Cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước: Cây đại thụ của tân nhạc Việt Nam
- 27/12/2018
- Ban Thông tin truyền thông
- 2519
Cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (1015 – 1995) là một nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của tân nhạc Việt Nam.
Quê ông ở làng Vân Đình, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Xuất thân từ một dòng họ khoa bảng. Ông là cháu nội cụ Dương Khuê (1836-1898). Cụ đỗ Tiến sĩ và làm quan dưới triều Nguyễn. Cụ cũng là một nhà thơ có tiếng trong văn học Việt Nam. Thân phụ ông là cụ Dương Tự Nhu làm Bố Chánh tỉnh Hưng Yên.
Thuở nhỏ ông học ở Hà Nội, trong thập niên 1930 ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh… Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn nhạc “bài Tây theo điệu ta”, những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng tiếng Pháp. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc.
Mang máu nghệ sĩ trong người, ông chọn con đường âm nhạc ngay từ lúc ấu thơ. Có cái may là cụ Dương Tự Nhu là người trọng văn học, không coi âm nhạc là “xướng ca vô loài”, nên ông đã được khuyến khích học nhạc từ lúc còn nhỏ. Cụ Nhu mua cho ông đàn Nguyệt lúc ông 7 tuổi. Ngoài đàn Nguyệt ông còn học thêm đàn Tranh tại các bậc thầy miền Trung. Đến lúc 14 tuổi, ông bắt đầu chú ý đến nhạc Tây Phương và chuyển qua học đàn dương cầm với một thầy người Pháp. Lúc 16 tuổi ông học thêm lục huyền cầm (tây ban cầm), nhạc cụ sở trường của ông. Sau này ông trở thành một cây đàn ghi-ta có hạng tại Việt Nam và đồng thời là giáo sư tại Viện Quốc Gia Âm Nhạc Việt Nam (Học viện Âm nhạc Quốc gia) dạy đàn này cho vô số các nhạc sĩ của thế hệ sau. Ngoài tây ban cầm ông còn tự học thêm đàn Hạ Uy Di. Cũng như ông, các nhạc sĩ Việt Nam cùng thời đều tự học, mua sách của Pháp về rồi tự học hay học hỏi lẫn nhau. Họ đều không có cơ hội theo học tại trường âm nhạc nào.
Cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước
Mặc dù học nhạc, kỹ thuật sáng tác nhạc Tây Phương, nhưng các tác phẩm của ông vẫn đượm hồn dân tộc, đúng như báo Thời Nay lúc đó kêu gọi. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: “Theo tôi, tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền”.
Các nhà phê bình nhạc cho rằng ý nghĩ này đã được thể hiện rõ trong các tác phẩm Tiếng Xưa và Đêm Tàn Bến Ngự. Theo các nhà khoa học nghiên cứu âm nhạc thì bài Đêm Tàn Bến Ngự được viết dựa theo các điệu Nam Bình, Nam Ai nổi bật cá tính của Huế. Những sáng tác khác của ông trong những năm cuối thập niên 1940, đầu thập niên 1950 phải kể Kiếp Hoa, Áng Mây Chiều, Nhạc Ngày Xanh, Dưới Nắng Hồng, Xuân Mới, Thiếu Niên Xuân Khúc Ca, Thuyền Mơ, Đêm Tàn Bến Ngự …
Ông cũng viết các bài tham khảo cho tập san Việt Nhạc. Ông thành lập Hội Khuyến nhạc cùng với nhạc sĩ Thẩm Oánh để cổ động và phổ biến nền Tân Nhạc Việt Nam. Cũng cùng với Thẩm Oánh ông thành lập ban nhạc đặt tên là Myosotis (Hoa Lưu Ly). Ban nhạc thường chỉ chơi tại nhà riêng, rất ít khi trình diễn nơi công cộng.
Năm 1940, lúc đó ông 25 tuổi, ông mở cửa hiệu bán và sửa chữa đàn tại 57 Hàng Gai, Hà Nội. Cửa hàng sau đó phải đóng vì chiến tranh. Những sáng tác của Dương Thiệu Tước trong thời điểm này phải kể Ngọc Lan, Chiều, Bóng Chiều Xưa….
Năm 1954 lúc đất nước chia đôi, ông vào Sài Gòn sinh sống. Tác phẩm có tiếng phải kể lúc này là Ơn Nghĩa Sinh Thành.
Tại Sài Gòn, ông làm Chủ sự phòng văn nghệ tại Đài Phát thanh Sài Gòn (Nay là Đài Tiếng nói nhân dân) đồng thời được mời làm giáo sư dạy Tây Ban cầm tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc (Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh). Đã cả chục năm trôi qua nhưng vẫn ấp ủ ý nguyện hội nhập cá tính và hồn Việt Nam vào tân nhạc, ông cho ra đời một chương trình có tên là Cổ kim hòa điệu, phát thanh thường xuyên tại Đài Phát thanh Sài Gòn những năm cuối thập niên 1950. Trong chương trình này ông sử dụng cả hai nhạc cụ Tây Phương và cổ truyền Việt Nam để trình diễn tân nhạc Việt.
Biến cố 30/04/1975 đánh dấu một khúc quanh lớn trong sự nghiệp của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Các tác phẩm của ông bị coi là nhạc lãng mạn, ủy mị nên bị cấm phổ biến, không ai được trình diễn nhạc của ông. Ông cũng ngưng giảng dạy tại trường Quốc gia Âm nhạc.
Sau Đổi mới, nhạc của ông đã được phép lưu hành lại tại Việt Nam và tiếp tục trở thành những ca khúc được nhiều thế hệ ca sĩ trình diễn, khán giả yêu thích.
Dương Hường sưu tầm từ Hội nhạc sĩ Việt Nam