng) là Dương quý công tự Phúc Am từ Thanh Hóa tới đây lập nghiệp. Lúc đầu, Từ đường chỉ là ngôi nhà gỗ nhỏ do thứ nam Dương Công Ái kế trưởng trông coi. Mãi tới năm 1907 dòng họ mới xây thêm Đại bái, Từ đường và 2 nhà bia.

Nguồn: B2, 9/1/2004.

        NĂM 1886 (BÍNH TUẤT)

        Ngày 10 tháng 7 (9 tháng Sáu – Bính Tuất)

916. Dương Thị Nghiêm công đức tu tạo chùa Đót Sơn

Chùa thuộc xã Kinh Lương cùng tổng, huyện Tiên Lãng (nay thuộc xã Cấp Tiến, Tiên Lãng – Hải Phòng). Bà là người xã Đăng Lai, tổng Kinh Thanh cùng huyện.

Nguồn: V6, tr.911-913.

        Tháng 7 (tháng Sáu – Bính Tuất)

917. Dương Hoàng Phi phối hợp với phong trào Cần Vương Bình Thuận

Nguyễn Văn Luận, người huyện Hòa Đa – Bình Thuận, nổi dậy hưởng ứng phong trào Cần Vương từ tháng 7-1885. Sau một thời gian hoạt động chủ yếu ở địa bàn rừng núi, đến tháng 7-1886, ông bắt liên lạc được với lực lượng của Dương Hoàng Phi, Phạm Đoan, Phạm Sằng tấn công đánh chiếm huyện lỵ Tuy Phong và nhiều nơi khác.

Nguồn: L4, tập 6, tr.317.

        Ngày 28 tháng 9 (1 tháng Chín – Bính Tuất)

918. Dương Như Chuyên thi đậu Cử nhân

Khoa thi này, vua Đồng Khánh chuẩn cho 2 trường Hà Nội, Nam Định hợp thi tại trường Nam Định. Đến đây, quyền Kinh lược sứ là Nguyễn Trọng Hợp tâu nói: – Hai trường đã hợp thí, thì từ Cử nhân trở lên ở Bắc Kỳ đều phải tránh mặt, đường dịch lộ ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Nghệ An chưa thông, các viên Phúc khảo, Sơ khảo, không thể phái đi làm việc được. Xin 10 viên Phân khảo trở lên, trước khi thi do bộ Lễ trình đình thần chọn cử quan ở Kinh để sung phái, rồi tính thì giờ đáp tàu thuỷ đi ngay cho kịp việc. Còn như Phúc khảo, Sơ khảo trở xuống, số ấy hơi nhiều, xin do quyền sứ thần ấy chọn Giáo thụ, Huấn đạo, Cử nhân ở nhà chờ bổ và quan viên có văn học về hưu xin cáo ở Ninh Bình trở ra Bắc để sung phái. Nhưng ở nội trường, Phúc khảo, Sơ khảo chia làm 2 viện Tả, Hữu (mỗi viện 8 viên Sơ khảo, 4 viên Phúc khảo). Trong đó, người nào quê quán ở Hà Nội, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Mỹ Đức, Thái Nguyên thì ở Tả viện; quê quán ở Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên thì ở Hữu viện; đều giữ giới hạn ngăn cấm không được giao thông, chuyện trò, đi lại với nhau. Về việc đóng dấu vào quyển thi: Trường Hà Nội dùng dấu son, trường Nam Định dùng dấu chàm để làm dấu riêng, do viên Đề tuyển kiểm nhận; quyển thi trường Hà Nội đưa giao Hữu viện; quyển thi trường Nam Định đưa giao Tả viện, đều chiểu phận điểm duyệt, nhưng không được đến viện Giám khảo nom xem, như thế thì trường tuy hợp thi, nhưng duyệt quyển thì chiểu lệ phải tránh mặt, tưởng cũng không ngại.

Vua cho là nghĩ định ấy thoả hợp, chuẩn y cho. Lại nghĩ mấy năm gần đây có loạn, kỳ thi mấy lần đã đình hoãn, nay 2 trường xin thi rất nhiều, chuẩn cho ngạch đỗ thêm lên 1 lần (mỗi trường thêm 10 Cử nhân và 30 Tú tài) để thỏa lòng mong mỏi của học trò.

Sở dĩ có việc trường Hà Nội và trường Nam Định hợp thi là do vào tháng 7 – 1886, Toàn quyền Đông Dương Paul Bert ký Nghị định thành lập Hàn lâm viện Bắc Kỳ, thu nạp hội viên trong số quan lại và những người có học vị từ Tú tài trở lên. Cũng trong tháng ấy, khu vực đặt Trường thi Hà Nội bị lấy để xây dinh Kinh lược Bắc Kỳ, do vậy từ đây các kỳ thi Hương ở Hà Nội, Nam Định phải thi chung ở trường Hà Nam – Ninh Bình.

Dương Huy Chuyên, người xã Ninh Lão, tổng Hoàng Đạo, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (nay thuộc xã Duy Ninh, Duy Tiên – Hà Nam) dự thi tại trường Hà Nam – Ninh Bình.

Nguồn: Đ8, tập Chín, tr.277-278; Q4, tr.489.

        Tháng 10 (tháng Chín – Bính Tuất)

919. Lãnh binh Dương Văn Qua được dự bàn về đánh dẹp

Vua Đồng Khánh nhận thấy qua lời tâu bày của các võ quan, gần đây có một số kẻ mượn tiếng hoặc danh nghĩa của bản thân để dụ dỗ, gây loạn, hoặc có người đến quan tố giác hoặc không chịu dây dưa theo chúng để đến bị chúng giết hại, không cứ là dân lương hay dân giáo, đối với hạng ấy, thực là vì lòng trung phẫn khích thích, nếu người có quan chức thì xin cho tặng hàm và tiền tuất hậu thêm; người không có quan chức thì truy thưởng cho chức hàm hoặc tha sưu, dịch cho nhà ấy; nếu có tình hình thảm hại hơn thì lượng cho chẩn cấp, để tỏ ra ưu đãi thương xót mà khuyến khích lòng người. Vậy, hiện tình như thế nên xử trí thế nào?

Những kẻ cổ động mê hoặc lòng người, chẳng quá là mượn danh nghĩa, cũng sinh thù hằn, để đến nỗi thế thành cưỡi hổ, nhiều lần phụng Dụ chuẩn cho vừa chiêu dụ vừa đánh dẹp, thực kính thấy là đức hiếu sinh, nhưng tên đầu bọn ác thì không cho ra thú, mua thưởng thực hậu, trộm sự sau khi nghe biết, tuy có muốn quay đầu về, nhưng không biết đi đường nào cho sống, nên không khỏi ẩn mình trong hang núi để kéo dài hơi tàn. Nay xin ban ân khắp cả, lại đem bảo rõ, không cứ là kẻ đầu mục hay kẻ bị hiếp theo, đều cho ra thú cả, nhưng phải theo kỳ hạn, mở cho đường sống. Nếu qua kỳ hạn, không chịu ra thú, rõ là cam tâm làm giặc thì gia tâm đánh được đem xử tội, tưởng như thế thì ân và oán đều rõ rệt.

Nhà vua theo lời, cho Tá lý Binh bộ Nguyễn Văn Dụ, sung làm Tham tán, Tá lý Lễ bộ Đoàn Như Bích sung làm Tán lý và 4 Lãnh binh Dương Văn Qua, Trần Hữu Viết, Đào Xuân Bính, Thái Văn Hiển đều được bàn ủy.

Nguồn: Đ8, tập Chín, tr.280-281.

        NĂM 1887 (ĐINH HỢI)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Đinh Hợi)

920. Xem xét việc Dương Chính Nghị tự xử tù nhân

Quan Khâm sai Phan Liêm ở Tả trực kì tư trình rằng, viên quan bạn trú tại đồn Giao Thủy là Dương Chính Nghị bắt giải được tên phỉ tòng phạm Nguyễn Văn Lệ can tội làm mật thám và đốt phá nhà cửa, viên quan ấy đã sức đem ra bắn chết. Bộ Hình tâu xin rằng, từ nay trở đi, nếu bắt được phạm nhân mà tội tình thuộc loại tội nặng thì phải thẩm xét kĩ lưỡng nhiều lần để coi trọng tính mạng con người. Vua phê rằng:

“Hiện giờ tình hình Nam Bắc đã dần trở lại yên ổn, đồng thời đã có thỏa thuận với quan Khâm sứ thường trú tại Kinh sư rằng từ nay trở đi phàm khi truy truy bắt được tội phạm lẩn trốn thì phải do quan tỉnh tra xét rõ ràng lập thành hồ sơ trình lên Quí quan đóng tại tỉnh ấy để biết. Làm thế là để coi trọng tính mạng con người và giữ gìn qui củ ngày trước. Cách làm như thời gian gần đây, xử lí rồi mới trình báo lên trên là rất không đúng, chiếu theo thể chế có nhiều sai trái. Về những ý đó, Quí sứ tâu trình rằng khoản này đã thừa lệnh quan Toàn quyền Đại thần thông sức cho Quí quan đóng tại các tỉnh không được tiếp tục làm như thế nữa. Nay đề xuất xin điện thông báo cho các địa phương từ Thanh Hóa trở vào phía nam, từ nay phải xử lí công việc theo những qui định đã lập ra, nếu vẫn cứ làm theo cách trước đây thì dứt khoát phải đưa ra xét xử theo phép công. Lời phê này phải được sao chép ra rồi thông báo gấp cho mọi người biết mà tuân hành, khỏi cần mệnh lệnh phiền phức”.

Nguồn: Đ22, tr.134-135.

        NĂM 1888 (MẬU TÝ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Tý)

921. Đề đốc Dương Đồ bị bắt ở Hà Tĩnh

Ông là một thủ lĩnh trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, cùng Hoàng Bá Xuyên chiến đấu ở Cẩm Xuyên – thuộc Quân thứ thứ 6 hoặc Cẩm Thứ. Thời gian này, Hiệp quản Hà Tĩnh Nguyễn Trọng Hợp hợp sức với quân Pháp đánh sâu vào vùng rừng núi Cẩm Xuyên, đốt phá 3 đồn lũy, bắt sống nhiều người.

Nguồn: Đ8, tập Chín, tr.383.

        NĂM 1889 (KỶ SỬU)

        Mùa xuân

922. Tiến sĩ Dương Thúc Hạp soạn văn bia Văn chỉ xã Quỳnh Đôi

Quỳnh Lưu huyện trùng tu Từ vũ bi ký tạo năm Thành Thái 1, dựng tại Văn chỉ bản xã, tổng Phú Hậu, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An ghi rằng, Văn chỉ ở xã Quỳnh Đôi có từ đời Lê, đã trải qua 2 lần trùng tu. Mùa hè năm Ất Dậu kinh thành xảy ra biến cố, khắp nơi đều trở thành chiến trường khói lửa. Ngày 19 thăng 11 năm ấy (24-12-1885) hai ấp Quỳnh Đôi và Bao Hậu bị đốt phá, cháy lan sang cả Văn chỉ, chỉ còn sót lại 1 tòa Giải vũ, phải tạm thờ Tiên hiền ở đình Thượng An. Quan Niết sứ Phạm Đình Toái và Tiến sĩ Dương Thúc Hạp bàn nhau với các thân hào đứng ra xây dựng lại Văn chỉ. Năm Mậu Tí (1888) các ông vay tiền của 4 tổng về thuê thợ, mua vật liệu, năm Kỉ Sửu (1889) bắt đầu xây dựng trên nền Văn chỉ cũ. Ông Cử nhân Hồ Trọng Phiên đứng ra quyên góp, Tú tài Hồ Trọng Viện trông coi việc xây dựng. Công trình phí tổn đến hơn 3200 quan tiền. Sau cơn loạn lạc, Văn chỉ mới tuy qui mô không được bằng trước nhưng đã có chỗ để thờ phụng.

Nguồn: T12, tập 3, N02823.

        Ngày 5 tháng 11 (13 tháng Mười – Kỷ Sửu)

923. Dương Lâm nhậm chức Bố chánh tỉnh Lục Nam

Tỉnh Lục Nam được thành lập ngày 5-11-1889 theo Nghị định do Toàn quyền Đông Dương ban hành, gồm một số huyện phía đông bắc tỉnh Bắc Ninh (Bảo Lộc, Phượng Nhãn, Lục Ngạn, Hữu Lũng) và huyện Yên Bác của tỉnh Lạng Sơn. Sông Thương được coi là phân giới giữa hai tỉnh Lục Nam và Bắc Ninh. Tỉnh lỵ của tỉnh Lục Nam đặt tại Lục Nam phố.

Tồn tại chưa đầy 2 năm, đầu tháng 9-1891, tỉnh Lục Nam bị giải thể.

Trước khi về làm Bố chánh tỉnh Lục Nam, Dương Lâm đã trải qua các chức Tri huyện Hoài Yên (1884), Bang tá Nha Kinh lược Bắc Kỳ (1887), Án sát Hưng Hóa (1888) và Bố chánh Sơn Tây. Kỷ niệm về thời gian ở Lục Nam, ông viết trong Hành trang: Nực cười cái kiếp làm quan/ Xoay nhau cho mỏi dặm trường mới cam/ Đổi trị lỵ Lục Nam Bố chánh/ Rừng núi xanh quanh tỉnh bốn bề/ Giặc Quách Mãn, tướng Lưu Kỳ/ Vừa Thanh, vừa Hán phân chia đánh thành…

Nguồn: Đ9, tr.97, 138-139.

        NĂM 1890 (CANH DẦN)

        Ngày 8 tháng 7 (22 tháng Năm – Canh Dần)

925.

924. Dựng bia ghi danh 2 vị họ Dương trong việc tu tạo chùa Đống Cao

Phúc Lâm tự bi tạo năm Thành Thái 2 dựng tại chùa thôn Đống Cao, xã Vân Đài, tổng Vân Đài, huyện Yên Lạc (nay thuộc xã Văn Tiến, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi rằng danh lam này từ lâu đã bị hư hỏng. Vì vậy, vị nguyên Chánh tổng đã hiệp cùng Thiền tăng đứng ra tu sửa, trang hoàng lại tượng phật, lâu đài. Công việc hoàn thành, dựng bia ghi tên các vị trong các dòng họ Dương, Ngô, Lê, Đỗ, Hoàng đã công đức để có tiền chi dùng cho công việc.

Nguồn: T12, tập 15, N014658.

        Ngày 30 tháng 10 (17 tháng Chín – Canh Dần)

926. Lão bà họ Dương công đức tu tạo chùa Biện Sơn

Tự chính bi ký tạo năm Thành Thái 2, dựng tại chùa xã Vĩnh Mỗ, tổng Đông Lỗ, huyện Yên Lạc (nay thuộc thị trấn Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi rằng: Chùa Biện Sơn ở xã Vĩnh Mỗ vốn có từ cổ xưa, là một danh lam vậy. Thiền sư trụ trì đã bỏ nhiều công lao tu tạo, chi phí tốn kém nhưng vẫn chưa đủ. Nay các lão bà họ Dương, họ Nguyễn, họ Phùng, họ Triệu v.v… đã góp 60 quan mỗi người để trợ giúp chi phí; mỗi bà lại xuất 2 sào ruộng để cày cấy lo việc tế lễ. Quan viên, dân thôn nhất trí để các bà được gửi giỗ tại chùa. Ghi họ và tên, lệ cúng giỗ các Hậu tại chùa.

Nguồn: T12, tập 15, N014899.

        NĂM 1891 (TÂN MÃO)

        Ngày 5 tháng 8 (1 tháng Bẩy – Tân Mão)

927. Dương Hiền Tiến thi đậu Cử nhân

Ông người xã Cẩm Lậu, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là thôn Cẩm Phú, xã Điện Phong, Điện Bàn – Quảng Nam), dự thi tại trường Thừa Thiên do Tham tri bộ Hộ Nguyễn Phiên làm Chủ khảo, Thị lang Phan Huy Nhuận làm Phó Chủ khảo.

Khoa thi Hội năm Mậu Tuất, ông đậu Phó bảng.

Nguồn: Q4, tr.507.

        Ngày 30 tháng 8 (25 tháng Bẩy – Tân Mão)

928. Dương Lâm quản lãnh Đại Nam Đồng văn Nhật báo

Ngay từ năm 1863, Phạm Phú Tứ sau khi đi sứ sang Pháp về, ông đã tâu với Tự Đức về sự hiện diện của Nhật báo và ích lợi của nó đối với các nước văn minh. Tháng 11-1866, Viện Cơ mật đã đề xuất với nhà vua về việc nên có Nhật báo còn Nguyễn Trường Tộ trong Tế cấp bát điều thì chỉ ra việc cần phải ấn hành một tờ Nhật báo đăng tải các chiếu chỉ, sớ, dụ, những việc làm của các bậc có tiếng tăm, những công vụ quốc gia hiện thời cho học sinh đọc để biết việc trong nước. Phải mãi tới tháng 4-1886 các đề xuất này mới được Quan Viện Cơ mật ráo riết tâu xin phỏng theo cách làm Nhật báo của các nước thành lập ra Cục Đại Nam Công báo, trao cho Quốc Sử quán kiêm quản công việc này. Cứ 10 ngày ra chung thành một tờ. Viện Cơ mật cùng với các Bộ nha tập hợp ghi lại những công việc đã thực hiện để giao cho Cục ấy, cứ 10 ngày một lần Cục tổng hợp kiểm tra đối chiếu với văn thư trực ban của từng ngày rồi giao cho thợ khắc in truyền bá ra ngoài. Việc bắt đầu làm từ ngày mồng 1 tháng này. Vua phê rằng:

“Tấm lòng của các khanh muốn nước nhà bỏ thói quen cũ, học theo người để mưu đổi mới, dần dà mỗi ngày một việc, nghìn ngày sẽ được nghìn việc, may được phần nào là thỏa lòng mong mỏi của trẫm phần ấy. Có người nói bỏ tục cũ thì đất nước suy, lại có người bảo thay đổi lề thói cũ thì sẽ hưng thịnh. Không biết các khanh cho như thế nào là đúng, cứ như trẫm nghĩ tất sẽ thịnh, chứ có lí nào lại suy?”. Tuy vậy, Đại Nam công báo vẫn ngắc ngoải không ra được. Mãi đến năm 1891, theo đề nghị của Toàn quyền De Lanessan, Hoàng đế Thành Thái giao cho Nha Kinh lược Bắc Kỳ với sự trợ giúp của chính quyền thuộc địa ra tờ Đại Nam Đồng văn Nhật báo tại Hà Nội. Số đầu ra mắt ngày 30-8-1891. Báo có 8 trang, khổ 21 x 28,5cm và hoàn toàn bằng chữ Hán. Tham biện Nha Kinh lược Dương Lâm được giao chuyên trách cùng F.H.Schneider, một nhà kinh doanh in ấn và báo chí chuyên nghiệp cùng một số cây bút Hán học đương thời như Vũ Phạm Hàm, Kiều Oánh Mậu, Phan Văn Đại. Năm 1892, Dương Lâm rời tòa báo để nhận chức Tuần phủ Thái Bình, đến năm 1895, trở lại làm Tham tá Nha Kinh lược. Từ giữa 1897, chức Kinh lược bị bãi bỏ, tờ báo hoàn toàn do chính quyền bảo hộ điều hành và thực sự trở thành một tờ Công báo dành cho người bản xứ ở Bắc và Trung Kỳ.

Đại Nam Đồng văn Nhật báo kể từ số 782 chuyển qua tên mới Nam Việt Quan báo đánh số từ đầu (số 1: 6-1-1907) có thêm phụ đề tiếng Pháp Journal Officiel en caractères (Công báo chữ Hán) ra mỗi tháng 4 kỳ vào ngày chủ nhật và được cung cấp miễn phí cho các làng xã như “chính lệnh quốc gia”. Từ 17-5-1908 lại đổi tên thành Đại Nam Công báo có thêm quốc ngữ và đến cuối 1913 vẫn thấy xuất hiện… Tuy nhiên, F.H.Schneider vẫn để “Đại Nam Đồng văn Nhật báo” ra tiếp kèm phụ đề Đại Nam Đăng Cổ Tùng báo cũng song ngữ Hán-Việt được gắn với hiện tượng Đông Kinh Nghĩa Thục.

Nguồn: Đ8, tập Bẩy, tr.1022; Đ9, tr.138-139; Đ22, tr.170.

        Ngày 1 tháng 12 (1 tháng Một – Tân Mão)

929. Dương Đình Ngữ thi đậu Cử nhân

Ông người xã Hoành Phổ, tổng Vân Trường, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, dự thi tại trường Thanh Hóa do Tham tri bộ Công Phạm Hữu Xứng làm Chủ khảo, Tham biện Nội các Bùi Hữu Tạo làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.510.

        NĂM 1892 (NHÂM THÌN)

        Ngày 28 tháng 8 (7 tháng Bẩy – Nhâm Thìn)

930. Dương Văn Nhã, Dương Văn Phấn soạn văn và viết chữ tạo bia chùa Phúc Hưng

Phúc Hưng tự bi minh tạo năm Thành Thái 4 do Cử nhân Ân khoa Mậu Thìn (1868) Dương Văn Nhã soạn văn, Tú tài khoa Canh Ngọ (1870) và Quý Dậu (1873) Dương Văn Phấn viết chữ, ghi rằng đạo Phật hưng thịnh vào hai triều Lý – thường, đất Dương Xá, huyện Đông Sơn có chùa Phúc Hưng dựng trên dấu cũ của ông họ Dương thu phục được Giao Châu. Khi ông mất, các con nuôi của ông đã phụng thờ Phật ở đấy để đời đời gửi gắm đức tin vào ông.

Nguồn: T9, 2009, tr.370-380.

        NĂM 1894 (GIÁP NGỌ)

        Ngày 4 tháng 6 (1 tháng Năm – Giáp Ngọ)

931. Dương Huy thi đậu Cử nhân

Ông người xã Phú Nhơn, Bình Sơn – Quảng Ngãi, dự thi tại trường Bình Định do Bố chánh Phú Yên Đinh Nho Quang làm Chủ khảo, Án sát Quảng Nam Đoàn Long làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.522.

        Trong năm

932. Người họ Dương trong khởi nghĩa Đào Công Bửu

Đào Công Bửu, còn gọi là Cả Bửu, Đào Văn Hữu, sinh tại Trà Vinh, ngụ tại Bến Tre, đã từng giữ chức Tổng binh trong một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Trà Vinh năm 1867. Sau khi phong trào ở đây thất bại, ông tham gia các phong trào khác vào các năm 1885-1886. Tháng 12-1893, ông từ Bến Tre đến Rạch Giá phát động cuộc khởi nghĩa đánh Pháp do chính mình chỉ huy với chức hiệu Nam Kỳ Chánh tướng quân Đào.

Trong số hàng trăm nghĩa quân đứng dưới cờ của ông, có nhiều người họ Dương như Phó thống Dương Xuân Khánh (Mỹ Tho), Đốc binh Dương Hòa Lý, Đốc biện Dương Hòa Qươn, Thống quản Dương Hòa Ngọc (Tân An).

Nguồn: V14, tr.168-173.

        NĂM 1895 (ẤT MÙI)

        Tháng 12 (tháng Một – Ất Mùi)

933. Bà Dương Thị Ao được tôn làm Hậu phật thôn Lương Đài

Hậu tự bi tạo năm Thành Thái 7 dựng tại chùa bản xã, tổng Mộ Chu, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường (nay thuộc thị trấn Bạch Hạc, thành phố Việt Trì – Phú Thọ), ghi rằng bà còn có hiệu là Diệu Trần đã cúng cho thôn 80 quan tiền cổ, 2 sào ruộng để luân lưu canh tác.

Nguồn: T12, tập 14, N013812.

        NĂM 1896 (BÍNH THÂN)

        Tháng 4 (tháng Ba – Bính Thân)

934. Đốc binh Dương Ninh bị bắt tại đồn Phúc Trạch

Ông là thủ lĩnh nghĩa quân Hương Khê, hoạt động ở Diễn Thứ dưới sự chỉ huy của Lê Trọng Vĩnh. Cùng bị bắt với ông còn có Đốc binh Phạm Hàn.

Nguồn: Đ9, tr.247.

        NĂM 1897 (ĐINH DẬU)

        Ngày 31 tháng 5 (1 tháng Năm – Đinh Dậu)

935. Dương Bá Trung thi đậu Cử nhân

Ông người xã Thanh Lương, huyện Hương Trà – Thừa Thiên (nay thuộc xã Hương Xuân, Hương Trà – Thừa Thiên Huế) dự thi tại trường Thừa Thiên do Quang lộc Tự khanh sung Tham biện Nội các Bùi Quang Tạo làm Chủ khảo, Biện lý bộ Lễ Tạ Tương làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.536.

        Ngày 24 tháng 11 (1 tháng Một – Đinh Dậu)

936. Sĩ tử họ Dương thi đậu Cử nhân

Trước hết là Dương Quýnh, người Ngọ Xá, Vĩnh Lộc – Thanh Hóa (nay thuộc Hà Trung – Thanh Hóa) thi tại trường Thanh Hóa do Quang lộc tự khanh Biện lý bộ Hình Nguyễn Hàm Quang làm Chủ khảo, Hồng lô tự khanh lãnh Tư nghiệp Quốc tử giám Nguyễn Duy Miền làm Phó Chủ khảo; Dương Tự Phan – con trai Dương Lâm và Dương Tuấn Duy, người Hà Lỗ, Đông Anh – Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội) thi tại trường Hà Nam do Tả tham tri bộ Lễ sung Biện các vụ Đồng Sĩ Kinh làm Chủ khảo, Hàn lâm viện Trực học sĩ sung Toản tu Quốc sử quán Nguyễn Quán làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.541-548.

        NĂM 1898 (MẬU TUẤT)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Tuất)

937. Dương Lâm rời Nha Kinh lược Bắc Kỳ

Ông từ Thự Thượng thư sung Tham biện Nha Kinh lược Bắc Kỳ được thăng thụ hàm Thượng thư bộ Công sung Tổng tài Quốc sử quán.

Nguồn: Đ9, tr.297.

        Ngày 19 tháng 6 (1 tháng Năm – Mậu Tuất)

938. Dương Hiển Tiến thi đậu Phó bảng

Tháng Ba năm ấy thi Hội, Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh làm  Chủ khảo, Sung biện Các vụ Cao Đệ làm Phó Chủ khảo, lấy 3 người trúng cách (Nguyễn Tự Như, Nguyễn Văn Trình, Phạm Tuấn và 11 người thứ trúng cách là Đào Nguyên Phổ và 10 người khác). Tháng Tư (5-1898) thi Điện, Độc quyển là Đông các Đại học sĩ Trương Quang Đản, Hiệp biện Đại học sĩ Hoàng Hữu Xứng, Duyệt quyển là Thị lang bộ Lại Tôn Thất Thiệm, Tế tửu Quốc tử giám Khiếu Năng Tĩnh.

Kỳ thi này, Dương Hiển Tiến, Cử nhân khoa Tân Mão (1891) đậu Phó bảng.

Nguồn: Đ9, tr.301-302.

        Ngày 24 tháng 9 (9 tháng Tám – Mậu Tuất)

939. Người họ Dương công đức chùa Cần Tu

Long phi Mậu Tuất dựng năm Thành Thái 10 tại chùa xã Cầu Thôn, tổng Cát Đàn, huyện Thanh Quan, phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình (nay thuộc xã Đông Dương, Đông Hưng – Thái Bình) ghi rằng:

“Dựng bia cốt ghi lại sự việc đã qua, hưng sùng đạo phật, phật động lòng người truyền lại về sau ngàn năm không suy chuyển.

Chùa Cần Tu thắng cảnh trong lành, ngọc sáng danh truyền, xây dựng đã từ bao giờ không rõ. Trải qua gió táp mưa sa chứng kiến bao phen thay đổi.

Nay khởi công tu tạo số tiền cúng khá nhiều. Đi khuyến giáo bầu hiệu lấy tiền sung vào việc sửa sang hai tòa trong ngoài, tranh hoàng tượng phật, xây mới gác chuông đồng, công việc đã hoàn thành.

Những vị đã bảo phối hậu, việc lập hiểu tư những ruộng đất chùa đều ghi vào bia đá lưu tại chùa. Các vị hưng công những điều khoản ước đều liệt kê vào bên trái”.

Trong danh sách hàng trăm vị hưng công, có các ông bà Dương Văn Bích, Dương Ứng, Dương Tiệp, Dương Ân, Dương Thục, Dương Vũ Trọng, Dương Cán, Dương Triệu, Dương Thông, Dương Văn Thìn, Dương Văn Đoàn, Dương Bản.

Nguồn: T3, tập VIII, tr.44-46.

        NĂM 1900 (CANH TÝ)

        Ngày 26 tháng 7 (1 tháng Bẩy – Canh Tý)

940. Dương Hữu Thanh, Dương Thúc Liệu thi đậu Cử nhân

Khoa này, triều đình gia ân thêm số người lấy đỗ cho các trường, Thừa Thiên (10 người), Bình Định (6 người), Nghệ An (8 người), Thanh Hóa (4 người), Hà Nam (10 người), cứ một Cử nhân thì ba Tú tài, đều chiểu số tăng mà thi hành. Sở dĩ có lệ này là do dịp đại khánh tiết được mở thêm Ân khoa. Năm trước gặp lễ cửu tuần đại khánh tiết của Từ Dũ Bắc Huệ Khang thọ Thái Thái hoàng Thái hậu, bề tôi Cơ mật viện đã bàn mở Ân khoa, sau vì có việc không làm được, đến đây tâu xin chước lượng tăng thêm giải ngạch để mở rộng ân điển.

Dương Hữu Thanh, người Phương Xá – Hưng Nguyên (Nghệ An), Dương Thúc Liệu, người Tùng Ảnh – La Sơn (Hà Tĩnh) đều thi tại trường Nghệ An do Tế tửu Quốc tử Giám Khiéu Năng Tĩnh làm Chủ khảo, Tham tán Nội các Mai Khắc Đôn làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.567-578.

        Ngày 22 tháng 11 (1 tháng Một – Canh Tý)

941. Sĩ tử họ Dương thi đậu Cử nhân

Đó là Dương Bá Trạc, người Phú Thị, Đông Yên – Hưng Yên, Dương Xuân Thụ, người Nhuận Ốc, Tiền Hải – Thái Bình; Dương Danh Long, người Vân Đình, Sơn Lãng – Hà Nội và Dương Tự Nhu – con trai Tiến sĩ Dương Khuê đều dự thi tại trường Hà Nội – Nam Định do Phạm Xứng làm Chủ khảo, Nguyễn Gia Thoại làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.567, 573.

        NĂM 1902 (NHÂM DẦN)

        Ngày 25 tháng 2 (18 tháng Giêng – Nhâm Dần)

942. Tiến sĩ Dương Thúc Hạp soạn văn bia cho miếu xã Đông Tháp

Bản xã trùng tu thần miếu bi văn tạo năm Thành Thái 14, dựng tại miếu bản xã, tổng Lý Trai, Đông Thành – Nghệ An (nay thuộc xã Diễn Hồng, Diễn Châu – Nghệ An) ghi, sau vụ tao loạn ở Kinh thành năm Hàm Nghi Ất Dậu, đền thờ thần ở thôn Đông Tháp bị thiêu cháy. Năm Canh Tí (1900) dân thôn mới quyên góp tu sửa lại đền, xây lại 2 tòa miếu chính lợp ngói, giải vũ, nghi môn chỉ phí hết tất cả hơn 2 vạn tiền.

Nguồn: T12, tập 3, N02421-22.

        Ngày 13 tháng 4 (6 tháng Ba – Nhâm Dần)

943. Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến nghẹn ngào Khóc bạn

Năm 1897, Dương Khuê cáo quan, được tặng hàm Thượng thư bộ Binh, được 5 năm thì qua đời. Hay tin, Nguyễn Khuyến vô cùng xúc động gửi viếng bài thơ Vãn đồng niên Vân Đình Tiến sĩ Dương Thượng thư: – Bác Dương thôi đã thôi rồi/ Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta/ Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước/ Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau/ Kính yêu từ trước tới sau/ Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời/ Cũng có lúc chơi nơi dặm khách/ Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo/ Có khi tầng gác cheo leo/ Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang/ Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp/ Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân/ Có khi bàn soạn câu văn/ Biết bao đông bích, điển phần trước sau/ Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn/ Phận đấu thăng chẳng dám tham trời/ Bác già, tôi cũng già rồi/ Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là/ Muốn đi lại tuổi già thêm nhác/ Trước ba năm gặp bác một lần/ Cầm tay hỏi hết xa gần/ Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can/ Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác/ Tôi lại đau trước bác mấy ngày/ Làm sao bác vội về ngay/ Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời/ Ai chả biết chán đời là phải/ Vội vàng sao đã mải lên tiên/ Rượu ngon không có bạn hiền/ Không mua không phải không tiền không mua/ Câu thơ nghĩ đắn đo không viết/ Viết cho ai, ai biết mà đưa/ Giường kia treo những hững hờ/ Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn/ Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở/ Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương/ Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.

Nguồn: B2, 22-11-2015.

        Trong năm

944. Dựng bia tại Từ đường họ Dương

Dương tộc văn ký tạo năm Thành Thái 14, dựng tại Từ đường họ Dương xã Ninh Phúc (Hoa Lư – Ninh Bình) kể về lai lịch họ Dương, từ đất Bắc sang, từ lâu đã là đại gia. Thời Trần, đã có vị đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ cập đệ Đệ tứ danh, làm quan đến Nội hầu, có tên trong quốc sử… vị đó là Dương Ngộ Thì. Bia còn kể nhiều người họ Dương đỗ đạt làm quan ở các thời. Phần cuối bia ghi họ tên những người cúng tiền tu sửa nhà thờ họ và số ruộng của nhà thờ họ.

Nguồn: V12, tr.757.

        NĂM 1903 (QUÝ MÃO)

        Ngày 27 tháng 5 (1 tháng Năm – Quý Mão)

945. Dương Tư Trác thi đậu Cử nhân

Tháng Hai – Quý Mão (3-1903) triều đình lệ cho sĩ tử phụ thí (trở đi mỗi khi đến kì thi Hương, sĩ tử đều về trường tỉnh ứng thí để hợp với lệ định. Nếu có ai xin phụ hạch có kết nhận xác thực hoặc bộ nha sảnh xét tư mới cho, người phụ thí Trúng cách thì ngoài Thông phán, Ký lục và học trò Quốc tử giám đều cho bộ tư về bản trường ứng thí).

Tháng 3 năm Quý Mão (4-1903) Bề tôi Cơ mật viện dâng sớ xin chỉnh đốn phép thi. Sớ đại lược nói “Tuyển cử cốt được người có thực tài, công khí há có thể được riêng lạm. Quốc triều mở khoa thi lấy kẻ sĩ, phép thi trường quy đều rất chặt chẽ. Gần đây các khoa thường xảy ra các vụ án, mang sách vào trường thi cũng có, làm văn hộ người khác cũng có, trước kia người thuê người làm thay là từ bên ngoài, nay thì mạo danh vào trường làm bài, trước kia thông đồng với Lại phòng hoặc quân canh trong trường còn là chuyện nhỏ, nay thì có việc quan trường tác tệ, cho nên bên ngoài có lời mỉa mai Cử nhân tiền, Tú tài bạc, nếu không một phen thân định để chấn chỉnh thói quen của sĩ tử mà làm nghiêm trường quy thì e việc gian đối giả trá ngày càng nhiều, sẽ dẫn tới mối lo phế mà không cử, đã thân định bàn bạc các khoản tâu lên xin chuẩn sao ra cho thi hành, lấy đó làm lệ mãi mãi”. Cho như lời tâu:

Khoản 1: Sau khi sĩ tử đã vào trường thi người trong ngoài cửa không được liên hệ với nhau.

Khoản 2: Quan Giám thí ngoài trường dò xét được ai lén vào trường, kiểm nghiệm nét chữ là kẻ làm bài thi hộ thì bắt người và tang vật trình lên nghiêm trị, quan binh Giám thí bắt được kẻ mang tài liệu vào trường thi và kẻ mạo danh vào trường được thưởng.

Khoản 3: Sau khi quan trường vào trường, ở Kinh thì do bộ Lễ, ở tỉnh thì do quan tỉnh yết thị nghiêm cấm nhà dân chung quanh không được chứa chấp người làm bài thi hộ, nếu bắt được sẽ xử phạt. Lại sau khi vào trường thì quan địa phương phải luân phiên đi lại ngoài trường giám sát.

Khoản 4: Mỗi kì vào trường, ở Kinh thì nghiêm sức các thuộc viên Hành tẩu, Thừa phái có khoa mục thuộc các bộ nha và Cử nhân học ở Quốc tử giám cùng các sinh viên trường Quốc học không dự thi sáng sớm hôm ấy tề tựu chỗ Cơ mật viện mới để tiện điểm danh, ở tỉnh thì các tỉnh có trường thi đốc thúc thuộc viên và Tường sinh ở tỉnh tới điểm danh.

Khoản 5: Việc làm văn nạp quyển ở mỗi trường định cuối giờ Dậu đầu giờ Tuất làm hạn, quá hạn thì không chấm bài.

Khoản 6: Số Cử nhân, Tú tài được lấy ở các trường theo lệ đều có giải ngạch, các quan trường đều phải chiểu theo văn lý duyệt lấy cho tinh tường xác đáng, nếu không đủ thì thà lấy thiếu chứ không lấy lạm. Chờ khi ba nha phúc duyệt quyển nào văn lý không thông và phạm lỗi nặng thì đánh rớt còn lại nếu văn lý thô thiển, chữ viết sai sót, về tình có chỗ đáng ngờ sẽ đòi tới phúc hạch, nếu quả thông thì cho dự hạng, nếu không thông, thì đánh rớt.

Dương Tư Trác, con trai Dương Lâm, theo cha đến lỵ Sở làm quan, thi nhờ trường Bình Định do Thị lang bộ Bình Nguyễn Gia Thoại làm Chủ khảo, Quang lộc tự khanh lãnh lang trung bộ Lại Nguyễn Quang làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Đ9, tr.401-402.

        Tháng 9 (tháng Tám – Quý Mão)

946. Tổng đốc Bình Phú là Dương Lâm tiến cử người tài cho triều đình

Ông cùng Tổng đốc Thuận Khánh là Hồ Đệ tiến cử Đốc học Khánh Hòa là Đàm Liêm, người Bắc Ninh. Căn cứ vào lời giới thiệu, Hoàng đế chuẩn cho Đàm Liêm làm Thụ Quang lộc Tự thiếu khanh, vẫn lĩnh chức như cũ. Đàm Liêm được đánh giá là thuần hậu, học rộng.

Nguồn: Đ9, tr.408.

        NĂM 1904 (QUÝ MÃO – GIÁP THÌN)

        Ngày 12 tháng 1 (25 tháng Một – Quý Mão)

947. Dương Văn Chính cung tiến tu tạo chùa Bái Ân

Đại Lý Báo  tự/ Trùng tu bi ký tạo năm Thành Thái 15, dựng tại chùa xã Đại Lý, tổng Hải Bối, Thụy Nguyên – Thanh Hóa (nay thuộc xã Thiệu Vân – thành phố Thanh Hóa), ghi rằng:

Xã ta có ngôi chùa Báo Ân từ xưa, cảnh trí có núi Quy Sơn làm gối, bên trái có đền thờ Thần, bên phải có điện thờ Tiên. Nơi đây cảnh sắc như hiện vẽ bậc Thiền sư đức sáng quản trị Tam giới […] mãi được kế truyền mà xét rõ vốn bậc Tăng sư ở chùa cổ Đông Xá. Ba ngàn thế giới cao siêu trần tục, mười hai toà lâu đài trấn riêng một cõi. Trải xem biết rõ như hổ vờn chim lượn, cõi trần ai gió mưa lay động bệ đá, đài xưa, toà vàng. Trong tệ ấp nhân lúc rỗi nhàn mà toan mưu việc trùng tu mới chùa.

Năm trước, có Tiên sinh đạo sĩ [người] Đình Am tên huý là Châu, du nơi thắng tích, yêu mến cảnh núi sông linh khí bỏ tiển cung tiến […] 1 bức tượng vàng cùng tiền nguyên 10 lượng. Ra sức khuyến khích hô hào dân tình trong ấp lo toan công việc trùng tu. Đấy chính là đã giúp dân lo việc. Phát tâm phổ đức khuyến thiện mười phương, được tiến gần 100 đồng, mua gỗ, ngói, gạch các loại mời thợ về tu sửa 1 tháng khánh thành, Tam bảo trang nghiêm, trùng tu tượng Phật, còn vũ liên đài sen vẫn như trước.

Nguồn: T16, tập 1, tr.402-407.

        Trong năm

948. Dương Bá Trạc cùng Phan Chu Trinh đi thăm Đề Thám

Dương Bá Trạc, hiệu là Tuyết Huy, sinh tại làng Phú Thị, huyện Đông Yên, sau đổi là huyện Khoái Châu (nay thuộc Văn Giang – Hưng Yên).

Gia đình vốn thuộc dòng thi lễ. Cụ tằng tổ xưa đỗ Hương cống. Cụ nội là Dương Duy Thanh (1804-1861), đã từng là một trong “quốc sĩ tứ kiệt”, từng làm việc ở Quốc sử quán và làm Đốc học tỉnh Hà Nội, tức là coi việc học chính trong 4 phủ, 15 huyện của tỉnh Hà Nội khi đó. Năm 1848, cụ được cử soạn bài văn bia biểu dương sự nghiệp của Hai Bà Trưng, hiện vẫn còn tại đền Đồng Nhân (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội).

Cụ thân sinh là Dương Trọng Phổ (1862- 1927), tuy không đỗ đạt gì, nhưng “là người sớm rõ cái trào lưu mới”. Khi Dương Bá Trạc đậu Cử nhân, cụ không ép con chạy theo con đường sĩ hoạn mà cho ra Hà Nội học thêm cái mới cái hay. Đương lúc Đông Kinh Nghĩa Thục còn đang vào kỳ phôi thai, cụ lúc ở quê nhà, lúc ở thành phố, sốt sắng cổ động. Chính cụ lại chung tiền mở các hiệu buôn Đồng Lợi Tế, Hồng Tân Hưng, Đông Thành Xương. Nhiều nhà danh vọng giàu có bấy giờ dám cho con xuất dương du học một phần cũng do tay cụ đẩy ngầm.

Năm Giáp Thân (1904), nhân Phan Châu Trinh ra Bắc để cổ động chủ nghĩa duy tân, Dương Bá Trạc được Phan Châu Trinh rủ đi thăm Đề Thám để thấy rõ con người đã có chí lớn dám đọ sức với thực dân Pháp. Năm Bính Ngọ (1906), Châu Trinh ở Nhật về nước, lại cùng Dương Bá Trạc đi nhiều nơi miền Bắc để diễn thuyết về chủ nghĩa duy tân tự cường. Xong rồi lại đi các tỉnh Trung Kỳ để tiếp tục làm việc đó.

Cũng năm ấy, Dương Bá Trạc cùng đi với Tăng Bạt Hổ lên Yên Thế lần thứ hai.

Nguồn: D4, tr.12-13.

        Trong năm

949. Hương lão Dương Phán cùng quan viên ghi nhận công lao tu tạo chùa Thủ Nghiêm

Ký kị bi tạo năm Thành Thái 16, dựng tại chùa bản xã – tục gọi là chùa Bài (xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi rằng, chùa Thủ Nghiêm bản xã, lâu ngày bị đổ nát, cần phải sửa chữa gấp. Nay người bản xã Nguyễn thị hiệu Diệu Nhung Quế, Nguyễn thị hiệu Diệu Hảo, Hoàng công tự Phúc Trường, Hoàng công tự Phúc Thành, Hoàng công tự Phúc Hào, Nguyễn thị hiệu Diệu Hướng Trướng, Nguyễn Thị hiệu Diệu Dung, Hoàng công tự Phúc Trung, Hoàng thị hiệu Diệu Nghĩa, đã tự nguyện quyên tiền trợ phí, mỗi người 100 quan, nên công việc đã xong. Vì vậy bản thôn thuận tình cho các vị đó được phụng thờ ở tả ban. Các vị còn cung tiến mỗi người 1 sào ruộng để dùng vào việc hương đăng tế tự.

Nguồn: Đ12, tr.676.

        NĂM 1906 (BÍNH NGỌ)

        Ngày 22 tháng 6 (1 tháng Năm – Bính Ngọ)

950. Dương Văn Uyển thi đậu Cử nhân

Ông là con trai Tiến sĩ Dương Thúc Hạp, dự thi tại trường Nghệ An do Tham tri bộ Hình Bùi Xuân Huyên làm Chủ khảo, Án sát Thanh Hóa Tôn Thất Lãnh làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.602.

        Ngày 16 tháng 12 (1 tháng Một – Bính Ngọ)

951. Dương Mộng Đắc, Dương Dụng Đảm thi đậu Cử nhân

Dương Mộng Đắc, người Cổ Tiết, Đông Quan – Thái Bình (nay thuộc Đông Hưng – Thái Bình) và Dương Duy Đảm, người Vân Đình (Hà Nội) đều dự thi tại trường Hà Nam do Thị lang lãnh Tham tri bộ Lại Trần Trạm làm Chủ khảo, Quang lộc Tự khanh Trần Đình Phong làm Phó Chủ khảo.

Nguồn: Q4, tr.606.

        NĂM 1907 (ĐINH MÙI)

        Tháng 3 (tháng Hai – Đinh Mùi)

952. Dương Bá Trạc tham gia giảng dạy ở Đông Kinh Nghĩa Thục

Đông Kinh Nghĩa Thục xuất hiện ở Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 12-1907 dưới hình thức một trường học hợp pháp và mở rộng hoạt động ra các tỉnh xung quanh, có liên hệ với phong trào Duy Tân ở miền Trung với phong trào Đông Du ở nước ngoài.

Đông Kinh Nghĩa Thục hoạt động trên các lĩnh vực văn hóa, giáo. lục, xã hội và cả kinh tế nữa, có tính chất một phong trào cải cách tư tưởng – văn hóa, góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỉ XX. Tuy chỉ tồn tại được 9 tháng, nhưng Đông Kinh Nghĩa Thục đã xốc lên một phong trào yêu nước khá rầm rộ, mà thủ đô Hà Nội có vinh dự là trung tâm hoạt động sôi nổi nhất và đã được ghi nhận trên bảng vàng truyền thống lịch sử nước ta.

Những nhà sáng lập và hoạt động Đông Kinh Nghĩa Thục ngoài các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, còn có những nhân sĩ tri thức yêu nước có uy tín đương thời, như Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Hữu Cầu, Võ Hoành… Đặc biệt trong số đó có Dương Bá Trạc, một vị cử nhân Hán học trẻ tuổi, sớm hấp thụ tư tưởng mới của thời đại Tân thư, Tân văn, và từ ảnh hưởng của cuộc Minh Trị duy tân ở Nhật Bản và của Mậu Tuất biến pháp ở Trung Quốc.

Trong hoạt động của nhà trường, Dương Bá Trạc có một vai trò tương đối nổi trội. Ông tham gia ba trong bốn ban công tác của Đông Kinh Nghĩa Thục. Ở ban cổ động, ông là người thường xuyên có mặt trong các buổi diễn thuyết bình văn, đọc báo, luận bàn thời sự… tổ chức vào các buổi tối ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng, để công chúng tới nghe.

Ở Ban Giáo dục là Ban phụ trách lớp học, đưa đón học sinh, tổ chức giảng dạy được chia thành ba tổ bộ môn: Việt văn, Pháp văn và Hán văn. Ai thạo môn nào thì đảm nhận môn đó. Dương Bá Trạc là giáo viên chính môn Hán văn dạy những học viên đã biết chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, nay muốn học thêm chữ Nho.

Dương Bá Trạc còn có chân trong Ban Tu thư, cùng với Lương Văn Can, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu… biên soạn các tài liệu cho các giáo viên giảng dạy, tài liệu cổ động cho nhà trường, tài liệu cho học viên học tập. Chỉ trong một thời gian ngắn, ban này đã soạn được một tập sách như Quốc dân độc bản, Quốc văn tập đọc, Nam quốc giai sự, Nam quốc vĩ nhân.

Nguồn: D4, tr.40-44.

        Trong năm

953. Dương Lâm dịch sang Quốc âm tác phẩm viết về triều Nguyễn

Hoàng triều sử ký được trình bày theo lối lịch đại thứ tự từ các chúa đến Hoàng đế Thành Thái năm thứ 19 (1907) bằng văn xuôi chữ Nôm, tập trung chủ yếu vào các sự kiện chính và tiểu truyện các nhân vật có ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước – trong đó có cả thơ văn bình luận của Dương Lâm và Nguyễn Thượng Hiền. Văn bản trên hiện lưu tại Thư viện Quốc gia, ký hiệu R.2253.

Nguồn: T1, số 2/2011, tr.76-80.

        NĂM 1908 (MẬU THÂN)

        Ngày 27 tháng 4 (27 tháng Ba – Mậu Thân)

954. Dương Quýnh tham gia phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ

Phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ mở đầu vào ngày 11-3-1908 (9 tháng Hai – Mậu Thân) bằng cuộc bao vây Tòa Công sứ Pháp ở Hội An (Quảng Nam), lan sang Quảng Ngãi (31-3-1908), Thừa Thiên (9-4-1908), Bình Định (16-4-1908) để phản đối chính sách thuế thân, chính sách bắt đi làm xâu khiến chính quyền Bảo hộ phải điều quân chính quy từ Bắc Kỳ vào đàn áp.

Theo một báo cáo của phủ Phụ chính Nam triều đệ về bản án ở Bình Định ngày 27 tháng Ba – Mậu Thân thì:

“Phan Long Bằng (người thôn Nam Huân, tỉnh Quảng Nghĩa) là người biệt hạt, dám trước tiên đến hạt ấy dụ dỗ nhân dân cắt tóc, xin giảm thuế, gây thành việc rắc rối, nên đem làm thủ phạm luận tội, xin chiếu điều lệ luật khích biến lương dân xử trảm bêu đầu, Nguyễn Khiêm (từ đây trở xuống quán tỉnh Bình Định), Châu Văn Long và Phạm Doãn, hoặc cùng người ngoài giao thông phiến dụ, hoặc chống đánh tập binh, hoặc tranh cướp súng ống, đều là đồng ác tương tế, nên đem làm tùng phạm luận tội, đều xử trảm lập quyết. Còn các tên theo người ta sai khiến là Phạm Văn Quyền, Nguyễn Vui đều xử giảo giam hậu, bị hiếp tùng là Nguyễn Xán, Phan Ôn đều xử trượng 100, cải làm phạt giam đều 18 tháng, đều chờ khi nào nhất luật ninh thiếp, sẽ xét phóng thích. Ngoài ra, các tên chưa bắt được là Phạm Quế, Võ Cần và Dương Quýnh (còn có tên là Dương Trứ, Hương Quýnh), chờ nã được tra cung, tính tội thế nào, sẽ phân biệt nghị xử…”.

Nguồn: P1, tr.84.

        Ngày 6 tháng 5 (7 tháng Tư – Mậu Thân)

955. Dương Thạc, Dương Thưởng bị bắt, đày đi Côn Đảo và Lao Bảo

Hai ông là anh em sinh đôi, quê làng Trường An, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, từng dự kỳ thi Hương ở trường tỉnh khoa Bính Ngọ (1906) nhưng đều bị trượt. Khi phong trào kháng thuế nổ ra, hai ông tích cực tham gia, bị bắt và đem xử vào ngày 6-5-1908. Dương Thạc bị đày đi Côn Đảo, qua đời ngay khi đặt chân đến nhà tù này còn Dương Thưởng đem giam ở Lao Bảo, qua đời năm 1918 khi cai ngục tiến hành cuộc thảm sát ở đây. Về bản án xử hai ông, qua châu bản ngày 18 tháng Sáu năm Duy Tân 2 (16-7-1908) ta thấy diễn biến như sau:

“Phủ Phụ chính chúng thần đẳng tấu: ngày mùng 7 tháng Tư, tiếp tỉnh Quảng Nam tư đệ bản án như sau:

Tú tài Dương Thạc, 27 tuổi, xã Trường An, phủ Tam Kì, cùng anh là bọn Dương Thưởng, đương khi hạt dân phiến động, tên ấy dụ tụ họp bậy bạ, người làng cũng sợ thanh thế Tú tài của y, bèn xướng làm các việc dân quyền, kết họp lập giới bảo hiểm, tuy không có thực trạng uống huyết đính thề, nhưng kết họp giao hảo, thật mở ra mối càn quấy. Xin chiếu luật mưu bạn (trong đó có chép một khoản: “mưu phản nước mình, ngầm theo nước khác, chỉ là cùng mưu, không phân thủ tùng, đều xử trảm; nếu mưu mà chưa thực hành, thì vi thủ giảo giam hậu, vi tùng – không phân thủ tùng – đều trượng 100, đày 3.000 dặm…”), nghị xử. Vậy vi thủ là Dương Thạc, xin chiếu luật mưu bạn vi hành, xử giảo giam hậu; Dương Thưởng giảm một bậc, xử trượng 100, đày 3.000 dặm, tư xét.

Phủ thần đẳng phụng duyệt, đã thương quí Khâm sứ đại thần Phụ Quốc công Lê Viết phúc y. Kính xin tấu lên, hậu chỉ lục biện…”.

Nguồn: P1, tr.47-48.

        Ngày 1 tháng 6 (3 tháng Năm – Mậu Thân)

956. Dương Hiển Trứ bị bắt vì hiệp tác cùng Nguyễn Thành

Nguyễn Thành còn gọi là Tiểu La, quê ở Thăng Bình – Quảng Nam, người có công phát triển Duy Tân hội và yếu nhân phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ. Theo báo cáo của phủ Phụ chính Nam triều đề tấu ngày 3 tháng Năm – Mậu Thân, thì:

Nguyễn Thành là người hạt khác, dám mang theo các quyển sách Hiệp Cổ, Công quyền, Địa lí đồ cuộc, đi đến hạt ấy, cùng bọn Dương Hiển Trứ và Phạm Quế miêu họa đồ bản, tự nhận trải xem các con đường núi, để làm quan binh phái khám đích xác. Y lại đi khắp huyện Hoài Ân thám thính, không khỏi bày mưu, nên dân huyện hạt ấy (Hoàng Văn Chùy, Nguyễn Văn Tính) tụ tập cầm khí giới, cự quan, đâm lính, trước xưng xin thuế, sau thành bạn nghịch, đến khi bị quan binh nã được, có đủ các vật hạng trong lưng.

Nguồn: P1, tr.94.

        Ngày 27 tháng 6 (29 tháng Năm – Mậu Thân)

957. Nổ ra vụ Hà Thành đầu độc, một số sĩ phu họ Dương bị bắt

Kể từ sau năm 1892, Đề Nắm hy sinh, Thân Bá Phức hưu chiến, Quân thứ Song Yên chấm dứt sứ mệnh Cần Vương, Đề Thám trở thành lãnh tụ tối cao của phong trào chống Pháp của nhân dân Yên Thế. Do đơn độc và chưa tìm ra phương lược đấu tranh thích hợp nên nghĩa quân phải chấp nhận hai lần hòa hoãn. Cho đến năm 1905, kiên trì và quán triệt tư tưởng theo đuổi đường lối đấu tranh vũ trang đến cùng bằng cách hướng mũi nhọn về phía đồng bằng và thành thị, Hoàng Hoa Thám đã cử Hoàng Điển Ân và người vợ Ba của mình về Hà Nội gây dựng phong trào trong binh lính người Việt, lập ra Đảng Nghĩa Hưng để tiến hành cuộc nổi dậy ở trung tâm chính trị lớn nhất Bắc Kỳ hồi bấy giờ. Tuy nhiên, dù có sự chuẩn bị công phu nhưng cuộc khởi nghĩa của lính khố đỏ pháo binh nổ ra trong đêm 27-6-1908 dễ dàng bị quân đội Pháp dập tắt và ngay sau đó lập ra Hội đồng Đề hình để xử tội những người liên quan đến cuộc nổi dậy với hàng chục án tử hình, khổ sai, lưu đầy – trong số đó có viên Đội thuộc Đại đội 6 pháo binh Dương Bê – còn gọi là Nguyễn Văn Cốc nhận án tử hình; Dương Tú, tức Tú Con, Tú Kiên – thợ khắc gỗ nhận án 5 năm khổ sai.

Đến tháng 8-1908, nhà cầm quyền Pháp lại cho bắt nhiều yếu nhân của Đông Kinh Nghĩa thục vì tội liên quan dính líu đến Hà Thành đầu độc – trong đó có thày Khóa Thân tức Dương Trọng Phổ và con trai ông là Cử nhân Dương Bá Trạc. Tại phiên tòa do Hội đồng Đề hình tiến hành ngày 15-10-1908, Cử nhân Dương Bá Trạc phải nhận mức án 15 năm khổ sai đày đi Côn Đảo, Dương Trọng Phổ mức án 5 năm khổ sai.

Nguồn: H4, tr.504-505.

        Tháng 9 (tháng Tám – Mậu Thân)

958. Chánh tổng Dương Tuấn bị phạt trượng, thu bằng sắc vì tham gia phong trào kháng thuế

Ông là người thôn Đại Binh, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngày 16-4-1908 cùng mấy ngàn nông dân kéo đến bao vây tỉnh thành trong nhiều ngày. Sau khi bị bắt, bị xử tại tòa Nam án do Tổng đốc Bình Định Bùi Xuân Huyên chủ tọa.

Nguồn: P1, tr.108-113.

        NĂM 1909 (KỶ DẬU)

        Ngày 11 tháng 11 (19 tháng Chín – Kỷ Dậu)

959. Tòng bát phẩm Dương Hưng Lang hoàn thành việc Đằng lục (sao lại bản chính) bộ Đại Nam liệt truyện chính biên

Bộ sách được biên soạn tiếp theo Đại Nam liệt truyện tiền biên do Học bộ Thượng thư kiêm quản Quốc tử giám Cao Xuân Dục làm Tổng tài, ghi chép về các Hậu phi, Hoàng tử, Công chúa, Các quan, Hạnh nghĩa, Liệt nữ, Ẩn dật, Cao tăng, Nghịch thần. Từ tháng Bẩy năm Duy Tân 1 (8-1907), Quốc sử quán tiến hành kiểm chính lại, chỗ nào bỏ sót sơ lược thì bổ sung thêm và Đằng lục. Đến đây xin khắc in.

Nguồn: Đ2, tập 2, tr.8-11.

        NĂM 1910 (KỶ DẬU – CANH TUẤT)

        Ngày 28 tháng 1 (8 tháng Chạp – Kỷ Dậu)

960. Chánh bát phẩm Dương Hưng Lang hoàn thành việc Đằng lục bộ Đại Nam nhất thống chí

Đại Nam nhất thống chí được biên soạn, hiệu chỉnh và bổ sung biên soạn, hiệu chính vào những năm Tự Đức, nhưng do nhiều nguyên nhân, nhất là do cuộc xâm lăng của thực dân Pháp, cho đến khi vua Tự Đức mất, vẫn chưa được chỉnh lý và khắc in, riêng phần Bổ biên (hiệu chính và bổ sung) đã bị thất lạc trong sự kiện phái chủ chiến đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng tổ chức kháng chiến. Đến thời Đồng Khánh (1886 – 1888), tổ chức biên soạn bộ Đồng Khánh địa dư chí (sách còn có các tên Đồng Khánh ngự lăm địa dư chí lược, Đồng Khánh địa dư chí lược) với nội dung và phương pháp khác hẳn thì Đại Nam nhất thống chí chỉ còn được nhắc tới như loại tài liệu lưu trữ ở Quốc sử quán. Khi Thành Thái lên ngôi (năm 1889) thì vị vua yêu nước này và những bề tôi thân cận của ông tìm đến sử học như một thứ vũ khí để cố kết lòng người, cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, nhằm khôi phục lại một nước Đại Nam “nhất thống” từng là niềm tự hào dân tộc sâu sắc bất diệt. Công việc hiệu chính, bổ sung và trùng tu bộ Đại Nam nhất thống chí được tiến hành những năm Thành Thái, cuối cùng do vua bị thực dân Pháp bắt đi đầy nên bị bỏ dở. Vua Duy Tân trẻ tuổi đã kế thừa tinh thần yêu nước của vua cha, chọn các bậc sử thần có uy tín để tiếp nối công việc trùng tu bộ Đại Nam nhất thống chí của hai đời vua trước, trong những điều kiện khó khăn nguy hiểm, đã hoàn thành bộ sách và cho khắc in.

Đại Nam nhất thống chí chính là một bộ Quốc chí, bao gồm nhiều Phương chí

Các bộ sử truyền thống thường lấy thời đại làm trung tâm, theo trật tự thời gian trước sau để trình bầy các sự kiện, đều xoay quanh những hoạt động của triều đình, chỉ ghi chép những sự kiện và ngôn luận có lợi việc bảo vệ vương thất, ít chú ý tới đời sống và hoạt động của tầng lớp bình dân, đây là lối ghi chép “dọc”. Còn Phương chí thì lấy khu vực làm trung tâm, ghi chép tường tận về lịch sử diên cách, hình thế, khí hậu, phong tục, núi sông, quan ải, cổ tích, nhân vật, thổ sản… của một địa phương, đó là lối ghi chép “ngang”. Phương chí lưu giữ nguồn sử liệu rất phong phú về các mặt địa lý (diên cách về bờ cõi, diện tích, giáp giới…), chính trị (chế độ, quan chức, binh bị…), về kinh tế (hộ khẩu, tô thuế, sản vật…), về xã hội (phong tục, phương ngôn, đền chùa…), về văn hiến (cổ tích, nghệ văn, nhân vật…). Những gì không ghi chép tường tận ở Chính sử thường nhờ Phương chí để lưu giữ lại, trong đó, những ghi chép về tô thuế, hộ khẩu, cầu cống, bến đò, chợ búa, sản vật là rất đáng quý.

Bộ sách do Thượng thư bộ Học kiêm quản Quốc tử giám Cao Xuân Dục làm Tổng tài, Chánh bát phẩm Dương Hưng Lang tham gia Đằng lục.

Nguồn: Đ3, tập 1, tr.9-30.

        Ngày 16 tháng 3 (6 tháng Hai – Canh Tuất)

961. Dương Văn Hồ được tôn làm Hậu hiền xã Vân Đài

Tạo thạch bi ký tạo năm Duy Tân 4 dựng tại đình bản xã, Yên Lạc – Vĩnh Yên (nay thuộc xã Văn Tiến, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi rằng

Bản thôn trùng tu đền thờ chi phí tốn kém. Ông Dương Văn Hồ người bản thôn tuổi cao đức trọng, người cháu thừa tự của ông là Dương Văn Hợp đã cúng tiến 60 quan tiền trợ giúp việc công, ông là Dương Văn Hợp lại cúng 5 sào ruộng làm ruộng tế tự. Các vị hương lão, dân thôn tôn bầu ông Dương Văn Hồ làm Hậu hiền và ghi vị trí các thửa ruộng và lệ giỗ Hậu hiền.

Nguồn: T12, tập 15, N014673.

        Tháng 5 (tháng Tư – Canh Tuất)

962. Bà Dương Thị Xuân công đức tu tạo chùa Tiên Sơn

Tượng chung bi ký tạo năm Duy Tân 4 cho biết, ngôi chùa nằm trong thành Lạng Sơn cần tu tạo tượng đất, chuông đồng đã vời thợ đến sửa cũ, làm mới, thay chỗ hư hỏng, đúc tròn chuông lớn.

Ngoài bà Dương Thị Xuân còn có hàng trăm người công đức cho công việc trên.

Nguồn: V9, tr.105-110.

        Ngày 15 tháng 7 (9 tháng Sáu – Canh Tuất)

963. Dương Phúc Cát được tôn Hậu thần xã Vân Đài

Bách thế lưu phương tạo năm Duy Tân 4 dựng tại bản xã (nay thuộc xã Văn Tiến, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi rằng dù cho tuổi đã thất tuần, cuộc sống gia đình hạnh phúc, nhưng ông đã giúp tiền (số tiền bị mờ) cho bản thôn và cúng 5 sào ruộng làm ruộng tế tự. Hương lão và dân thôn tôn bầu ông làm Hậu từ năm Thành Thái 18 (1906), nay lập bia xác nhận việc này, lệ cúng giỗ và vị trí các thửa ruộng cung tiến.

Nguồn: T12, tập 5, N014684.

        NĂM 1912 (NHÂM TÝ)

        Tháng 6 (tháng Năm – Nhâm Tý)

964. Chánh tổng Dương Thiện ở Phú Yên chẩn cấp tiền, gạo cho dân nghèo

Tỉnh Bình Thuận mùa đông năm trước gạo đắt, cái ăn khó khăn, dân tình quẫn bách. Quan tỉnh bàn cùng Trú sứ hiểu dụ khuyến khích người trong hạt có ai hảo tâm giảm giá bán gạo để cứu tế cũng cho, nhiều người vui vẻ làm theo. Đến lúc ấy cái ăn của dân nhờ thế tạm được thư thả, bèn chuẩn thưởng cho những người mộ nghĩa hiếu thi có thứ bậc khác nhau (chiểu lệ tháng 2 năm trước ban thưởng cho Chánh tổng Trần Xôi , Dương Thiện ở Phú Yên đã giúp đỡ tiền gạo chẩn cấp, thưởng cho kim tiền hạng nhỏ đều một đồng, lại chuẩn thưởng cho Phan Quang Hướng nạp 150 tạ gạo hàm Chánh Cửu phẩm văn giai, Nguyễn Địch Cát nạp 100 tạ thưởng hàm Tùng Cửu phẩm văn giai, Nguyễn Thiện Thuật nạp 100 tạ thưởng hàm Tùng Cửu phẩm Bá hộ, còn Nguyễn Xuân Lộc, Huỳnh Văn Ngô giảm giá bán ra 100 tạ gạo đều thưởng cho mỗi người một đồng kim tiền).

Nguồn: Đ9, tr.559.

        Trong năm

965. Chí sĩ Dương Văn Quanh gia nhập Việt Nam Quang phục hội

Ông tên tự là Quốc Quang, quê xã Đông Cứu, huyện Thanh Oai (nay thuộc xã Đông Cứu, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội), sớm tham gia các hoạt động yêu nước. Năm 1912, ông sang Vân Nam (Trung – Quốc), gia nhập Việt Nam Quang phục hội của Phan Bội Châu, tích cực chuẩn bị bạo động vũ trang. Năm 1915, ông bị bệnh nặng, mất tại châu Giang Minh (Trung Quốc) trong khi đi công tác của Hội.

Nguồn: M6, tr.273.

        NĂM 1915 (ẤT MÃO)

        Ngày 7 tháng 12 (1 tháng Một – Ất Mão)

966. Dương Thiệu Tường thi đậu Cử nhân

Ông người Vân Đình, con trai Dương Tự Phan, dự thi tại trường Hà Nam do Tham tri bộ Lại Trần Trạm làm Chánh Chủ khảo, Bố chánh Quảng Bình Nguyễn Khoa Tân làm Phó Chủ khảo, Bùi Huy Tiến làm Hội đồng.

Kỳ thi Hương năm Ất Mão, triều đình chuẩn cho Tú tài, Ấm sinh và Tôn sinh, Học sinh trường Quốc Tử Giám được cấp bằng về quê. Bất kể tuổi tác cao thấp đều cho ứng thí một khoa để mở rộng ân cách trong đó, người trên 50 tuổi nếu thi đỗ chỉ cấp bằng cho về quê, không được bổ quan, còn lại thì chờ từ khoa Nhâm Tý trở đi sẽ bàn định.

Trước đây thi cử là công việc của Ty Tân Hưng thuộc bộ Lễ. Tháng 9 năm Duy Tân thứ nhất (1907) cho lập bộ Học, đưa thi cử thuộc về bộ Học. Kỳ thi này chiểu theo lời bàn năm Thành Thái thứ 18 (1906) chuẩn cho đổi định phép thi. Bốn trường Thừa Thiên, Bình Định, Nghệ An, Thanh Hóa thì:

Kì thứ nhất: thi văn sách 10 bài (Ngũ kinh mỗi Kinh một bài, truyện 2 bài, Bắc sử 2 bài, Nam sử 2 bài). Sĩ tử làm được 5 bài là hợp lệ.

Kì thứ hai: thi thơ, phú mỗi loại một bài.

Kì thứ ba: thi luận 2 đề (chữ Nho một đề, Quốc ngữ 1 đề).

Chấm điểm cho từ 0 đến 20, quy định 10 điểm trở lên là trúng. Kì thứ 1 được 10 điểm mới được vào thi kì thứ 2 và các kì sau cũng vậy. Học trò dự hạch dưới 50 tuổi mới được vào thi.

Tiền cấp cho quan trường, Lại phòng chuẩn thêm cho một bậc (mỗi bậc một đồng).

Riêng trường Hà Nam việc thi thơ, phú, Kinh nghĩa đã bãi bỏ nên phép thi có khác.

Kì thứ nhất: thi Văn sách 5 bài gồm văn chương, lý luận, Nam, Bắc sử, địa dư và chính trị Đông Dương.

Kì thứ hai: thi luận chữ Nho 2 đề.

Kì thứ ba: thi luận Quốc ngữ 2 đề.

Kì phúc hạch thi một bài luận chữ nho, một bài luận Quốc ngữ. Các đề thi Quốc ngữ do phủ Thống Sứ đặt ra, tòa hội đồng chọn đề và chấm điểm.

Các điều khoản khác cũng như các trường thi Trung Kì.

Nguồn: Đ9, tr.626, 634.

        Trong năm

967. Dương Công Hòa, Dương Đình Tiến công đức đúc chuông chùa Khánh Long

Khánh Long tự chung tạo năm Duy Tân 9, dựng tại chùa xã Yên Lũng, tổng Nhẫm Lũng, huyện Phượng Nhãn (nay thuộc xã Bắc Lũng, Lục Nam – Bắc Giang) ghi rằng, Tự tăng và Hương lão xã Yên Lũng là các ông Dương Công Hoà, Dương Đình Tiến, Nguyễn Thế Hợp, Trần Đức Diệu cùng các bậc tín lão trên dưới trong toàn xã đúc một quả chuông lớn. Nay công quả vẹn toàn, khắc vào chuông lưu lại: Đồng kỳ lão bản xã cúng tiền 15 nguyên. Đồng tín lão bản xã cúng tiền 10 nguyên, Thủ hộ bản tự hiệu Diệu Ngọc cúng tiền 12 nguyên, Hương lão Nguyễn Văn Chu cúng tiền 4 mao, Nguyễn Văn Huề cúng tiền 3 mao, hiệu Diệu Tâm cúng tiền 1 nguyên, hiệu Diệu Từ cúng tiền 2 nguyên và 16 người nữa.

Nguồn: Đ12, tr.493-494.

        NĂM 1916 (BÍNH THÌN)

        Mùa xuân

968. Bà họ Dương, hiệu Diệu Thắng công đức tiền, ruộng cho thôn Văn Trù

Bản thôn Hậu phật bi ký tạo năm Duy Tân 10, dựng tại chùa bản thôn, xã Sơn Lôi, tổng Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên – Vĩnh Yên (nay là xã Sơn Lôi, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) ngoài việc ghi nhận việc cung tiến 30 quan tiền, 3 sào ruộng để thôn chi dùng việc công, bia còn ghi việc quan viên và dân thôn tôn bà làm Hậu phật, những quy định về cúng biếu lễ vật khi còn sống, hưởng giỗ khi chết tại chùa.

Nguồn: T12, tập 16, N015354.

        Ngày 18 tháng 5 (17 tháng Tư – Bính Thìn)

969. Hoàng tử Bửu Đảo, con trai Hoàng Thái hậu Dương Thị Thục lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định

Vua là Hoàng tử trưởng của Cảnh tông Thuần hoàng đế (Đồng Khánh), Khôn nghi Xương đức Thái hoàng thái hậu họ Dương Quang. Ngày 27 tháng 12 năm Đồng Khánh thứ 3 (1888 Tây lịch) Hoàng khảo Cảnh tông Thuần hoàng đế lên làm khách trời, vua mới bốn tuổi, gặp lúc khó khăn, Phế đế Thành Thái (cháu Cảnh tông Thuần hoàng đế, cháu đích tôn của Dực tông Anh hoàng đế) hơi lớn nên được nghênh lập. Ngày 19 tháng Ba mùa xuân năm Ất Sửu Thành Thái thứ 1 (1889) làm lễ ninh lăng ở Tư lăng, ngày 20 phụng an thần vị ở điện Ngưng Hy, vua đưa hai tôn cung (tức Khôn nguyên Xương minh Thái hoàng thái hậu, Khôn nghi Xương đức Thái hoàng thái hậu) vào trú tất ở tôn điện. Năm Nhâm Dần Thành Thái thứ 14 (1902) ra phủ, phú ở xã Dương Phẩm huyện Hương Thủy (gần xã An Cựu) tức cung An Định hiện nay (lúc đầu vua tự xưng hiệu là An Định chủ nhân, mùa thu năm Khải Định thứ 2 đổi phủ làm cung, vẫn lấy tên cũ là An Định). Ngày 10 tháng Mười mùa đông năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906) được tấn phong là Phụng Hóa quận công. Ngày 13 tháng Hai mùa xuân năm Kỷ Dậu Duy Tân thứ 3 (1909) được tấn phong là Phụng Hóa công.

Ngày 2 tháng Tư mùa hạ năm Bính Thìn đời Duy Tân (1916), vua Duy Tân vì rời bỏ ngôi báu bị phế truất. Phủ Tôn nhân, Phủ Phụ chính, đình thần văn vũ bèn bàn với Chính phủ Đại Pháp Bảo hộ đón vua vào nối dòng đại thống. Ngày 15 đón vào điện Quang Minh, ngày 16 nhận bảo tỷ truyền quốc ở điện Cần Chánh, quần thân dâng biểu khuyến tiến, lại dâng kim sách. Ngày 17 vua lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Khải Định.

Nguồn: Đ10, tr.71-75.

        Tháng 6 (tháng Năm – Bính Thìn)

970. Khởi nghĩa Duy Tân thất bại, Dương Đức Tuyên và Dương Đức Nhuận bị lưu đày

Đây là cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quang phục hội tổ chức, có sự tham gia trực tiếp của vua Duy Tân, nổ ra vào rạng sáng ngày 4-5-916 tại nhiều nơi thuộc Nam Trung Kỳ như Quảng Ngãi, Quảng Nam và Kinh thành Huế khi nhà vua ra lời kêu gọi quan lại, sĩ dân nổi dậy.

Linh hồn của phong trào là Trần Cao Vân và Thái Phiên. Về các vị thủ lĩnh này, Sử quan nhà Nguyễn đánh giá:

“Trần Cao Vân, Thái Phiên đều là người Quảng Nam, Cao Vân từng can trọng án, mãn hạn được tha, lại ngầm mưu đồ cùng Thái Phiên lén tới kinh sư tìm bọn Suất đội Nguyễn Quang Siêu, Tá lý Nguyễn Thượng Trung (đã về hưu) cùng tổ chức một hội bí mật (tên là Hội Thương mại Quế Viên), thu góp tiền bạc, ngấm ngầm hành động. Kế do Thị vệ Tôn Thất Đề chuyển tin vào đại nội, Cao Vân bắt đầu giả làm người câu cá ở hồ phía sau hoàng thành, từ đó thường gặp Phế đế Duy Tân, nói bậy việc quang phục, lại hẹn ngày cử sự (xem tháng 4 năm Duy Tân thứ 10), lại thác tiếng tôn phù, dần dần làm chủ, lại tụ họp lính mộ, ngầm đem đao thương khí giới giấu dưới cầu An Hòa, âm mưu nhất tề nổi lên bạo động. Phế đế Duy Tân bị mê hoặc, nhân lúc nửa đêm đem vài thị tùng rời khỏi Hoàng thành ra ngoài để Hiệu triệu quân dân”.

Sáng 6-5-1916, vua Duy Tân và đoàn tùy tùng bị bắt ở nhà của Đội Cơ, dưới chân núi Ngũ Phong. Ngay lập tức, các cuộc truy lùng, bắt bớ tràn lan, những cuộc xét xử ngay tại hiện trường bằng nhiều án tử hình được thi hành lập tức. Nhà cầm quyền Pháp đã lợi dụng cơ hội để khủng bố tinh thần nhân dân, tận diệt những lực lượng chống đối, nhằm tạo ra một liều thuốc an thần củng cố lại bộ máy cai trị đang hoang mang, hốt hoảng. Theo các tài liệu của Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, đến ngày 01-6-1916, Quảng Ngãi có 186 người bị bắt, 72 người bị kết án, trong đó có 10 án tử hình, 27 án trảm treo; Quảng Nam có 155 người bị bắt và kết án, trong đó có 5 án tử hình. Riêng Huế có 73 người bị bắt. Các thủ lĩnh Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu bị thẩm vấn liên tiếp trong 10 ngày trong lao Hộ Thành. Cuối cùng cả 4 thủ lĩnh bị tòa Nam án đề nghị xử chém trong phiên tòa diễn ra vào ngày 16-5-1916.

Theo các Sử quan nhà Nguyễn, thủ mưu phản nghịch là Trần Cao Vân, Thái Phiên, Nguyễn Quang Siêu, Nguyễn Đề (Tôn thất bị tước bỏ tôn tịch) đều bị giết, đồng đảng là Dương Đức Tuyên, Lê Đình Thưởng, Phạm Thành Chương, Lê Đồng Hàn, Nguyễn Thượng Trung, Dương Đức Nhuận hoặc khổ sai lưu đày, hoặc giam giữ phát phối, đều phân biệt theo tội kết án. Ông Dương Văn Biện, người Dương Xá (Đông Sơn, Thanh Hóa) bị mất tích.

Ông Dương Đức Tuyên vốn là Tứ đẳng Thị vệ trung thành của vua Duy Tân.

Nguồn: Đ10, tr.83-84, H4, tr.62.

        Ngày 16 tháng 10 (20 tháng Chín – Bính Thìn)

971. Dương Lâm soạn văn bia về việc tu tạo chùa xã Vân Đình

Trùng tu Liên Đàm tự bi ký tạo năm Đồng Khánh 1, dựng tại chùa bản xã, có tên là Liên Đàm hoặc Liên Hoa, tổng Phương Đình, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là thị trấn Ứng Hòa – Hà Nội) ghi lại như sau:

“Xưa có người từng nói rằng: Chùa đã thành phế tích thì chẳng cần làm lại, nói vậy thật quá lắm. Con đường mà Tam giáo đã đi, muốn tập hợp về một con đường là Nho giáo. Nay, đường quỹ đạo đã có sự chuyển vận riêng như vậy, đối với người theo Nho thì lấy đạo Nho bàn luận, đối với người theo Phật thì lấy đạo Phật bàn luận. Liên tiếp thịnh suy, đứt nối, lúc đạo Nho hoạn nạn thì lo sao được đạo Phật, nhưng thiết nghĩ sự hướng tới của các tôn giáo đều tôn thờ chữ Thiện làm đầu và mái tâm tích của việc học, không cùng với Nho giáo quay lưng mà dong ruổi. Nay nghe tiếng đàn ca, nhã tụng mà lại không thấy vang trong xóm ngõ, mà nghiệp Thiền ắt sốt sắng với Hán thư, lấy tinh thông Hán tự làm trọng. Vẻ óng ánh của Kim cương sao sánh với lời văn như bờm của con ngựa đang phi. Đạo Phật chưa suy, đạo Nho không mất, tôn tạo đạo Phật tức là đề cao đạo Nho, chùa hỏng có cơ sở làm lại. Chùa Liên Đàm ta lâu năm gỗ đã hỏng nát, gần như thành phế tích, nhà sư Duyên Hà cùng ông Nguyễn Thanh An người xã Duy Đình đã tập hợp những người có thiện tâm trong thôn xây dựng nhà mới vậy. Người góp bạc, người góp giỗ, gạch, đá, vôi, ngói… gộp cả lại con số lớn hơn một trăm có dư, không thể kể hết, lại chọn cử người già có chức sắc trong thôn trông coi công việc, ngoài ra còn có tăng ni trợ giúp. Đến nay cửa chùa lộng lẫy, gắn biển rực rỡ sắc vàng, hết thảy đều đầy đủ đẹp đẽ.

Triều vua Duy Tân, năm Mậu Thân (1908) khởi công xây dựng.

Triều vua Khải Định thứ nhất, năm Bính Thìn (1916) hoàn thành văn bia.

Tôi vốn không đề cao đạo Phật, riêng ở bể dâu đắp đổi, trải xem thế cuộc, các tôn giáo nối tiếp nhau thịnh suy đều có nguyên nhân, văn chương khi còn khi mất, mùa thu làm sóng biển thêm rộng, lòng người xu hướng khác nhau… Bỗng nhiên nghĩ tới đạo Nho thì vui mừng khôn xiết, song nghĩ cũng có hạnh phúc bên phật.

Ấy chính là chỗ dựa cho những lời này của tôi”.

Ngoài văn bia, ông còn có hai bài trâm treo hai bên Thượng điện:

Bài 1: Rừng thông trước cửa phật thâm u/ Bốn mặt hồ trong xa tít mù/ Trường Quỵ, Bảo Vương về thuyết pháp/ Đầm xanh tựa ngọc ấy chân tu.

Bài 2: Bốn viên ngọc bính sáng chân kinh/ Đêm khuya chuông gióng ngộ tâm mình/ Luân hồi thuận sinh muôn sự vật/ Mây ngự trời xanh nước ở bình.

Nguồn: T9, 2006, tr.617-623.

        Trong năm

972. Di chuyển Từ đường họ Dương Quang từ Phong Cốc về Cẩm La

973. Dương Quang từ được khởi dựng từ nửa đầu thế kỷ XVII, tại xóm Thượng, xã Phong Cốc. Năm Duy Tân 9, Từ đường được chuyển về Cẩm La tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên (nay thuộc thị xã Quảng Yên – Quảng Ninh).

Nguồn: B2, 12-7-2011.

        NĂM 1917 (ĐINH SỬU)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Đinh Sửu)

974. Hoàng đế Khải Định ban Dụ truy tặng cho tổ tiên 4 đời hai họ tộc ngoại thích là Nguyễn Hữu và Dương Quang

Dụ rằng:

“Đức hiếu của Đế vương là ở chỗ chu đáo thờ phụng mẹ cha, đặc biệt lại còn nồng hậu nghĩ đến nguồn ngọn mà tôn sùng đến họ tộc bên ngoại thích, việc đó chính là làm sáng tỏ luân thường đạo lí, không được thiếu sót.

Tưởng nhớ đến Cố Thái sư, Cần Chính điện Đại học Sĩ, Vĩnh Lại Quận công Nguyễn Hữu Độ, vị Tể tướng dẫn dắt trung hưng, bậc huân thần công lao vệ quốc, người đã sinh ra Hoàng Thái hậu triều ta, hiền từ gom phúc lành, thánh thiện ngời vẻ sáng, đức to lớn cao cả rạng rỡ trong sử sách. Càng tưởng nhớ đến người họ Dương ở ấp Trung Kiền là Dương Quang Hướng đã quá cố, tuy thuộc dòng tộc bình thường nhưng nhà lành vun bồi âm đức, phúc tới dồi dào. Trăng thác vào quả bầu, ngọc ẩn trong đá trắng, sinh hạ ra Hoàng Thái phi triều ta, trong gia ngọc ngà, phúc lành châu báu. Đều đã trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ, nên phải được suy tôn rạng rỡ cho họ hàng bên ngoại thích. Trẫm nhiều lần tưởng nhớ đức sáng, cùng một lòng tôn kính, thi hành ân lễ vẻ vang đặc biệt.

Đối với Lại Quận công nguyên tước phẩm đã cao, truyền gia tặng làm Vĩnh Quốc công; cụ bà chính thất họ Trần làm Cực phẩm Vĩnh Quốc phu nhân thụy Nhu Thuận. Cụ hiện đã có nhà Từ đường để thờ phụng, truyền cho lập tức tu bổ, đổi thành đền Vĩnh Quốc công, bổ sung thêm đồ thờ. Tham chiếu theo điển lễ để thi hành truy tặng cho các vị tổ tiên bốn đời trở về trước. Cụ Hiển tổ Võ công Đô úy Nguyễn Hữu Huy nguyên tặng Tư trị Đại phu, Lễ bộ Thượng thư, Huy Quang hầu, tặng tước đã cao, nên vẫn giữ như cũ, ban tên thụy là Trang Khang; cụ bà chính thất Nguyễn Ngọc thị cũng giữ nguyên tặng, ban tên thụy là Huy Thuận. Cụ Tằng tổ Kiệt trung Tướng quân, Khâm sai Suất đội Vân kị úy Nguyễn Hữu Luận, nguyên tặng Cấm binh Vệ úy, Luận Đức hầu, thụy Cương Túc, gia tặng Gia nghị Đại phu, Hàn lâm viện Chưởng viện Học sĩ, tước vị và tên thụy vẫn giữ như cũ; cụ bà chính thất Tống thị cũng giữ nguyên tặng, đổi là Lệnh nhân, thụy Gia Huy. Cụ Cao tổ Suất Tả Thắng cơ Tứ thuyền Đội trưởng thuộc dinh Quảng Nam Nguyễn Hữu Nghị, nguyên tặng Minh nghĩa Đô úy Quản cơ, Nghị Bình hầu, gia tặng Trung thuận Đại phu, Hàn lâm viện Thị độc Học sĩ, giữ nguyên tước cũ, thụy là Dũng Nghĩa; cụ bà chính thất Nguyễn Ngọc thị giữ nguyên tặng là Cung nhân, thụy Điểm Nhã. Cụ Tiên tổ Nguyễn Hữu (khuyết húy) gia tặng Trung thuận Đại phu, Hồng lô tự khanh, thụy Cơ Phúc; cụ bà chính thất làm Cung nhân, thụy Phương Ý. Việc xây dựng nhà từ đường của họ tộc này, đợi khi thuận tiện chuẩn cho thi hành. Việc ấm thụ cho người họ hàng thân cận để sung làm Giám thủ thực hiện theo lệ.

Đối với Dương Quang Hướng, truyền tặng cho là Trang vũ Tướng quân, Đô thống phủ Chưởng phủ sự, tước Phú Lộc Quận công; bà chính thất Nguyễn Thị Mi hiện đang còn thọ, chuẩn phong là Nhất phẩm Phu nhân. Chuẩn dựng một nhà Từ đường thờ ông tại phía đông tòa Đông cung của trẫm để được gần cận thuận tiện thờ phụng. Việc tặng tước Quận công tuy chưa có trong lệ xưa nay, nhưng trẫm mới được tiếp nhận cơ đồ to lớn nên cần đặt ra chế độ mới để thích hợp với thời đại, đợi đến năm có dịp khánh tiết sẽ gia tăng thêm ân điển. Việc ban tặng cho tổ tiên bốn đời cũng tham chiếu theo điển lễ mà thi hành. Cụ Hiển tổ Dương Quang Tứ, truyền tặng Nghiêm Vũ tướng quân, Cấm binh Thống chế, tước Tập Tự hầu, thụy Đôn Trực; cụ bà chính thất Tôn Nữ thị là Đoan nhân, thụy Trinh Thận. Cụ Tằng tổ Dương Quang Ý là Phấn dũng Tướng quân, Cấm binh Vệ úy, Diên Trạch bá, thụy Đoan Bình; cụ bà chính thất Trần thị là Lệnh nhân, thụy Gia Uyển. Cụ Cao tổ Dương Quang Tộ là Minh nghĩa Đô úy, Tinh binh Vệ úy, Phát Tường tử, thụy Mãn Đạt; cụ bà chính thất Nguyễn thị là Cung nhân. Cụ Tiên tổ Dương Quang Chính là Tín nghĩa Đô úy chư quân Hiệp quản, thụy Cẩn Hậu; cụ bà chính thất Nguyễn thị là Cung nhân. Nhà từ đường họ tộc này cũng đợi khi thuận tiện chuẩn cho xây dựng. Về việc ấm thụ, Chuẩn cho Dương Quang Lược chiếu theo tặng hàm”.

Trên đây là nguyên văn Dụ của Hoàn đế Thành Thái. Trong bộ Quốc triều chính biên toát yếu cũng do Quốc sử quán nhà Nguyễn biên soạn, sự việc được trình bày ngắn gọn hơn:

“Suy sùng hai họ ngoại Nguyễn Hữu, Dương Quang.

Gia tặng Thái sư Cần Chánh điện đại học sĩ Bảo quốc huân thần Vĩnh Lại quận công Nguyễn Hữu Độ đã quá cố (cha của Khôn nguyên Xương minh Thái hoàng thái hậu hiện nay) là Vĩnh Quốc công, chính thất Trần thị là Cực phẩm Vĩnh quốc phu nhân, sửa sang từ đường, đổi tên là đền Vĩnh Quốc công, trở lên bốn đời đều chuẩn truy tặng, ban cho tên thụy (Hiển tổ nguyên ban tặng Tư Trị đại phu, Thượng thư bộ Lễ Huy Quang hầu Nguyễn Hữu Huy tước vẫn như cũ, ban tên thụy là Trang Khang, chính thất Nguyễn Ngọc thị vẫn tặng như cũ, ban tên thụy là Huy Thuận. Tằng tổ nguyên tặng là Vệ úy Cấm binh Luận Đức hầu thụy Cương túc Nguyễn Hữu Luận gia tặng là Gia Nghị đại phu Hàn lâm viện Chưởng viện học sĩ, chính thất Tống thị vẫn tặng như cũ, đổi là Lệnh nhân, ban tên thụy là Gia Huy. Cao tổ nguyên tặng là Minh Nghĩa Đô úy Quản cơ Nghị Bình hầu Nguyễn Hữu Nghị gia tặng là Trung Thuận đại phu Hàn lâm viện Thị độc học sĩ, ban tên thụy là Nghĩa Dũng, chính thất Tống thị vẫn tặng Cung nhân như cũ, ban tên thụy là Điềm Nhã. Tiên tổ Nguyễn Hữu (không rõ tên húy) gia tặng là Trung Thuận đại phu Hồng lô tự khanh, ban tên thụy là Cơ Phúc, chính thất là Cung nhân, ban tên thụy là Phương Ý).

Tặng Dương Quang Hướng (cha của Khôn nghi Xương đức Thái hoàng thái hậu hiện nay) là Tráng Vũ tướng quân Đô thống phủ Đô thống Chưởng phủ sự Phú Lộc quận công, dựng đền thờ ở phía đông chỗ ở cũ của vua (tức cung An Định ở phía bắc xã Dương Xuân), phong chính thất Nguyễn Thị Mỹ là Nhất phẩm phu nhân, trở lên bốn đời đều chuẩn truy tặng, ban cho tên thụy (Hiển tổ Dương Quang Tứ tặng Nghiêm Vũ tướng quân, Thống chế Cấm binh Tập Dực hầu thụy Đôn Trực, chính thất Tôn Nữ thị là Đoan nhân, ban tên thụy là Trinh Thuận. Tằng tổ Dương Quang Ý tặng Phấn Dũng tướng quân, Vệ úy Cấm binh Diên Trạch bá, ban thụy Đoan Bình, chính thất Trần thị là Lệnh nhân, ban tên thụy là Gia Uyển. Cao tổ Dương Quang Tộ tặng Minh Nghĩa Đô úy, Vệ úy Tinh binh Phát Tường tử, ban thụy Mẫn Đạt, chính thất Nguyễn thị là Cung nhân, Tiên tổ Dương Quang Chính tặng Tín nghĩa Đô úy Hiệp quản các quân, ban tên thụy là Cẩn Hậu, chính thất Nguyễn thị là Cung nhân).

Nguồn: Đ22, tr.299-302; Đ10, tr.123-24.

        Đêm 30 tháng 8 (13 tháng Bẩy – Đinh Sửu)

975. Dương Thế Giá – tức Đội Giá cùng Dương Đình Xuyên trong cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên

Dương Thế Giá quê ở xóm Dinh, làng Giữa, xã Úc Sơn, tổng La Đình, phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (nay thuộc xã Hương Sơn, Phú Bình, Thái Nguyên) – Đội Nhất mang số lính 697; Dương Đình Xuyên, chưa rõ tiểu sử, Cai khố xanh, mang số lính 789 đều thuộc lực lượng lính khố xanh đóng ở Thái Nguyên – là những người nằm trong ban lãnh đạo cuộc nổi dậy ở đây như báo cáo của Morel Revoil – Phó Văn phòng phủ Toàn quyền Đông Dương: “Cuộc nổi loạn nổ ra đêm 30 rạng ngày 31-8-1917 ở Thái Nguyên là sự nghiệp của ba viên Đội khố xanh người An Nam là Trịnh Văn Cấn, số lính 71; Dương Văn [Thế] Giá số lính 697; Phạm Văn Trường số lính 789. Chúng đã cố kết với hai tên lính tập trong doanh trại là Nông Văn Chân số lính 1935 và tên Ba số lính 1306 cùng tên đầu sỏ một băng mang tên Đề Thám trong nhà giam tên là Ba Chi, Lương Ngọc Quyến tức Ba Quyến, Nguyễn Gia Cần và Ba Nho”.

Cuối tháng hai năm 1918, các ông bị bắt và đày đi nhiều nơi.

Nguồn: B2, 17 tháng 8, 2016.

        Trong năm

976. Tạo bia dựng tại Từ đường họ Dương Vân Cốc

Dương tộc bi ký tạo năm Khải Định 2, ghi rằng họ Dương Vân Cốc, tổng Hoàng Mai (nay thuộc xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang, là dòng họ lớn vốn từ Hải Đông, nơi nhiều người xuất thân văn khoa chuyển tới. Riêng chi Bắc Giang sinh ra tướng võ, có người làm nên, đến nay đã chia ra 3 chi… Nay 3 chi họp lại xây cất Từ đường để hàng năm, vào 10 tháng Giêng họp mặt tại Từ đường mua lễ vật kính lễ tiên tổ.

Nguồn: Đ12, tr.686.

        NĂM 1918 (MẬU NGỌ)

        Ngày 18 tháng 7 (11 tháng Sáu – Mậu Ngọ)

977. Dương Công Bình được ghi danh tại Văn chỉ La Nội

Bia không ghi tiêu đề, hiện cạnh khu đất gần trường Trung học cơ sở của xã.

Nguồn: T9, 1996, tr.85-94.

        Tháng 9 và 10 (tháng Tám và Chín – Mậu Ngọ)

978. Các bà họ Dương được tôn Hậu phật xã Lương Đài

Tự Hậu bi tạo tháng Tám năm Khải Định 3 và Hậu phật bi ký tạo tháng Chín năm Khải Định 3 ghi về các bà họ Dương hiệu Diệu Dự, hiệu Diệu Phụng, hiệu Diệu Khương, hiệu Diệu Thức ở bản xã thuộc tổng Mộ Chu, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên – mỗi bà cúng cho xã 30 đồng, 3 sào ruộng nên được tôn làm Hậu phật.

Nguồn: T12, tập 14, N013813-16.

        NĂM 1919 (KỶ MÙI)

        Tháng 4 – 1919

979. Dương Quảng Hàm viết bài cho Nam Phong Tạp chí

Bàn về tiếng An Nam của ông trình bày về Cách dịch những tiếng mới (Cách dịch tên riêng; Cách dịch tiếng về khoa học, triết học và kỹ nghệ; Tiếng về văn chương; Sự học tiếng An Nam).

Cuối bài viết, ông phải thốt lên: “Lạ thay cho nước mình! Có tiếng nói mà không hề ai học tiếng, không đâu dạy cách dùng tiếng, không sách nào nói đến nghĩa tiếng cùng mẹo đặt câu”.

Nguồn: M7, tr.44.

        Ngày 29 tháng 5 (1 tháng Năm – Kỷ Mùi)

980. Dương Thiệu Tường thi đậu Đệ tam Tiến sĩ

Tháng Ba năm Kỷ Mùi (4-1919) triều đình quyết định cho mở khoa thi Hội cuối cùng, ân tứ cho những sĩ nhân giỏi đều được vào thi (trước định Cử nhân, Cống sinh và Ấm sinh, Học sinh, Tú tài hạng nhất mới được vào thi. Năm ấy là khoa thi cuối cùng rồi bãi luôn, vì thế Tú tài sĩ nhân do tỉnh hay do bộ xin thi hoặc có người ngăn xa giá tâu bày đều chuẩn cho vào thi để mở rộng đường cho kẻ sĩ). Sai Thự Tổng đốc Bình Phú Võ Liêm làm Chủ khảo, lãnh Thị lang bộ Hình Nguyễn Văn Trình làm Phó Chủ khảo, Phủ thừa phủ Thừa Thiên Khiếu Tam Lữ làm Tri Cống cử. Tháng 4 năm Kỷ Mùi (5-1919) tiếp tục cho thi Điện, sai Tổng đốc An Tĩnh Trần Tiễn Hối, Tham trí bộ Binh Nguyễn Duy Tích sung Độc quyển, Thị lang bộ Lại Nguyễn Đình Hiến, Lãnh Án sát Quảng Trị Nguyễn Thúc Dinh sung Duyệt quyển.

Dương Thiệu Tường, Cử nhân khoa Ất Mão (1915) – là người họ Dương cuối cùng giành học vị Tiến sĩ Nho học.

Nguồn: Đ10, tr.228-229, 234-235.

        Trong năm

981. Dương Bá Trạc viết nhiều bài báo cho tờ Nam Phong Tạp chí

Nguyệt san này ra số đầu vào ngày 1-7-1917 và số cuối vào tháng 12-1934, do Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm và Chủ bút. Ngay từ số đầu tiên, Dương Bá Trạc đã có bài viết về Toàn quyền Đông Dương A. Sarraut đến Hà Nội. Trong năm 1918, đáng chú ý nhất là loạt bài về Việt sử khảo. Đặc biệt trong năm 1919, ông lại cung cấp cho bạn đọc nhiều chuyên luận trong mục Lịch sử luận (Chuyện đời thượng cổ, Chuyện ông Thánh Gióng, Chuyện nàng Mỵ Châu, Thời đại nội thuộc…), Kính cáo thanh niên, Khảo cứu về sự thi ta, Bàn về vấn đề học chữ Hán.

Nguồn: M7, tr.42-43.

982. Dương Mạnh Huy, Dương Tự Nguyên, Dương Thiệu Tường cộng tác viết bài cho Nam Phong Tạp chí

Dương Mạnh Huy có bài Bài ký núi Cổ Tích,

Dương Tự Nguyên có bài Cái mục đích học tiếng Pháp để làm gì (Học chính tổng quy nói: Phải học tiếng Pháp cần cho học vấn; Mười người đáp lại câu: học tiếng Pháp để làm gì? Mục đích chính: cửa mở vào thế giới mới như người Tàu, người Nhật học tiếng Anh).

Dương Thiệu Tường công bố bài luận kỳ thi Hội: Việc chính trị bây giờ càng khó, Trung Kỳ – Bắc Kỳ tình thế khác nhau nên sửa sang những điều gì trước và các bài về Nước ta văn hiến trải mấy ngàn năm, bây giờ nghĩ phỏng Thái Tây đặt Viện Hàn lâm dịch các sách vở; Nước ta việc hình luật đời nào cũng trọng, quan hệ nhơn tâm phong tục thế nào?

Nguồn: M7, tr.44-45.

        NĂM 1920 (CANH THÂN)

        Tháng 6 (tháng Năm – Canh Thân)

983. Triều đình thưởng thọ hưu quan Dương Thúc Hạp thọ 80 tuổi

Những năm trước thưởng thọ bằng bạc và 1 tấm the Nam nhưng vì kho không đủ nên thay bằng việc thưởng 14 đồng 5 hào.

Nguồn: Đ10, tr.294.

984. Ban biểu ngạch cho bà Dương Thị Hương ở Gò Công

Do công lao đã xuất tiền riêng chẩn cấp cho dân đói trong vùng.

Nguồn: Đ10, tr.295.

        Ngày 3 tháng 7 (18 tháng Năm – Canh Dần)

985. Tôn Lão nhiêu Dương Công Đại làm Hậu hiền

Tư văn Hậu bi tạo năm Khải Định 5, dựng tại đình thôn Đống Cao xã Vân Đài, Yên Lạc – Vĩnh Yên (nay thuộc Vĩnh Phúc) ghi: toàn thể hội Tư văn và các bậc kì lão đã trùng tu đền văn võ nên chi phí tốn kém, Lão nhiêu Dương Công Ðại tự Phúc Trị là người tuổi cao đức trọng, hay làm điều thiện được con trai là Dương Văn Giảng cúng nạp khao lệ số tiền là 20 nguyên và 5 sào ruộng làm ruộng tế lễ cho thôn. Các vị Hương lão, dân làng tôn vì vậy đã bầu ông Dương Công Đại làm Hậu hiền và ghi lại lệ giỗ Hậu, họ và tên những người làm chứng.

Nguồn: T12, tập 15, N014671-72.

        Ngày 15 tháng 11 (6 tháng Mười – Canh Thân)

986. Dương Lâm được Hoàng đế Khải Định ban Chế và Dụ sách phong

Ông qua đời ngày 6 tháng Chín – Canh Thân (17-10-1920). Theo đề nghị của Viện Cơ mật, đúng 1 tháng sau, vào ngày 6 tháng Mười – Canh Thân, vua Khải Định ban Chế Hoàng đế tích phong sách:

Vâng mệnh trời, hưng vận nước, Hoàng đế ban chế rằng.

Trẫm nghĩ: Kẻ bề tôi vẹn tiết khiêm cung, thì dài lâu chức vị; vương triều thịnh trị long trọng ban ân điển cho bề tôi, để mãi truyền trong sách son khoán sắt. Gió đưa cáo mệnh thơm tho, mưa nhuần tưới chốn non tùng. Mến thay Thái tử Thiếu bảo, Hiệp tá Đại học sĩ, nguyên chức Bình Phú Tổng đốc hưu trí Dương Lâm, là bậc danh lưu nơi Hà Bắc, là bậc đức cao vọng trọng chốn Giang Đông, khoa đanh đứng đầu nơi thôn xóm, làm quan trải nhiều chức vụ quan trọng. Trấn giữ bờ cõi, nhiều phen được dân mến mộ, tỏ rõ được công tích khi giữ chức Tuần Tuyên; nơi Soái phủ hai phen đảm nhiệm, tham gia bày mưu kế quốc gia. Trải nhiều năm làm việc ở Hàn lâm, nhiều lần từng tham gia viết sử; đến nay lại vẹn tiết giữ thành, thênh thang đường phúc. Tài năng điều hành, quản lý, công lao nhiều lần được ban khen; chỉnh lý, biên soạn sử sách, công tích được vẻ vang ghi nhận. Nay đã về hưu, ngâm nga ca vịnh. Thích thú chốn núi rừng, đem lòng trung hiếu để dạy con dạy cháu; du ngoạn đó đây, nhưng không quên lo lắng cho đất nước. Những khi vui thú cùng cây tùng cây cúc, cảnh khói tỏa chốn Vân Hồ có ai sánh cùng; há biết thần trao cho sao Vĩ, sao Cơ, làn gió mát nơi Tuyết Động mịt mùng. Trẫm nhớ tới điều đó, thấy cần phải vỗ về. Nhớ tới bề tôi cũ, phải ban cho ơn huệ dồi dào. Nay đặc biệt truy phong cho tước Khánh Vân nam, ban cho cáo mệnh. Những mong ngươi rạng vâng chiếu phượng, kính nhận danh hiệu lớn lao. Vẻ vang rạng trên hoa văn áo cổn, thêm rạng sắc thôn xóm quê nhà; tên tuổi để lại cho con cháu, mãi còn lời thề khắc tạc với non sông. Kính thay!

Ngày mồng 06 tháng 10 năm Khải Định thứ 5”.

Đồng thời, nhà vua cũng ban Dụ:

“Thái tử Thiếu bảo, Hiệp tá Đại học sĩ, nguyên Bình Phú Tổng đốc hưu trí Dương Lâm là một nhà Nho xuất thân, hồi trước bổ nhậm ở Trung Kỳ, rồi sau trở ra ngoài Bắc, mới trở nên xa cách. Sống liêm khiết thanh bần nhưng luôn mang tấm lòng nồng hậu đối với vua với nước, trẫm đã nhiều lần khen ngợi tư cách của ông. Nay ông vừa ngã bệnh đã từ bỏ ra đi mãi mãi, thực là đau xót thương tiếc biết bao. Truyền chuẩn truy phong cho tước hiệu là Khánh Vân nam để an ủi hương hồn”.

Nguồn: Đ10, tr.303; Đ22, tr.326; T9, 2015, tr.743-747.

        NĂM 1921 (TÂN DẬU)

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Tân Dậu)

987. Triều đình thưởng thọ cho một số hưu quan họ Dương

Đó là Đô thống trí sự Dương Văn Biểu ở phủ Thừa Thiên tròn 80 tuổi; Chánh đội Dương Đình Thúy, người Kim Lũ – Quảng Nam tròn 100 tuổi.

Nguồn: Đ10, tr.334, 432.

        NĂM 1924 (QUÝ HỢI- GIÁP TÝ)

        Tháng 1 (tháng Giêng – Quý Hợi)

988. Gia tặng nguyên Phú Lộc quận công Dương Quang Hướng

Ngoài việc Dương Quang Hướng được gia tặng Phú Quốc công thì Nhất phẩm phu nhân Nguyễn Thị Mỹ còn được gia tặng Cực phẩm Phú Quốc phu nhân.

Nguồn: Đ10, tr.445.

        Trong năm

989. Dương Bá Trạc xuất bản một số tác phẩm văn học

Đó là Trai lành gái tốt, tiểu thuyết văn vần theo thể truyện Kim Vân Kiều do Nghiêm Hàn ấn quán ở Hà Nội in; Chuyện giải trí do Nhà in Thụy Ký ấn hành tại Hà Nội.

Ngoài ra, ông còn có Tiếng gọi đàn do Nghiêm Hàn ấn quán xuất bản năm 1925; Nét mực tinh do Nhà in Đông Tây xuất bản năm 1937 tại Hà Nội.

Nguồn: T26, tr.1130; D4, tr.67-70.

        NĂM 1925 (ẤT SỬU)

        Trong năm

990. Dương Tự Quán xuất bản Vì đâu nên nỗi tại Hà Nội

Tác phẩm do Kim Khuê ấn hành. Năm 1926, ông lại được Long Quang xuất bản Cùng bạn thoa quần và năm 1929, nhà in Đông Tây xuất bản Giời có mắt của ông.

Nguồn: T26, tr.1123.

991. Dương Văn Giáo cộng tác với báo giới Sài Gòn

Ông quê ở Vĩnh Long nhưng chủ yếu cư ngụ tại Sài Gòn, đậu Cử nhân Luật tại Pháp và mang quốc tịch Pháp, từng tham gia các hoạt động yêu nước với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Khi về Sài Gòn mở Văn phòng Luật sư, ông cộng tác với các báo La Lutte, La Choche fêllée, Đông Pháp, Thần Chung, Mai, Dân Chúng.

Các anh ông là Dương Văn Tây, Dương Văn Mai là những nhân vật nổi tiếng của Sài Gòn.

Nguồn: T27, tr.142-143.

        NĂM 1926 (BÍNH DẦN)

        Tháng 7 (tháng Sáu – Bính Dần)

992. Dương Hạc Đính và nhiều thanh niên yêu nước tham dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức ở Quảng Châu (Trung Quốc)

Đầu năm 1925, trên cơ sở những hội viên trung kiên của Tâm tâm xã, Nguyễn Ái Quốc thành lập một Nhóm bí mật trong đó có 5 đảng viên cộng sản dự bị và 2 đoàn viên thanh niên cộng sản dự bị.

Tháng 6-1925, tại Quảng Châu, từ nòng cốt Nhóm bí mật này, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (VNCMTN), thông qua Chính cương, Điều lệ và Chương trình hành động của Hội. Tôn chỉ và mục đích của Việt Nam cách mạng thanh niên là “Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản”.

Về tên gọi, lúc đầu Hội có hai tên. Bên trong gọi là Hội Việt Nam Cách mạng Đồng chí, bên ngoài gọi là Hội VNCMTN. Sau này khi phát triển thì chỉ gọi một tên là Hội VNCMTN. Về điều kiện gia nhập, Điều lệ ghi rõ: “Người Việt Nam nào từ 17 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, tán thành mục đích, chương trình và kỷ luật của Hội và được hai hội viên giới thiệu, thì được gia nhập Hội sau khi được chi bộ đồng ý”. Hội tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hệ thống tổ chức của Hội gồm có 5 cấp: Trung ương bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ hay Thành bộ, Huyện bộ và Chi bộ. Chi bộ là đơn vị tổ chức cơ sở. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội. Tổng bộ đầu tiên gồm các đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Lâm Đức Thụ, Lê Hồng Sơn v.v., trụ sở bộ đặt tại Quảng Châu. Hội Trung ương chấp uỷ xuất bản Báo Thanh niên và tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng về chính trị, tổ chức.

Được sự giúp đỡ của Tỉnh uỷ Quảng Đông và Chính phủ cách mạng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã đặt trụ sở huấn luyện tại số nhà 13 đường Văn Minh – đối diện với Trường Đại học Trung Sơn.

Sau khi dự lớp huấn luyện đầu tiên, Lê Duy Điếm được cử về Trung Kỳ, chủ yếu tuyên truyền trong hội cũ Hưng Nam. Lê Hữu Lập được phái về Trung Kỳ.

Trung tuần tháng 7-1926, Lê Duy Điếm dẫn đường một nhóm thanh niên yêu nước quê vùng Thanh – Nghệ gồm Tôn Quang Phiệt, Trần Phú, Phan Trọng Quảng, Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Ba, Hoàng Văn Tùng, Lê Mạnh Trinh, đến Hải Phòng thì gặp Lê Hữu Lập đưa hai người là Nguyễn Văn Đắc, Nguyễn Văn Khang ở Thanh Hoá đến nhập thành một đoàn. Khi tới Mũi Ngọc ở Móng Cái, Tôn Quang Phiệt và Hoàng Văn Tùng bị lạc, phải ở lại trong nước.

Cùng lúc đó, bằng nhiều con đường khác nhau, nhiều thanh niên yêu nước như Nguyễn Công Thu, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Sơn, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Danh Tế, Trần Văn Cung, Nguyễn Đình Từ, Phan Đăng Đệ, Võ Mai, Dương Hạc Đính, Nguyễn Trọng Ngọc, Nguyễn Hữu Căn, Lạc Long. Ngô Việt. Thanh Tân, Điền Hải, Lê Duy Nghệ, Vũ Trọng, Nguyễn Tường Loan – cũng đến Quảng Châu.

Ngoài ra, một số thanh niên yêu nước cũng đến dự lớp huấn luyện theo con đường từ Xiêm sang như Lý Thế Hanh, Nguyễn Sinh Thản, Đặng Thái Thuyến.

Các thanh niên yêu nước trên lần lượt tham dự khoá huấn luyện thứ hai và thứ ba với một chương trình như sau:

– Các loại cách mạng (Mỹ, Pháp và Tháng Mười Nga).

– Các chính thể (lập hiến, đại nghị, uỷ viên chế).

– Các chủ nghĩa (tam dân, vô chính phủ, cộng sản).

– Các quốc tế (đệ nhất, đệ nhị, đệ tam).

– Các tổ chức quốc tế (phụ nữ, thanh niên, công nhân, cứu tế đỏ).

– Các tổ chức công hội, nông hội.

Giảng viên chính là Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Sơn và bà Liêu Trọng Khải (Trung Quốc), vợ chồng lãnh sự Boraudine. Nội dung các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp thành cuốn Đường Kách mệnh.

Khi khoá ba kết thúc. Jaque Daurior, phái viên kiểm tra của Quốc tế Cộng sản đi khảo sát phong trào ở châu Á, ghé qua Quảng Châu đã đến thăm trường.

Nguồn: L6, tập I, tr.134-135, 170-171.

        Trong năm

993. Dương Minh Đạt ấn hành cuốn tiểu thuyết đầu tiên Tính kế màu nhiệm

Nhà văn, tự là Lầu, sinh quán tại tỉnh Bến Tre. Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết rằng vào những thập niên 1930-1940, ông viết văn và làm báo tại Sài Gòn, ông thường cộng tác với các tờ: Nông cổ mín đàm (trong chén trà bàn chuyện nông thương), Lục tỉnh tân văn, Công luận… và với một số nhà xuất bản như: Xưa nay, Bảo tổn, Đức Lưu Phương

Ngoài Tính kế mầu nhiệm (Nxb Xưa nay, 1926) ông còn có Anh hùng ba mặt (Nxb Xưa nay, 1927), Bình vỡ gương tan (Nxb Xưa nay, 1927), Hồng hoàng Gia Cát (Nxb Xưa nay, 1927), Anh hùng hội Đào Nguyên (Nxb Bảo tồn, 1928), Trường tình bí mật (Nxb Đức Lưu Phương, 1929), Khối tình mầu nhiệm (Nxb Đức Lưu Phương, 1930).

Các sáng tác của Dương Minh Đạt thường xuất hiện từ những vấn đề xã hội, phơi bày thực trạng xã hội Nam Kỳ trong những năm 1925-1935. Các sách của ông đến nay ít người biết đến. Trong đó, số các tác phẩm được độc giả quan tâm phải kể đến cuốn Anh hùng ba mặt hay còn gọi Bí mật phi thường. Cuốn sách kể về cuộc đời của nhà yêu nước cách mạng Nguyễn An Ninh từ khi ông cất tiếng khóc chào đời tại vùng Hóc Môn, Gia Định cho đến ngày ông sang du học ở Pháp, đỗ đạt, thành tài và trở về Sài Gòn. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết Anh hùng ba mặt là Nguyễn An Ninh được tác giả hư cấu là Nguyễn An Minh, thân phụ của An Ninh là Nguyễn An Khương được tác giả gọi là Nguyễn An Trường. Các nhân vật khác có liên quan như: Lý Quang Tiền, Phan Tường Tri, Nguyễn Ái Chủng… đều là những nhân vật có thực trong lịch sử xã hội Nam Kỳ thời bấy giờ được tác giả hư cấu.

Cuốn tiểu thuyết là tiếng nói tố cáo thực trạng thối nát của xã hội Việt Nam.

Để sáng tác cuốn tiểu thuyết Anh hùng ba mặt, Dương Minh Đạt đã vận dụng tính ẩn dụ rất sáng tạo tài tình nhằm vạch trần thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam. Đồng thời, qua tác phẩm của mình, ông đề cao lớp trí thức Tây học, có tinh thần cách mạng, không quên nghĩa đồng bào, dân tộc đang rên xiết dưới 2 tầng áp bức bóc lột phong kiến và thực dân.

Nguồn: C5, tr.252, 253.

        NĂM 1927 (ĐINH MÃO)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Đinh Mão)

995. Dương Hạc Đính tham gia thành lập Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ

Trên cơ sở tổ chức VNCMTN phát triển mạnh và phong trào yêu nước đang điễn ra rất sôi nổi, để có sự chỉ đạo tập trung thống nhất trong việc tuyên truyền phát triển tổ chức ở các địa phương, tháng 2-1927, Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ được thành lập gồm Nguyễn Danh Đới, Bí thư: Nguyễn Công Thu, Mai Lập Đôn, Dương Hạc Đính, Mai Ngọc Thiệu.

Cơ quan chỉ đạo của Kỳ bộ được đặt ngay tại Hà Nội. Kỳ bộ chủ trương đẩy mạnh việc tuyên truyền, phát triển tổ chức ở các địa phương, đặc biệt là xây dựng tỉnh bộ Hà Nội và lãnh đạo phong trào cách mạng ở Hà Nội.

Nguồn: L6, tập I, tr.188.

        Ngày 25 tháng 3 (22 tháng Hai – Đinh Mão)

996. Dương Quang Đông làm Bí thư Ban liên lạc của Kỳ bộ VNCMTN Nam Kỳ

Trên cơ sở phát triển của các cơ sở VNCMTN tại Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, nhất là số cán bộ được đào tạo tại Quảng Châu trở về Sài Gòn ngày một đông, ngày 25-3-1927, tại nhà số 5, đường Barbier, Kỳ bộ VNCMTN Nam Kỳ được thành lập do Phan Trọng Bình làm Bí thư, Nguyễn Văn Lợi làm Phó Bí thư; các Ủy viên: Ngô Thiêm, Tôn Đức Thắng và nữ đông chí Nguyệt. Trụ sở liên lạc đặt tại Tín Đức thư xã số nhà 37 đường Sabourain, hàng cơm số 119, đường La grandière. Sau khi Kỳ bộ ra đời, lần lượt các cơ sở Công hội, Nông hội chuyển thành Chi bộ Việt Nam cách mạng thanh niên, chịu sự chỉ đạo thống nhất của Kỳ bộ. Ban liên lạc của Kỳ bộ được củng cố thành một chỉ bộ do Dương Quang Đông làm Bí thư.

Nguồn: L6, tập I, tr.186.

        Tháng 9 (tháng Tám – Đinh Mão)

997. Các ông họ Dương ở Hà Nội đóng góp xây dựng đình vũ, lập bia

Đan Loan Hoa lộc thị bi ký tạo năm Bảo Đại 2, dựng tại đình Hoa Lộc phố Hàng Đào (Hoàn Kiếm – Hà Nội) ghi rằng, xã Đan Loan ở Hải Dương từ ông thủy tổ lập ấp, đên nay có 7 dòng họ là Vũ, Phạm, Lê, Dương, Bùi, Đoàn, Đào có rất nhiều người đỗ đạt. Làng ta từ trước đến nay đi các tỉnh làm ăn buôn bán nhưng ở Hà Nội là nhiều nhất, cũng lấy nghề buôn bán làm kế sinh nhai, lại còn nổi danh với nghề nhuộm. Đến năm Vĩnh Thịnh triều Lê (1705 – 1719), người làng ở Hà Nội đã bỏ tiền ra mua 1 khu đất ở phố Hàng Đào để xây đình vũ để thờ vọng phúc thần của bản xã, thờ tiên thánh sư của nghề nhuộm. Nay lại mua được 1 gian nhà ngói và 74 thước tây tư thổ ở địa phận thôn An Viên Hà Nội để dựng đền lập bia, ghi họ và tên những người thọ đến 50 – 60 tuổi đã nộp lệ làng – trong đó có hai ông Dương Đức Liên, Dương Văn Định.

Nguồn: T12, tập 16, N015746

        Ngày 26 tháng 6 (27 tháng Năm – Đinh Mão)

998. Hai ông họ Dương đóng góp xây dựng Văn miếu tỉnh Vĩnh Yên

Vĩnh Yên tỉnh Văn miếu bi do Đệ tam Tiến sĩ Nguyễn Văn Bân soạn, tạo năm Bảo Đại 2 dựng tại thôn Yên Lập, xã Định Trung (nay thuộc thành phố Phúc Yên, ghi rằng: Vĩnh Yên được thành lập từ niên hiệu Thành Thái thứ 11 (1890), các cơ quan đã được phân hoạch, riêng Văn miếu thì chưa có địa điểm. Năm Quý Hợi (1923), tôi phụng mệnh làm Tuần phủ ở đất này bàn bạc với các vị đồng liêu muốn di dời Văn miếu cũ từ Vĩnh Tường về gò Giác Lạc ở phía bắc xã Định Trung thuộc phạm vi tỉnh thành. Sau đó do bận nhiều công việc nên chưa thực thi được. Mùa đông năm Ất Sửu niên hiệu Khải Định (1925), Trung thừa Phạm Công Thúy thay tôi đảm trách công việc di chuyển Văn miếu về đây, sửa sang nội tẩm, ngoại cung, tế đường, bên phải là nơi thờ Khải thánh bên trái là nhà Hội đồng, phía trước là đại môn xây bằng gạch, có tường bao quanh, v.v… Ghi họ và tên các vị thiện tín cúng tiến tiền của để xây dựng văn miếu tỉnh Vĩnh Yên – trong đó có Nghị viên Dân biểu Bắc Kỳ Dương Quang Cư và Hội viên Hội Tư văn xã Tích Sơn Dương Văn Ngạn.

Nguồn: T12, tập 15, N014636-37.

        Tháng 9 (tháng Tám – Đinh Mão)

999. Dương Hạc Đính thành lập Chi hội VNCMTN Phật Tích (Tiên Du – Bắc Ninh)

Dương Hạc Đính được Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ phân công phát triển cơ sở cách mạng vùng Tiên Du – Gia Lâm (Bắc Ninh). Tháng 9-1927 ông lập ra Chi hội Phật Tích theo tiến trình sau:

Ở Trùng Quang (Tiên Du) có Lê Hữu Đông đang dạy học tại đây kết bạn với Nguyễn Duy Bình cũng là Hương sư đang dậy học ở trường Hoài Bão (Tiên Du) đã ở trong tổ chức VNCMTN. Nguyễn Duy Bình giới thiệu Lê Hữu Đông gặp Dương Hạc Đính. Dương Hạc Đính tuyên truyền và kết nạp Lê Hữu Đông vào VNCMTN còn Nguyễn Duy Bình kết nạp thêm hai người địa phương (Nguyễn Duy Đạt, Dương Văn Ước) và thành lập ra chi hội ở Bựu Trung – Bựu Thượng (Tiên Du) do Nguyễn Duy Bình làm bí thư. Chi hội này lúc đầu vẫn giữ mối liên hệ với Dương Hạc Đính, sau đó là Đỗ Ngọc Du (tức Phiếm Chu). Đến giữa năm 1928, Tỉnh hội Bắc Ninh – Bắc Giang mới bắt liên lạc với chi hội này và giao nhiệm vụ.

Nguồn: L8, tr.209.

        Cuối năm

1.000. Dương Chí Tình tham gia xây dựng lại Nam đình

Ông là Bát phẩm Đội trưởng, tham gia xây dựng lại Nam đình tại xã Thạch Lạc (Thạch Hà – Hà Tĩnh) từ mùa đông Đinh Mão đến đầu hạ Mậu Thìn (1928) cùng với sự giám sát của Chánh tổng hồi hưu Ngô Văn Hách.

Nguồn: T1, số 1-2008, tr.40-47.

        NĂM 1928 (MẬU THÌN)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Mậu Thìn)

1001. Đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng Dương Văn Diên bị bắt, đày ra Côn Đảo

Rạng ngày 25-12-1927, Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập tại Hà Nội với thành phần chủ yếu là những người yêu nước thuộc tầng lớp tiểu tư sản, trí thức thành thị, binh lính người Việt; địa bàn hoạt động chủ yếu là Bắc Kỳ.

Dương Văn Diên quê ở Trịnh Xá, tổng Yên Thường, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn – Bắc Ninh) tham gia tổ chức này từ đầu năm 1928, hoạt động tích cực trong Ban lãnh đạo Tỉnh bộ Bắc Ninh. Sau vụ gây thanh thế bằng vụ ám sát Bazin – Chủ mộ phu đi đồn điền cao su Nam Kỳ, Cao Miên diễn ra vào chiều 9-2-1929 (30 tháng Chạp – Đinh Mão), ông bị bắt trong một đợt khủng bố ác liệt của kẻ thù, đày ra Côn Đảo và mất tích tại địa ngục trần gian này.

Nguồn: H4, tr.25.

        Đầu năm

1.002. Dương Hảo Học được kết nạp tại Chi hội VNCMTN Ấp Ba (Trà Vinh)

Nhân dân Trà Vinh giàu truyền thống yêu nước, đã từng có mặt trong đội quân chống Pháp của Phan Tôn – Phan Liêm (1867), Lê Tấn Kế – Trần Bình (1875) và các phong trào Đông Du, Duy Tân sau này. Nhiều học sinh quê ở Trà Vinh theo học ở Sài Gòn, Mỹ Tho và Cần Thơ sớm được tiếp xúc với sách báo yêu nước và cách mạng.

Mùa đông năm 1927, Vũ Đình Thọ được Kỳ bộ Việt Nam cách mạng thanh niên Nam Kỳ cử đến huyện Càng Long tuyên truyền và vận động cách mạng. Đến đầu năm 1928, ông chọn được Lê Quang Lộc. Đoàn Văn Quý, Mai Đăng Khoá, Dương Háo Học, Nguyễn Phát Đạt… kết nạp vào tổ chức và thành lập chi hội tại ấp Ba, làng An Trường do Nguyễn Phát Đạt làm Bí thư.

Trong năm 1929, trên địa bàn Trà Vinh còn xuất hiện thêm nhiều chi bộ VNCMTN.

Nguồn: L6, tr.216-217.

        Tháng 5 (tháng Tư – Mậu Thìn)

1.003. Dương Văn Phái được kết nạp tại Chi hội VNCMTN Phủ Lạng Thương

Kết thúc năm 1927, tổ chức VNCMTN mới chỉ phát triển được trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh với khoảng 40 hội viên sinh hoạt trong 6 chi hội. Khu vực Bắc Giang hầu như bị bỏ trống trừ 4 hội viên ở Thổ Hà, Vạn Vân và Chu Xá (Việt Yên) sinh hoạt trong các chi hội Vạn-Yên-Hà và Thị Cầu – Đáp Cầu.

Một trong những nhiệm vụ cấp bách và cần kíp của Tỉnh hội Bắc Ninh lúc này là phải xây dựng cho bằng được cơ sở ở Phủ Lạng Thương – trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh Bắc Giang và các vùng phụ cận. Thực hiện nghị quyết trên, đầu năm 1928, Nguyễn Hữu Căn và Nguyễn Trọng Ngọc đã bắt mối vào Thọ Xương, kết nạp ba anh em Trịnh Hữu Chiêm, Trịnh Thị Uyển, Trịnh Thị Nhu vào VNCMTN. Đến tháng 5-1928, Nguyễn Hữu Căn và Nguyễn Trọng Ngọc kết nạp thêm được Dương Văn Phái, Khổng Văn Quỳ. Nguyễn Văn Mẫn, thành lập ra chi hội Phủ Lạng Thương do Trịnh Hữu Chiêm làm bí thư. Gia đình Trịnh Hữu Chiêm được chọn làm cơ sở để chi hội thường xuyên nhóm họp, mở các lớp huấn luyện. Gia đình Nguyễn Văn Mân trở thành nơi đi lại, ăn ở của Ngô Gia Tự.

Nguồn: L8, tr.209.

1.004. Dương Quang Chiểu cùng nhóm cảm tình cách mạng trong lính khố đỏ phá nhà mộ phu tại thị xã Bắc Ninh

Hưởng ứng chủ trương của Kỳ bộ Bắc Kỳ, tỉnh hội Bắc Ninh – Bắc Giang đã lãnh đạo nhóm cảm tình cách mạng hòng phá nhà mộ phu để giải thoát những người bị lừa gạt đi làm phu ở đồn điền Cao su Nam Kỳ và Tân Đảo. Theo kế hoạch, nhóm đã vận động được mấy chục binh lính có cảm tình ra gác các ngả đường hoặc đột nhập vào nhà mộ phu, đánh đuổi Cai mộ, mở cửa giải thoát những người bị giam giữ. Kể từ đấy, nhà mộ phu Bắc Ninh ngừng hoạt động hoàn toàn.

Nguồn: L8, tr.112.

        Ngày 28 và 29 tháng 9 (15, 16 tháng Tám – Mậu Thìn)

1.005. Dương Hạc Đính tham dự Hội nghị Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ

Cuối tháng 9-1928, Kỳ bộ Bắc Kỳ tiến hành hội nghị tại Hà Nội, sau đó chuyển về nhà Ngô Gia Tự (Từ Sơn – Bắc Ninh) để kiểm điểm công tác những năm qua, đề ra nhiệm vụ mới, bầu Ban Chấp hành Kỳ bộ chính thức. Sau hai ngày (28 và 29-0-1928) thảo luận, Hội nghị đã chỉ ra:

– Cơ sở Hội VNCMTM đã phát triển mạnh, thành lập được 5 tỉnh bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình), số lượng hội viên lên tới gần 1.000 người nhưng chỉ tập trung ở mấy trung tâm kỹ nghệ và mấy tỉnh đồng bằng. Cơ sở trong công nhân đã có nhưng yếu ớt, nhất là vùng mỏ than và các đồn điền.

Phần lớn hội viên xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản (giáo học, học sinh, tiểu thương), có qua ít hội viên là công nhân. Các đoàn thể quần chúng quá mỏng.

Do đó, phải tăng cường vận động quần chúng công nông, chú trọng công tác công vận ở các vùng tập trung kỹ nghệ (vùng mỏ, các thành phố công nghiệp). khai thác triệt để mọi hình thức hợp pháp để tập hợp rộng rãi quần chúng.

Nhằm thực hiện các nhiệm vụ kể trên, Hội nghị quyết định đưa các hội viên đi “vô sản hóa”, giao cho Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh – Ủy viên Kỳ bộ phụ trách vấn đề này. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn vì các nhà kinh điển mácxít đã từng chỉ rõ rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin là do những người trí thức cách mạng đưa vào phong trào công nhân. Trong hoàn cảnh một nước thuộc địa như Việt Nam, trình độ dân trí còn thấp thì vô sản hóa trí thức, trí thức hóa công nông đã trở thành quy luật phát triển và chiến thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Nguồn: L6, tập 1, tr.2310233.

        Tháng 9 (tháng Tám – Mậu Thìn)

1.006. Dương Quang Chiểu tham gia Chi hội VNCMTN lính khố đỏ Bắc Ninh

Công tác vận động binh lính tham gia phong trào cách mạng được Tỉnh hội Bắc Ninh – Bắc Giang hết sức chú trọng. Trung đoàn Pháo thủ số 3 Bắc kỳ đóng tại thành Bắc Ninh có khá nhiều người giầu lòng yêu nước, lòng căm ghét thực dân. Tháng 11-1927, tại đây đã có cuộc âm mưu khởi nghĩa do Quản Trạc lãnh đạo, định đánh chiếm các đồn binh Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại nhưng bị lộ. Những người này có chân trong tổ chức Việt Nam dân quốc của Nguyễn Khác Nhu.

Nắm vững được tình hình đó, Tỉnh hội Bắc Ninh – Bắc Giang đã phân công Hồ Ngọc Lân bắt mối vào thành. Sau một thời gian thử thách và giác ngộ, đến tháng 9-1928 chi hội lính khố đỏ thành Bắc Ninh ra đời gồm 7 người (Phạm Văn Thắm, Dương Quang Chiểu, Nguyễn Văn Khá, Đinh Văn Đại. Đinh Văn Nhẫn, Nguyễn Văn Cẩm, Nguyễn Văn Hách) do Pham Văn Thắm làm bí thư.

Dương Quang Chiểu người xã Lam Cầu, tổng Lam Cầu, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (nay là xã Tiên Tân, Duy Tiên – Hà Nam), đăng lính khố đỏ thuộc Trung đoàn Pháo thủ số 3 Bắc Kỳ đóng tại thị xã Bắc Ninh, do được làm Cai thợ nên được gọi là Cai Chiểu, bí danh Chung Nam, số lính 150.

Nguồn: L8, tr.210.

        Ngày 3 tháng 12 (23 tháng Mười – Mậu Thìn)

1.007. Con cháu họ Dương gửi giỗ tại chùa Bát Mẫu

Ký ki bi tạo năm Bảo Đại 3, dựng tại chùa thôn Hữu Tiệp, tổng Nội, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Ngọc Hà, Ba Đình – Hà Nội) ghi nhận việc này.

Nguồn: T12, tập 19, N018831.

        Trong năm

1.008. Dương Hạc Đính thành lập các Chi hội VNCMTN tại Yên Viên và Gia Lâm

Chi hội VNCMTN Yên Viên do Nguyễn Duy Bình phát triển và làm Bí thư dưới sự chỉ đạo của Dương Học Đính có 2 Hội viên (Vũ Đô, người Phù Lưu – Từ Sơn và Nguyễn Xuân Hồng, người Đại Vi – Tiên Du).

Chi hội đặc biệt giúp Kỳ bộ Bắc Kỳ làm công tác giao thông liên lạc tại thị trấn Gia Lâm, cũng do chính Dương Hạc Đính xây dựng. Chi hội do Đặng Đình Hướng – thợ tập sự Nhà máy xe lửa Gia Lâm làm Bí thư và hai Hội viên Lê Văn Chắc, người tỉnh Thái Bình và Nguyễn Văn Thảo, quê Gia Thụy (Gia Lâm – Hà Nội).

Nguồn: L8, tr.210.

        NĂM 1929 (KỶ TỴ)

        Tháng 2 (tháng Giêng – Kỷ Tỵ)

1.009. Cử nhân Dương Tuấn Duy được Nguyễn Văn Cừ giác ngộ cách mạng

Ông người xã Hà Lỗ – Đông Anh (nay là thôn Hà Phong, xã Liên Hà, Đông Anh – Hà Nội). Cử nhân khoa Đinh Dậu -1897, không ra làm quan, dạy học tại quê nhà. Do là bạn thân của Tú Ba, người làng Phù Khê – Từ Sơn, ông ngoại của chiến sĩ cộng sản Nguyễn Văn Cừ nên từ tháng 2-1929, gia đình ông trở thành nơi qua lại, mở lớp học, đặt trạm dừng chân và cơ sở cách mạng. Nguyễn Văn Cừ dưới danh nghĩa một Hương sư, trong thời gian dạy học ở Hà Lỗ đã tạo được ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới lòng yêu nước của ông.

Nguồn: L8, tr.210.

        Tháng 3 (tháng Hai – Kỷ Tỵ)

1.010. Dương Hạc Đính tham gia thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam

Trong những năm 1928-1029, phong trào đấu tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam đâng lên mạnh mẽ và có ý thức chính trị vô sản rõ rệt. Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, những người tiên tiến trong VNCMTN Bắc Kỳ thấy cần thiết phải có một đảng thật sự của giai cấp công nhân, một Đảng Cộng sản, mới có đủ khả năng để tiếp tục đưa cách mạng Việt Nam tiến lên.

Tháng 3-1929, những người tích cực trong Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ họp ở số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Chi bộ này gồm 8 người: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc (vắng mặt), Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân, do Trần Văn Cung làm Bí thư.

Chi bộ thảo luận và thống nhất nhận định về phong trào của giai cấp công nhân và tổ chức đảng nhằm xác lập dần dần quyền lãnh đạo thật sự của giai cấp vô sản Việt Nam, một nhân tố quyết định thành công triệt để của cách mạng. Chi bộ khẳng định việc lập tổ chức cộng sản này chỉ là hạt nhân để xây dựng Đảng Cộng sản sau này, xác nhận rằng vai trò của tổ chức VNCMTN trước đây là cần thiết, nhưng đến giờ không còn đủ sức lãnh đạo phong trào nữa, do đó cần giải thể và thành lập một chính đảng duy nhất của giai cấp vô sản, đó là Đảng Cộng sản. Chi bộ đề ra nhiệm vụ:

– Tổ chức cộng sản này phải giữ bí mật để phát triển thêm những đồng chí cộng sản, thành lập các tổ và các chi bộ khác ở tỉnh; trong Đại hội VNCMTN sắp tới, sẽ vận động các đại biểu tán thành chủ trương tổ chức Đảng Cộng sản.

– Vận động các đại biểu địa phương bầu trong số những người trong tổ chức cộng sản đầu tiên làm đại biểu đi dự Đai hội toàn quốc.

– Nắm chắc Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ, hướng họ vô sản hoá để phát triển tổ chức công hội, nông hội, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và lãnh đạo các cuộc đấu tranh.

Sự kiện chi bộ cộng sản thành lập ở Bắc Kỳ tháng 3-1929 là một thắng lợi đầu tiên về mặt tổô chức của xu hướng cách mạng vô sản ở Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đang mạnh mẽ vươn lên giành quyền lãnh đạo cách mạng. Nó là cơ sở cho sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng sau này.

Nguồn: L6, tập 1, tr.241-243.

        Ngày 28 và 29 tháng 3 (18, 19 tháng Hai – Kỷ Tỵ)

1.011. Dương Hạc Đính dự Đại hội đại biểu Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ

Đầu năm 1999, Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ đã phát triển tổ chức ở khắp 17 tỉnh, thành phố, trong đó có 5 Tỉnh bộ (Hà Nội, Bắc Ninh – Bắc Giang, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng) và là Kỳ bộ mạnh nhất về chất lượng và số lượng, có 700 hội viên chính thức và 1.000 cảm tình.

Kỳ bộ Bắc Kỳ chủ trương đưa hội viên thâm nhập vào quần chúng công nông để tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, đưa phong trào cách mạng hướng theo con đường cộng sản.

Sau khi ra đời, chi bộ cộng sản đã khẩn trương xúc tiến việc triệu tập Đại hội đại biểu Kỳ bộ VNCMTN Bắc Kỳ và tổ chức họp tại đồn điền Baurele (Sơn Tây) trong hai ngày 28 và 29 tháng 3-1929. Ngoài lãnh đạo của Kỳ bộ, còn có hơn 30 đại biểu tham dự Đại hội. Bí thư Kỳ bộ Trần Văn Cung trình bày những vấn đề mà chi bộ cộng sản đề ra. Trong quá trình thảo luận, Ngô Gia Tự đưa ra nhiều ý kiến sắc bén phản ánh được yêu cầu thực tiễn đang diễn ra sôi nổi, phong phú lúc bấy giờ.

Đại hội hoàn toàn tán thành việc một tổ chức cộng sản đầu tiên trong nước ra đời, xúc tiến thành lập ngay Đảng Cộng sản để lãnh đạo phong trào cách mạng.

Đại hội cũng dành thời gian phân tích, đánh giá kết quả bước đầu của chủ trương vô sản hoá do Hội nghị Kỳ bộ thông qua tháng 8-1928, xác nhận đó là một chủ trương đúng đắn, trực tiếp góp phần giáo dục chủ nghĩa cộng sản, tuyên truyền đường lối của tổ chức cách mạng, nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp và đẩy mạnh đấu tranh giai cấp, tạo điều kiện trực tiếp cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. Đại hội bầu 4 đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc VNCMTN lần thứ nhất (gồm Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Tuân, Dương Hạc Đính), giao cho họ nhiệm vụ đấu tranh để thành lập Đảng Cộng sản.

Sau Đại hội, Kỳ bộ cử Trần Văn Cung vào ngay Trung Kỳ để vận động các đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc, tranh thủ sự đồng tình về việc thành lập Đảng Cộng sản, nhưng đoàn đại biểu Trung Kỳ đã lên đường vào Sài Gòn để cùng đi với đoàn đại biểu Nam Kỳ.

Trước Đại hội toàn quốc ở Hồng Công, vấn đề thành lập Đảng Cộng sản đã được Kỳ bộ Bắc Kỳ truyền đạt ngay xuống các Tỉnh bộ, cơ sở và đã nhận được sự tán thành.

Nguồn: L6, tập 1, tr.243 – 245.

        Ngày 1 tháng 5 (22 tháng Ba – Kỷ Tỵ)

1.012. Dương Hạc Đính tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội VNCMTN

Sau Hội nghị trù bị lần thứ nhất (1-1929) và Hội nghị trù bị lần thứ 2 (cuối tháng 4-1929), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất VNCMTN diễn ra tại Hồng Công từ ngày 1 đến 9-5- 1929 với sự tham gia của 3 uỷ viên Hội Trung ương Chấp uỷ (Lê Hồng Sơn, Lê Duy Điếm, Lâm Đức Thụ), 4 đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân), 4 đại biểu Kỳ bộ Trung Kỳ (Nguyễn Sĩ Sách, Nguyễn Thiệu, Trương Quang Trọng, Võ Mai), 3 đại biểu Kỳ bộ Nam Kỳ (Phạm Văn Đồng, Châu Văn Liêm, Trần Văn Phồng) và 1 đại biểu ở Xiêm (Võ Tòng).

Tại Đại hội, Trưởng đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ Trần Văn Cung đọc báo cáo tham luận, phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan của phong trào công nhân Việt Nam, vạch rõ quy mô và tính chất của nó để khẳng định trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành đòi hỏi phải có một chính đảng để lãnh đạo phong trào cách mạng. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản nhưng chủ trương này không được Đại hội thông qua và bị Lâm Đức Thụ, Chủ tịch Đại hội phản đối kịch liệt. Vì vậy, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã bỏ Đại hội ra về.

Nguồn: L6, tập 1, tr.249-250.

        Ngày 1 tháng 6 (24 tháng Tư – Kỷ Tỵ)

1.013. Dương Hạc Đính cùng các đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ thoát ly Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất VNCMTN ra Tuyên ngôn

Tuyên ngôn của các đại biểu đã thoát ly Hội tịch ở Toàn quốc đại biểu Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên đã khẳng định sự cần thiết phải tổ chức Đảng Cộng sản, nêu rõ tính chất của Đại hội Việt Nam cách mạng thanh niên không phải là Đại hội đại biểu của giai cấp vô sản, không phải là Đại hội chân chính cách mạng, nên vấn đề thành lập Đảng Cộng sản đưa ra Đại hội đã không có kết quả, vì vậy mà đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã phải bỏ ra về. Tuyên ngôn kêu gọi công nhân, nông dân nghèo, các hội viên VNCMTN, các đảng viên các chính đảng trong xứ và tất cả những người có quan tâm đến phong trào cách mạng hãy làm theo các khẩu hiệu.

  1. Phải hết sức đánh đổ tụi hoạt đầu giả cách mệnh lừa đối công nông.
  2. Phải tổ chức ngay Đảng Cộng sản thì mới dẫn đạo cho vô sản giai cấp làm cách mệnh được.

Sự ra đời của Tuyên ngôn đã đánh dấu giai đoạn kết thúc vai trò của VNCMTN từ cơ sở, không chỉ ở các tỉnh miền Bắc, mà cả ở miền Trung và một phần các tỉnh Nam Kỳ. Nó thúc đẩy cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng sau này.

Nguồn: L6, tập 1, tr.258-259.

        Ngày 17 tháng 6 (11 tháng Năm – Kỷ Tỵ) .

 1.014. Dương Hạc Đính tham gia thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng

Sau khi tuyên bố rút khỏi Đại hội toàn quốc lần thứ nhất VNCMTN, đoàn đại biểu Bắc Kỳ trở về nước cùng với chi bộ cộng sản đầu tiên (thành lập tháng 3-1929) xúc tiến việc thành lập một Đảng Cộng sản.

Ngày 17-6-1929, hơn 20 đại biểu các tổ chức cộng sản ở các tỉnh Bắc Kỳ họp tại nhà số 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội) quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Hội nghị thông qua Chính cương, Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng. Các văn kiện này thừa nhận đường lối của Quốc tế Cộng sản, thừa nhận vai trò bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng và thừa nhận mục đích của chủ nghĩa cộng sản. Trong Tuyên ngôn, tính chất của Đảng được nêu rõ: “Đông Dương Cộng sản Đảng là đảng cách mệnh đại biểu cho tất cả các anh em chị em vô sản giai cấp (tức là thợ thuyền) ở Đông Dương. Đảng Cộng sản không phải là gồm tất cả các anh em chị em vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào giác ngộ cách mệnh, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản”.

Về mặt tổ chức, Đông Dương Cộng sản Đảng thông qua những nguyên tắc kết nạp đảng viên, không chuyển tất cả những hội viên Việt Nam cách mạng thanh niên vào Đảng, mà phải trên cơ sở giác ngộ, giáo dục, để họ tự nguyện xin vào Đảng. Những người tiên tiến nhất, tích cực nhất của Việt Nam cách mạng thanh niên được tuyển lựa đưa vào Đảng Cộng sản, còn số nào tuy tán thành sự thành lập Đảng Cộng sản nhưng không hoạt động “tích cực thì tổ chức vào nhóm cảm tình Đảng”. Hội nghị cũng quyết định tổ chức Tổng Công hội đỏ, Nông hội, Sinh hội… lấy cỡ đỏ búa liềm làm Đảng kỳ, xuất bản tờ Búa liềm (của Trung ương), tờ Bônsơvích (Trung Kỳ) và tờ Cộng sản (Nam Kỳ), cử Ban Chấp hành trung ương lâm thời và phân công một số đồng chí vào Trung Kỳ, Nam Kỳ phát triển cơ sở của Đảng.

Nguồn: L6, tập 1, tr.260-261.

        Ngày 4 tháng 8 (29 tháng Sáu – Kỷ Tỵ)

1.015. Dương Quang Chiểu trở thành đảng viên tại Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Bắc Ninh – Bắc Giang

Đầu tháng 7-1929, Ngô Gia Tự, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời VNCMTN chọn Phạm Văn Chất, Hồ Ngọc Lân, Nguyễn Hữu Căn là những hội viên tích cực của VNCMTN Bắc Ninh – Bắc Giang để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở hai tỉnh.

Chi bộ có nhiệm vụ tuyên truyền Chính cương, Điều lệ và Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng trong các chi bộ VNCMTN.

Trên cơ sở chi bộ cộng sản được thành lập, để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng đang ngày càng phát triển ở Bắc Ninh – Bắc Giang, ngày 4-8-1929, một cuộc họp được triệu tập tại núi Hồng Vân (Lim, Tiên Du) để thành lập Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Bắc Ninh – Bắc Giang, gồm Phạm Văn Chất, Hồ Ngọc Lân, Nguyễn Hữu Căn, Nguyễn Xuân Hồng, Trần Nhu, do Phạm Văn Chất làm Bí thư. Toàn Đảng bộ có chi bộ thị xã Bắc Ninh, chi bộ trại lính khố đỏ Bắc Ninh, chi bộ làng Lạc Thổ và chi bộ nhà máy gạch Hưng Ký ở Du Lâm – Từ Sơn.

Nguồn: L6, tập 1, tr.279-280.

        Tháng 8 (tháng Chín – Kỷ Tỵ)

1.016. Dương Công Tố – học sinh người Mường Hòa Bình được Đông Dương Cộng sản Đảng giác ngộ cách mạng

Tháng 8-1929, Đào Gia Lựu, đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng thuộc Tỉnh bộ Nam Định, vốn là Hương sư, bị thực dân Pháp điều lên dạy học ở châu Lạc Sơn tỉnh Hoà Bình. Nhân việc đó, Tỉnh bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định đã giao trách nhiệm cho ông tuyên truyền cách mạng, gây dựng cơ sở địa bàn miền núi.

Sau khi đến địa phương, thông qua mối quan hệ đồng nghiệp, ông đã tuyên truyền được một số giáo viên vùng xuôi dạy học ở vùng này như giáo Đạt, giáo Gia. Qua đó, lại giác ngộ được Dương Công Tố – học sinh người Mường ở Lạc Thịnh, gây ảnh hưởng tới lang đạo Mãn Đức là Quách Điêu.

Cuối năm 1929, ông Đào Gia Lựu bị bắt đưa về giam và xử án ở toà án Nam Định. Các quần chúng vừa được giác ngộ cũng bị bắt khiến cho mầm cách mạng ở Lạc Sơn không có điều kiện phát triển.

Nguồn: L6, tập 1, tr.281-282.

        Trong năm

1.017. Dương Bạch Mai vào học Đại học Phương Đông tại Mascơva

Ông quê ở Bà Rịa, lớn lên học tại Sài Gòn rồi du học tại Pháp. Trong thời gian ở Paris, ông gia nhập Đảng Việt Nam Độc lập do một số nhà yêu nước Việt Nam lập ra. Sau đó ông cùng Nguyễn Văn Tạo gia nhập Đảng Cộng sản Pháp.

Năm 1928, ông bị bắt giam một thời gian ngắn do tham gia vào cuộc xô xát có đổ máu tại khu Đại học La tinh giữa nhóm sinh viên tiến bộ với nhóm sinh viên cực hữu. Được trả lại tự do, ông sang Mascơva liên lạc với Đảng Cộng sản Liên Xô rồi nhập học tại Đại học Phương Đông cùng khóa với Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh.

Nguồn: T27, tr.121.

        Tháng 12 (tháng Một – Kỷ Tỵ)

1.018. Dương Văn Lan và nhiều đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng vô sản hóa tại các nhà máy Vinh – Bến Thủy

Thực hiện chủ trương của Xứ uỷ Đông Dương Cộng sản Đảng Trung Kỳ, nhiều đảng viên thuộc tầng lớp tiểu tư sản trí thức đã vào các nhà máy để lao động, rèn luyện, hoà mình với giai cấp công nhân và tuyên truyền, vận động cách mạng. Các ông Dương Văn Lan, Nguyễn Hữu Cơ, Nguyễn Hữu Bình, Chu Văn Biên vô sản hoá ở Nhà máy diêm Bến Thuỷ và nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi; Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Trọng Cổn, Nguyễn Màu cũng vào nhiều nhà máy khác ở Vinh – Bến Thuỷ để vô sản hoá.

Nguồn: L6, tập 1, tr.310-311.

        NĂM 1930 (KỶ TỴ – CANH NGỌ)

        Ngày 27 tháng 1 (28 tháng Chạp – Kỷ Tỵ)

 1.019. Dương Quang Chiểu cùng các đảng viên Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng lính khố đỏ bị bắt

Ngày 10-10-1929, Nguyễn Tuân – tức Kim Tôn, một nhân vật quan trọng và chủ chốt của Đông Dương Cộng sản Đảng bị Tuần phủ Thái Bình bắt ở bến đò Tân Đệ, không chịu nổi tra tấn, đã khai báo “nhiều điểm cực kỳ quan trọng về tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ, thú nhận mình là một trong ba Ủy viên của Tổng bộ, khai báo tất cả đồng đảng mà hắn biết tên và cũng đưa ra nhiều điểm khá bổ ích về tổ chức cách mạng Thanh niên trước đây mà hắn là Phó Đảng trưởng ở Hà Nội” (Báo cáo của Sở Mật thám Đông Dương).

Kể từ ngày 6-11-1929 nhiều cơ sở Đông Dương Cộng sản Đảng bị phá vỡ, nhiều lãnh đạo và đảng viên bị bắt bớ, giam cầm – trong đó có Dương Hạc Đính và toàn bộ đảng viên Chi bộ lính khố đỏ thành Bắc Ninh do có sự khai báo trong nội bộ.

Dương Quang Chiểu bị xử 10 năm khổ sai đày ra Côn Đảo. Trong những ngày giam cầm, ông đã ba lần tìm cách vượt ngục, vượt biển về đất liền tiếp tục hoạt động nhưng không thành. Năm 1936, ông được trả tự do.

Nguồn: L8, tr.215.

        Tháng 3 (tháng Hai – Canh Ngọ)

1.020. Dương Văn Lan – đại diện Đông Dương Cộng sản Đảng gặp gỡ đại diện Đông Dương Cộng sản Liên đoàn Thừa Thiên bàn việc thống nhất

Tháng 3-1980, ông Nguyễn Phong Sắc, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Phân cục Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Trung Kỳ, đến Huế để vận động thống nhất các tổ chức cộng sản ở Thừa Thiên.

Tại cơ quan liên lạc ở Bến Ngự (Huế), hội nghị bàn việc thống nhất hai tổ chức cộng sản thành một Đảng bộ được tiến hành. Ông Nguyễn Phong Sắc thay mặt cho Phân cục Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Trung Kỳ giới thiệu hai Đảng bộ gặp nhau.

Ông Dương Văn Lan thay mặt Đông Dương Cộng sản Đảng tỉnh Thừa Thiên và ông Lê Viết Lượng đại diện Đông Dương Cộng sản Liên đoàn Thừa Thiên gặp gỡ để bàn việc thống nhất hai tổ chức.

Tháng 4-1930, Hội nghị hợp nhất Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên họp, tuyên bố thống nhất hai tổ chức cộng sản thành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thừa Thiên.

Nguồn: L6, tập 2, tr.36-37.

        Ngày 31 tháng 5 (4 tháng Năm – Canh Ngọ)

1.021. Dương Hạc Đính bị bắt cùng Ngô Gia Tự tại Sài Gòn

Ngay sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập, cuối tháng 7-1929, với tư cách là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ngô Gia Tự được phân công vào phụ trách Nam Kỳ với sự phối hợp của Dương Hạc Đính. Sau một thời gian lăn lộn với phong trào, hai ông đã xây dựng được tổ chức công hội ở Sài Gòn – Chợ Lớn, các chi bộ ở nhà máy Ba Son, đồn điền cao su Phú Riềng.

Tháng 2-1930, Ban Chấp ủy lâm thời Nam Kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời do Ngô Gia Tự làm Bí thư đã thúc đẩy sự hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Sài Gòn và toàn miền. Ban Chấp ủy lâm thời Sài Gòn; Tỉnh ủy lâm thời Chợ Lớn, Long Xuyên, Mỹ Thọ, Tân An; Ban Cán sự Đảng Bến Tre, Cà Mau và một số Liên tỉnh ủy lần lượt ra đời.

Giữa lúc phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ tại Nam Kỳ đang phát triển mạnh mẽ thì Ngô Gia Tự và Dương Hạc Đính sa vào tay giặc. Tờ Hà thành Ngọ báo số 912 ra ngày 26-8-1930 khi đưa tin về Quanh vụ cộng sản Đông Dương đã viết rằng, Ngô Gia Tự và Dương Hạc Đính là hai lãnh tụ cộng sản bị bắt ở Nam Kỳ hồi mấy tháng trước hiện còn bị giam ở Khám Lớn – Sài Gòn, bị tra hỏi về các việc biểu tình và việc tổ chức cộng sản ở Nam Kỳ. Nay mai tra hỏi xong, Dương Hạc Đính và Ngô Gia Tự sẽ bị giải ra Hà Nội.

Đáng tiếc, Dương Hạc Đính không vượt qua đòn tra khảo của kẻ thù trong khi Ngô Gia Tự vẫn vững vàng trong vai trò là một trong những linh hồn của tổ chức VNCMTN trước kia và sau là Đảng Cộng sản như người Pháp thừa nhận, ngày 27-1-1931 tiếp tục bị áp giải ra Bắc Kỳ nghị tội.

Nguồn: L6, tập II, tr.21-22; L8, tr.215-216.

        Tháng 9 (tháng Tám – Canh Ngọ)

1.022. Đóng góp của họ Dương với phong trào Xô viết Nghệ – Tĩnh

Do những điều kiện đặc biệt mà ngay từ khá sớm Nghệ – Tĩnh đã được các tổ chức yêu nước và cách mạng như VNCMTN và Tân Việt đặc biệt quan tâm. Không những chỉ các khu lao động, các nhà máy ở Vinh và Bến Thủy mà cả vùng nông thôn Nghệ – Tĩnh đã sớm trở thành địa chỉ của phong trào Vô sản hóa của cả VNCMTN và Tân Việt. Trong cao trào cách mạng 1930 – 1931, Nghệ – Tĩnh lại trở thành ngọn cờ vẫy gọi và nguồn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng lao động cả nước.

Mở đầu cho cao trào là cuộc biểu tình bùng nổ vào sáng ngày 1-5-1930 với sự tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh – Bến Thủy và nông dân các huyện lân cậnh đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô viết. Chính quyền thực dân đã thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh đó. Binh lính được điều đến và xả súng bắn vào đoàn biểu tình, giết chế 7 người, làm bị thương 18 người và bắt đi 98 người.

Sau ngày 1-5 cho đến tháng 8-1930, công nhân khu công nghiệp Vinh – Bến Thủy tiếp tục đấu tranh hết sức sôi nổi.

Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ – Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ kéo đến các huyện đường Can Lộc ngày 4-8, Nam Đàn ngày 6-8, Thanh Chương ngày 12-8, Nghi Lộc ngày 29-8, Nam Đàn (30-8).

Thắng lợi của phong trào nông dân Thanh Chương đã góp phần khích lệ các cuộc đấu tranh ở các nơi khác. Từ ngày 5-9 đến ngày 11-9 nông dân các huyện Anh Sơn, Diễn Châu, Can Lộc, Nam Đàn, Nghi Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh… nổi dậy với một khí thế mới, một quyết tâm mới. Những cuộc xung đột đổ máu giữa những người biểu tình với binh lính, cảnh sát diễn ra thường xuyên hơn.

Đến tháng 9 phong trào đấu tranh lên tới đỉnh điểm. Ngày 1-9-1930, 20.000 nông dân Thanh Chương biểu tình đòi giảm thuế, thả tù chính trị. Lính Pháp nổ súng, những đoàn người biểu tình kết thành đội ngũ tiến vào huyện đường, phá nhà giam, giải phóng tù nhân, đốt dinh tri huyện cùng với giấy tờ, sổ sách trong đó. Bọn hào lý, địa chỉ bỏ chạy. Đại bộ phận các thôn xã thuộc huyện Thanh Chương, chính quyền tay sai tan rã. Nhân dân xã Võ Liệt (Thanh Chương) tự đứng ra tổ chức, điều hành công việc trong thôn xã.

Ngày 12-9-1930 tại Hưng Nguyên, hơn 8.000 nông dân trong đó có cả nông dân Nam Đàn, tổ chức một cuộc biểu tình khổng lồ. Đoàn biểu tình kéo về thành phố Vinh, đi đầu là những người giương cao cờ đỏ, hướng tới thành phố Vinh. Trên đường đi, đoàn biểu tình dừng lại diễn thuyết, chỉnh đốn đội ngũ. Đoàn biểu tình càng tiến tới đích càng trở nên đông hơn. Thực dân Pháp đã huy động lực lượng đàn áp dã man cuộc biểu tình làm chết 217 người, làm bị thương 125 người.

Song những cuộc đàn áp đẫm máu đó không ngăn được phong trào. Chính quyền tay sai ở cấp thôn xã và cấp huyện lần lượt tan rã. Nhiều tri phủ, tri huyện, hào lý bỏ trốn hoặc phải đem con dấu và sổ sách nộp cho những người cách mạng. Chính quyền thực dân đã hoàn toàn bất lực, chẳng làm được gì để ngăn chặn việc mở rộng của phong trào. Bộ máy chính quyền bản xứ ở một số huyện và xã trong tỉnh đều tê liệt…

Trước tình hình đó, chi bộ Đảng và tổ chức Nông hội đỏ đã đứng ra quản lý và điều hành mọi hoạt động trong thôn xã. Thực chất, đó là một hình thức chính quyền của những giai cấp bị trị được sản sinh ra từ phong trào cách mạng 1930-1931 do đảng của giai cấp công nhân – Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đó là một loại hình chính quyền theo kiểu Xô viết.

Tham gia vào phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh họ Dương có các vị Dương Xuân Thiếp, Dương Kiên (Hưng Lộc – Vinh), Dương Đình Thúy, Dương Văn Lan, Dương Vụ Bản, Dương Ngọc Liễn (Quỳnh Đôi – Quỳnh Lưu), Dương Văn Tấn (Tùng Ảnh – Đức Thọ), Dương Văn Thiện (Nghĩa Đồng – Nghĩa Đàn), Dương Liệu, Dương Mười, Dương Trí Hách, Dương Long, Dương Khiên (Yên Lộc – Can Lộc)…

Nguồn: H4, tr.70, 72, 74, 81.

        Cuối năm

1.022. Dương Chước tham gia xây dựng chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bình Thuận

Khoảng giữa năm 1930, ông Dương Chước (Trợ Châm), đảng viên Chi bộ Hòn Khói, Ninh Hòa, Khánh Hòa đến làng Đại Nẫm, phủ Hàm Thuận sống trong nhà cụ Lê Trọng Thiều, tiếp xúc với quần chúng, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản cho một số thanh niên trong hai làng Đại Nẫm, Phú Hội. Sau một thời gian xây dựng, ông đã kết nạp được Nguyễn Ty, Phan Xích, Ngô Đức Tốn. Ông Ngô Đức Tốn được ông Dương Chước phân công về làng Tam Tân để tập hợp quần chúng tốt trong vùng, lập tổ chức “Phản đế đồng minh Hội”. Từ một số cốt cán ban đầu, Hội đã phát triển được trên 30 hội viên. Trên cơ sở từ những hạt nhân của Hội, nhiều quần chúng đã được kết nạp vào Đảng, (Cao Có, Lê Chạy, Lê Thanh Lư…) lập ra chi bộ Tam Tân, chi bộ cộng sản đầu tiên của Bình Thuận do Ngô Đức Tốn làm Bí thư.

Nguồn: L6, tập II, tr.123-124.

        NĂM 1931 (CANH NGỌ – TÂN MÙI)

        Ngày 1 tháng 1 (11 tháng Một – Canh Ngọ)

1.023. Dương Tự Quán sáng lập và ra Tam Kỳ tạp chí số đầu

Tuần báo phổ biến kiến thức về văn học – nghệ thuật do Hoàng Hữu Huy làm Quản lý, tòa soạn đặt tại 115 Hàng Bông – Hà Nội. Số 49 ra ngày 10-12-1931 là số cuối cùng, Tam Kỳ tạp chí đình bản.

Nguồn: T11, tr.402.

        Tháng 4 (tháng Ba – Tân Mùi)

1.024. Dương Khắc Xương viết chữ bia chùa Cổ Am

Cổ Am tự trùng tu bi ký tạo năm Bảo Đại 6, dựng tại chùa xã Yên Thành, tổng Trường Yên, Gia Viễn – Ninh Bình (nay thuộc Hoa Lư – Ninh Bình) ghi việc đường núi dẫn vào chùa bị hỏng. Vào năm này, Chánh tổng Yên Thượng là Dương Ngọc Mỹ đứng ra bỏ tiền và vận động mọi người đóng góp cho việc trùng tu, xây tòa Tam bảo, lát lại đường để việc đi lại dễ dàng. Việc xong, bèn làm bài ký ghi lại.

Nguồn: T12, tập 16, N015879-80.

        Ngày 29 tháng 4 (12 tháng Ba – Tân Mùi)

1.025. Bắc Kỳ Thời báo do Dương Tự Tám làm Giám đốc ra số đầu tiên

Tòa soạn đặt tại 28 phố Hàng Cá – Hà Nội, báo chỉ ra được 1 số thì đình bản. Đến ngày 23-4-1932, Bắc Kỳ Thời báo, trở thành tuần báo, phát hành vào thứ 7. Lúc này Dương Tự Tám là Chủ nhiệm, tòa soạn đặt tại 62 phố Goussard. Ngày 23-7-1932, báo đình bản, sau khi phát hành được 10 số.

Nguồn: T11, tr.41.

        Ngày 12 tháng 5 (25 tháng Ba – Tân Mùi)

1.026. Ông bà Dương Phúc Bảng được tôn Hậu hiền thôn Ái Liên

Dương thị Hậu hiền bi tạo năm Bảo Đại 6, dựng tại đình bản thôn, xã Sơn Lôi, tổng Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên (nay là Bình Xuyên – Vĩnh Phúc), ghi việc, xã có ngôi chùa cổ trên núi, tam quan đã đồ nát. Nay bà hiệu Diệu Phúc cúng cho xã 100 đồng để tu sửa chùa, lại cúng 4 sào ruộng để làm ruộng tế tự. Quan viên, sắc mục và dân xã bầu cho ông bà của bà là ông Dương Phúc Bảng và bà Nguyễn Thị Từ Huyền làm Hậu hiền. Ghi họ và tên ngày giỗ của Hậu hiền, vị trí các thửa ruộng tiến cúng và lệ cúng tế Hậu hiền hàng năm.

Nguồn: T12, tập 16, N015348.

        Tháng 6 (tháng Năm – Tân Mùi)

 1.027. Tham tá Dương Kiệt Khi công đức tu tạo đền Kỳ Cùng

Trùng tu tự bi tạo năm Bảo Đại 6 dựng tại đền, cho biết vào tháng Năm – Tân Mùi đền được sửa chữa và khắc bia ghi danh những người góp phần khuyến thiện trong việc trùng tu.

Nguồn: V9, tr.119-126.

        Tháng 9 (tháng Tám – Tân Mùi)

1.028. Người họ Dương công đức tu tạo chùa Cần Tu

Bảo Đại lục niên bát nguyệt cát nhật lập bi văn, dựng tại chùa (nay thuộc xã Đông Dương, Đông Hưng – Thái Bình) cho biết:

“Việc ghi chép các danh lam thắng cảnh xưa nay có những sự việc lạ kỳ khác biệt, có những điều ghi chép thực và đầy đủ. Chùa Cần Tu bốn thôn, đền An Lạc sáu xã, nhìn từ bốn phía ba tòa thanh cao đẹp trội hẳn lên. Đức Phật dương dương tại thượng, đức Thánh Trần sáng láng linh thông, mạch đất tôn nghiêm, âm dương hợp đức. Sáng kiến vượng ngàn xưa, linh thanh đầy mười hương. Thắng cảnh dị kỳ có chùa nào như vậy. Ngoài thì nghiêm trang, trong thì tinh khéo, xếp đá nào nhà thông, đông hạc kim rùa, địa chung cát tú. Mái ngồi bắc, hướng quay nam. Trên thì bầu trời trong sáng, dưới thì dòng nước chín rồng chầu phía trước, dãy núi vạn ngọn gối đằng sau. Chốn đất thiêng liêng này đã dược truyền lại và thần linh đã cùng hiệp ứng. Đó chẳng phải là hương lòng đã kết để bồi nên thiện quả đó sao!

Trải mấy tinh sương phong cảnh vẫn được mọi người ca ngợi. Thế cảnh tôn nghiêm, người đến chiêm bái ai nấy đều muốn có thêm công trình gì đấy bao quanh.

Năm Giáp Tý (1924) cụ Lý trưởng Hà Khắc Thành người đã được thưởng thụ cửu phẩm muốn mở rộng thêm đã cùng các hưng công, đốc công, bảo danh vọng hậu bốn thôn năm xã góp tiền thuê mượn nhân công, quy mô theo cũ nhưng sửa sang thêm cả trong lẫn ngoài, hành lang bên trái, bên phải xây trụ đá, tô vẽ các gian theo các kiểu đẹp: Xuân hạ thu đông sắc thái long, ly, quy, phượng.

Tháng Hai mùa xuân khởi công, tháng Mười mùa đông hoàn tất, chi phí năm ngàn đồng. So với trước công trình truyền lưu được lâu dài, vẻ đẹp giữ được bền mãi.

Chùa thờ Phật, đền thờ Thánh chẳng gần như Hương Sơn mới, như động Kiếp Sơn hay sao?

Tiền nhân đặt tên chùa là Cần Tu (Cần Tu có nghĩa là chăm chỉ tu nhân tích đức lo việc tu hành)

Tiền nhân đã để Cần Tu từ trước.

Hậu nhân kế tiếp Cần Tu về sau.

Nhà nhà muôn vạn cầu đảo.

Ngày nay kế chí đó mà hợp tài, hiệp sức xây dựng hoàn thành An Lạc thắng cảnh đại hội mới nên. Nên ghi công trên bia đá: các vị hưng công, đốc công, các vị bảo danh, vọng hậu cùng những nhà hằng tâm, hằng sản công đức vô lường để cùng lưu niệm với chùa”.

Bia ghi danh những người công đức – trong đó có các ông bà Dương Văn Bôi, Dương Văn Can, Dương Bản, Dương Công Chương, Dương Văn Vọng, Dương Văn Côn, Dương Thị Điền, Dương Văn Bảo, Dương Vân, Dương Kinh, Dương Tạ, Dương Thị Lịch.

Nguồn: T3, tập VIII, tr.9-42.

        Trong năm

 1.029. Thôn trưởng Dương Văn Biệt tham gia lập bia Hậu phật xã Hương Câu

Tân tạo Hậu phật bi ký tạo năm Bảo Đại 6 dựng tại chùa xã (nay thuộc Hương Lâm, Hiệp Hòa – Bắc Giang) ghi rằng các quan viên, thôn trưởng bản xã đều nhân thấy bản xã có ông Tiền xã trướng Nguyên Đăng Thập, vợ Bùi Thị Tiệm cũng tiến sử tiền 62 quan, 11 thửa ruộng tổng cộng 60 gánh, 5 thửa ruộng mạ 64 đấu, vì vậy bản xã bầu bố chồng của bà nguyên tiền bản xã Xã trưởng hương lão lão nhiêu Kiêm tri phủ sĩ lão hạng huý Lịch và Trùm tư văn Nguyễn Đăng Thập tự Phúc Tiên, vợ tín vãi Bùi thị hiệu Như Thuận, đều làm Hậu Phật.

Lệ cúng giỗ: Mỗi giỗ 1 lợn, 1 vò rượu, 30 đấu xôi, 1 hộp trầu. Bản xã nếu ám muội trong việc này, làm giả, phải trả lại tiền và ruộng.

Nguồn: Đ12, tr.425-426.

        NĂM 1932 (NHÂM THÂN)

        Tháng 8 (tháng Tư – Nhâm Thân)

 1.030. Dương Tự Quán làm Giám đốc, xuất bản nguyệt an Văn học tạp chí số đầu tại Hà Nội

Văn học tạp chí từ số 6 (1-11-1932) trở thành bán nguyệt san; từ số 34 (21-4-1934) thành tuần san. Tuy nhiên, đến số 14 (8-1935) tuần san đình bản. Tòa soạn đặt tại 193 Hàng Bông – Hà Nội.

Nguồn: T11, tr.560.

        Ngày 8 tháng 6 (5 tháng Năm – Nhâm Thân)

 1.031. Dân xã Vân Đài bầu Hậu cho vợ chồng ông bà Dương Tự Phúc

Dịch thế lưu phương tạo năm Bảo Đại 7 dựng tại đình thôn Phúc Lộc, xã Vân Đài (nay thuộc xã Nguyệt Đức, Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi:

Bản thôn tu sửa giếng nước chỉ phí tốn kém. Bà Đặng Thị Cân, người bản thôn cùng các con gái xuất 60 đồng để thôn chi phí, lại cúng 5 sào ruộng làm ruộng tế tự. Hương lão, dân thôn bầu chồng bà là ông Dương Tự Phúc đã mất làm Hậu và ghi lệ cúng giỗ Hậu hàng năm.

Nguồn: T12, tập 15, N014685-86.

        Ngày 29 tháng 10 (1 tháng Mười – Nhâm Thân)

1.032. Ông bà Dương Ngọc Nhuận, Dương Thị Sửu cung tiến tu tạo chùa Mậu Nam

Mậu Nam đường bi ký tạo năm Bảo Đại 7, dựng tại chùa bản xã, tên nôm là chùa Tiên, thôn Nhân Sơn, tổng Tân Phong, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Nga An, Nga Sơn – Thanh Hóa) ghi: bà Lã Thị Hậu hiệu là Điệu Hằng đạo danh Ngọc Hiếu lúc 26 tuổi may mắn tiếp nối người cậu là Trần công, húy Mĩ gặp được minh sư là Trần Xương Hợp chỉ bảo trai giới tu đạo. Bà cùng con là Trần Khiêm Cung và con gái là Trần Thị Lựu đạo danh là Ngọc Tín nối chí noi theo phụng Phật mà tự đường thì chưa có. Vào tháng Ba năm Bảo Đại thứ 6 (1931) các hào lý của bản thôn đến quê bà ở làng Quy Hậu, tổng Quy Hậu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, ghi rõ là xứ Vũng Ao thấy cảnh hoang tàn, muốn đứng ra tu sửa lại Phật đường, bản thôn lấy bạc tu sửa đình vũ. Bà bàn với cha mẹ, xin được dựng chùa, đắp tượng, đúc chuông cùng xây dựng nhà ở, sửa chữa khai khẩn. Vào tháng Chín năm Nhâm Thân xây Bích Nam đường, trình với Đại lão sư chứng minh công đức, cùng các thiện tín phát hằng sản hằng tâm trợ giúp, bởi tự lượng thấy trí hẹp tài mọn, nên không quá lạm sức, làm cho cảnh chùa hoang phế mà nay rộng rãi sáng sủa. Sư phụ khuyên bảo đạo hữu tán thành, cùng đến chung sức, công việc hoàn thành, khắc vào bia đá, truyền lại mãi vậy. Khiến cho Phật nhật thêm sáng, đuốc tổ nối soi đấy là chỗ nhìn xa vậy.

Trong số những người cung tiến có ông bà họ Dương kể trên là người thôn xã Bạch Câu (Nga Bạch, Nga Sơn – Thanh Hóa), mỗi người góp 20 đồng.

Nguồn: T16, tập I, tr.479-485.

        NĂM 1933 (NHÂM THÂN – QUÝ DẬU)

        Ngày 10 tháng 1 (15 tháng Chạp – Nhâm Thân)

 1.033. Bố chánh Dương Thiệu Tường hoàn thành việc biên soạn sách Province de Thai Binh (tỉnh Thái Bình) bằng tiếng Pháp

Mở đầu lời tựa cho cuốn sách, ông viết:

“Trong tất cả năm châu, bất kỳ một nước nào cũng phải có sử để ghi lại những sụ kiện đã qua. Tỉnh là một phân khu quan trọng của một nước, dân số ở đấy đông và khối lượng sự việc xẩy ra không phải là ít. Đối với một tỉnh mà không hề có được một chú thích trong đó có ghi lại tất cả những điều chỉ dẫn về mặt địa lý, kinh tế và chính trị liên quan đến địa hạt, là điều sơ suất có thể dẫn đến một hậu quả nào đó.

Nước An Nam vốn đã có bộ lịch sử, tên gọi là Đại Nam nhất thống chi trong đó ghi chép tất cả các sự kiện lịch sử và những điều chỉ dẫn về mặt địa lý của cả nước. Nhưng tất cả những tài liệu cần thiết chỉ có thể được tập hợp trong khi xây dựng bộ sử, hơn nữa kể từ khi xuất bản sách này đất nước đã trải qua nhiều đổi thay sâu sắc, đã đạt được những tiến bộ lớn lao về mặt kinh tế và chính trị và rất nhiều sự kiện quan trọng đã xẩy ra. Cho nên điều cần thiết là phải bổ sung những điều ghi trong bộ sử ấy của nước An Nam và tiến hành thu thập những sự kiện mới không phải là công vô ích”.

Cuốn sách chia thành 16 chủ thể (Giới hạn và diện tích; Tên các phủ, huyện, xã và làng; Sông ngòi; Đê điều; Cầu cống; Âu thuyền; Đường xá; Nông nghiệp; Sản vật; Thương mại; Công nghiệp; Y tế; Giáo dục; Các công trình lịch sử; Danh nhân và các nhân vật xuất chúng; Dân ca và câu truyền tụng).

Nguồn: T3, Tập IV, tr.211-295.

        Ngày 6 tháng 12 (20 tháng Mười – Quý Dậu)

 1.034. Ông bà họ Dương được ghi danh công đức xây đền Ngũ Nhạc

Ký Quý Dậu niệm tạo năm Bảo Đại 8, xác nhận vào mùa thu năm Giáp Tý (1924), theo sáng kiến của ông Ngô Đức Viên, người Tam Sơn (Từ Sơn – Bắc Ninh) một ngôi đền mang tên Ngũ Nhạc đã được dựng lên ở phố Tây Môn – thị xã Lạng Sơn nhờ các bậc tín thí khắp nơi hằng tâm, hằng sản. Đến nay mới lập bia ghi danh để lưu truyền – trong đó có ông Dương Văn Xuân, bà Dương Thị Xuân.

Nguồn: V9, tr.144-152.

        NĂM 1934 (GIÁP TUẤT)

        Trong năm

 1.035. Dương Kỳ Hiệp được cử làm Bí thư chi bộ ghép làng Trường Khánh – Liên Khánh (Sóc Trăng)

Ông quê làng Trường Khánh (Châu Thành – Sóc Trăng), tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Sau khi được cử giữ chức Bí thư chi bộ ghép, năm 1937 ông được cử giữ chức Bí thư chi bộ thị xã Sóc Trăng rồi Đặc phái viên Liên tỉnh ủy Hậu Giang (1944), Bí thư Tỉnh ủy lâm thời kiêm Chủ tịch tỉnh Sóc Trăng, Khu ủy viên khu IX (1945), Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Cần Thơ (1949). Từ đó cho đến khi ngừng bắn, ông giữ các chức vụ tương đương tại Bạc Liêu, Long Châu Hà.

Sau khi tập kết, ông trở về Nam giữ chức Thứ trưởng Bộ Kinh tế – Tài chính Chính phủ lâm thời CHMNVN (1973). Trước khi nghỉ hưu (1977) ông là Quyền Bộ trưởng Bộ Kinh tế – Tài chính.

Nguồn: T25, tr.251.

        NĂM 1935 (ẤT HỢI)

        Ngày 1 tháng 9 (4 tháng Tám – Ất Hợi)

 1.036. Dương Trung Thực làm Giám đốc, ấn hành số đầu tuần báo Hoạt động ở Hải Dương

Tòa soạn đặt tại số 49 phố Savignont – Hải Phòng. Hoạt động ra đến số 40, tháng 11-1935 thì đình bản.

Nguồn: T11, tr.206.

        Ngày 27 tháng 11 (2 tháng Một – Ất Hợi)

1.037. Dương Tự Quán làm Chủ nhiệm, ấn hành số đầu tuần báo Đông Tây báo tại Hà Nội

Đông Tây báo ra đến số 26 (25-6-1936) thì bị cấm. Tòa soạn báo đặt tại 193 phố

Hàng Bông – Hà Nội.

Nguồn: T11, tr.157.

        NĂM 1936 (BÍNH TÝ)

        Ngày 17 tháng 4 (26 tháng Ba – Bính Tý)

1.038. Chánh hội Dương Vĩnh Tịnh soạn văn bia chùa Biện Sơn

Tự Hậu bi ký tạo năm Bảo Đại 11, đặt tại chùa xã Vĩnh Mỗ (nay thuộc thị trấn Yên Lạc – Vĩnh Phúc) ghi:

Bản xã trùng tu tam quan cửa ngoài chùa Biện Sơn chi phí rất tốn kém. Bà Nguyễn Thị Vành cúng 40 nguyên giúp thôn chi dùng, bà lại cúng 1 thửa ruộng làm ruộng tam bảo. Quan viên, hương lão và dân làng đã thuận bầu bà làm Hậu phật và ghi số thước sào, vị trí các thửa ruộng cúng tiến và lệ cúng giỗ Hậu phật hàng năm.

Nguồn: T12, tập 15, N014887.

        Ngày 22 tháng 5 (2 tháng Tư – Bính Tý)

1.039. Dương Văn Hạp làm Quản lý, ấn hành số đầu tiên tuần báo Nữ lưu tại Sài Gòn

Báo ra số cuối cùng là số 38 (6-1938). Tòa soạn lúc đầu đặt tại 104 Mar Mahons, sau về 26 đại lộ Beaunard – Sài Gòn.

Nguồn: T11, tr.334.

        Trong năm

 1.040. Dương Bạch Mai có chân trong Sổ Lao Động của báo La Lutte

Học xong Đại học Phương Đông, ông rời Mascơva về nước, cộng tác với các báo La Lutte, La Cloche fêlée, Mai, Dân Quyền và Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm. Từ năm 1936, ông đứng chung Sổ Lao Động của báo La Lutte, cùng với các thân hữu kể trên ứng cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn nhân danh Mặt trận vô sản thống nhất, tham gia tổ chức phong trào Đông Dương Đại hội.

Cuối năm 1937 ông bị đưa ra tòa rồi cưỡng bức lưu trú ở Cần Thơ. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, ông lại bị bắt và đày ra Côn Đảo. Năm 1943 tuy được trả tự do nhưng vẫn bị quản thúc tại Tân Uyên (Biên Hòa).    

Nguồn: T27, tr.121.

        NĂM 1937 (ĐINH SỬU)

        Tháng 6 (tháng Năm – Đinh Sửu)

 1.041. Ông Dương Đậu tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi

Để thống nhất sự lãnh đạo, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển ngày càng cao, từ ngày 28 đến ngày 30-6-1937, Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị được triệu tập tại Choi Pheo – làng Phú Long do ông Lê Duẩn chủ trì. Sau khi kiểm điểm về mặt tổ chức, Hội nghị quyết định thành lập một số Huyện ủy, xây dựng các chi bộ Đảng ở các làng, đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng các tổ chức quần chúng theo các hình thức công khai hợp pháp và nửa hợp pháp, đấu tranh hướng vào các mục tiêu hàng ngày như đòi hoãn, giảm thuế, đòi các quyền tự do dân chủ hương thôn, xuất bản tờ báo Tranh đấu, làm cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ tỉnh.

Cuối cùng, Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm bảy uỷ viên: Hoàng Thị Ái, Hoàng Hữu Chấp, Hồ Xuân Lưu, Trần Mạnh Quy, Nguyễn Mực, Nguyễn Vức, Dương Đậu. Ông Hoàng Hữu Chấp được cử làm Bí thư Tỉnh uỷ.

Nguồn: L6, tập 2, tr.522-523.

        Ngày 15 tháng 7 (8 tháng Sáu – Đinh Sửu)

 1.042. Dương Thành Phong làm Quản lý, ấn hành nhật báo Flambeau D’AnNam tại Sài Gòn

Tòa soạn báo đặt tại 51-53 Mar Mahons – Sài Gòn. Sau khi phát hành đến số 32 (9-1937), tờ báo đình bản.

Nguồn: T11, tr.176.

        Ngày 3 tháng 11 (1 tháng Mười – Đinh Sửu)

 1.043. Dương Bá Trạc làm Chủ nhiệm, ấn hành tờ báo không định kỳ Nam Việt Công dân tại Hà Nội

Tờ báo có phụ đề tiếng Pháp Le citoyen annamite. Tháng 1-1938 phát hành số 2. Tháng 1-1939 phát hành số 3 rồi đình bản.

Tòa soạn Nam Việt Công dân đặt tại 81 Sinh Từ – Hà Nội.

Nguồn: T11, tr.285.

        NĂM 1938 (MẬU DẦN)

        Ngày 9 tháng 4 (9 tháng Ba – Mậu Dần)

 1.044. Dương Văn Đa làm Chủ nhiệm, ấn hành tuần báo Chuyện đời tại Hà Nội, Hải Phòng

Báo ra vào thứ bẩy, tạm ngừng rồi ấn hành tiếp nhiều lần. Số cuối cùng là số 27 ra tháng 6-1940. Tòa soạn báo lúc đầu đặt tại 347 phố Huế – Hà Nội, sau chuyển về 30 Sadi Carnaux – Hải Phòng.

Nguồn: T11, tr.73.

        Ngày 15 tháng 5 (16 tháng Tư – Mậu Dần)

 1.045. Dương Nhật Đại được công nhận đảng viên tại chi bộ ghép Hoài Đức

Sau một thời gian bồi dưỡng, rèn luyện và đào tạo, Xứ ủy Bắc Kỳ đã lựa chọn được 3 cán bộ quần chúng xuất sắc kết nạp vào đảng Cộng sản Đông Dương. Lễ kết nạp được tổ chức tại một địa điểm ở La Cả (nay thuộc huyện Hoài Đức – Hà Nội) vào ngày 15-5-1938. Ông Trần Quý Kiên (tức Đinh Xuân Nhạ) Xứ ủy viên đại diện Xứ ủy Bắc Kỳ về công nhận. Ba đảng viên mới không qua thời kỳ dự bị là Dương Nhật Đại (La Cả), Nguyễn Quý Bình (Đại Mỗ) và Ngô Văn Phát (Thượng Cát). Chi bộ ghép đầu tiên ở Hoài Đức có trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách mạng toàn tỉnh Hà Đông, đồng thời cũng là ban vận động chuẩn bị thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Đông.

Nguồn: L11, tr.39.

        Ngày 22 tháng 7 (25 tháng Sáu – Mậu Dần)

 1.046. Dương Trí Phú làm Quản lý, ấn hành số đầu tiên của tờ báo không định kỳ Dân Chúng tại Sài Gòn

Tờ báo là Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương với danh nghĩa công khai là Cơ quan của lao động và dân chúng Đông Dương. Từ số 64, Dân Chúng trở thành nhật báo. Số 80 là số báo cuối cùng, ra ngày30-8-1939.

Nguồn: T11, tr.104.

        Trong năm

 1.047. Họ Dương Vân Cốc lập bia ghi nhận sự đóng góp của các thành viên

Lập nghĩa điền bi tạo năm Bảo Đại 13, đặt tại nhà thờ họ Dương xã Vân Cốc (nay là xã Vân Trung, Việt Yên – Bắc Giang) ghi rằng, các vị Dương Đốc, Dương Miêu, Dương Ti, Dương Nghiên, Dương Cứ, và những người khác cùng các bậc trên dưới trong họ lập bia ghi việc: ông: Dương Ngô Chiêm, họ ta, xuất tiền riêng 50 nguyên, và 3 mẫu 3 sào ruộng giao cho bản tộc nhận luân canh. Bản tộc thuận tình cho cha mẹ và vợ ông được gửi giỗ tại Từ đường bản tộc. Ngày 5 tháng Sáu giỗ Dương công tự Phúc Giang. Ngày 18 tháng Năm giỗ Nguyễn thị, hiệu Diệu Đương. Các vị được phối hưởng: Tự Phúc Hoà, tự Phúc Đường, hiệu Diệu Tùy.

Nguồn: Đ12, tr.687.

        NĂM 1939 (KỶ MÃO)

        Ngày 19 tháng 4 (1 tháng Ba – Kỷ Mão)

 1.048. Dương Tự Quán sáng lập, chuyển nhượng tờ Ngày Mới cho Xứ ủy Bắc Kỳ Đông Dương Cộng sản Đảng

Ngày 23-2-1939, Ngày Mới do Dương Tự Quán sáng lập ra số 2 thì chuyển cho Xứ ủy Bắc Kỳ thuê lại. Kể từ số 1 ấn hành ngày 19-4-1939 tờ báo do Xứ ủy viên Bắc Kỳ Đặng Xuân Khu trực tiếp chỉ đạo nhưng vẫn giữ tên Dương Tự Quán sáng lập làm thế hợp pháp.

Tòa soạn lúc đầu đặt tại 133 Henri d’Orléans, sau chuyển về 14, Rondony – Hà Nội.

Nguồn: T11, tr.287.

        Ngày 25 tháng 5 (7 tháng Tư – Kỷ Mão)

 1.049. Dương Quân làm Giám đốc chính trị, Dương Trung Thực làm Chủ nhiệm, xuất bản tờ báo không định kỳ Le Tribun tại Hải Phòng

Tòa soạn đặt tại 30 Sadi Carnaus. Đây là tờ báo được ghi là những người theo thuyết tiến hóa độc lập, chữ Pháp. Số đầu tiên là số 1, ra ngày 25-5-1939. Số cuối cùng là số 1, phát hành tháng 1-1940.

Nguồn: T11, tr.534.

        Ngày 1 tháng 7 (15 tháng Năm – Kỷ Mão)

 1.050. Dương Bá Trạc dự họp Hội đồng Ban Quản trị Thư viện chùa Quán Sứ – Hà Nội

Năm 1934, Hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập và đã chọn chùa Quán Sứ là trụ sở của Trung ương hội. Sau đó, Hội Phật giáo Bắc Kì đã tiến hành thiết kế xây dựng lại ngôi chùa Quán Sứ mới để làm Trụ sở Trung ương của Hội, và khánh thành ngôi chùa mới vào năm 1942.

Khi trở thành Trụ sở của Hội Phật giáo, chùa Quán Sứ vừa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng và tổ chức các đại lễ, nơi thuyết giảng về Phật học; vừa là trở thành cơ sở của nhiều cơ quan chuyên trách thuộc Hội: Văn phòng và nơi hội họp của Hội, Trụ sở báo Đuốc Tuệ, nơi đặt nhà in Đuốc Tuệ… Ngoài việc là Trụ sở của những cơ quan trên, chùa Quán Sứ cũng là nơi đặt một Thư viện Phật học, theo đề nghị của ông Trần Văn Giáp từ cuối năm 1935.

Sau gần 4 năm, thông tin khánh thành thư viện được đăng tải trên Đuốc Tuệ, ra ngày 15-7-1939:

“Lễ khánh thành Thư viện ở chùa Trung ương Quán Sứ Hà Nội

Ban Tăng học Trung ương mở ra một phòng thư viện để cho các vị hiếu học trong hội ngoài hội được tiện có nơi vào xem sách.

Ban này do sư cụ Côn, sư ông Trí Hải, sự ông Đỗ Trân Bảo và sư ông Tố Liên việc mở thư viện. Thư viện lập ở nhà Tiền đường chùa Quán Sứ về phòng bên, lấy tên là Đại Phương Thư viện.

Buổi chiều ngày 15 tháng Năm ta vừa rồi, do có giấy thỉnh và nhân buổi họp hội đồng Ban Quản trị Hội Phật giáo, nên có đông các vị ban Quản trị đến chứng kiến lễ thành lập Thư viện một thể.

Ban Quản trị có các vị: ông Phó Hội trưởng Trần Văn Đại. Các ông Hội viên Hội đồng: Trần Trọng Kim, Nguyễn Quang Oánh, Lê Toại, Trần Văn Giáp, Dương Bá Trạc, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Kha, Trần Tuấn Khải, ông Canh…

Chư tăng: Trí Hải, Tố Liên, Đỗ Trân Bảo.

Hội đồng vào họp tại Thư viện. Thư viện là một cái phòng lớn, một đầu đặt bàn giấy của người coi thư viện và lấy sách cho độc giả tới xem. Kế bên một dãy các bàn nối dài để các độc giả ngồi xem sách, hait bên bàn đặt thuần ghế mới đóng to và nặng để khó chuyển di đi chỗ khác. Ba mặt tường kê những tủ sách to và cao, tủ gỗ lim cửa kính, tủ sách đóng lối cũ, đẹp và dưới có ngăn khóa để giấy má được”.

Nguồn: T9, 2016, tr.281-282.

        Trong năm

 1.051. Các bà họ Dương ở Vân Cốc công đức tu tạo chùa Thủ Nghiêm

Bia không tiêu đề, tạo năm Bảo Đại 14 dựng tại chùa bản xã ghi rằng Hương lão, chức sắc xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, cùng các bậc trên dưới trong toàn xã lập bia, ghi việc: chùa Thủ Nghiêm trải nhiều phen mưa gió, bị đổ nát, cần phải sửa chữa, nhưng phải chi phí khá nhiều, khó lòng phân bổ. Nay những người trong xã Nguyễn Công Phúc Quả, Hồ Thị Diệu Lữ, Nguyễn Công tự Mai, Nguyễn Thị Diệu Cần, Nguyễn Thị Diệu Bắc, Thân Thị Diệu Thành, Nguyễn Thị Diệu Tông, Bùi Công tự Chính, Dương Thị Diệu Đăng, Hồ Thị Diệu Tiển, Hồ Công tự Thanh, Nguyễn Thị Diệu Sinh, Nguyễn Công tự Phi, Dương Thị Diệu Lạc, mỗi người xuất 1 sào ruộng và 10 nguyên tiền văn, số tiền giao cho bản thôn chi phí, còn số ruộng giao cho thày chùa quản nhận, cày cấy thu hoa lợi để hương đăng. Vì vậy, đồng thôn cùng thuận tình cho các vị trên được tòng tự và gửi giỗ cho người thân và kê lệ cúng giỗ, họ tên các vị được gửi giỗ.

Nguồn: Đ12, tr.677.

        NĂM 1940 (CANH THÌN)

        Ngày 26 tháng 6 (21 tháng Năm – Canh Thìn)

 1.052. Bí thư Ban Cán sự Đảng Sóc Trăng Dương Minh Quan bị bắt

Thời kỳ 1936-1939, Xứ ủy Nam Kỳ và Liên tỉnh ủy đã cử cán bộ về Sóc Trăng cùng với các đảng viên tại chỗ phát động phong trào đấu tranh công khai đòi dân sinh, dân chủ, chống chiến tranh đế quốc phát xít xâm lược, nhờ đó đã xây dựng được thêm một số chi bộ Đảng như chi bộ thợ may, thợ mộc tại thị xã và các vùng Hòa Tú, Thạnh Phú (quận Châu Thành); đồn điền Labasthe ở quận Kế Sách; Ninh Quới, Bào Xàng, Rọc Lá (quận Phước Long)… Các chi bộ đã lãnh đạo quần chúng tiến hành nhiều cuộc đấu tranh đòi giảm thuế, giảm tô, bớt nặng lãi, cứu đói và cho người nghèo vay lúa…, trong đó có cả đồng bào Khơme tham gia.

Năm 1938, lần đầu tiên Ban cán sự Đảng tỉnh Sóc Trăng được thành lập, do ông Dương Minh Quan làm Bí thư. Ngoài việc xây dựng thêm nhiều cơ sở ở tỉnh lỵ và vùng chung quanh, lãnh đạo phong trào đấu tranh theo đường lối chung của Trung ương Đảng, Ban Cán sự còn tổ chức nhiều cuộc rải truyền đơn chống bắt lính, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố, khiến cho bọn đế quốc phải ra lệnh canh gác và tuần tra kiểm soát rất nghiêm ngặt. Hiệu sách công khai Thanh niên Thư quán ở tỉnh lỵ Sóc Trăng bị đóng cửa, chủ hiệu sách Dương Kỳ Hiệp và nhiều đảng viên bị bắt. Cùng với việc khủng bố, bắt bớ trên, 26-6-1940 địch đã bắt ông Dương Minh Quan, Bí thư Ban cán sự Đảng Sóc Trăng và 2 cán bộ Nguyễn Văn Bách, Trần Sớm. Bị đày ra Côn Đảo, một thời gian sau, ông Dương Minh Quan qua đời.

Nguồn: L12, tr.320, 323.

        Ngày 27 tháng 7 (23 tháng Sáu – Canh Thìn)

 1.053. Ông Dương Công Nữ tham gia Xứ ủy Nam Kỳ

Từ ngày 21-7-1940, ông Tạ Uyên, thay ông Võ Văn Tần, Ủy viên Trung ương Đảng kiêm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ bị bắt ngày 21-4-1940, triệu tập Hội nghị toàn xứ tại nhà bà Lê Thị Lợi (Năm Dẹm) ấp Tân Thuận, xã Tân Hương, quận Châu Thành (Mỹ Tho), với sự tham dự của 24 đại biểu thuộc 19 tỉnh trong số 21 tỉnh Nam Kỳ. Ông Phan Đăng Lưu, Ủy viên Thường vụ Trung ương đã tham gia cuộc họp. Lúc này Pháp vừa đầu hàng Đức ở chính quốc hơn 1 tháng.

Sau khi kiểm điểm tình hình thế giới và trong nước, đánh giá địch và lực lượng của ta, nhiều ý kiến cho rằng tình thế rất khẩn trương, quần chúng và đảng viên vô cùng căm phẫn trước những chính sách phản động của địch, cuộc sống của nhân dân rất khó khăn, nghẹt thở, rất muốn nổi dậy khởi nghĩa, nếu Đảng không lãnh đạo thì quần chúng sẽ manh động.

Cũng có ý kiến cho rằng mâu thuẫn giữa nhân dân ta và địch tuy sâu sắc, nhưng ta chưa đủ điều kiện để khởi nghĩa, tức là chưa có thời cơ khởi nghĩa.

Tuy nhiên, để khẩn trương chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa sắp tới, Hội nghị đã đề ra những công việc cần kíp trước mắt phải làm, như kiện toàn cơ quan lãnh đạo cấp Xứ, cấp tỉnh, quận; phát triển mạnh các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận phản đế, để tiến tới lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Xứ; tổ chức lực lượng du kích, mua sắm thêm vũ khí và luyện tập quân sự, đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch (binh vận)…

Một số Ban cần thiết chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa như Ban tham mưu, Ban phá hoại, Ban giao thông, Ban địch vận, Ban tài chính… cũng được phân công người phụ trách, không phải chỉ ở cấp toàn Xứ mà cả ở cấp tỉnh.

Để củng cố Xứ ủy, Hội nghị đã bầu ông Tạ Uyên làm Bí thư Xứ ủy thay ông Võ Văn Tần, hai ông Phan Văn Khỏe, Lê Văn Khương vào Ban Thường vụ và các Ủy viên: Phan Văn Bảy, Quản Trọng Hoàng, Phạm Thái Bường, Dương Công Nữ, Thái Văn Đẩu, Phạm Hồng Thám.

Nguồn: L12, tr.68-69.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Canh Thìn)

 1.054. Dương Văn Long soạn văn bia dựng tại chùa Hưng Long

Long phi Canh Thìn mạnh Thu tạo năm Bảo Đại 15, dựng tại chùa xã Bằng Khê, tổng Mễ Tường, huyện Thanh Liêm (nay thuộc xã Liêm Trung, thành phố Phủ Lý – Hà Nam) ghi: chùa Hưng Long xã Bằng Khê vốn có 2 pho tượng hộ pháp bằng đất, do lâu ngày tượng bị hỏng. Bà Dương Thị Lê đã cúng 20 đồng và 2 sào ruộng để tô lại, đồng thời xin gửi giỗ cho mẹ là bà họ Lại. Dân xã nhất trí ưng thuận, và cho bản thân bà cũng được gửi giỗ tại chùa. Có ghi tên, vị trí diện tích các xứ ruộng đã tiến cúng.

Nguồn: V12, tr.500.

        Ngày 27 tháng 9 (26 tháng Tám – Canh Thìn)

1.055. Họ Dương với Khởi nghĩa Bắc Sơn

Ngày 22-9-1940, quân Nhật vượt biên giới Việt – Trung tiến vào Lạng Sơn. Sau một vài trận chống cự yếu ớt, quân Pháp nhanh chóng đầu hàng, một số vứt lại súng đạn, tháo chạy theo hướng Điềm He – Bình Gia – Bắc Sơn – Thái Nguyên. Chính quyền ở các vùng đó và các tri châu Điềm He, Thất Khê, Tràng Định, Bắc Sơn cũng hoang mang, tan rã theo. Trong khi quân Pháp tan chạy thì nhân dân tại các địa phương này đã tổ chức thu nhặt vũ khí, chuẩn bị chiến đấu chống quân đội phát xít Nhật.

Trước tình hình đó, một số đảng viên vừa thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn về Bắc Sơn đã cùng Đảng bộ Bắc Sơn nhóm họp. Sau khi phân tích tình trạng bạc nhược của quân Pháp và tình hình quân Nhật mới đến, Đảng bộ quyết định phát động khởi nghĩa, thành lập Ban Chỉ huy để điềuh ành công việc.

Tám giờ tối 27-9-1940, với một lực lượng lên tới 600 người Tày, Dao, Nùng, Kinh,… Ban Chỉ huy đã chia làm ba mũi tấn công đồn Mỏ Nhài (ở châu lỵ Bắc Sơn), khiến cho tri châu và binh lính vội vàng tháo chạy. Ban Chỉ huy khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền đế quốc, ra lệnh đốt sổ sách, giấy tờ của địch.

Ngay khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ các ông Dương Thần Dần, Dương Quốc Vinh, Dương Nam Cường đã có mặt. Đền thờ tổ họ Dương ở thôn Đông Bằng trở thành nơi hội họp của Ban Chỉ huy.

Tiếp đó, trong các ngày 28 và 29-9-1940, lực lượng khởi nghĩa liên tiếp tổ chức các cuộc phục kích quân Pháp ở đèo Canh Tiêm, Sập Dì, Nà Ti, Thâm Thông, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Hoảng sợ trước sức nổi dậy ở Bắc Sơn, sau khi chấp nhận những yêu sách do phát xít Nhật đặt ra, thực dân Pháp nhanh chóng điều động quân trở lại Bắc Sơn để đàn áp. Chúng chiếm lại đồn Mỏ Nhài, tái lập bộ máy cai trị và tiến hành cuộc khủng bố lớn trên địa bàn Bắc Sơn. Các ông Dương Thần Dần, Dương Nam Cường bị bắt và giam giữ.

Nguồn: H4, tr.26.

        Tháng 9 (tháng Tám – Canh Thìn)

 1.056. Ông Dương Công Nữ giữ chức Bí thư Đảng bộ Chợ Lớn

Tuy bị khủng bố nhưng về Đảng cũng như các Hội trong Mặt trận phản đế, các đội du kích ở Chợ Lớn vẫn phát triển khá nhanh và mạnh, nhất là sau cuộc hội nghị của Xứ ủy tháng 9-1940 ở Xuân Thới Đông (Tân Xuân, Hóc Môn).

Đến gần khởi nghĩa, Đảng bộ Chợ Lớn đã có 33 chi bộ với khoảng trên 300 đảng viên. Đông và mạnh nhất ở hai quận Đức Hòa và Trung Quận. Quận ủy Đức Hòa có 11 làng đều có chi bộ Đảng. Trung Quận 11/15 làng có chi bộ. Vùng hạ Cần Đước và Cần Giuộc chưa phát triển được thêm đảng viên nhưng cơ sở và phong trào quần chúng yêu nước phát triển mạnh.

Tỉnh ủy gồm các ông Dương Công Nữ, Xứ ủy viên trực tiếp làm Bí thư; Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Nhâm phụ trách Trung Quận; Nguyễn Văn Tuôi, Phan Văn Mảng phụ trách Cần Đước; Nguyễn Thị Bẩy phụ trách Cần Giuộc; Nguyễn Văn Yến phụ trách Đức Hòa; Trần Chí Nam (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh) được điều về tăng cường cho Cần Giuộc.

Sau hội nghị tháng 9-1940, Tỉnh ủy Chợ Lớn đã có nhiều cuộc họp mở tại Trung Quận để bàn triển khai việc chuẩn bị khởi nghĩa theo chủ trương của Xứ ủy.

Nguồn: L12, tr.179.

 1.057Ông Dương Hảo Học được cử làm Trưởng ban khởi nghĩa quận Càng Long (Trà Vinh)

Sau Hội nghị Tân Hương, Bí thư Xứ ủy Tạ Uyên về trực tiếp truyền đạt Nghị quyết cho Tỉnh ủy Vĩnh Long và Trà Vinh. Tháng 9-1940, bà Ngô Thị Huệ – Phó Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, có chân trong Tỉnh ủy lâm thời Trà Vinh được cử xuống phổ biến những công việc cần làm trong công tác chuẩn bị khởi nghĩa ở Trà Vinh.

Ở quận Càng Long, sau khi nhận chủ trương khởi nghĩa, ông Dương Hảo Học đã lãnh đạo cơ sở đẩy mạnh phong trào rải truyền đơn, tổ chức các cuộc mít tỉnh nghe nói chuyện ở khắp các làng An Trường, Tân An, Bình Phú, Mỹ Cẩm, Huyền Hội, Nhị Long và Phương Thạnh; có cuộc tới hàng trăm người dự.

Các chi bộ đều lựa chọn người khỏe mạnh đũng cảm, tin cẩn đưa vào đội du kích và đã tiến hành luyện tập quân sự, cách đánh du kích, phá hoại… Phong trào mua sắm vũ khí cũng sôi nổi. Không khí chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa rất khẩn trương.

Ban khởi nghĩa được thành lập gồm các ông Dương Hảo Học (Trưởng ban), Triệu Văn Hiến, Đoàn Văn Thạch, Nguyễn Văn Phó, Lương Văn Cẩn, Nguyễn Thành Danh, Trịnh Văn Cúc, Đỗ Phú Hữu (Ủy viên).

Về kế hoạch khởi nghĩa, chia ra nhiều mũi tiến công như sau:

Mũi thứ nhất: gồm khoảng 150 du kích và quần chúng các xã Mỹ Cẩm, quận lỵ Càng Long do ông Lương Văn Cẩn chỉ huy. Vũ khí thô sơ đã có: 25 phảng; 4 mã tấu; 20 dao mác; cùng tầm vông vạt nhọn; đã chuẩn bị băng, cờ, khẩu hiệu…

Mũi thứ hai: gồm khoảng 90 du kích, quần chúng của các làng An Trường, Tân An, Huyền Hồi do các ông Dương Hảo Học, Nguyễn Tài Tốt, Trương Văn Đa, Đoàn Văn Thạch, chỉ huy. Vũ khí thô sơ đã có 5 mã tấu; 2 bộ kiếm; 19 dao; mác, gậy, tầm vông vạt nhọn và thường xuyên luyện tập.

Mũi thứ ba: gồm khoảng 100 du kích, quần chúng các làng Bình Phú, Nhị Long, Phương Thạnh, do các ông Trịnh Văn Cúc (Năm Cúc); Đỗ Phú Hữu; Bùi Thanh Liêm; Võ Văn Tác, Nguyễn Thanh Tùng chỉ huy. Bình Phú đã lập lò rèn ở Rạch Dừa, mời thầy dạy võ cho du kích. Đã trang bị: 5 mã tấu; 1 bộ kiếm; 3 súng kíp; 20 dao, mác…

Ngoài lực lượng nòng cốt trên, quần chúng còn tự tạo gậy, dao, mác, tâm vông.. sẵn sàng tham gia nổi dậy.

Gần đến ngày khởi nghĩa, do ta hoạt động mạnh ở quận Càng Long, địa chủ họ Lâm phát hiện đi báo cho địch. Chúng huy động lính bao vây bắt được ông Dương Háo Học, Trương Văn Đa, xã Dũng và nhiều cốt cán khác.

Nguồn: L12, tr.295-297.

        Ngày 22 tháng 11 (23 tháng Mười – Canh Thìn)

 1.058. Kế hoạch khởi nghĩa Nam Kỳ bị lộ, địch bắt Dương Bạch Mai tại Nhà thương Chợ Quán

Ngày 22-11-1940, khoảng 13 giờ, Sở Cảnh sát phát hiện được kế hoạch khởi nghĩa thì viên Thống đốc Nam Kỳ gửi cả thư riêng và mật tới tướng Tư lệnh sư đoàn Nam Kỳ – Cao Miên, Đô đốc Tư lệnh hải quân Đông Dương, Tổng Chưởng lý, Đốc lý thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn, Giám đốc Khám Lớn để báo trước.

Đồng thời Thống đốc Nam Kỳ cũng điện khẩn, mật báo cáo với Toàn quyền Đông Dương có tin trong đêm có thể cộng sản đánh một số nơi ở Sài Gòn như trại lính, Ba Son, Khám Lớn, cơ sở kỹ nghệ; đã bắt một số ở Sài Gòn; tiếp theo, sẽ họp tướng tá, đô đốc, mật thám bàn biện pháp an ninh cho cơ sở quân đội, hải quân; cấm trại, tăng gấp đôi quân canh gác kho súng đạn; gọi lính trở về, tăng nhiều tuần tra, báo động hoàn toàn cho mã tà (lính khố xanh).

Ngay tại Sài Gòn, khoảng 17 giờ, Arnoux cho cảnh sát đi kiểm tra Khám Lớn, một trong những mục tiêu chính của những người nổi dậy. Chúng thấy lúc đó thiếu 12 tù chính trị cho đi Nhà thương Chợ Quán, trong đó có những người lãnh đạo, vội vã cho bắt ngay và đưa họ trở lại Khám Lớn: Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Vũ Đình Hiếu và Bùi Văn Ngữ… Đây chính là nguyên nhân khiến cho cuộc họp để phổ biến và thi hành mệnh lệnh khởi nghĩa của Xứ do Ban Khởi nghĩa thành triệu tập không tổ chức được. Ngoài nguyên nhân các lãnh đạo chủ chốt đã bị bắt là sự chủ động đề ra các biện pháp để phòng ngăn chặn đối phó của địch, làm cho cuộc khởi nghĩa của thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn không thể nổ ra.

Nguồn: L12, tr.137-139.

        Trong năm

1.059. Dương Đình Hội tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nội

Ông quê ở Hưng Yên, tham gia Đoàn Thanh niên Dân chủ hoạt động tại Hà Nội từ những năm 1938-1939. Khi tham gia vào Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nội, ông đã ngoan cường hoạt động để duy trì bằng được cơ quan lãnh đạo. Tháng 3-1940, Bí thư Thành ủy Nguyễn Mạnh Đạt bị bắt. Một thời gian sau, Bí thư Dương Nhật Đại lại bị lộ phải chuyển vùng. Bản thân ông cũng sa vào tay kẻ thù năm 1942, bị kết án khổ sai 20 năm biệt xứ đày đi Côn Đảo.

Năm 1945 sau khi được đón trở về đất liền, ông tham gia kháng chiến ở Nam Bộ, giữ trọng trách Bí thư Tỉnh ủy Gò Công, hy sinh anh dũng trên mảnh đất này vào năm 1946.

Nguồn: T27, tr.125.

 1.060. Dương Đức Hiền tham gia lãnh đạo Tổng hội Sinh viên Việt Nam

Tổng hội Sinh viên Đông Dương (Asscociation General des Etudiants – A.G.E.D) được thành lập vào cuối năm 1936 đầu năm 1937. Chính quyền thực dân công nhận tổ chức này và cho đăng điều lệ và nội quy của A.G.E.I. Theo điều lệ và nội quy này thì hàng năm cứ đầu niên học Tổng hội Sinh viên Đông Dương họp Đại hội đồng (Assemblée General), tờ báo của Tổng hội là tờ Le monome xuất bản bằng tiếng Pháp.

Các Hội trưởng Tổng hội Sinh viên Đông Dương thời gian đó lần lượt là Phan Anh, Lê Văn Chất, Vũ Văn Hiền, Phan Biểu Tâm…

Tới những năm học 1939-1940, nhiều sinh viên Việt Nam đã tiến hành cuộc vận động thành lập Ủy ban Trung ương Tổng hội Sinh viên, cử Phạm Biểu Tâm bấy giờ là một sinh viên giỏi của trường Đại học Y dược làm Hội trưởng. Ủy ban Trung ương Tổng hội Sinh viên năm đó cũng tập hợp nhiều sinh viên tích cực hoạt động yêu nước như Lưu Hữu Phước, Trưởng ban Âm nhạc; Huỳnh Văn Tiểng, Trưởng ban Khánh tiết; Mai Văn Bộ phụ trách tờ báo Le Monôme; Dương Đức Hiền, Trưởng ban Du ngoạn (tổ chức thăm các di tích lịch sử).

Dương Đức Hiền đã cùng Tổng hội Sinh viên tiến hành một loạt các hoạt động gây men kích thích phong trào yêu nước phát triển rộng rãi và mạnh mẽ, liên tục trong sinh viên Việt Nam. Tổng hội đã tổ chức nhiều cuộc đi thăm và cắm trại ở các danh lam, thắng cảnh và di tích lịch sử như đền Hùng, đền Gióng ở Sóc Sơn, Vạn Kiếp và Côn Sơn, Lam Sơn, Đống Đa, v.v.. Các di tích nhắc lại cho sinh viên quá khứ anh dũng chống ngoại xâm của dân tộc. Tổng hội Sinh viên năm nào cũng tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương để sinh viên cùng dâng hương tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn tổ tiên đã xây dựng đất nước Việt Nam.

Bên cạnh việc tham quan các di tích lịch sử, Tổng hội Sinh viên hàng năm tổ chức các trại hè nhằm tập hợp và rèn luyện những đức tính cần thiết cho sinh viên yêu nước.

Với cương vị Trưởng ban Âm nhạc của Tổng hội Sinh viên, Lưu Hữu Phước sáng tác nhiều bài ca yêu nước (Hội nghị Diên Hồng, Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang…), kêu gọi thanh niên theo gương người xưa (Người xưa đâu tá, Hồn tử sĩ) và cả những bài ca thôi thúc mọi người suy ngẫm về những gương đau đớn của lịch sử như Hờn sông Gianh và trên hết là bài Tiếng gọi sinh viên (sau đổi lại Tiếng gọi thanh niên). Bên cạnh đó là các ca khúc Ta cùng đi, Thiếu nữ Việt Nam, Việt nữ gọi đàn, Bài hát của thiếu sinh thúc giục tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân cùng các bài Xếp bút nghiên, Mau về Nam, Lên đàng.

Nguồn: B6, tr.265-266.

        NĂM 1941 (CANH THÌN – TÂN TỴ)

        Ngày 22 tháng 1 (26 tháng Chạp – Canh Thìn)

 1.061. Ông Dương Công Nữ tiếp tục tham gia Xứ ủy Nam Kỳ

Ngày 21, 22-1-1941, Hội nghị Xứ ủy mở rộng họp tại Đa Phước (quận Cần Giuộc), gồm các đại biểu của Liên Tỉnh ủy miền Đông, miền Tây và một số Xứ ủy viên cũ.

Hội nghị đã phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của cuộc khởi nghĩa:

  1. Mệnh lệnh khởi nghĩa chỉ do 4 người trong bộ tham mưu và không phổ biến đúng lúc cho tất cả đảng viên cộng sản.
  2. Đội ngũ những người cộng sản bị phân táQuân khởi nghĩa không có vũ khí hiện đại
  3. Chuẩn bị chưa xong, chưa hoàn toàn sẵn sàng.
  4. Giao thông liên lạc bị rối loạn.
  5. Kế hoạch “đánh chiếm Sài Gòn – Chợ Lớn”, bị mật thám bí mật khám phá, do chỉ huy không thường xuyên cảnh giác, ngày đêm kiểm soát, không thể hoãn hành động và thực hiện một quyết định khác nhằm cứu vãn tình hình trước việc dẫn tới những tổn thất nghiêm trọng […]

Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa mới, Hội nghị Xứ ủy chủ trương xây dựng căn cứ U Minh, trước mắt sẽ điều một số cán bộ ở các địa phương về cùng với Rạch Giá, Bạc Liêu thành lập cơ quan lãnh đạo, tổ chức đội du kích, cung cấp phương tiện điều kiện để chủ động sản xuất vũ khí ra báo Giải Phóng, làm cơ quan tuyên truyền của Xứ ủy.

Để củng cố cơ quan lãnh đạo, Hội nghị đã cử ra Xứ ủy mới gồm 4 Xứ ủy viên cũ: Phan Văn Khỏe (Bí thư), Phan Văn Bảy (Phó Bí thư), Dương Công Nữ, Phạm Hồng Thám và 5 Xứ ủy viên mới: Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Văn Kỉnh, Phạm Văn Sáng, Nguyễn Văn Trọng, Lưu Nhân Sâm; 1 Ủy viên dự khuyết Ngô Tám.

Nguồn: L12, tr.428-431.

        Ngày 27 tháng 3 (30 tháng Hai – Tân Tỵ)

 1.062. Dương Khuy, Dương Quang Đông vượt ngục tại Căng Tà Lài

Căng Tà Lài, một trại tập trung mang tên Trại lao động đặc biệt nằm ở vùng rừng miền Đông, bên bờ sông Đồng Nai. Căng Tà Lài là nơi thực dân Pháp hàng năm giam giữ 300 – 400 tù chính trị nguy hiểm bị bắt thời kỳ 1936-1939 trở về trước.

Ngay khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ngày 20-5-1940, Dương Khuy và Dương Quang Đông bị bắt, giam tại Căng Tà Lài. Trước tình hình đó, Đảng ủy lãnh đạo Căng Tà Lài đã quyết định tổ chức vượt ngục để đưa cán bộ trở về tập hợp đội ngũ đảng viên, xây dựng lại cơ sở, hệ thống Đảng ở Nam Kỳ.

Cũng trong thời gian này, một số cán bộ lành đạo của tỉnh Mỹ Tho như Nguyễn Thị Thập, Nguyễn Văn Cảnh (Tám Cảnh), Nguyễn Văn Chiêm,… sau một thời gian lánh ở Đồng Tháp Mười đã phân công nhau đi chắp nối với cơ sở.

Trong khi các đảng viên ở ngoài tiếp tục hoạt động thì đầu năm 1941, một số cán bộ bị giam ở Căng Tà Lài đã tổ chức vượt ngục ngoài thành công: Dương Khuy, Minh, Khước, Trần Văn Giàu, Dương Văn Phúc (Dương Quang Đông), Châu Văn Giác, Trần Anh Kiệt (Văn), Nguyễn Công Trung, Trương Văn Nhâm, Nguyễn Tấn Đức, Tô Ký,…

Ngày 27- 3-1941, tám người xuống hai chiếc xuồng bơi ngược dòng sông Đồng Nai đang chảy xiết. Vượt qua bao nhiêu thác ghềnh, đến thượng lưu sông, mọi người lên bờ đi sâu vào rừng, ngược lên phía bắc. Hết lương thực, hỏi đường thì người dân tộc không hiểu, nửa tháng đói, rét, tưởng chừng không ra được khỏi rừng sâu.

Vượt qua mọi gian nan nguy hiểm, cả 8 người đã thoát ngục, trở về hoạt động. Trừ bốn người bị địch bắt lại, những người còn lại phân công nhau về Nam Kỳ chắp nối gây dựng lại tổ chức Đảng.

Nguồn: L6, tập II, tr.730-731.

        Tháng 5 (tháng Tư – Tân Tỵ)

 1.063. Dương Đức Hiền tham gia nhóm Thanh Nghị

Từ tháng 9-1939 tờ Thanh Nghị – tuần báo Văn hóa do Doãn Kế Thiện làm chủ bút đã được cấp giấy phép nhưng chỉ ra được hai số thì hết vốn. Một nhóm trí thức yêu nước gồm Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Vũ Đình Hoè, Hoàng Thúc Tấn, Lê Huy Vân đã quyết định mua lại giấy phép ra báo Thanh Nghị và lập thành Nhóm Thanh Nghị. Tham gia vào lễ ra mắt còn có Định Gia Trinh, Nguyễn Trọng Phấn, Phạm Lợi, Nguỵ Như Kon Tum. Nhóm đã cử Vũ Đình Hoè làm chủ nhiệm kiêm quản lý và Doãn Kế Thiện vẫn giữ danh vị sáng lập viên. Tháng 5-1941, tờ Thanh Nghị của nhóm ra số đầu tiên.

Thanh Nghị có một ban biên tập gồm nhiều luật gia (Vũ Đình Hoè, Phan Anh, Đinh Gia Trinh, Đỗ Đức Dục, Dương Đức Hiền, Vũ Văn Hiền), kỹ sư nông học (Nghiêm Xuân Yêm), toán học kiêm sử học (Hoàng Xuân Hãn), bách khoa (Đào Duy Anh), phê bình văn học (Đặng Thai Mai) chia ra thành các nhóm chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa – giáo dục.

Thanh Nghị đã đem đến cho bạn đọc những đúc kết từ quá khứ, các tìm tời từ kinh nghiệm, các phân tích về giai tầng xã hội, đánh giá trọng lực của quá khứ và canh tân… trở thành tiếng nói của quá khứ nhen nhóm đức tin cho thế hệ thanh niên Việt Nam vào tương lai.

Nguồn: B6, tr.282 – 283.

        Ngày 3 tháng 6 (9 tháng Năm – Tân Tỵ)

1.064. Dương Tự Quán làm Quản lý, xuất bản số đầu tiên tuần san văn hóa Tri Tân tại Hà Nội

Tòa soạn lúc đầu đặt tại 249 phố Huế, chuyển đến 195 Hàng Bông rồi về 95-97 Chanceaulme.

Tuần san phát hành vào thứ ba hàng tuần. Số 214 là số cuối cùng, phát hành ngày 16-7-1946.

Nguồn: T11, tr.535.

        Tháng 6 (tháng năm – Tân Tỵ)

1.065. Dương Quảng Hàm xuất bản Việt Nam Văn học sử yếu

Dương Quảng Hàm xuất thân trong một gia đình Nho học, là em ruột nhà văn Dương Bá Trạc. Thuở thiếu thời ông học chữ Nho ở quê sau ra Hà Nội học chữ Quốc Ngữ. Năm 1920, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương với luận văn Khổng Tử và học thuyết Khổng Mạnh trong nền giáo dục cũ, làm giáo viên trường Trung học bảo hộ (trường Bưởi, Chu Văn An ngày nay) cho đến năm 1946. Ông có rất nhiều công lao trong việc soạn sách giáo khoa tiếng Việt kể cả tiếng Pháp. Ngoài một số cuốn ông đã soạn như: Tập bài thi bằng sơ học yếu lược (soạn chung với em ruột Dương Tụ Quán, 1926), Những bài học lịch sử An Nam, dùng cho học sinh lớp nhì và lớp nhất các trường tiểu học Pháp Việt (1927)… Ông còn có một công trình nghiên cứu văn học Việt Nam hết sức quan trọng nhan đề là: Quốc văn trích diễm, sau đổi thành Việt văn giáo khoa thư cuối cùng đổi thành Việt Nam Văn học sử yếu gồm 46 chương, trong đó đề cập đến các vấn đề: Văn chương bình dân, Ảnh hưởng của nước Tàu, Các chế độ và việc học, việc thi cử, các thể văn, Ảnh hưởng của nước Pháp, Vấn đề ngôn ngữ văn tự. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về lịch sử văn học Việt Nam. Trong đó, tác giả bước đầu phân chia các thời kỳ phát triển của nền văn học Việt Nam: từ thời Lý – Trần (thế kỷ XI-XIV) qua thời kỳ Lê-Mạc (thế kỷ XV-XVIII) đến thời kỳ cận kim (thế kỷ XIX). Ngoài ra, ông dành trọn 7 chương, để nói tới nền văn học dân tộc nước nhà đầu thế kỷ XX. Đó là thời kỳ hình thành nền quốc văn mới. Một nền văn học lấy chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ viết chính thống. Trong cuốn sách của mình, ông giới thiệu nền văn xuôi mới, và các thi sĩ, văn sĩ hiện đại. Cuốn sách của ông còn có bảng liệt kê khá tỉ mỉ và đầy đủ các tác giả và tác phẩm.

Mở đầu công trình, Dương Quảng Hàm viết: “Ai cũng biết rằng hiện nay không có quyển sách nào chép về văn học lịch sử nước ta: không nói gì những quyển sách tham khảo tinh tường cho các học giả dùng, ngay trên những sách lóm tắt các điều đại cương cho học sinh dùng cũng không có. Gần đây, các học giả nước ta đã nhận thấy sự thiếu thốn ấy, nên trên các báo chí, thỉnh thoảng có những bài nghiên cứu về một tác giả, một tác phẩm hoặc một vấn đề thuộc đề văn học sử của ta. Lại có mấy nhà khảo cứu người Pháp đã dịch những tác phẩm của ta ra Pháp văn hoặc theo các tài liệu trong sử sách của ta mà viết ra những thiên chuyên khảo về văn tịch nước ta. Nhưng các bài khảo cứu ấy còn tản mát ở các sách, các báo và chưa thành thống hệ gì. Lại có nhiều vấn đề vì còn thiếu tài liệu để kê cứu nên chưa thể giải quuết được.

Nay chúng tôi lấy tài sơ học thiển soạn ra quyển Việt Nam Văn học sử yếu này, cũng tự biết là làm một niệc quá bạo và chắc rằng tác phẩm của chúng tôi còn nhiều điều thiếu thốn, phải đợi công cuộc khảo cứu tra tầm của các học giả sau này mà bổ khuyết dần. Dù sao chăng nữa, trong việc biên tập, chúng tôi đã hết sức cẩn thận. Khi xét về một vấn đề nào, trước hết sưu tập các tài liệu tản mạn ở các sách các báo, rồi khảo sát, suy nghĩ: điều gì xác thực chắc chắn mới chép, điều gì còn hồ nghi thì để huyền, điều gì có nhiều thuyết tương đương thì giãi bày rõ ràng dể sau này có thể nghiên cứu thêm mà quyết định. Tóm lại, chúng tôi lấy sự thực làm trọng, không khi nào dám lấy ý riêng mà giải quuết một nghi vấn theo cách võ đoán, cũng không hấp tấp theo liều những ý kiến thông thường nhiều khi sai lầm hoặc thiên lệch”.

Nguồn: V15, tr.5-6; C5, tr.257.

        Ngày 17 tháng 7 (23 tháng Sáu – Tân Tỵ)

 1.066 Dương Thành Phong làm Chủ nhiệm, xuất bản số đầu tiên tuần san Phú Thọ đua ngựa tại Sài Gòn

Tòa soạn đặt tại số 3 Rêmix – Sài Gòn. Số 21 ra vào tháng 4-1941 là số cuối cùng.

Nguồn: T11, tr.354.

        Trong năm

 1.067. Dương Ngà xuất bản tiểu thuyết Bước đường mới

Đây là cuốn tiểu thuyết về đề tài truyền bá quốc ngữ, chống nạn thất học – một đề tài khá đặc biệt so với tiểu thuyết đương thời. Tác giả cuốn tiểu thuyết là một trong những nhân vật chủ chốt của Hội truyền bá quốc ngữ, và cuốn sách có Lời tựa của Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố: “Người ta thường ví cái tinh thần bọn trẻ như một kẻ tha hương, phải có người đưa đường dẫn lối thì mới khỏi sa ngã vào chỗ nguy hiểm. Ông Dương Ngà viết quyển tiểu thuyết này, chủ ý là dắt các thanh niên lên trên con đường xán lạn mà Hội truyền bá Quốc ngữ lăm le bước tới đã hơn 3 năm nay. Ông có một ngọn bút tài tình, vẽ những người trong truyện hệt như người thật, lời văn lại uyển chuyển lưu loát, có đoạn rất lý thú, như đoạn nói về việc “chống chọi với nạn thất học”.

Cuốn tiếu thuyết thể hiện rõ mục đích tuyên truyền cho phong trào truyền bá quốc ngữ, chống nạn thất học. Tuy tính chất tuyên truyền giáo huấn khá rõ, truyện vẫn làm người ta cảm động vì lẽ sống đẹp.

Nguồn: T26, tr.723, 727.

        NĂM 1942 (NHÂM NGỌ)

        Tháng 3 (tháng Hai – Nhâm Ngọ)

 1.068. Bà Dương Thị Sinh cung tiến tu tạo chùa Viện Giang

Viện Giang hương lão bi ký tạo năm Bảo Đại 17 tại chùa Nghiêm Hoa, bản xã (nay là làng Vèn, xã Đông Tân – thành phố Thanh Hóa), cho biết chùa làng có từ cổ xưa, trải bao mưa nắng, bi ký vẫn còn. Trong năm, khi các bô lão tu tạo xong lư hương, xây tường đá nhờ sự đóng góp của dân làng nên khắc đá ghi danh để lại lâu dài.

Nguồn: T16, tập I, tr.523-526.

        NĂM 1943 (QUÝ MÙI)

        Ngày 15 tháng 2 (11 tháng Giêng – Quý Mùi)

 1.069. Bà Dương Thị Phán công đức xây lại chùa thôn Cầu

Hậu bi ly ký tạo năm Bảo Đại 18, dựng tại chùa thôn Cầu (nay thuộc xã Trung Hòa, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi rằng, xã ghi công bà đã công đức 60 đồng dùng cho việc sửa chùa nên dân khắc bia để sau bà trăm tuổi được cúng giỗ.

Nguồn: T9. 2002.

        Ngày 15 tháng 10 (17 tháng Chín – Quý Mùi)

1.070 Dương Quang Đông được cử tạm quyền Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ

Từ năm 1943, phong trào cách mạng ở Nam Kỳ xuất hiện những điều kiện mới, sự khủng bố của địch giảm xuống, nhiều đảng viên vượt ngục hoặc mãn hạn tù trở về các địa phương tham gia hoạt động, các đồng chí tạm lánh cũng quay về. Các đảng viên còn lại bên ngoài đẩy mạnh khôi phục lại tổ chức. Một bộ phận đảng viên ở Nam Kỳ đã bắt được liên lạc với Trung ương. Tuy nhiên, phong trào cách mạng Nam Kỳ vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là sự thiếu vắng cơ quan lãnh đạo của toàn kỳ.

Nắm bắt được yêu cầu bức xúc đó, sau một thời gian gây dựng cơ sở, tổ chức được một số Tỉnh uỷ, phân công người làm Bí thư các tỉnh, lập các Liên Tỉnh uỷ miền Tây, miền Trung, miền Đông Nam Kỳ, các cán bộ vượt ngục Tà Lài (đầu năm 1941) đã triệu tập Hội nghị vào ngày 13-10-1943 tại nhà ông Hương trưởng 7 Trần Vinh Hoài, xã Tân Thuận Bình (Chợ Gạo, Mỹ Tho) để lập lại Xứ uỷ Nam Kỳ, đánh giá tình hình, đề ra chủ trương hoạt động.

Hội nghị nghiên cứu bài học xương máu năm 1940, Nghị quyết Hội nghị Trung ương (11-1939). Hội nghị chủ trương trong điều kiện chưa liên lạc được với Trung ương thì thực hiện theo Nghị quyết Trung ương 6. Theo đó, nhiệm vụ cấp bách lúc này là giải phóng dân tộc, nhiệm vụ cách mạng điền địa tạm hoãn; cách mạng thành công sẽ lập Chính phủ Cộng hoà…

Hội nghị quyết định: mặc dầu bị tổn thất nặng năm 1940, Nam Kỳ không được vắng mặt trong cuộc khởi nghĩa toàn quốc, cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ phải nổ ra trước hết và chủ yếu ở Sài Gòn – đầu não của địch, các tỉnh sẽ khởi nghĩa tiếp theo và đồng thời. Do đó, cần tập trung sức lực vào thành phố và vùng lân cận mà không xem nhẹ các tỉnh ở xa. Hội nghị cho rằng muốn nắm được Sài Gòn phải nắm được công nhân và thanh niên. Lực lượng công nhân có mạnh mới lôi kéo được các tầng lớp khác. Có nắm được thanh niên mới lôi kéo được tầng lớptư sản, trí thức và tư sản dân tộc. Hội nghị đặt vấn đề “công nhân vận động” vào hàng chủ yếu và cấp bách.

Ngày 10-10 Hội nghị bầu Xứ uỷ Nam Kỳ gồm 11 Ủy viên, nhất trí cử Trần Văn Giầu làm Bí thư Xứ uỷ. Tuy nhiên, do Trần Văn Giầu không tham dự Hội nghị nên Dương Quang Đông tạm giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ đến tháng 4-1945.

Nguồn: L6, tr.830-831.

        Ngày 28 tháng 10 (30 tháng Chín – Quý Mùi)

1.070. Dương Bá Trạc, Trần Trọng Kim gặp nhau ở Sở Hiến binh Nhật

Từ sau khi Nhật xâm chiếm Đông Dương, trong hàng ngũ của giới trí thức có sự phân hóa rõ. Để đối phó với phong trào yêu nước, cách mạng và ru ngủ các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trí thức, công chức, thực dân Pháp và phát xít Nhật một mặt đàn áp dòng văn học cách mạng và tiến bộ rất khốc liệt, mặt khác cho phép một số người như Phạm Lê Bổng, Phạm Tá, Phạm Xuân Bộ ra sức tuyên truyền cho chủ nghĩa phát xít của Pêtanh, xuất bản nhiều ấn phẩm phản động và lôi kéo mua chuộc nhân dân bằng những giải thưởng văn học.

Nhằm giành giật đội ngũ trí thức và giới văn nghệ sĩ, đẩy mạnh xâm lược về văn hóa, trước hết đưa tư tưởng Đại Đông Á vào công chúng, phát xít Nhật đã cho thành lập tại Hà Nội Viện Văn hóa Nhật ở Đông Dương do Công sứ Masynki Yôkôhama, kẻ đứng đầu Phái bộ Kinh tế Nhật ở Đông Dương làm Viện trưởng.

Từ cuối năm 1943, cùng với việc che chở, nuôi dưỡng cho các tổ chức, đảng phái tay sai, các lực lượng lưu vong ở Nhật tập hợp chung quanh Cường Để, phát xít Nhật tiếp tục tập hợp những chính khách có uy tín trong dân chúng, đưa họ qua Chiêu Nam Đảo (Sinhgapour) để chờ thời cơ tìm cách mua chuộc, lung lạc – trong số này có Dương Bá Trạc, Trần Trọng Kim, Đặng Văn Kỳ, Trần Văn Ân.

Trong Hồi ký Một cơn gió bụi (Kiến văn lục), Trần Trọng Kim kể lại buổi gặp gỡ chiều 28-10-1943 với ông Dương Bá Trạc ở Sở Hiến binh Nhật tại Hà Nội như sau:

“Đến 5 giờ chiều hôm ấy, thấy hiến binh Nhật đem ông Dương Bá Trạc cũng vào đấy.

Ông Dương Bá Trạc là một nhà văn học, đỗ Cử nhân từ thủa mới 16 tuổi, vì tình nước mà bỏ không ra làm quan, theo ông Phan Bội Châu đi làm cách mệnh đã từng phải đày ra Côn Lôn và phải cưỡng bách lưu trú mấy năm ở Nam Kỳ. Ông cùng với tôi là bạn làm bộ Việt Nam tự điển ở ban Văn học Hội Khai trí Tiến Đức. Tôi trông thấy ông Dương, cười bảo: – Sao bác lại vào đây?. Ông Dương nói: – Mình đi ngoài đường định lui về quê, bị bọn hiến binh Nhật mời lên xe đưa vào đây. Nghe đâu ở ngoài phố họ bắt lung tung cả, chưa biết rõ những ai.

Sau một lúc chuyện trò về tình cảnh của nhau, ông Dương nói: – Bây giờ chúng ta lâm vào cảnh này thật là khó quá. Dù rồi ra chúng ta có về nhà nữa, người Pháp cũng chẳng để yên. Chi bằng ta nói với hiến binh Nhật cho chúng ta ra ngoài để gặp ông Cường Để, ta sẽ bàn cách làm việc gì có ích lợi cho tương lai nước nhà.

– Ông Cường Để thì chỉ có bác quen mà thôi, và nghe nói ông ấy đã ủy quyền cho ông Ngô Đình Diệm và Huỳnh Thúc Kháng tổ chức mọi việc, tôi chạy theo ông ấy thì có ích gì?

– Ông Cường Để là người Chính phủ Nhật Bản đã giúp đỡ, ta ra cùng làm việc với ông ấy, rồi xin cùng người Nhật cho cả ông Huỳnh Thúc Kháng và ông Ngô Đình Diệm ra nữa, ta sẽ lập thành một cơ quan ở hải ngoại, thu thập hết thảy những nhà cách mệnh đã ở nước ngoài về một chỗ thì sự hành động của ta sẽ có ý nghĩa lắm. Chẳng hơn là cứ ẩn nấp ở trong nước, để người Pháp chực bắt bớ.

Tôi nghe ông Dương nói cũng bùi tai, nên bàn nhau viết thư xin người Nhật giúp chúng tôi ra ngoài. Cách mấy hôm, viên Thiếu tá hiến binh Nhật ở Hà Nội đến thăm chúng tôi và nói: – Việc các ông xin ra ngoài là rất phải, để tôi vào Sài Gòn hỏi ý kiến Tư lệnh bộ trong ấy, lệnh trên định thế nào, tôi sẽ nói cho các ông biết”.

Nguồn: M4, tr.24-25.

        NĂM 1944 (GIÁP THÂN)

        Ngày 30 tháng 6 (10 tháng Năm – Giáp Thân)

1.071. Đảng Dân Chủ Việt Nam do Dương Đức Hiền làm Tổng Thư ký thành lập

Thực hiện chủ trương mở rộng khối đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Việt Minh, Đảng đã đề ra biện pháp để thu hút các tầng lớp trí thức vào hàng ngũ cách mạng. Ông Võ Quý – cán bộ Việt Minh đã nhiều lần tiếp xúc với các nhóm trong Tổng bộ Sinh viên để bàn bạc thành lập một chính đảng phù hợp nằm trong Mặt trận Việt Minh.

Đầu năm 1944, trong khi chờ đợi việc lập ra tổ chức chính trị của mình, một nhóm sinh viên người Nam Kỳ đã rời Hà Nội xếp bút nghiên lên đường tranh đấu (Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Đặng Ngọc Tốt, Trần Bửu Kiếm). Số sinh viên còn lại ở Bắc Kỳ, được sự giúp đỡ của Đảng và Mặt trận Việt Minh, ngày 30-6-1944, tại làng Thanh Xuân (trên đường Hà Nội – Hà Đông) đã thành lập Việt Nam Dân chủ Đảng – sau đổi là Đảng Dân chủ Việt Nam – với các đại diện Dương Đức Hiền (luật gia), Cù Huy Cận (kỹ sư canh nông), Huỳnh Bá Nhung (bác sĩ), Nguyễn Dương Hồng. Cuộc họp đã thông qua Chánh cương, Điều lệ và vạch ra tôn chỉ, mục đích của Đảng là đấu tranh cho “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.

Xác định về nguyên tắc, mối quan hệ với các lực lượng xã hội, Chánh cương khẳng định: “Đoàn kết với hết thảy các tầng lớp nhân dân và các đoàn thể cách mạng chân chính để đấu tranh giải phóng dân tộc”.

Đối tượng, nhiệm vụ tranh đấu trước mắt và nguyên tắc quan hệ đối ngoại của Đảng được đề ra là: “Công kích chế độ thực dân tàn nhẫn của đế quốc Pháp và phe Đờ Gôn, đồng thời vạch ra cho quốc dân biết rõ tham vọng xâm lược của đế quốc dã tâm muốn làm bá chủ Á Đông và chính sách ăn cướp của phátxít Nhật và hành động phản nước của các nhóm thân Nhật, thân Pháp”.

“Liên kết với các nước đồng minh, lấy nguyên tắc bình đẳng và tương trợ làm căn bản”.

Hội nghị đã cử Dương Đức Hiền làm Tổng Thư ký. Tháng 7-1944, Đảng Dân chủ Việt Nam gia nhập Mặt trận Việt Minh.

Nguồn: B6, tr.350-351.

        Ngày 11 tháng 12 (26 tháng Mười – Giáp Thân)

1.072. Dương Bá Trạc qua đời tại Chiêu Nam Đảo

Trong Một cơn gió bụi (Kiến văn lục), Trần Trọng Kim cho biết:

– “Chúng tôi đợi ở khách sạn đến gần ba tuần lễ, viên Thiếu tá mới trở về và đến nói cho chúng tôi biết: Tư lệnh bộ cho hay các ông đi đâu bây giờ cũng không tiện, chỉ có ra Chiêu Nam Đảo là yên ổn hơn cả. Các ông ra đấy rồi ông Cường Để cũng sắp về đấy cùng các người khác nữa sẽ họp nhau làm việc, rất là thuận tiện!

Chúng tôi nghĩ miễn là mình thoát ra khỏi cái cảnh eo hẹp này là được, vậy có ra Chiêu Nam Đảo cũng chả sao. Chúng tôi nhận đi.

Từ đó người Nhật tổ chức đưa chúng tôi vào Sài Gòn rồi đưa ra Chiêu Nam Đảo. Lúc chúng tôi ở Hà Nội đi, có người giúp cho được 5.000 đồng, giao cho ông Dương giữ cả”.

– “Sau khi qua chỗ nọ chỗ kia rồi, người Nhật mới đem chúng tôi về khách sạn “Quốc Tế Phú Sĩ binh trạm” ở con đường Grame Road. Đến đấy được một sự vui mừng trước tiên là gặp bạn đồng chí Đặng Văn Ký và Trần Văn Ân đã nghe nói từ trước”.

– “Chiêu Nam Đảo là Nhật đặt ra để gọi tên đảo Singapour (Làng Sư Tử) sau khi quân Nhật đã chiếm được cả bán đảo Mã Lai. Đảo ấy có cái hải cảng rất hiểm yếu ở giữa đường Hải Đạo từ Tây phương sang các xứ bên Thái Bình Dương. Dân cư ở đảo ấy có đến 75% là người Trung Hoa, còn lại là người Mã Lai, người Ấn Độ và người Nhật.

Việc điều khiển, phòng bị và cai trị trước đã ở tay người Anh, sau ở cả người Nhật. Việc buôn bán và những công nghệ phần nhiều ở tay người Trung Hoa, còn người bản xứ thì chỉ làm những nghề nhỏ mọn như chài lưới và trồng trọt rau khoai phía ngoài thành thị. Phố xá trong thành thị chia làm hai khu: một khu là nơi bình thời buôn bán phồn thịnh có nhà cửa rộng lớn, người đông đúc chỉ ở gần bến tàu và ven bờ biển; một khu ở phía trong có đường sá sạch sẽ, hai bên có những biệt thự của những phú thương người Anh hay người Tàu. Những biệt thự ấy thường làm ở sườn đồi có cây cối sầm uất và vườn tược đẹp đẽ. Ngoài một vài nơi có phong cảnh khả quan, còn lại là những nơi buôn bán và ăn chơi chứ không có di tích gì đáng xem”.

– “Sự ăn uống thiếu thốn, hoàn cảnh đìu hiu, tâm tình sầu muộn, lại ngày lên thang xuống thang nhọc mệt, chẳng bao lâu tôi mắc bệnh máu bốc lên đầu. Thuốc thang lại không có, chỉ có mấy ngày lấy bớt máu ra một lần.

Bệnh tôi chưa khỏi, thì đến lượt ông Dương Bá Trạc bắt đầu đau. Trước thì mỗi khi tôi có cơn chóng mặt, ông trông nom thuốc thang, sau dần ông thấy trong người mỏi mệt, và một đôi khi có ho năm ba tiếng. Tôi hỏi, ông nói không việc gì. Tôi tin ở lời ông biết thuốc, và thường ai đau yếu ông vẫn bốc thuốc cho người ta. Ông vẫn gượng đi chơi, hoặc ngồi dịch Đường thi với tôi, cho nên ai cũng tưởng là bệnh xoàng.

Một hôm, ông Dương đang ngồi dịch thơ với tôi, tự nhiên thấy ông lên cơn nấc. Nấc mãi không thôi, uống thuốc gì cũng không khỏi. Chúng tôi khuyên ông nên đi đến thầy thuốc nhà binh Nhật xem rõ bệnh tình ra sao. Ông cho là bệnh thường, không chịu đi. Sau cơn nấc cứ luôn luôn mãi cả ngày và đêm, nhọc mệt vô cùng, ông mới chịu đi đến bệnh viện cho thầy thuốc xem”.

– “Trước khi ông mất ba ngày, ông có viết một bức thư rất dài bằng chữ Nho đưa cho Tư lệnh bộ Nhật, nói ông chết thì xin người Nhật cho hải táng, nghĩa là đem ném thây xuống biển. Đến khi mất rồi, Tư lệnh bộ Nhật cho người đến báo tôi rằng: – Lễ hải táng phải có tàu bè mà nay đang lúc chiến tranh, tàu bè bận việc khác, rất không tiện. Vậy xin theo lễ nhà binh Nhật, làm lễ hỏa táng ông Dương như một người chiến sĩ tử trận. Tôi nói rằng: Ông Dương một đời vì nước tranh đấu, tuy không tử trận, cũng như tử trận. Nay nhà binh Nhật đãi ông Dương như thế, chúng tôi rất cảm tạ”.

Sáng ngày 12 tháng Chạp, làm lễ hỏa táng Ông Dương Bá Trạc ở Chiêu Nam Đảo, đến chiều đem di hài đựng vào cái hộp, ngoài đề danh hiệu, rồi đưa thờ tại chùa Bản Nguyên Tự của Nhật Bản. Định đến ngày 16 tháng Chạp tức là ngày mồng 2 tháng Một năm Giáp Thân làm lễ cầu kinh ở tại chùa, có gần hết thảy người dân Việt Nam ở tại Chiêu Nam Đảo đến dự lễ”.

Nguồn: M4, tr.25-37

        NĂM 1945 (ẤT DẬU)

        Ngày 10 tháng 3 (26 tháng Giêng – Ất Dậu)

1.073. Dương Quốc Chính tham gia lãnh đạo khởi nghĩa Thanh La

Ông còn có tên là Lê Hiến Mai, quê xã Trạch Mỹ, Phúc Thọ – Sơn Tây (nay là xã Trạch Mỹ Lộc, Phúc Thọ – Hà Nội), gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940, bị bắt giam năm 1941, thoát khỏi nhà tù tháng 8-1944, tham gia Ban lãnh đạo Phân khu Nguyễn Huệ.

Cuộc đảo chính của Nhật làm cho chính quyền tay sai của Pháp ở các địa phương nhanh chóng suy sụp, trong đó có bộ máy ngụy quyền ở tổng Thanh La, châu Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trước tình hình đó, mặc dù chưa nhận được chủ trương mới của Đảng, ông Song Hào đã cùng Ban lãnh đạo Phân khu Nguyễn Huệ (Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu, Trần Thế Môn, Trung Đình) chủ trương phát động khởi nghĩa ở đây để thăm dò phản ứng của địch.

Đêm 10-3-1945, dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy khởi nghĩa, quần chúng xã Thanh La, có sự hỗ trợ của đơn vị Cứu quốc quân II, tiến hành tước vũ khí lính dõng, tuyên bố xóa bỏ chính quyền tay sai ở xã. Trước uy thế của quần chúng cách mạng, bọn kỳ hào, hương dõng đều quy phục, mang giấy tờ, triện đồng, vũ khí ra hàng cách mạng.

Mờ sáng hôm sau, chính quyền cách mạng xã Thanh La được thành lập, ra mắt nhân dân. Thừa thắng, quân khởi nghĩa chia thành nhiều mũi tới các xã khác lập chính quyền cách mạng trong toàn tổng.

Cuộc khởi nghĩa Thanh La mở đường cho việc giải phóng hoàn toàn châu Sơn Dương (Tuyên Quang) vào tháng 5-1945, tạo điều kiện để Trung ương Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh chọn Sơn Dương, lập “đại bản doanh” lãnh đạo cao trào cách mạng trong cả nước.

Cùng ngày hôm đó, Dương Minh Đức tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Trung Mầu (Gia Lâm – Hà Nội).

Nguồn: H4, tr.27; L6, tr.903-904.

        Ngày 22 tháng 12 (8 tháng Một – Giáp Thân)

1.074. Dương Mạc Thạch, Dương Đại Long tham gia Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (VNTTGPQ)

Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, vào lúc 17 giờ ngày 22-12-1944, tại núi Dền Sinh, dãy Khau Giáng thuộc xã Tam Kim, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội VNTTGPQ được thành lập.

Trong buổi lễ, trước đại diện của các tỉnh Cao – Bắc – Lạng và đông đảo đồng bào Tày, Nùng, Dao, ông Võ Nguyên Giáp, được Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm, đã tuyên bố thành lập Đội và nêu rõ nhiệm vụ của Đội với Tổ quốc. Dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, Đội đã long trọng tuyên thệ 10 lời thề danh dự: trung thành vô hạn đối với Tổ quốc; hết lòng, hết dạ phục vụ nhân dân, kiên quyết chiến đấu tiêu diệt quân thù; sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng; ra sức đoàn kết và nêu cao ý thức kỷ luật nghiêm minh của quân đội cách mạng,…

Đội VNTTGPQ với 34 đội viên, được tập hợp từ những hạt nhân trung kiên nhất của các đội vũ trang Cao – Bắc – Lạng, một số trong đội quân Nam tiến, Cứu quốc quân và một số đội viên đã đi học quân sự ở nước ngoài.

Đội trưởng của Đội VNTTGPQ là ông Hoàng Sâm; Chính trị viên là ông Xích Thắng (tức Dương Mạc Thạch); phụ trách kế hoạch – tình báo là ông Hoàng Văn Thái. Đội biên chế thành ba tiểu đội; có một chi bộ đảng do ông Xích Thắng làm Bí thư, làm hạt nhân lãnh đạo. Đội viên Dương Đại Long (Dương Văn Dấu) là đảng viên trong chi bộ.

Nguồn: H4, tr.26.

        Tháng 4 (tháng Ba – Ất Dậu)

1.075. Dương Mạc Thạch lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở một số địa phương thuộc Cao Bằng, Bắc Cạn

Dương Mạc Thạch tức Xích Thắng, quê ở khu Nam Sơn (nay là xã Minh Tân, Nguyên Bình – Cao Bằng), tham gia cách mạng và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1934, làm Bí thư chi bộ liên tục từ 1936 đến năm 1944, rồi làm Bí thư Châu ủy, Chủ nhiệm Việt Minh châu Nguyên Bình. Là gia đình cách mạng, cụ thân sinh và người em gái cũng hoạt động cách mạng từ rất sớm. Năm 1941, Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định chọn hang phía sau nhà ông làm nơi huấn luyện cán bộ cách mạng. Cùng năm này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước đã tạm trú nhà ông. Khi thành lập Đội VNTTGPQ, ông được chỉ định làm Chính trị viên kiêm Bí thư chi bộ của Đội.

Tháng 4-1945, ông chỉ đạo các xã Thanh Vận, Mai Lạp nổi dậy cướp và lập chính quyền cách mạng. Sau đó, ông chỉ huy Đội VNTTGPQ đánh các trận ở Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu giải phóng một vùng căn cứ địa, tiếp tục chỉ huy một đội phát triển lực lượng xuống Bắc Cạn nhằm mở đường về xuôi.

Cách mạng tháng Tám – 1945 thành công, ông được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Bắc Cạn.

Nguồn: H4, tr.54.

        Ngày 8 tháng 6 (28 tháng Tư – Ất Dậu)

1.076. Dương Văn Giáp tham gia hoạt động trong Chiến khu Đông Triều

Ở vùng đông bắc, sau Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, Tỉnh ủy Hải Dương đã nghiên cứu, tổ chức xây dựng chiến khu. Tỉnh ủy đã giao trách nhiệm cho cán bộ có năng lực và kinh nghiệm thực thi nhiệm vụ xây dựng một chiến khu ở vùng rừng núi Chí Linh và Đông Triều.

Sáng ngày 8-6-1945, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Hải Dương, quần chúng nhân dân các huyện phía bắc tỉnh Hải Dương, nhất là lực lượng công nhân mỏ than Mạo Khê, Đông Triều đã nổi dậy đánh chiếm các đồn Chí Linh, Đông Triều, Mạo Khê, Tràng Bạch.

Chiều cùng ngày, hàng vạn quần chúng đã kéo về chùa Bắc Mã (Đông Triều) nghe Ban Lãnh đạo tuyên bố thành lập Chiến khu Đông Triều. Ủy ban quân sự cách mạng chiến khu ra mắt nhân dân gồm các ông Nguyễn Bình, Trần Cung, Hải Thanh. Ông Dương Văn Giáp, người xã Hán Xuyên, tổng Kim Lôi, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương (nay thuộc Thất Hùng, Kinh Môn – Hải Dương) tham gia từ những ngày đầu.

Chiến khu ra đời đã đẩy chính quyền cơ sở của địch ở vùng phía bắc tỉnh Hải Dương vào thế bất lực, rệu rã hoặc tan rã. Một phong trào đấu tranh, tấn công, đột nhập vào các phủ, huyện lỵ, tước vũ khí địch, lập chính quyền cách mạng, diệt trừ phản động, thổ phỉ, phá kho thóc cứu đói… diễn ra sôi nổi ở các huyện Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Nam Sách, Thanh Hà,… Đến cuối tháng 6 đầu tháng 7-1945, hầu hết các xã thuộc các huyện Chí Linh, Đồng Triều, Kinh Môn đã thành lập được Ủy ban nhân dân cách mạng. Ở huyện Đông Triều đã thành lập được Ủy ban nhân dân cách mạng huyện.

Nguồn: H4, tr.26.

        Ngày 26 tháng 7 (18 tháng Sáu – Ất Dậu)

1.077. Dương Phượng Dực viết thư gửi Tổng trưởng Bộ Giáo dục – Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn về việc truy niệm cụ Dương Diên Nghệ

Dương Phương Dực biệt hiệu Đông Lĩnh, sinh năm 1897 tại xã Mai Lĩnh, tổng Đông Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là xã Đồng Mai, Thanh Oai – Hà Nội, trong một gia đình nhà nho thanh bạch từng nhiều đời dạy học. Thân phụ ông là Tổng sư danh tiếng vùng Thanh Oai – Chương Mỹ qua 30 năm dạy học.

Vốn thông minh lại hiếu học, cùng với sự giáo dục có nề nếp của gia đình, ngay từ nhỏ ông đã tiếp thu nhuần nhuyễn những nét truyền thống tốt đẹp của cha ông, thông kim bác cổ cũng như hiểu thấu những ý nghĩa thâm thúy tiềm ẩn trong những lời răn dạy của các bậc thánh hiền tiền nhân.

Ông đã cùng với ông nội và thân phụ của mình tích cực truyền bá chữ Quốc ngữ cho các lớp học trò ở Mai Lĩnh, My Dương (Thanh Oai) và Yên Trường, Phương Hài (Chương Mỹ), Hà Đông.

Từ 1915-1945, ông liên tục viết bài cho các báo và tạp chí. Suốt mấy chục năm ròng, ông đã dùng ngòi bút làm vũ khí, lấy những trang sách báo làm chiến trường, bền bỉ chống nạn thất học, tích cực truyền bá chữ Quốc ngữ, nâng cao dân trí, chống các tệ nạn xã hội (cờ bạc, rượu chè, trộm cắp), chống các biểu hiện suy đồi về đạo đức (bất nhân, bất nghĩa, bất hiếu, bất trung), xây dựng và bảo vệ cái đạo lý làm người, cái đạo đức trong sáng, gìn giữ bản sắc cội nguồn dân tộc.

Ông viết nhiều thể loại như truyện ngắn, luận thuyết, nghiên cứu, lược thuật, tường thuật, tin ngắn, câu đối, thơ ca…, dịch những áng văn hay, những tư tưởng cải cách tiến bộ, những tác phẩm lớn mang tính giáo dục sâu sắc.

Với cương vị là một tộc trưởng, Ông đã ra sức xây dựng dòng họ trên nền tảng của gia phong truyền thống. Đặc biệt ông đã để lại một pho Gia huấn quí giá. Đây là những lời tâm huyết, là những lời khuyên bảo đối với các con cháu của dòng tộc mình.

Riêng đối với Dương Đình (Diên) Nghệ, có lẽ không ai có cái nhìn độc đáo về sự nghiệp vĩ đại của người anh hùng dân tộc bằng ông, bởi nếu không có người tự làm Tiết độ sứ ấy, làm sao có được một thời Ngô Đình rờ rỡ thế. Thư của ông gửi Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn mở đầu rằng:

“Phụng độc tờ Thông tri của Qúi bộ, nói về việc lập nghĩa liệt từ, để truy niệm các bậc hào kiệt cổ kim của nước nhà đã có tâm huyết với Tổ quốc, thật là một việc đại nghĩa rất hợp với ý nguyện của quốc dân. Chắc quốc dân sẽ nhiệt liệt truy khảo ra nhiều vị hào kiệt cổ kim của nước nhà, dâng về Quí bộ. Riêng phần tôi, trộm nghĩ không nên quên mấy vị sau này, mà bấy lâu nay vì sơ ý, hay vì không suy xét cho kỹ, mà hóa ra công lao sự nghiệp của mấy vị ấy, hầu như sắp xóa nhoà trong trí nhớ của quốc dân, rất khá hối!

Cụ Dương Diên Nghệ ở xã Dương Xá, phủ Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, thật là một tay đại ái quốc, đại hào kiệt của nước nhà về hồi thế kỷ thứ X vậy. Cụ có lòng rất hào hiệp, gây dựng dìu đắt cho ông Ngô Quyền, con rể Cụ, là người phất cờ độc lập đầu tiên của nước ta. Chính Cụ đã gây dựng cho ông Đinh Công Trứ sinh ra ông Đinh Tiên Hoàng. Không có Cụ Dương Diên Nghệ thì quyết nhiên không có ông Ngô có công lao gây nên nền độc lập đầu tiên của nước ta và di truyền mãi mãi về sau này vậy. Nếu chúng ta không truy niệm đến cái công lao ấy thì chẳng hóa ra ta chỉ biết cái ngọn mà quên bằng cái gốc ru? Huống chi Cụ Dương Diên Nghệ thật xứng đáng là một tấm gương ái quốc hào hiệp rất chói lọi khả dĩ cho người muôn thuở cùng soi gương chung. Chúng ta không thể nhãng quên hay coi thường một bậc tiền nhân có tâm huyết chân chính như thế được”.

Nguồn: T13, tr.1178-1179.

        Ngày 16 tháng 8 (9 tháng Bẩy – Ất Dậu)

1.078. Dương Đức Hiền được cử vào Ban Thường trực Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam

Với tinh thần tích cực, chủ động, khẩn trương, luôn luôn theo đõi chặt chẽ sự biến đổi của tình hình để quyết định những bước đi thích hợp và kịp thời, vào tối 12-8-1945, ngay sau khi nghe tin Nhật Bản đã gửi công hàm cho Mỹ chấp nhận tuyên bố của Hội nghị Pốtxđam, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng Ban Thường vụ Trung ương họp quyết định lập tức phát động Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc và phải mở ngay Hội nghị toàn quốc của Đảng để bàn kế hoạch cụ thể lãnh đạo Tổng khởi nghĩa. Người chỉ thị “Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”. Đồng thời, lãnh tụ Hồ Chí Minh đề nghị một số đại biểu đi dự Hội nghị toàn quốc của Đảng về ngay địa phương “nắm lấy những ý kiến của Ban Thường vụ đem về mà thi hành”. Cũng trong đêm 12-8, Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng hạ lệnh cho toàn thể các lực lượng vũ trang và nhân dân trong vùng đứng lên khởi nghĩa.

Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc gồm 5 ủy viên: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn. Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách Ủy ban.

Ngày 14-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào (Sơn Dương – Tuyên Quang). Ngày 16-8-1945, ngay sau khi Hội nghị kết thúc, Đại hội Quốc dân khai mạc với sự có mặt của hơn 60 đại biểu Trung – Nam – Bắc, các đảng phái, tôn giáo và toàn thể nhân dân.

Đại hội nhiệt liệt tán thành chủ trương của Đảng đứng ra lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, giành lấy chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai Nhật, đứng ở địa vị làm chủ nước mình mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất Đông Dương.

Đại hội cũng đã thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh bao gồm những chủ trương cụ thể về xây dựng chính quyền, lực lượng vũ trang, mang lại những quyền tự do dân chủ cơ bản và lợi ích cụ thể cho các tầng lớp nhân dân.

Đại hội quy định Quốc kỳ là cờ đỏ, giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Quốc thiều là bài Tiến quân ca và cử ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ủy ban giải phóng dân tộc có một Ban thường trực gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền.

Đại hội quốc dân Tân Trào đã thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn thể dân tộc ta trong giờ phút quyết định, biểu hiện cho lòng tin tưởng tuyệt đối của toàn dân vào Đảng và Mặt trận Việt Minh, đồng thời tượng trưng cho quyết tâm sắt đá của toàn thể nhân dân ta quyết đứng lên giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Nguồn: B6, tr.405-406.

        Ngày 18 tháng 8 (11 tháng Bẩy – Ất Dậu)

 1.079. Dương Khuy lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh Mỹ Tho

Ông quê ở Mỹ Quang, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1925, đã tham gia tổ chức Thanh niên Cao vọng do Nguyễn An Ninh đề xướng. Tháng 4-1932 được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Hoạt động bí mật, bị bắt giam ở Khám lớn Sài Gòn với 4 năm tù và 12 năm biệt xứ. Năm 1936 mãn tù về trú ở Mỹ Tho, hoạt động bí mật vùng Châu Thành, Chợ Gạo. Năm 1937 lại bị bắt, ra tù tiếp tục hoạt động rồi bị bắt giam ở Căng Tà Lài, vượt ngục tiếp tục hoạt động ở vùng hẻo lánh Mỹ Tho. Đầu năm 1943 được cử làm Bí thư Ban Cán sự Đảng Mỹ Tho, tham gia Xứ ủy Nam Kỳ cùng Hà Huy Giáp, Nguyên Văn Nguyễn.

Sau khi dự cuộc họp Xứ ủy ở Chợ Đệm trở về, đêm 17-8-1945, với tư cách Bí thư, ông triệu tập Hội nghị Tỉnh ủy, quyết định phát động khởi nghĩa. Vào lúc 9 giờ sáng ngày 18-8-1945, toàn bộ công sở bên Chợ Cũ đã về tay lực lượng cách mạng.

Nguồn: L6, tập 2, tr.1006-1007.

        Ngày 25 tháng 8 (18 tháng Bẩy)

 1.080. Dương Quang Đông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Trà Vinh

Với tư cách Thường vụ Xứ ủy kiêm Bí thư Tỉnh ủy, ngay khi Hội nghị Xứ ủy còn tiếp diễn, ông đã nhanh chóng trở về địa phương lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.

Nguồn: B2.

        Ngày 28 tháng 8 (21 tháng Bẩy – Ất Dậu)

1.081. Dương Bạch Mai lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại Vũng Tàu

Tuy được trả lại tự do vào năm 1943 nhưng ông vẫn bị địch quản thúc tại Tân Uyên – Bình Dương, mãi sau mới về được Sài Gòn để bắt liên lực tham gia Xứ ủy Nam Kỳ.

Sau Hội nghị Chợ Đệm của Xứ ủy Nam Kỳ, ông được phân công trực tiếp chỉ đạo khởi nghĩa ở Vũng Tàu. Sáng 28-8-1945, trước hơn 4.000 đồng bào tập trung tại Sân vận động Lam Sơn, ông long trọng tuyên bố: – Từ giờ phút này chính quyền thực sự về tay nhân dân!

Nguồn: B2.

1.082. Thành lập Chính phủ lâm thời VNDCCH, Dương Đức Hiền giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Thanh niên

Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào về tới Hà Nội. Sau khi nghe báo cáo tình hình khởi nghĩa ở Hà Nội, chiều ngày 26-8, Người đã triệu tập và chủ tọa phiên họp đầu tiên của Thường vụ Trung ương Đảng, bàn những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước cách mạng tại số nhà 48 phố Hàng Ngang.

Ngày 27-8, Ủy ban Dân tộc giải phóng triệu tập một cuộc họp các thành viên. Trong cuộc họp này, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Đại hội Quốc dân Tân Trào bầu ra được cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâm thời, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ. Một số uỷ viên Việt Minh đã tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành phần khác, có cả một vài người đã từng tham gia trong chính quyền cũ. Hành động đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân.

Tuyên cáo của Chính phủ lâm thời nêu rõ: Tuân theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng đã quyết định tự cải tổ, mời thêm một số nhân sĩ tham gìa Chính phủ đặng cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân giao phó cho. Chính phủ lâm thời không phải là Chính phủ riêng của Mặt trận Độc lập Đồng minh.

Ngày 28-8-1945, danh sách các thành viên của Chính phủ được công bố trên các báo ở Hà Nội gồm 15 vị:

Chủ tịch: Hồ Chí Minh

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Hồ Chí Minh

Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Võ Nguyên Giáp

Bộ trưởng Bộ Tài chính: Phạm Văn Đồng

Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền: Trần Huy Liệu

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: Chu Văn Tấn

Bộ trưởng Bộ Lao động: Lê Văn Hiến

Bộ trưởng Bộ Giáo dục: Vũ Đình Hoè

Bộ trưởng Bộ Thanh niên: Dương Đức Hiền

Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Vũ Trọng Khánh

Bộ trưởng Bộ Kinh tế: Nguyễn Mạnh Hà

Bộ trưởng Bộ Y tế: Phạm Ngọc Thạch

Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội: Nguyễn Văn Tố

Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính: Đào Trọng Kim

Bộ trưởng Bộ không bộ: Cù Huy Cận và Nguyễn Văn Xuân.

Nguồn: B6, tr.416-417.

        Tháng 8 (tháng Bẩy – Ất Dậu)

1.083. Dương Văn Dương tổ chức Bộ đội Ba Dương

Ông sinh quán ở Bến Tre nhưng lên Sài Gòn làm ăn từ nhỏ, nổi tiếng là tay giang hồ hảo hán. Năm 1940, ông cùng em trai là Dương Văn Hà vào làm cho hãng đóng tàu Nichinan của Nhật, lập ra nhóm Thanh niên Cảm tử đoàn – còn gọi là Hải quân Bình Xuyên. Cuối tháng 8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh, ông bỏ hãng Nichinan về Tân Quy (Nhà Bè) sau khi cướp được một số súng trang bị cho lực lượng sẵn có của mình, đổi gọi là Bộ đội Ba Dương, tổ chức dạy võ cho Thanh niên Tiền phong Cần Giuộc, tham gia cướp chính quyền. Sau khi Anh – Pháp gây hấn, ông thống nhất Bộ đội Ba Dương với các lực lượng quân sự tự phát thành Bộ đội Bình Xuyên. Tháng 11-1945, ông là Chỉ huy trưởng lực lượng quân sự Nhà Bè, Tân Thuận, Bình Đông ở Mặt trận số 4 bao vây mặt Nam Sài Gòn.

Nguồn: B2.

        Ngày 2 tháng 9 (26 tháng Bẩy – Ất Dậu)

1.084. Nữ tự vệ Dương Thị Thoa được vinh dự kéo Quốc kỳ tại Quảng trường Ba Đình

Đó là một buổi chiều thiêng liêng: Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân đồng bào, nước Việt Nam chính thức công bố quyền tự chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hơn 50 vạn người hàng ngũ chỉnh tề đón chờ giờ phút thiêng liêng. Đúng 14 giờ các thành viên của Chính phủ lâm thời bước lên lễ đài, bài Tiến quân ca vang lên hùng tráng, lá cờ đỏ sao vàng từ từ kéo lên.

Người được vinh dự kéo lá cờ Tổ quốc ở những phút giây thiêng liêng đó là bà Dương Thị Thoa – con gái thứ tư của Giáo sư Dương Quảng Hàm và bà Đàm Thị Loan – nữ du kích người Tày.

Nguồn: H4, tr.27.

        Ngày 7 tháng 9 (2 tháng Tám – Ất Dậu)

1.085. Dương Thị Ngân, phát thanh viên đầu tiên xướng câu đề danh: Đây là Tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội…

Bà là con gái Giáo sư Dương Quảng Hàm, trước khi trở thành phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam là điện thoại viên của Bưu điện Hà Nội.

Vào lúc 11h30 ngày 7-9-1945, Đài Tiếng nói Việt Nam chính thức cất tiếng chào đời qua giọng phát thanh viên Dương Thị Ngân bằng câu Đề danh sống mãi với non sông đất nước kể trên.

Nguồn: B2, 14-11-2018.

        Ngày 7 tháng 9 (2 tháng Tám – Ất Dậu)

1.086. Dương Cự Tẩm tham gia Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động Hà Nội

Sinh ra và lớn lên tại xã Thượng Kiệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, sớm giác ngộ cách mạng, năm 1939 Dương Cự Tẩm mới 17 tuổi đã bí mật hoạt động trong phong trào Bình dân. Cuối năm này, ông tham gia Đoàn Thanh niên Phản đế. Đang sôi nổi hoạt động cho đoàn thể thì tháng 9-1942 ông bị bắt và giam ở Trị Cụ – Bắc Giang, mãi đến tháng 3-1943 mới được thả, nhưng lại bị đưa về quản thúc tại quê nhà. Tiếp tục bí mật hoạt động, tháng 4-1943 ông có chân trong tổ chức Việt Minh huyện Yên Mô (Ninh Bình). Tháng 9-1945 ông được điều về làm Ủy viên Ban Chấp hành Liên đoàn lao động Hà Nội. Tháng 11-1945 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngay sau đó ông gia nhập Vệ quốc đoàn, được phân công làm Ủy viên Phái đoàn sang làm việc tại Lào với trách nhiệm Chính trị viên Quân sự Việt kiều ở tỉnh Tha Khét. Ông là người đầu tiên mang tiền ngân khố sang Thái Lan mua súng đạn về cho quân đội.

Nguồn: H4, tr.56.

          Ngày 23 tháng 9 (18 tháng Tám – Ất Dậu)

1.087. Dương Quang Đông chỉ huy lực lượng vũ trang chặn đánh quân Pháp tại Dinh Xã Tây

Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, quân Pháp trong trang phục quân Anh, lợi dụng đêm tối bất ngờ nổ súng tập kích các công sở của chính quyền cách mạng tại Sài Gòn.

Sáng sớm cùng ngày, Xứ uỷ Nam Bộ họp Hội nghị mở rộng tại Cây Mai (Chợ Lớn). Ông Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định đồng thời với việc gửi điện báo gấp ra Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh xin chỉ thị phát động nhân dân kiên quyết kháng chiến, thành lập Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, do ông Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Sau đó, Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ đã chỉ định thành lập Uỷ ban Kháng chiến Sài Gòn – Chợ Lớn do ông Nguyễn Văn Tư làm Chủ tịch và ông Huỳnh Đình Mai và Tư Văn Ri làm Ủy viên.

Chiều ngày 23-9-1945, Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ ra Tuyên cáo quốc dân kêu gọi đồng bào cương quyết phấn đấu, toàn dân hãy đoàn kết để bảo vệ quốc gia.

Toàn thành phố Sài Gòn có gần 350 Đội xung phong công đoàn cùng các Đội tự vệ bám sát các vị trí chiến đấu. Bên ngoài các lực lượng vũ trang xiết chặt vòng vây.

Ngay trong ngày 23-9-1945 quân Pháp vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân Sài Gòn tại đường Verdun, ga xe lửa, cầu Ông Lãnh, chợ Bến Thành. Với tư cách Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ, ông Dương Quang Đông đã tổ chức bảo vệ Dinh Xã Tây, tức Dinh Đốc Lý Nam Kỳ (nay là Trụ sở UBND thành phố Hồ Chí Minh) gây cho địch nhiều thiệt hại.

Liên tiếp trong một tuần lễ, từ ngày 23-9 đến ngày 29-9-1945, cuộc chiến đấu ác liệt giữa ta và Pháp đã diễn ra khắp nơi của nội thị và ngoại ô thành phố Sài Gòn. Lực lượng ta được tổ chức thành phòng tuyến chặn địch: Mặt trận tiền tuyến miền Đông; Mặt trận bắc – tây bắc Sài Gòn; Mặt trận tiền tuyến miền Tây; Mặt trận phía nam thành phố Sài Gòn.

Nguồn: L6, tập III, tr.26-27.

        Ngày 8 tháng 10 (3 tháng Chín – Ất Dậu)

1.088. Cấp phép cho ông Dương Văn Mẫn ra tờ báo Dân sinh

Tại Nghị định ban hành cùng ngày của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Chính phủ lâm thời VNDCCH, ông Dương Văn Mẫn – trú tại số 32 phố Thể Dục – Hà Nội được xuất bản tờ Dân sinh tại địa chỉ trên.

Nguồn: V16, số 6, tr.62.

        Ngày 25 tháng 10 (20 tháng Chín – Ất Dậu)

  • Đại diện Việt Minh Dương Đức Hiền họp liên tịch với Việt Cách

Đại biểu Việt Minh dự họp có các vị Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền, Nguyễn Văn Ba, Hoàng Hữu Nam, Nguyễn Công Truyền.

Về phía Việt Cách có: Đinh Chương Dương, Trương Trung Phụng, Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật, Hồ Đức Thành, Dương Thành Dân.

Hội nghị đã ra Tuyên ngôn kêu gọi đoàn kết: “Hễ ai là người yêu nước thương nòi đều phải đoàn kết thành một khối. Nước nhà trên hết, dân tộc trên hết! Toàn dân đoàn kết muôn năm! Ủng hộ Chính phủ lâm thời!”.

Quá trình thực hiện hợp tác với Việt Minh, đa số đảng viên Việt Cách đi với cách mạng, chỉ còn bộ phận cầm đầu là Nguyễn Hải Thần, Nghiêm Kế Tổ, v.v. vẫn kịch liệt chống lại cách mạng.

Nguồn: B6, tr.449.

        Tháng 10 (tháng Chín – Ất Dậu)

  • Dương Đình Thúy được cử làm Bí thư Nông hội tỉnh Nghệ An

Ông quê làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An), tham gia VNCMTN từ năm 1927, sau đó là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, bị bắt trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, lần lượt bị giam tại nhà lao Vinh, Lao Bảo, Trà Khê, Kon Tum. Năm 1935 được trả tự do, tiếp tục hoạt động tại vùng Phủ Quỳ. Năm 1939 bị bắt lại, giam ở Trà Khê. Khi Nhật đảo chính Pháp, ông được giải thoát, tham gia Việt Minh xã, huyện rồi lãnh đạo giành chính quyền tại huyện Phù Lưu.

Đảm nhiệm chức vụ Bí thư Nông hội một thời gian, ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Quỳnh Lưu (1-1946), lâm bệnh qua đời do tái phát những đòn tra tấn ở ngục tù (7-1946).

Nguồn: H4, tr.27.

        Ngày 17 tháng 11 (13 tháng Mười – Ất Dậu)

Bộ trưởng Dương Đức Hiền trình bày dự án bản Hiệu triệu tỏ thái độ đoàn kết của Chính phủ với VNQDĐ

Dự án trên được đưa vào Chương trình Nghị sự Phiên họp thứ49 của Hội đồng Chính phủ lâm thời VNDCCH dưới sự Chủ tọa của Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh.

Nguồn: B7, tr.61.

        Ngày 10 tháng 12 (6 tháng Một – Ất Dậu)

Dương Văn Dương được cử làm Khu phó Khu 7

Tại Hội nghị mở rộng của Xứ ủy Nam Kỳ, ngoài quyết định giải thể Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, thành lập Ủy ban Kháng chiến miền Nam, các đại biểu còn thống nhất chia Nam Bộ thành Khu 7, Khu 8 và Khu 9 – trong đó khu 7 gồm: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Bà Rịa, Biện Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh.

Khu trưởng: Nguyễn Bình; Khu phó: Dương Văn Dương; Chính trị Bộ chủ nhiệm: Trần Xuân Độ.

Nguồn: L6, tập III, tr.48-49.

BẢN TIN ĐIỆN TỬ HỌ DƯƠNG VIỆT NAM
© 2005-2018 Họ Dương Việt Nam. All rights reserved

Biên tập: Văn phòng Họ Dương Việt Nam - Địa chỉ: Tòa nhà Câu lạc bộ Golf Long Biên,
Khu Trung Đoàn 918, Phường Phúc Đồng, Quận Long Biên, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0243.526.5678 - Fax: 0243.699.3366 - Email: thongtinsukienhdvn@gmail.com