Qua nhiều tài liệu còn lưu lại thì bài ca trù “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” về hình thức là bài thơ hát nói khá mẫu mực, bài có điệu Mưỡu 1 và 2 ở đầu, phần hát nói có 11 câu với 3 trổ cơ bản, ý tứ khúc chiết, rõ ràng, và không chỉ có một “nghĩa đen” mà nhà thơ còn gửi tâm trạng của mình với một “nghĩa ẩn dụ” trong đó. Đoạn mở đầu, tác giả viết:
Ngày xưa Tuyết muốn lấy chồng
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì
Bây giờ Tuyết đã đến thì
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già
Nghĩa “đen” thì đã quá rõ, còn nghĩa “bóng” ta có thể hiểu là: Ngày xưa tôi là người trong trắng (như Tuyết) mới thi đỗ làm quan, muốn giúp vua nhưng bị chê là không biết gì (Dương Khuê dâng sớ lên Tự Đức phải quyết liệt với người Pháp, cụ bị chê là “Bất thức thời vụ” – Không hiểu thời cuộc). Bây giờ, tôi đã hiểu biết khôn ngoan, ông muốn dùng tôi thì tôi lại thấy ông già nua, nhu nhược (đầu hàng Pháp).
Tiếp đến phần hát, tác giả viết:
Hồng Hồng Tuyết Tuyết
Mới ngày nào chưa biết cái chi chi
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
Ngoảnh mặt lại đã tới kì tơ liễu
Hồng Tuyết ngoài nghĩa “đen” là tên một cô đào hát hoặc hai cô đào hát, còn chứa đựng cái nghĩa “bóng” mà tác giả gửi gắm.
Phần này theo nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, nhà thơ Trần Huyền Trân, nhà báo Tô Dũng đã có chung nhận xét là: Mới ngày nào bước vào quan trường ta như cánh chim. Hồng bay tung hoành nào có biết cái chi chi, thấm thoắt cuộc đời làm quan đã 15 năm (1868 – 1883) mới đó bây giờ nhìn lại cũng đã khôn ngoan, trưởng thành rồi.
Cười cười nói nói sượng sùng
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại
Khi Tự Đức lên ngôi vua (1847) ở tuổi 19, còn ít tuổi (lúc đó Dương Khuê chỉ là đứa trẻ 8 tuổi ham chơi). Nay vua hứa “gả bán” tôi cho người Pháp thì tôi đã già (trước khi Tự Đức mất 16/6/1883, Hòa ước mới được lập xong, nó công nhận cuộc bảo hộ của Pháp ở Nam Bộ và cho đặt công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kỳ mới chính thức “gả bán”). Trước thực trạng ấy cả vua tôi đều sượng sùng, thẹn đến đỏ mặt (hồng nhan) và lo buồn đến bạc tóc (bạch phát) thật là ái ngại…
Cuối bài tác giả đã viết:
Riêng một thú thanh sơn đi lại
Khéo ngây ngây dại dại với tình
Đàn ai? Một tiếng dương tranh
Chữ thanh sơn ở đây muốn chỉ triều đinh lúc bấy giờ, còn dương tranh được hiểu là những cuộc tranh đấu đã nổi lên ở Bắc Kỳ (năm 1883 Hà Nội, Nam Định đã có các cuộc nổi dậy chống Pháp, viên đại tá Henri Riviere bị tử trận ở Cầu Giấy, Hà Nội). Chữ dương tranh, không phải là đàn tranh vì trong hát ca trù người ta đã sử dụng đáy cầm (dàn đáy). Vậy đoạn này hiểu là: Sau hòa ước bán nước 1883, vua quan nhà Nguyễn chỉ còn biết đi đi lại lại trong triều đình của mình như một thú vui ngây dại. Trong khi đó thì những cuộc nổi dậy chống Pháp ở Bắc Kỳ đã diễn ra như một tiếng cảnh tỉnh (ở đây tác giả mượn tiếng đàn).
Xem như vậy, bài ca trù “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” có hai nghĩa. Ngoài mối tình “trái khoáy” của một ông già với một cô đào trẻ, tác giả Dương Khuê còn gửi gắm tâm trạng của mình. Chính tâm trạng ấy cũng đủ làm nổi bật phẩm chất cao quý của một nhà nho, một viên quan đương thời trong sạch, có tấm lòng yêu nước, trăn trở với thế sự éo le lúc đó của đất nước.
Thông qua giai điệu âm nhạc, mà chủ yếu chỉ vẻn vẹn mấy nốt chính là Si, Sol, Sị, Sị sol, Si. Người nghệ nhân nhạc công đàn Đáy đã rất khéo biến hóa để tôn thêm cho lời thơ bay bổng và đi vào lòng người.
Đây cũng là một trong những bài ca trù mà trong những năm 60 của thế kỷ trước, Đài TNVN đã tổ chức nhiều buổi ca trù phục vụ các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại phòng thu M ở 58 phố Quán Sứ, Hà Nội. Hình ảnh các nghệ sĩ: Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Thanh Lâm, Kim Đức, Đinh Khắc Ban, Phó Đình Kỳ, Ngô Linh Ngọc… vẫn như còn trong tâm khảm chúng tôi, những người tổ chức thực hiện chương trình ấy./.